Lĩnh vực xây dựng là một lĩnh vực quan trọng,liên quan đến hầu hết các ngành kĩ thuật khác. Vì vậy việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư xây dựng nói chung và về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng nói riêng là hết sức cần thiết, nó tạo ra hành lang pháp lý khách quan cho hoạt động đầu tư xây dựng. Với đặc điểm nền kinh tế nước ta hiện nay đang phát triển mạnh mẽ, tuy vậy chúng ta vẫn còn là một nước đang phát triển, nền kinh tế và quản lý còn yếu kém thì việc ban hành các văn bản quy pham pháp luật có hiệu lực cao, phù hợp với thực tiễn là hết sức cần thiết. Sự chặt chẽ, an toàn sẽ giúp các nhà đầu tư yên tâm đầu tư vào Việt Nam, đồng thời cũng nâng cao sự cạnh tranh của các công ty xây dựng trong nước.
93 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1871 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Chế độ hợp đồng giao nhận thầu xây dựng và thực tiễn áp dụng tại công ty Cổ phần kĩ thuật nền móng và công trình ngầm FECON, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng ông Phạm Việt Khoa còn có thể uỷ quỳên cho những người khác thay mình kí kết hợp đồng, cụ thể có một số hợp đồng của công ty do ông Nguyễn Chí Công- giám đốc phụ trách kinh doanh kĩ thuật và ông Phạm Quốc Hùng- trưởng phòng kĩ thuật thay mặt Tổng giám đốc kí kết. Khi uỷ quỳên, Tổng giám đốc phải có văn bản uỷ quỳên có ghi rõ họ tên, nơi làm việc, chức vụ, số chứng minh thư của người được uỷ quyền, nội dung và phạm vi uỷ quyền, thời hạn uỷ quyền…Người được uỷ quyền chỉ được kí hợp đồng trong phạm vi được uỷ quyền và không được uỷ quyền lại cho người khác.
Bên cạnh việc thực hiện đúng quy định về chủ thể kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng từ công ty FECON, việc chấp hành theo đúng quy định pháp luật vè chủ thể của hợp đồng từ phía đối tác cũng là vấn đề quyết định đến giá trị của hợp đồng. Cũng với yêu cầu chung, người đại diện kí hợp đồng từ phía đối tác cũng phải là người đại diện theo pháp luật của công ty, hoặc là ngừơi được uỷ quyền hợp pháp. Theo như nghiên cứu thì tất cả các đối tác của công ty FECON đều cử người kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng một cách hợp lệ.
Nhìn chung,công ty FECON và đối tác đã thực hiện quy định của Pháp luật về chủ thể tham gia kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, điều này giúp quá trình kí kết hợp đồng diễn ra một cách đúng luật và thuận lợi cho quá trình thi công sau này.
2.3. Căn cứ kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng tại công ty FECON
Trong quá trình kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, căn cứ pháp lý được sử dụng để kí hợp đồng là:
Luật xây dựng 2003
Pháp lệnh Hợp đông kinh tế 1989
Nghị định số 16/2005/NĐ-CP(7/2/2005) của Chính phủ về Quản lý dự án đầu tư và xây dựng công trình.
Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP(1/9/1999)
Nghị định 209/2004/NĐ-CP( 16/12/20004) của Chính phủ về quản lý chất lượng công trình
Thông tư 02/2005/TT-BXD( 25/12/2005) của bộ xây dựng về hướng dẫn hợp đồng trong xây dựng.
Ngoài ra còn một số căn cứ khác tuỳ thuộc vào từng loại hợp đồng, từng đối tác của công ty, từng dự án.
Có thể thấy trong thời điểm lập hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, công ty đã đưa vào căn cứ của hợp đồng những văn bản quy phạm pháp luật mới nhất, cập nhật nhất trong thời điểm đó. Tuy nhiên, pháp lênh Hợp đồng kinh tế là một văn bản khá cũ, hầu như không được sử dụng nữa, chỉ một số trường hợp rất hiếm hoi mới sử dụng đến một số quy định trong đó vào thời điểm năm 2005, nhưng hầu hết các hợp đồng, công ty vẫn đưa văn bản đó vào như một căn cứ để kí kết hợp đồng. Các văn bản có quy định về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng là: luật dân sự, luật thương mại, luật xây dựng, luật đấu thầu, Nghị định số 16/2005/NĐ-CP(7/2/2005