Tiêu thụ sản phẩm hoàn toàn không phải là vấn đề mới mẻ đối với các doanh nghiệp sản xuất trong qua trình sản xuất kinh doanh. Với vị trí là khâu cuối cùng kết thúc một chu kì sản xuất, tiêu thụ sản phẩm có vai trò hết sức quan trọng, thực hiện thu hồi vốn tiền tệ và các doanh nghiệp để chuẩn bị một chu kì sản xuất mới. Song thực tế cho thấy không phải doanh nghiệp nào cũng làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm. Nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, khi mà yếu tố cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt, tiêu thụ sản phẩm ngày càng khó khăn thì việc làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo doanh nghiệp có lãi và phát triển là một nhiệm vụ khó khăn.
Để làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm thì trước hết doanh nghiệp phải đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Nhưng làm thế nào để đây nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm? Đó là cả một quá trình tìm tòi, nghiên cứu, phân tích và đánh giá mọi mặt tình hình của doanh nghiệp như tình hình thị trường, khách hàng . kết hợp với năng lực, sự sáng tạo của các nhà quản lý doanh nghiệp để tìm ra hướng đi đúng đắn.
Làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp đứng vững trong cơ chế thị trường, tự khẳng định sự tồn tại của mình để tiếp tục phát triển vươn lên. Ngược lại, công tác tiêu thụ làm không tốt có nghĩa là doanh nghiệp sẽ mất chỗ đứng trên thị trường, dần dần loại bỏ mình ra khỏi qúa trình kinh doanh. Bởi vậy, tiêu thụ sản phẩm luôn là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp.
Xuất phát từ quan điểm này, trong thời gian thực tập tại công ty pha, tôi đã tiến hành tìm hiểu và nghiên cứu công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty theo cách nhìn của một sinh viên khoa Tài chính doanh nghiệp để thực hiện đề tài: “Các giải pháp tài chính để đẩy mạnh công tác tiêu thụ và tăng doanh thu tại công ty Phân lân nung chảy Văn Điển".
Nội dung của đề tài trước hết trình bày những vấn đề lý luận chung và công tác tiêu thụ sản phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất và thông qua phân tích đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp để từ đó đề xuất những ý kiến góp phần đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tại doanh nghiệp.
Phù hợp với nội dung này, kết cấu đề tài bao gồm những phần sau:
Chương 1: Những vấn đề lí luận chung về công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng tiêu thụ sản phẩm của công ty Phân lân nung chảy Văn Điển
Chương 3: Một số phương hướng, biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở công ty Phân lân nung chảy Văn Điển
73 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1589 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Các giải pháp tài chính để đẩy mạnh công tác tiêu thụ và tăng doanh thu tại công ty Phân lân nung chảy Văn Điển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiều, có một số sản phẩm giá còn thấp hơn, chứng tỏ chính sách giá của công ty là hợp lí. Nếu công ty đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm thì chắc chắn sản phẩm của công ty cạnh tranh được với phân bón của Trung Quốc vì phân bón Trung Quốc có đặc điểm là sản xuất một lượng lớn, giá rẻ nhưng chất lượng không tốt, không được thị trường đánh giá cao mặc dù mẫu mã sản phẩm có thể đa dạng. Theo em, sản lượng tiêu thụ các năm sau sẽ cao hơn nhiều so với năm 2007 nếu công ty nâng cao chất lượng sản phẩm và có những chính sách bán hàng hợp lí.
2.2.4 Phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty năm 2007
2.2.4.1. Tình hình tiêu thụ sản phẩm thực tế năm 2007
Công ty phân lân nung chảy Văn Điển từ một công ty gặp nhiều khó khăn, sản xuất sử dụng nhiều lao động thủ công, sau hơn 40 năm hoạt động, công ty đã có các dây chuyền sản xuất hiện đại, sản phẩm đa dạng phong phú. Cho đến nay các sản phẩm của công ty đã có mặt hằu hết ở các tỉnh trong nước và thị truờng thế giới, vẫn còn có khả năng mở rộng hơn nữa Có thể nói những năm gần đây công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty đã thu được kết quả khá khả quan. Năm 2007 công ty đã tiêu thụ được 312,740 tấn sản phẩm, đạt doanh thu 437,507,869,497 đ trong đó:
Phân lân: 212,349 tấn, doanh thu : 224,514,178,711 VNĐ
Phân supetecmo: 869 tấn, doanh thu: 880,560,177 VNĐ
Phân đa yếu tố: 99,522 tấn, doanh thu: 212,113,130,609 VNĐ
*Tình hình tiêu thụ sản phẩm chính năm 2006 như sau: (bảng 10)
Sản phẩm của công ty được nhập kho chủ yếu từ sản xuất. Việc nhập kho từ các nguồn khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Sản phẩm xuất kho chủ yếu là cho tiêu thụ.
Tổng doanh thu tiêu thụ một số sản phẩm chính năm 2006 đạt 241 tỷ đồng. Trong đó:
Phân lân tiêu thụ được 120,256 tấn doanh thu đạt 114 tỷ đồng
Phân supetecmô tiêu thụ được 752 tấn doanh thu đạt 740 triệu đồng
Phân đa yếu tố tiêu thụ được 82,465 tấn doanh thu đạt 126 tỷ đồng
Như vậy, năm 2006 bằng những cố gắng rất lớn trong công tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, công ty đạt được doanh thu tiêu thụ là 241,105,163,880 VNĐ
Bước sang năm 2007, tuy gặp những khó khăn lớn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm: thị trường giá nguyên vật liệu trong nước có biến động lớn, tất cả nguyên liệu đầu vào đều tăng gây khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm do giá vốn, giá bán của sản phẩm đều tăng, giảm khả năng cạnh tranh của công ty với các doanh nghiệp cùng ngành. Năm 2007 được đánh giá là năm có nhiều biến động, đặc biệt là sự biến động của giá than, giá điện, giá xăng, giá vàng đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các công ty sản xuất phân bón nói chung và công ty phân lân nung chảy Văn Điển nói riêng. Đặc biệt, là một công ty sản xuất sử dụng nguyên liệu đầu vào nhiều nhất là than và hoạt động bán hàng chủ yếu ở các tỉnh xa nơi tiêu thụ nên hoạt động kinh doanh của công ty chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự thay đổi giá cả của hai mặt hàng này. Mặc dù vậy, kết quả tiêu thụ sản phẩm có nhiều nét đáng mừng so với năm 2006. Để phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm chính năm 2007, ta sử dụng (bảng số 11.)
Cột tồn đầu kì phản ánh số tồn kho sản phẩm cuối năm 2006 chuyển sang đầu năm 2007 của từng loại sản phẩm đến cuối năm 2007. Sản phẩm của công ty được nhập kho chủ yếu từ sản xuất. Việc nhập kho từ các nguồn khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ.
Ta thấy năm 2007, tổng doanh thu tiêu thụ đạt được là 437 tỷ đồng, trong đó:
Phân lân tiêu thụ được 212,349 tấn sản phẩm đạt mức doanh thu là 224 tỷ đồng
Phân supetecmô tiêu thụ được 869 tấn sản phẩm, đạt mức doanh thu là 880 triệu đồng
Phân đa yếu tố tiêu thụ đựoc 99,522 tấn sản phẩm , đạt mức doanh thu là 212 tỷ đồng
Tồn cuối kì của các sản phẩm đều dưới 10%, điều này chứng tỏ công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty năm vừa qua là khá tốt, đúng như kế hoạch đặt ra.
Như vậy, năm 2007 doanh thu các loại sản phẩm và doanh thu một số sản phẩm chính đều tăng so với năm 2006, đây là cố gắng lớn của công ty trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Dẫn đến thành công này có nhiều nguyên nhân, ta sử dụng (bảng số 12) để so sánh các chỉ tiêu giữa 2 năm 2006 và 2007 và tìm ra các nguyên nhân này.
* Về sản lượng tiêu thụ:
(Bảng 12) cho thấy các sản phẩm tiêu thụ năm 2007 đều tăng lên so với năm 2006.
- Xét về số lượng tăng, phân lân tăng nhiều nhất 92,094 tấn sản phẩm, tỷ lệ tăng 76.58%. Công ty đã cung cấp loại phân này cho thị trường miền Nam là nhiều nhất, miền Bắc cũng chiếm một lượng lớn và đặc biệt là đây là sản phẩm dùng để xuất khẩu. Có thể nói rằng đây là sản phẩm đã chiếm được một thị trường rộng lớn không phải sản phẩm nào cũng có được. Với nhu cầu càng lớn của thị trường, nó đáp ứng tốt với mọi loại đất nên lượng tiêu thụ tăng so với năm 2006
- Sản phẩm supetecmô tăng 117 tấn với lượng tăng không lớn tỷ lệ tăng là 15.56%. Do sản phẩm này phù hợp vơi một số loại cây trồng ở rất ít tỉnh miền Bắc nên việc tăng sản phẩm này cũng là điều đáng mừng. Chứng tỏ doanh nghiệp đã đáp ứng nhu cầu của nhà nông, và họ cũng tìm thấy cho mình một loại sản phẩm có thể làm tăng năng suất cây trồng.
Sản phẩm phân đa yếu tố tăng 17,056 tấn với tỷ lệ tăng là 20.68%. Doanh nghịêp đã tiêu thụ được hầu hết các sản phẩm này ở các tỉnh miền bắc. Do phân bón Trung Quốc với chất lượng kém hơn phân bón của công ty nên người tiêu dùng trong nước rất ưa chuộng phân bón của trong nước đặc biệt là của phân lân Văn Điển vừa đảm bảo chất lượng, vừa gần nơi sản xuất có thề giảm được nhiều chi phí không cần thiết.
Việc tăng sản lượng tiêu thụ như vậy trước hết là nhờ khâu sản xuất đủ sản lượng với chất lượng, mẫu mã quy cách phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. Sản lượng tiêu thụ tăng còn do công ty đã làm tốt khâu tiêu thụ, thực hiện tốt việc phân phối sản phẩm, có chính sách bán hàng phù hợp thu hút khách hàng. Ngoài ra, năm 2007 nước ta gia nhập tổ chức WTO, sự thay đổi trong các chính sách của Nhà nước ta trong quan hệ với các nước trên thế giới cũng giúp cho bạn bè các nước dễ tiếp cận với các sản phẩm của công ty và việc mua bán hàng hóa được diễn ra thuận lợi hơn. Mặt khác cũng phải kể đến những chuyển biến thuận lợi của thị trường năm 2007 so với năm 2006 như: nhu cầu tiêu dùng phân bón tăng lên, phân bón Trung Quốc nhập lậu bị kiểm soát chặt chẽ vào những tháng cuối năm 2007... đã làm cho khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong nước của công ty tăng lên.
* Về giá bán:
Giá bán bình quân của các sản phẩm chủ yếu trong các công ty năm 2007 đã có xu hướng tăng so với năm 2006.
Sản phẩm có giá bán tăng nhiều nhất là phân đa yếu tố với tỷ lệ tăng là 39.33%, lượng tăng là 601,679 đ/tấn
Sản phẩm phân lân tăng 107,495 đ/ tấn với tỷ lệ tăng là 11.31%.
Sản phẩm phân supetecmô tăng 28,403 đ/ tấn với tỷ lệ tăng là 2.88%
Giá bán sản phẩm tăng có các nguyên nhân sau:
Thứ 1: Việc giá bán của tất cả các sản phẩm đều tăng do giá vốn tăng. Giá vốn do nhiều nguyên nhân, mà nguyên nhân chủ yếu là do chi phí nguyên vật liệu sản xuất đều tăng như than, xăng. …, lương công nhân viên cũng phải tăng lên để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Mặc dù công ty đã sử dụng công nghệ mới trong sản xuất tạo điều kiện nguyên vật liệu, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tạo điều kiện cho công ty hạ giá bán, nhưng do giá nguyên liệu đầu vào tăng quá cao nên giá bán của các sản phẩm vẫn phải tăng để bù đắp được các chi phí và có lợi nhuận. Ta có thể xem xét( bảng 13 )so sánh giá vốn toàn bộ của các sản phẩm chính năm 2006 và năm 2007. Ta thấy giá bán sản phẩm tăng là do giá vốn sản phẩm tăng, nguyên nhân chính làm cho giá vốn tăng chủ yếu là do chi phí đầu vào tăng, trong đó nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn, đặc biệt các loại quặng và than.
Thứ 2: tỷ giá đồng đôla Mĩ tăng so với đồng Việt Nam, mà sản phẩm của công ty xuất khẩu nên thanh toán chủ yếu bằng USD nên giá bán các sản phẩm của công ty phải tăng lên để đảm bảo cho doanh thu của tiêu thụ sản phẩm không bị tác động nhiều bởi sự biến động của tỷ giá USD/VNĐ.
* Về kết cấu:
Phân lân chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số sản lượng tiêu thụ các sản phẩm chính, sau đó đến phân đa yếu tố . Nhưng gía bán của phân đa yếu tố lại cao hơn so với phân lân. Chỉ có sự khác biệt về giá chứ kết cấu năm 2007 so với năm 2006 không có sự thay đổi nhiều. Tỷ trọng của phân lân tăng rất lớn , giá cũng tương đối cao nhất, còn phân đa yếu tố tăng thấp hơn nhưng giá cả lại tăng lên rất nhiều nên đây là một trong nguyên nhân chính dẫn đến tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm của công ty lại tăng cao như vậy.
Nhận xét chung:
Với tình hình thay đổi về số lượng và giá bán kết cấu sản phẩm tiêu thụ như vậy, năm 2007 tổng doanh thu các sản phẩm chủ yếu chủ yếu đạt được là 437 tỷ đồng, so với năm 2006 là 241 tỷ đồng, tăng 196 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 81.33% .Trong đó phân lân tăng 110 tỷ với tỷ lệ tăng là 96.56%, doanh thu phân supetecmô tăng 139 triệu đồng với tỷ lệ là 18.89%, doanh thu phân đa yếu tố tăng 85 tỷ với tỷ lệ tăng là 68.15%
Thông qua công tác tiêu thụ sản phẩm như vậy, công ty phân lân nung chảy Văn Điển đã đạt được những kết quả tương đối tốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các sản phẩm đều có sự tăng trưởng về cả số lượng lẫn doanh thu trên từng loại sản phẩm, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng có khác nhau. Tăng mạnh nhất phân lân và phân đa yếu tố, do nhu cầu sản phẩm này tăng mạnh ở các tỉnh miền Bắc và miền Nam đặc biệt là các tỉnh miền Bắc chiếm tỷ lệ lớn nguồn tiêu thụ phân đa yếu tố. Sản phẩm phân supetecmô tốc độ tăng chậm hơn nhưng chất lượng tốt được khách hàng đánh giá cao.Mặc dù công ty phải cạnh tranh vơí phân bón Trung Quốc và một số doanh nghiệp ở trong nước nhưng lượng tiêu thụ của công ty vẫn tiếp tục tăng chứng tỏ trong công tác sản xuất và bán hàng đã có nhiều thành công lớn, nhận được nhiều đơn đặt hàng với số lượng lớn cả thị trường trong và ngoài nước.
Để có thể nhìn nhận tình hình cụ thể hơn ta đi xem xét việc tiêu thụ sản phẩm của công ty qua các Quý. (Ta sử dụng bảng số 14):
-Quý I, II năm 2007 sản phẩm bán ra với lượng khá lớn. Quý I là 89,108 tấn, trong đó phân lân là 54,943 tấn, phân đa yếu tố là 33,910 tấn, còn phân supetecmo là 33,910 tấn. Còn quý II là 86,160 tấn, giảm hơn Quý I một ít nhưng lượng bán ra vẫn rất lớn. Đây là thời điểm bắt đầu vào vụ nên sản phẩm được bán ra rất lớn để có thể đáp ứng được nhu cầu chăm sóc đất và cây trồng cho nhà nông.
- Bắt đầu sang Qúy III lượng sản phẩm đã bắt đầu giảm xuống.Lượng bán ra chỉ còn 65,918 tấn. Giảm đáng kể là phân đa yếu tố giảm từ 31,616 tấn Qúy II xuống còn 14,649 tấn. Tại thời điểm này tại thị trường miền Bắc đang mùa thu hoạch nên việc sử dụng phân đa yếu tố là không nhiều do vậy mà lượng phân này đã giảm đáng kể. Điều đó làm cho sản lượng tiêu thụ của Qúy III giảm đi.
- Sang Quý IV thì lượng tiêu thụ lại bắt đầu tăng lên. Sản lượng tiêu thụ ở Quý IV là 76,551 tấn. Tại thời điểm này đất trồng sau khi thu hoạch cần được nuôi dưỡng nên làm cho lượng tiêu thụ tăng lên đáng kể. Ta thấy rằng sản lượng tiêu thụ của các quý lên xuống là do phân đa yếu tố có sự thay đổi, còn phân lân thì hầu như không thay đổi nhiều là do phân lân được tiêu thụ chủ yếu tại thị trường miền Nam, khí hậu ở đây không thay đổi nhiều như Miền Bắc nên việc sản xuất và sử dụng phân bón được sủ dụng ồn định qua các Quý.
Sản phẩm của công ty có mặt ở tất cả các tỉnh thành trong nước và nơi nào cũng được tiêu thụ với một lượng lớn nên sau đây ta chỉ xem xét ( bảng số 14) về thị trường tiêu thụ ở nước ngoài một số sản phẩm chủ yếu của công ty.
Nhìn vào các vùng thị trường các sản phẩm chính của công ty phân lân nung chảy ta thấy ngoài các tỉnh trong nước, đặc biệt là các tỉnh miền Bắc, là thị trường quen thuộc của công ty trong nhiều năm vừa qua, do nhu cầu tiêu dùng và do gần nơi sản xuất nên sản lượng tiêu thụ khá mạnh, thì thị trường thế giới đang là tiềm năng đang được công ty khá quan tâm. Mặc dù chiếm một lượng nhỏ trong công tác tiêu thụ nhưng trong năm 2007 doanh nghiệp đã xuất khẩu được một lượng lớn các loại phân bón mà chủ yếu là phân lân. Doanh nghiệp đã tiêu thụ được 6,500 tấn phân lân với doanh thu là hơn 8 tỷ trong đó xuất khẩu nhiều ở Nhật Bản và Malayxia. Thị trường các nước Nhật, ÚC, Malayxia, Đài Loan sang năm 2007 do công ty có nhiều chính sách quảng cáo, giới thiệu sản phẩm tại các nước này nên sản lượng có tăng đáng kể. Về sản phẩm phân lân, sản lượng tiêu thụ tăng lên tương đối, tăng nhiều nhất là Đài Loan với lượng tăng là 729 tấn, sau đó đến Malayxia là 190 tấn nhưng lượng tiêu thụ lớn nhất vẫn là Nhật Bản với một lượng là 2,608 tấn. Về phân supetecmô thì mặc dù trong năm 2007 tất cả các sản phẩm đều giảm vì giá cả của sản phẩm này không thể cạnh tranh được giá của Trung Quốc và Thái Lan. Đây cũng là một động lực để doanh nghiệp nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm và tiết kiệm để giảm chi phí nhằm giảm giá bán để có thể cạnh tranh trên thị trường nước ngoài. Còn đối với phân đa yếu tố thì mở ra một thị trường tiêu thụ tiềm năng với hầu hết các nước đều nhập khẩu với một lượng rất lớn so với năm 2006 cụ thể là Nhật tăng lên 776 tấn còn Malayxia thì tăng 483 tấn. Doanh nghiệp cần tăng cường quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoàI để không những có thể tiêu thụ được ở các nước trên mà còn mở rộng hơn nữa.
2.2.3.2. Tình hình thu tiền hàng.
Bảng 15: TÌNH HÌNH QUẢN KÍ THU HỒI TIỀN HÀNG
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Chênh lệch
Số tuyệt đối
%
Tài sản lưu động bình quân (đ)
157,165,853,527
198,006,507,012
40,840,653,486
26
Nợ phải thu bình quân (đ)
51,898,234,467
45,693,026,393
-6,205,208,075
-12
Trong đó phải thu của khách hàng bình quân(đ)
56,560,900,231
45,784,547,385
-10,776,352,846
-20
Vòng quay các khoản phải thu (vòng)
6.9
7.86
0.96
10
Kì thu tiền trung bình (ngày)
52.17
45.8
-6.37
-12
Qua (bảng 15) ta có nhận xét như sau:
Trong năm 2007, để mở rộng sản quy mô kinh doanh nên vốn lưu động tăng 26% so với năm 2006. Bên cạnh đó nợ phải thu giảm 12% và nợ phải thu của khách hàng chiếm tỷ trọng lớn cũng giảm 20%. Điều này cho ta thấy công tác thanh toán cũng như kỉ luật thanh toán khá chặt chẽ, hiện tượng khách hàng nợ nần dây dưa khó đòi giảm đi rất lớn. Đây là một biểu hiện tốt không để trình trạng chiếm dụng vốn quá lớn và không bị mất vốn trong thanh toán, làm ảnh hưởng đến lợi nhuận cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh. Điều này cần được tiếp tục phát huy không những doanh nghiệp có đủ lượng vốn để mở rộng sản xuất mà còn tránh khỏi rủi ro về khả năng không trả nợ của khách hàng.
Kì thu tiền bình quân của công ty năm 2007 tăng so với năm 2006 . Đây là một điểm khá tốt của công ty trong công tác thanh toán tiền hàng, kì thu tiền tương đối lớn làm cho công ty không bị chiếm dụng vốn, vốn lưu động đựơc luân chuyển thường xuyên .Với đặc điểm kinh doanh của công ty là sản xuất và bán các loại phân bón cho cây trồng và vật nuôi, giá vốn tính trên một tấn sản phẩm là khá lớn, hoạt động bán hàng diến ra thuận lợi, năm sau tăng doanh số bán hàng so với năm trước và tốc độ quay vòng vốn lưu động hàng năm là 6.9 trong 2006 và 7.86 trong năm 2007 là tương đối lớn. Điều này giải thích tại sao năm 2007 tốc độ tăng doanh thu lại cao hơn năm 2006 như vậy. Theo em công ty đang làm tốt công tác quản lý các khoản phải thu khách hàng. Nhưng nếu doanh nghiệp mở rộng hơn nữa chính sách trả chậm cho khách hàng thì có thể doanh thu tiêu thụ lại lớn hơn. Điều này có thể gặp rủi ro nhưng lại có thể tăng được lượng tiêu thụ.
2.2.3.3. Tình hình quản lí chi phí bán hàng
Trong năm 2007, để có đạt được doanh thu bán hàng như vậy, công ty đã phải bỏ ra khá nhiều công sức. Doanh nghiệp đã cố gắng rất nhiều để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhưng đồng thời cũng phải tiết kiệm các chi phí không đáng có.Trong năm 2007 lượng tiêu thụ lớn như vậy mà doanh nghiệp đã bằng sự quản lý của mình làm cho chi phí bán hàng giảm 3% so với năm 2006. Chi phí bán hàng bao gồm chi phí trả tiền lương cho nhân viên bán hàng và chi phí hỗ trợ bán hàng. Trong năm 2007, nhân viên bán hàng của công ty tăng không nhiều, tức là phần lớn việc giảm chí phí này đều đầu tư cho việc hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, tiếp thị, chi phí vận chuyển, chi phí lưu kho lưu bãi... Điều này cho thấy trong thời gian qua công ty có quan tâm đến công tác tiêu thụ sản phẩm, mở rộng hơn hoạt động bán hàng nhưng không nhiều bằng năm 2006. Dù vậy mức tiêu thụ tăng lên rất lớn thì cũng có nghĩa là thương hiệu của doanh nghiệp đã được khẳng định, không cần quảng cáo rầm rộ nhưng nhà nông vẫn biết đến chất lượng sản phẩm của công ty mà lựa chọn cho vụ mùa của mình.
Tốc độ giảm của chi phí bán hàng thấp hơn tốc độ tăng doanh thu, có thể nhận xét việc tăng chi phí bán hàng của công ty là hợp lí. Trong những năm tiếp theo, công ty nên tiếp tục đầu tư hơn nữa vào công tác bán hàng vì đây có thể là động lực quan trọng giúp công ty tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
2.2.4. Các biện pháp kinh tế - tài chính được công ty sử dụng để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm trong thời gian qua
2.2.4.1. Phương thức bán hàng
Để thực hiện công tác tiêu thụ, sau rất nhiều năm hoạt động với uy tín kinh doanh và chất lượng sản phẩm được đánh giá cao, công ty đã tìm được những bạn hàng tin cậy để thực hiện phân phối sản phẩm của mình. Cho đến nay, công ty chủ yếu tập trung vào các bạn hàng lớn sau:
+ Ngoài nước : Nhật Bản, ÚC, Malayxia….
+ Trong nước : Là sản phẩm dùng trong nông nghiệp nên có hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Sản phẩm NPK được tiêu thụ nhiều ở các địa phương phía Bắc và ngày càng tăng ở các tỉnh Phía Nam và Tây Nguyên với sản lượng tăng gấp 3
Ngoài ra công ty tổ chức mạng lưới, phương thức tiêu thụ sản phẩm phù hợp giảm mức thấp nhất phí lưu thông. Chẳng hạn tại các tỉnh thành phố phía Bắc đơn vị bán thẳng phân bón đến hợp tác xã hoặc một cơ sở đóng tại xã. hoặc tại miền Trung, miền Nam, Tây nguyên thì thuê nhiều khách sạn làm dịch vụ kho vận, đại diện để tạo cạnh tranh và chi phí hợp lý
Khách hàng có nhu cầu mua hàng thì tiến hành đặt hàng và kí hợp đồng với phòng kinh doanh của công ty. Việc vận chuyển công ty sẽ chịu trách nhiệm vận chuyển cảng xuất khẩu đối với trường hợp trực tiếp xuất khẩu. .
Về khối lượng sản phẩm, công ty sẵn sàng bán cho các khách hàng với khối lượng không hạn chế. Khách hàng muốn mua hàng phải tiến hành kí hợp đồng với công ty.
Về hình thức thanh toán sẽ được thực hiện theo hợp đồng đã thỏa thuận. Đối với các bạn hàng lớn ở trong nước về cơ bản là khi lấy hàng, công ty gần như bán chịu là chính. Bạn hàng chỉ phải thanh toán ngay 30% giá trị lô hàng, còn 70% có thể thanh toán vào thời điểm sau đó theo thỏa thuận của hợp đồng. Đối với sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài Công ty xuất khẩu tại cảng Hải Phòng theo giá FOB. Để thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm, công ty có phòng kinh doanh với số lượng 12 người, phụ trách các mảng chủ yếu trong việc bán hàng, đồng thời tổ chức nghiêm cứu, năm bắt nhu cầu thị trường, triển khai công tác tiêu thụ để đạt hiệu quả tối đa trong việc tiêu thị sản phẩm.
Việc theo dõi, ghi chép công tác tiêu thụ sản phẩm do phòng tài vụ đảm nhận. Từng loại sản phẩm tiêu thụ được theo dõi trên “sổ chi tiết tiêu thụ”, sổ này lập cho từng quý. Nhân viên phòng kế toán sẽ căn cứ vào hóa đơn, phiếu xuất kho phát sinh trong quý để lập sổ này.
2.2.4.2. Chiết khấu thanh toán
Đối với khách hàng trong nước và khách hàng nước ngoài không thanh toán bằng hình thức L/C, để khuyến khích khách hàng sớm thanh toán tiền hàng công ty đã thực hiện việc chiết khấu bán hàng. Trong trường hợp người mua trả tiền ngay sẽ được hưởng tỷ lệ chiết khấu là 0,5% trên số tiền thanh toán. Sau khi sản phẩm đã tiêu thụ mà không thanh toán ngay cho đến thời hạn thanh toán cuối cùng khách hàng sẽ không được hưởng chiết khấu. Trong trường hợp thanh toán sau thời gian quy định trong hợp đồng sẽ phải chịu lãi suất quá hạn của ngân hàng trên số tiền chậm trả đó.
Việc thực hiện chiết khấu bán hàng đã thúc đẩy khá nhiều việc tiêu thụ sản phẩm, nâng cao tỷ lệ doanh thu trả tiền ngay, hạ thấp tỷ lệ doanh thu trả chậm, giảm tình trạng nợ quá hạn.
2.2.4.3. Công cụ giá cả
Việc vận dụng giá cả trong công tác bán hàng của công ty phân lân Văn Điển đa dạng. Công ty thực hiện nhiều mức giá khác nhau trên từng vùng thị trường khác nhau trong từng điều kiện nhất định.
Trường hợp khách hàng ở những đất nước xa, chịu nhiều chi phí vận chuyển từ cảng xuất khẩu đến nước bạn thì công ty thực hiện một giá bán hợp lí nhằm hỗ trợ các bạn hàng. Tùy từng quan hệ giữa công ty với bạn hàng mà công ty có thể giảm bớt chi phí vận chuyển từ công ty ra cảng được tính trong giá bán. Giá bán được quy dịnh rõ trong các hợp đồng kinh tế. Đối với các bạn hàng lâu năm, gắn bó với công ty thì sẽ được hưởng mức giá khác so với những khách hàng mua lẻ.
Việc đa dạng về giá bán là một biện pháp cần thiết để phù hợp với các sức mua khác nhau trên thị trường. Nhờ vào việc phân hóa giá công ty đã thực hiện nhiều hợp đồng lớn trong năm.
2.2.4.4. Về phương thức thanh toán
Để thuận tiện cho khách hàng khi mua hàng, công ty đã vận dụng nhiều phương thức thanh toán khác nhau như thanh toán toán bằng tiền mặt, tiền chuyển khoản qua ngân hàng…
Thanh toán ngay: sau khi lập hóa đơn bán hàng, khách hàng phải thanh toán ngay bằng tiền mặt tại phòng kế toán cho thủ quỹ hoặc bằng tiền gửi qua ngân hàng.
Thanh toán trả chậm: công ty cho phép một số khách hàng thanh toán chậm trong một thời gian nhất định. Khách hàng có thể mua hàng và được phép chịu tiền hàng trong khoảng thời gian là 15-30 ngày. Khi mua hàng khách hàng phải thanh toán ngay 30% giá trị lô hàng, và tùy từng điều khoản cụ thể trong hợp đồng mà thanh toán nốt phần còn lại. Đối với khách hàng nước ngoài nếu thanh toán bằng hình thức L/C phải thanh toán tiền ngay công ty mới giao hàng, không áp dụng hình thức trả chậm.
Trong trường hợp khách hàng không thanh toán đúng hạn thì phải chịu lãi suất quá hạn của ngân hàng trên số tiền trả chậm. Khi đó công ty yêu cầu khách hàng thanh toán hết rồi mới giao hàng tiếp.
Những quy định trên vừa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong mối quan hệ mua bán với công ty vừa đảm bảo cho tài sản tiền vốn của công ty có mức an toàn nhất định.
2.2.4.5. Về quảng cáo giới thiệu sản phẩm
Để giới thiệu sản phẩm của mình tới khách hàng, công ty thường xuyên gửi sản phẩm tham dự các hội chợ thương mại như “ Hội chợ triển lãm Giảng Võ”, các hội chợ xuân... Đây là những dịp để người tiêu dùng tiếp xúc trực tiếp với các sản phẩm của công ty, qua đó công ty nhận được các thông tin phản hồi từ khách hàng về sản phẩm của mình để có kế hoạch điều chỉnh công tác sản xuất và tiêu thụ kịp thời.
Ngoài ra công ty còn tiến hành quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh (đài truyền hình Hà Nội, VTC1), trên các trang web (chủ yếu đề giới thiệu với khách hàng nước ngoài)..., việc quảng cáo thường chỉ tập trung cho những thị trường quen thuộc, có quan hệ buôn bán lâu dài chứ không quảng cáo dàn trải trên tất cả các thị trường.
*Nhận xét chung:
Bằng cách sử dụng những biện pháp kinh tế tài chính thích hợp đã hỗ trợ rất nhiều cho công ty trong việc tiêu thụ sản phẩm. Mặc dù vậy những biện pháp đó vẫn còn hạn chế:
Các biện pháp về giá cả còn sử dụng một cách dặt dè, chỉ áp dụng phần lớn đối với khách hàng quen thuộc, công ty chưa hoàn toàn chủ động điều chỉnh giá cả cho phù hợp với chiến lược kinh doanh của mình.
Công ty chưa hoạch định chiến lược quảng cáo cụ thể cho từng thời kì. Công tác quảng cáo thường diễn ra rời rạc, lẻ tẻ và chỉ tập trung vào thị trường quen thuộc, chưa có chiến lược mở rộng thị trường.
Công ty chưa thực hiện chính sách chiết khấu thương mại cho những khách hàng mua với số lượng lớn, do giá cả đã thống nhất trong hợp đồng mua bán. Đây là vấn đề cần khắc phục vì điều này sẽ không khuyến khích khách hàng mua với số lượng lớn, giảm sức cạnh tranh của công ty do trên thị trường hiện nay có rất nhiều công ty thực hiện chính sách này.
2.3. Những vấn đề cần đặt ra đối với công tác tiêu thụ sản phẩm trong thời gian tới
Từ việc phân tích thực trạng tiêu thụ sản phẩm công ty phân lân nung chảy Văn Điển trong năm 2007 cho thấy công ty đã cố nhiều cố gắng trong công tác tiêu thụ sản phẩm, thể hiện:
Số lượng sản phẩm tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm đều tăng so với năm 2006 tăng 51,88% về doanh thu.
Thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế được củng cố và ngày càng mở rộng.
Chất lượng sản phẩm ngày càng cao so với sản phẩm cùng loại trên thị trường, tạo ra uy tín ngày càng lớn cho công ty.
Phương thức bán hàng tương đối linh hoạt, một số biện pháp kinh tế tài chính của công ty sử dụng có hiệu quả đã có tác dụng thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm...
Kế hoạch tiêu thụ phần lớn các sản phẩm khá sát với thực tế, chênh lệch về sản lượng, giá bán, doanh thu không vượt quá mức ±5%, Ngoài những kết quả đạt được, công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty vẫn còn một số tồn tại cơ bản sau:
Giá bán sản phẩm còn cao so với các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt còn cao hơn nhiều so với sản phẩm phân bón của Trung Quốc mẫu mã sản phẩm chưa có nhiều thay đổi so với năm 2006.
Phương thức bán hàng tuy được sử dụng phù hợp với từng loại sản phẩm, từng loại thị trường song vẫn còn chưa năng động và nhạy bén, chưa tích cực trong việc tìm kiếm những thị trường mới, phương thức bán hàng chiết khấu thương mại chưa được áp dụng.
Các biện pháp kinh tế tài chính thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm đang được công ty sử dụng còn ít và hiệu quả chưa cao. Nhiều biện pháp kinh tế tài chính hữu hiệu chưa được công ty vận dụng để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm như công ty chưa áp dụng hình thức chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán...
Công tác quảng cáo, giới thiệu sản phẩm chưa được coi trọng và đầu tư thích đáng, công ty chưa có chiến lược quảng cáo phù hợp với từng thời kì, từng thị trường... Các bạn hàng ở nước ngoài chưa biết nhiều đến sản phẩm của công ty, nếu muốn đặt hàng thì phải cử người đến tìm hiểu các sản phẩm tại công ty (như các chuyến đi ra nước ngoài để tìm nhà cung cấp, di du lịch...)
Những tồn tại trên đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả sản xuất phù hợp với tiềm năng mà doanh nghiệp có được. Mặc dù đã đầu tư thêm nhiều máy móc thiết bị giảm một lượng rất lớn chi phí quản lý doanh nghiệp nhưng doanh thu tăng chưa tương xứng với tình hình sản xuất của công ty. Tài sản lưu động tăng 26% nhưng tập trung chủ yếu ở lượng tiền mặt tồn quỹ quá lớn. Để đạt tốc độ tăng cao hơn trong năm sau, một trong những nhiệm vụ đặt ra là công ty phải đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu để nâng cao lợi nhuận. Muốn vậy công ty phải tìm ra những giải pháp tối ưu, bao hàm tổng hợp nhiều mặt: kinh tế – kĩ thuật – quản lí... và vận dụng chúng có hiệu quả vào công tác tiêu thụ sản phẩm.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÔNG TY PLNC VĂN ĐIỂN
3.1. Phương hướng phát triển của công ty phân lân nung chảy Văn Điển
Là một doanh nghiệp được trọng tài thành phố Hà Nội cho phép thành lập năm 1963 và được Sở KH & ĐT Hà Nội cấp giấy phép kinh doanh sản xuất mặt hàng phân bón. .
Qua quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty luôn năng động, đã sáng tạo được nhiều mẫu mã hàng phù hợp với thị hiếu của khách hàng, luôn đầu tư đổi mới công nghệ bằng những trang thiết bị tiên tiến của nước ngoài từ khâu chế biến nguyên liệu, tạo hình sản phẩm và qui trình nung đốt để nâng cao năng suất, chất lượng và mỹ thuật của sản phẩm đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. Do vậy, sản phẩm của công ty đã có uy tín với nhiều thị trường quốc tế như Nhật bản, Đài Loan, ÚC, Malayxia...
Doanh thu năm 2007 đạt hơn 439 tỷ đồng
Trong đó tiêu thụ trong nước đạt 70 %
Thu nhập bình quân của người lao động : 2triệu đ/tháng
Kế hoạch năm 2008 :
Doanh thu đạt : 500 tỷ đồng
Trong đó xuất khẩu : 35%
Thu nhập bình quân của người lao động : 3 triệu đồng /tháng
Doanh thu Quí 1/2008 đã thực hiện : 200 tỷ đồng. Trong đó xuất khẩu là 70 tỷ đồng, chiếm 30%.
Doanh thu Quí 2/2008 đạt 200 tỷ đồng. Trong đó xuất khẩu là 60 Tỷ đồng.
Quí 3/2008 sẽ đạt 100 tỷ đồng/quí. Trong đó xuất khẩu là 40 tỷ đồng, chiếm 40%
Doanh thu Quí 4/2008 sẽ đạt 150 tỷ đồng. Trong đó xuất khẩu là 50 tỷ đồng,
3.2. Một số kinh nghiệm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, sản phẩm tung ra thị trường ngày càng nhiều vì vậy để chiếm được lợi thế trong cạnh tranh các doanh nghiệp phải vạch ra được mục tiêu mang tính chiến lược và hướng đi đúng.
Kinh tế là phạm trù vận động liên tục, biến đổi theo thời gian, hoạt động kinh doanh đòi hỏi phải bám sát thị trường để kịp thời nắm bắt những biến động về thị hiếu người tiêu dùng, từ đó có những điều chỉnh kết hợp.
Thực tế cho thấy, những hãng lớn trên thế giới như: Coca Cola, Microsoft, Pepsi, Sony, Ford, Nokia… Sở dĩ trường tồn theo thời gian là vì nó luôn bám sát những thay đổi của thị trường, không để tụt hậu so với các đối thủ cạnh tranh khác. Hơn nữa, các tập đoàn này luôn lấy phương châm “nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa và cải tiến mẫu mã” làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ở Trung Quốc, các doanh nghiệp đã lựa chọn mức giá bán sản phẩm thấp hơn các đối thủ cạnh tranh để thu hút được phần lớn người tiêu dùng trên thị trường, mặc dù các sản phẩm của Trung Quốc chất lượng chưa cao nhưng giá bán lại thấp, hình thức đẹp, mẫu mã đa dạng đã thu hút được đông đảo người dân có thu nhập thấp, thị hiếu người tiêu dùng chưa cao.
Ở Việt Nam, các doanh nghiệp thành công trong tiêu thụ sản phẩm do đã đề cao vai trò chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm và cải tiến mẫu mã phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Một số doanh nghiệp như Công ty may 10, Công ty bánh kẹo Hải Hà, Cafe Trung Nguyên… đã và đang làm ăn có hiệu quả và liên tục tăng trưởng với tốc độ cao. Thương hiệu của sản phẩm Cafe Trung Nguyên đang chiếm ưu thế lớn nhất trên thị trường cà phê và gần như không có đối thủ cạnh tranh bởi chất lượng của nó luôn đảm bảo số 1. Sản phẩm của các doanh nghiệp trên đã được người tiêu dùng bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao trong nhiều năm liền. Bên cạnh nâng cao chất lượng sản phẩm thì sản phẩm của những công ty này phong phú về chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng, kích cỡ… đã tạo thuận lợi cho công tác tiêu thụ và tăng doanh thu bán hàng.
3.3. Biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu ở công ty phân lân nung chảy Văn Điển
Mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty là tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao giá trị doanh nghiệp vì vậy để có được điều đó thì tìm kiếm những giải pháp hữu ích để đẩy mạnh tiêu thụ, tăng doanh thu là vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp.
Để có thể đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu thì công ty cần có sự quan tâm và tác động mạnh vào các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh cả mặt quản lý, kỹ thuật cho đến kinh tế – tài chính.
Qua thời gian thực tập tại công ty cùng với việc nghiên cứu hoạt động sản xuất kinh doanh mà đặc biệt là công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty, em xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp chủ yếu để giải quyết những vướng mắc, tồn tại và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của công ty.
3.3.1. Tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm để hạ giá bán
Khó khăn lớn nhất của công ty hiện nay trong công việc tiêu thụ sản phẩm là giá bán còn cao so với giá bán của các sản phẩm phân bón khác. Trong điều kiện thu nhập của nông dân Việt Nam còn thấp như hiện nay, điều họ quan tâm nhất trước tiên khi mua hàng là giá bán sản phẩm. Người tiêu dùng có thể chấp nhận một sản phẩm chất lượng khá tốt nhưng giá bán phải phù hợp với túi tiền của họ. Chính vì vậy mà thị trường tiêu thụ chính của công ty là thị trường trong nước. Đáp ứng tốt nhu cầu trong nước là nhiệm vụ quan trọng cuả công ty, nhưng việc mở rộng ra thị trường nước ngoài trước mắt là thị trường các nước trong khu vực, vừa là thị trường trong khu vực vừa là thị trường có đất đai, cây trồng phù hợp với việc sử dụng phân lân nung chảy cũng phải được đặt lên hàng đầu. Phân bón nói chung và phân bón của phân lân nung chảyVăn Điển nói riêng tuy chất lượng cao hơn hẳn các sản phẩm phân bón Trung Quốc song giá bán cũng cao hơn nên rõ ràng trong điều kiện hiện nay là chưa phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường. Cho nên hạ giá mà vẫn duy trì được chất lượng sản phẩm là một biện pháp hữu hiệu để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Để hạ giá bán sản phẩm, giải pháp tích cực là tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Muốn tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm công ty có thể sử dụng một số biện pháp sau:
* Tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu
Để sản xuất hoàn chỉnh các sản phẩm phân, công ty phải nhập vật liệu từ nhiều nguồn khác nhau, chất lượng và giá cả nguyên liệu của từng nguồn cũng khác nhau. Các nguyên liệu thường dùng để sản xuất phân là: quặng Apatit, than antraxit, serpentin... Nhằm tiết kiệm chi phí vật tư, công ty cần làm tốt những việc sau:
Tiết kiệm vật tư, tận dụng các phế liệu để sử dụng lại là biện pháp sẽ giúp công ty giảm định mức tiêu hao vật tư và do đó giữ giá phân bón ổn định trong tình hình apatit, than và điện là những nguồn nguyên liệu và năng lượng quan trọng nhất trong sản xuất phân lân tăng giá rất nhanh.
Đảm bảo việc cung ứng vật liệu đầy đủ, kịp thời. Công ty cần xây dựng tốt kế hoạch vật liệu của năm, của tháng, thông báo kịp thời cho bộ phận cung ứng để nhập vật liệu đầy đủ, kịp thời, có chế độ thưởng phạt thích đáng đối với nhân viên tiếp liệu theo chất lượng công việc của họ: thưởng 3% giá trị nguyên vật liệu nếu cung ứng kịp thời, phạt 5% giá trị nguyên vật liệu nếu cụng ứng không đúng thời hạn, hoặc làm hỏng nguyên vật liệu trong quá trình vận chuyển.
Thường xuyên kiểm tra, giám định việc sử dụng định mức tiêu hao vật liệu trng quá trình sản xuất. Cần phát huy vai trò của tài chính doanh nghiệp trong việc sử dụng vật tư qua các chế độ thưởng, phạt do sử dụng tiết kiệm, lãng phí vật liệu, tránh sử dụng vật liệu sai quy cách để hao hụt, lãng phí vật liệu.
* Khoán quỹ lương, sử dụng có hiệu quả chi phí tiền lương, tiền thưởng trong sản xuất
Dựa trên việc phân công lao động hợp lí, đúng năng lực, tay nghề, công ty tiến hành trả lương theo chất lượng công việc, tiến tới khoán quỹ lương cho người lao động.
Tiền lương cần được tính toán, chi trả với mức độ hợp lí bảo đảm quyền lợi cho người lao động. Tránh trả lương thiếu căn cứ, vừa gây lãng phí tiền vốn, vừa khích lệ người lao động. Tăng lương cho người lao động và phải đảm bảo tốc độ tăng tiền lương phải nhỏ hơn tốc độ tăng năng suất lao động.
Sử dụng hình thức tiền thưởng phải phát huy được tác dụng của nó là khuyến khích, động viên người lao động hăng say làm việc, không ngừng nâng cao năng suất lao động. Tránh thưởng tràn lan, thưởng mang tính chất bình quân. Trước mắt, công ty có thể áp dụng hình thức thưởng như: thưởng do tiết kiệm vật tư, thưởng sáng kiến, thưởng tăng năng suất… cũng như phải quy trách nhiệm rõ ràng, xử phạt nghiêm minh những hành vi gây lãng phí vật tư, thất thoát tiền vốn, gây hư hỏng tài sản. Công ty nên có những hình thức chăm lo đến đời sống tinh thần của công nhân như hàng năm tổ chức đi thăm quan, nghỉ mát, ngày Tết, ngày lễ có quà và có tiền thưởng cho công nhân, ăn trưa được miễn phí 50%, bảo hộ lao động được trang bị đầy đủ.
* Quản lí, bảo dưỡng tốt máy móc, thiết bị kết hợp với đầu tư mua sắm mới, thay thế những máy móc thiết bị đã cũ nát
Để duy trì và phát huy năng lực làm việc của máy móc thiết bị, trước hết công ty phải đảm bảo các điều kiện kĩ thuật cho máy móc thiết bị như: nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, điện áp... Máy móc thiết bị phải được vận hành đúng quy trình kĩ thuật, phát huy tối đa công suất thiết kế để giảm khấu hao trên mỗi đơn vị sản phẩm. Công tác bảo dưỡng, tu sửa phải được tiến hành thường xuyên theo định kì, phù hợp với tình trạng kĩ thuật của máy móc, thiết bị.
Việc sửa chữa nhỏ, sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn máy móc thiết bị toàn công ty thuộc trách nhiệm của xí nghiệp cơ điện. Công ty nên tận dụng thời gian nghỉ ngoài giờ sản xuất để tiến hành sửa chữa, đảm bảo nhanh chóng đưa máy móc thiết bị vào sản xuất. Cần phát huy tối đa năng lực sửa chữa của bản thân công ty, tránh phải thuê ngoài để tiết kiệm chi phí sửa chữa.
Phát huy sáng kiến và cải tiến trong đó có cải tiến kỹ thuật được Đảng ủy và lãnh đạo của công ty rất coi trọng đã trở thành một nếp làm việc, một phong trào trong cán bộ công nhân viên. Các sáng kiến, cải tiến luôn được phát huy ở mọi lúc mọi nơi. Cụ thể như sau:
+ Hệ thống các máy nghiền phân bón đã được cải tiến đưa năng suất tăng tới gần 48% so với ban đầu
+Đồng bộ hóa và nghiên cứu tốc độ hệ thống băng tảI trong công ty vừa thuận tiện cho sửa chữa thay thế vừa kéo dài được tuổi thọ của thiết bị an toàn cho con người giảm bay bụi giảm ô nhiễm môI trường
+ Máy nghiền xi măng đã được tải tạo thành hệ thống nghiền liên hoàn chuyển từ hệ thống nghiền hai lần thành nghiền một lần với năng suất thấp hơn nhưng giảm đáng kể lượng bụi phát sinh.
3.3.2. Chú trọng và làm tốt hơn nữa công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
Qua tìm hiểu phương pháp lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cũng như phân tích tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty, có thể thấy việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty chưa tốt, kế hoạch lập chưa khoa học, chưa sát với tình hình thực tế nên nếu dựa vào việc hoàn thành kế hoạch sẽ không đánh giá đúng kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Hơn nữa, kế hoạch tiêu thụ lập không tốt đã ảnh hưởng đến các kế hoạch khác như: kế hoạch sản xuất, kế hoạch lợi nhuận… làm cho công tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm rơi vào tình trạng bị động. Vì vậy, trong thời gian tới công ty cần coi trọng và làm tốt hơn nữa công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Muốn vậy công ty cần chú ý những vấn đề sau:
Khi lập kế hoạch tiêu thụ, phải sự tính tương đối chính xác các hợp đồng, đơn đặt hàng có thể được kí kết và thực hiện trong năm kế hoạch. Đồng thời phân tích và dự kiến kết cấu sản phẩm tiêu thụ trong kì để tránh sự biến động qúa lớn về mặt số lượng và giá bán sản phẩm giữa thực tế và kế hoạch. Làm tốt được hai việc này sẽ góp phần hạn chế sự phát sinh các kế hoạch đột xuất gây bị động cho công tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Nếu có sự phát sinh các kế hoạch tiêu thụ đột xuất ngoài kế hoạch năm, công ty cần kế hoạch tiêu thụ cho phù hợp với tình hình thực tế.
Cần xác định chính xác số lượng sản phẩm kết dư cuối kì kế hoạch của từng loại sản phẩm, không quy định tỷ lệ kết dư chung chung như tình hình hiên nay. Mức kết cuối kì phải phù hợp với nhu cầu dự trữ sản phẩm cho năm sau, tránh tồn kho sản phẩm quá nhiều gây ứ đọng vốn.
Giữa kế hoạch tiêu thụ sản phẩm và báo cáo thống kê tình hình tiêu thụ sản phẩm hàng tháng, năm, phải có sự thống nhất về nội dung, kết cấu. Kế hoạch tiêu thụ lập chi sản phẩm nào, gồm những chỉ tiêu gì thì báo cáo thống kê phải lập lại nội dung và kết cấu tương tự để tiện cho việc so sánh, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ và xu hướng phát triển của công ty.
Hàng tháng công ty cần tiến hành phân tích đánh giá tình hình tiêu thụ trong tháng dựa trên số liệu sổ sách kế toán và kế hoạch tiêu thụ. Qua đó, công ty có thể đánh giá những mặt đã làm được và để phát huy, chỉ ra những tồn tại cần khắc phục kịp thời trong tháng sau.
3.3.3. Đa dạng hóa mẫu mã, hình thức sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường, để sản phẩm tiêu thụ nhanh thì ngoài yếu tố giá bán và chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến mẫu mã, hình thức sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu hàng ngày càng đa dạng và có chất lượng cao. Sản phẩm phân bón của công ty phân lân nung chảy Văn Điển được khách hàng công nhận là chất lượng tốt, không bị axit, không nhiễm độc tố song mẫu mã còn kém đa dạng như phân Trung Quốc. Các sản phẩm của công ty về chủng loại thì đa dạng , song kiểu dáng còn chậm được đổi mới.
Để cải thiện hơn nữa hình thức, mẫu mã sản phẩm, công ty cần tập trung đầu tư thích đáng cho việc nghiên cứu, thiết kế mẫu mã sản phẩm mới. Năm 2007 công ty đã có một số sản phẩm mới tung ra thị trường rất được người tiêu dung đánh giá cao . Cần khen thưởng động viên kịp thời đối với những sáng kiến cải tiến mẫu mã sản phẩm. Ngoài ra công ty cần có kế hoạch đào tạo nâng cao tay nghề cho phần trang trí hình thức các loại phân bón dễ dàng nhận ra các sản phẩm phân của công ty với các đối thủ cạnh tranh
3.3.4. Tăng cường và hoàn thiện công tác điều tra nghiên cứu thị trường.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường biến động phức tạp và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc điều tra nghiên cứu thị trường giữ vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh tiêu thụ, mở rộng thị trường. Làm tốt công tác này giúp công ty nắm bắt kịp thời nhu cầu và sức mua của từng vùng thị trường, có cái nhìn đúng đắn, toàn diện về tình hình cạnh tranh và đối thủ cạnh tranh. Căn cứ vào đó để có phương án sản xuất và tiêu thụ hợp lý, chiến thắng trong cạnh tranh và thực hiện được mục tiêu chiếm lĩnh và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Thời gian qua, công ty phân lân nung chảy Văn Điển đã đánh giá được tầm quan trọng của điều tra nghiên cứu thị trường nhưng việc thực hiện còn nhiều vướng mắc, công ty chưa có sự đầu tư thỏa đáng cho công tác này. Do vậy, để công tác này ngày càng được thực hiện tốt hơn và phát huy hết vai trò thì công ty có thể xem xét đến một số giải pháp sau:
- Cần tổ chức được một đội ngũ cán bộ chuyên sâu điều tra nghiên cứu thị trường, nắm vững nghiệp vụ kinh doanh, nghiệp vụ Marketing nắm vững các kỹ năng tổng hợp và phân tích thông tin, có nghệ thuật tiếp cận khách hàng…thực hiện việc điều tra nghiên cứu thị trường. Trước mắt, công tác điều tra nghiên cứu thị trường có thể vẫn do cán bộ phòng kinh doanh tổng hợp đảm nhiệm như hiện nay nhưng những cán bộ này còn được tập huấn nâng cao trình độ thu thập phân tích và xử lý thông tin thị trường.
Về lâu dài, công ty cần tổ chức riêng thành phòng thị trường với nhiệm vụ chuyên thu thập và xử lý thông tin về thị trường, dự đoán biến động thị trường và ra các quyết định chính xác.
Công ty cần bố trí các phương tiện thông tin – liên lạc hiện đại như: điện thoại, fax hay các phương tiện lưu trữ thông tin, quản lý thông tin gọn nhẹ, nhanh chóng, chính xác. Công ty cần quan hệ chặt chẽ với cơ quan thông tin thị trường đặt các loại sách báo, tạp chí kinh tế để bổ sung thông tin cần thiết. Hàng tháng, hàng quý các nhân viên điều tra nghiên cứu thị trường phải lập được báo cáo chi tiết chính xác từng thị trường hoặc từng mảng thị trường do mình phụ trách trong đó phải nêu được những thuận lợi và khó khăn của thị trường tiêu thụ đó, để Ban giám đốc có thể căn cứ vào đó mà đề ra phương hướng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả.
Ngoài ra, thị trường tiêu thụ của công ty còn có các bạn hàng ở nước ngoài, đây là một lợi thế rất lớn vì trong điều kiện hội nhập của nước ta hiện nay sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp giao lưu buôn bán với nước ngoài. Công ty đã đi rất đúng hướng khi tìm thị trường tiêu thụ ở nước ngoài và trong những năm tiếp theo, công ty nên tiếp thăm dò, tục tìm kiếm những thị trường tiêu thụ mới trên thế giới như thị trường ở châu Á (Singapo, Brunay, ẤN Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kì...), châu Âu (Anh, Ailen, Tây Ban Nha...) Châu úc (Niuziland)... Ngoài ra, thị trường trong nước cũng phải quan tâm đến nhiều hơn nữa để sản phẩm phân bón là thành phần không thể thiếu được cho nhà nông ở trong nước
3.3.5. Áp dụng các hình thức chính sách bán hàng
Công ty thực hiện chính sách hỗ trợ vận chuyển cho khách hàng cũng là một ưu điểm và cần được tiếp tục duy trì. Thực chất của việc hỗ trợ vận chuyển cho khách hàng cũng là một hình thức giảm giá. Nhưng với số lượng xe hiện có, công ty không thể khai thác được hết lợi ích của chính sách này. Vào thời điểm có nhiều khách hàng đề nghị giao hàng cùng một lúc công ty không thể chủ động việc bố trí phương tiện vận chuyển cho khách hàng.
Để làm tốt công tác vận chuyển cho khách hàng, nâng cao hiệu quả công tác bán hàng thì công ty cần phải:
+ Trước mắt, trong điều kiện còn tập trung tiền vốn để đổi mới dây chuyền sản xuất, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm như hiện nay thì công ty có thể đảm bảo số phương tiện vận chuyển bằng cách thuê tài chính để đầu tư mua thêm phương tiện vận chuyển hoặc ký kết hợp đồng thuê dài hạn với các công ty vận tải.
+ Về lâu dài, công ty cần xem xét trích ra một khoản từ lợi nhuận thu được trong năm để đầu tư thêm một số xe vận tải để đáp ứng nhu cầu, làm tốt hơn công tác vận chuyển hàng hóa cho khách hàng (tỉ lệ có thể là 30% lợi nhuận đạt được)
3.3.6. Đa dạng hóa hình thức quảng cáo
Quảng cáo là biện pháp hữu hiệu để cung cấp cho người tiêu dùng hệ thống thông tin về sản phẩm, làm cho họ hiểu biết về sản phẩm của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường với sự phát triển mạnh mẽ của các chủng loại hàng hóa, nạn làm hàng nhái, hàng giả tràn lan thì quảng cáo rất cần thiết để doanh nghiệp khẳng định nhãn mác và chất lượng sản phẩm của mình.
Thực tế ở công ty phân lân nung chảy Văn Điển cho thấy các chiến dịch quảng cáo còn ít và đơn điệu. Công ty chỉ tiến hành quảng cáo giới thiệu sản phẩm thông qua một số trang báo và Catalo qua các hội chợ. Khi quảng cáo trên truyền hình, công ty chỉ quảng cáo với số lượng ít trên đài truyền hình Hà Nội, VTC1, có các bài giới thiệu về công ty và sản phẩm của mình của ban lãnh đạo trong các hội nghị của các doanh nghiệp thành đạt thành phố Hà Nội, miền Bắc và cả nước, đó cũng một phần là do nguồn kinh phí của công ty còn hạn hẹp và công ty chưa đề cao tầm quan trọng của quảng cáo. Có rất nhiều khách hàng không hiểu rõ được công ty sản xuất kinh doanh những mặt hàng gì và hình dáng, mẫu mã sản phẩm ra sao, làm thế nào để liên lạc được với công ty khi cần mua hàng.
Để góp phần đẩy mạnh tiêu thụ thì công ty cần có sự đầu tư thích đáng cho công tác quảng cáo. Công ty có thể quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình nhiều hơn nữa trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài, vô tuyến (VTV1, VTV3...) và có thể thuê địa điểm để treo các áp phích quảng cáo, ví dụ trên các cổng làng, nhà văn hóa xã.. Các hình thức này vừa không đòi hỏi chi phí lớn vừa thực hiện được mục đích quảng cáo
Trong thời buổi hiện nay quảng cáo cũng chính là một chiến lược kinh doanh hầu hết các doanh nghiệp dùng các hình thức quảng cáo độc đáo, hiệu quả để cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các doanh nghiệp khác. Sản phẩm của công ty dù chất lượng có tốt đến mấy, kiểu dáng, mẫu mã đẹp nhưng công ty không có cách đưa những thông tin đó tới cho khách hàng thì chắc chắn khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm của các doanh nghiệp có những thông tin cụ thể mà họ biết bởi không một ai lại lựa chọn và mua mặt hàng mà mình không nắm bắt được một chút thông tin gì về nó cả. Tuy nhiên quảng cáo cũng có tính hai mặt của nó công ty cần quảng cáo một cách trung thực, đầy đủ những thông tin cần thiết về sản phẩm chứ không nên khuyếch đại quá mức tính năng, công dụng cũng như chất lượng của sản phẩm để gây dựng được lòng tin và uy tín đối với khách hàng để từ đó gần gũi và trở thành nhà cung cấp số 1 cho khách hàng, từ đó công ty sẽ cố gắng vươn lên để chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm./.
KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau cùng tồn, cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật. Các daonh nghiệp không những có nhiệm vụ sản xuất tạo ra các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà phải tổ chức tiêu thụ các sản phẩm đó. Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng kết thúc một chu kì sản xuất kinh doanh và cũng là khâu quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để thực hiện tốt công tác tiêu thụ trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, vấn đề đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp là phải có phương hướng biện pháp đúng đắn, kịp thời để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Vận dụng những kiến thức đã học tại Học viện Tài chính, em đã trình bày những vấn đề lí luận chung về công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất theo quan điểm của tài chính doanh nghiệp. Thông qua tìm hiểu, phân tích đánh giá thực tiêu thụ sản phẩm của công ty phân lân nung chảy Văn Điển một số năm vừa qua, em đã mạnh dạn đề xuất một số ý kiến về phương hướng, biện pháp để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm ở công ty.
Mặc dù kiến thức còn hạn chế, thời gian nghiên cứu có hạn nhưng em hy vọng sự đóng góp nhỏ bé này sẽ giúp ích phần nào cho công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty có chuyển biến tốt hơn. Em hy vọng rằng năm 2008 và những năm tới hoạt động kinh doanh của công ty nói chung và công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty nói riêng sẽ đạt được những kết quả tốt đẹp.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn cô giáo đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo, cảm ơn các thầy cố giáo đã truyền đạt cho em những kiến thức cần thiết, xin cảm ơn ban lãnh đạo công ty phân lân nung chảy Văn Điển cùng các cô chú phòng tài vụ và phòng kinh doanh đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình: “Quản trị tài chính doanh nghiệp” – Học viện Tài chính – Nhà xuất bản Tài chính năm 2001
Giáo trình “Kế toán tài chính” – Học viện Tài chính – Nhà xuất bản Tài chính năm 2006.
“Quản trị tài chính doanh nghiệp”. Tiến sĩ: Nguyễn Minh Kiều – Nhà xuất bản thống kê năm 2006
Giáo trình “Marketing” – Học viện tài chính - Nhà xuất bản Tài chính năm 2000.
Giáo trình “Kinh tế chính trị” – Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2000.
“Quản lí trị bán hàng” - Tác giả: James M.Comer – Nhà xuất bản thống kê năm 1995.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả tiêu thụ nêu trong chuyên đề là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập.
Hà Nội, tháng 4 năm 2008
Tác giả chuyên đề
Trần Thị Thanh Hải
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Họ và tên người nhận xét:
Chức vụ:
Nhận xét chuyên đề thực tập
Sinh viên: Trần Thị Thanh Hải
Lớp: 11.08 Khóa: K42
Đề tài: Các giải pháp tài chính để đẩy mạnh công tác tiêu thụ và tăng doanh thu tại công ty Phân Lân Nung chảy Văn Điển.
Người nhận xét
(ký tên, đóng dấu)
NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
Họ và tên người hướng dẫn khoa học: Phạm Thị Thanh Hoa
Nhận xét chuyên đề thực tập
Sinh viên: Trần Thị Thanh Hải
Lớp: 11/08 Khóa: K42
Tên đề tài:
Các giải pháp tài chính để đẩy mạnh công tác tiêu thụ và tăng doanh thu
tại công ty Phân lân Nung chảy Văn Điển.
Điểm: - Bằng số: Người nhận xét
- Bằng chữ:
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TC1.docx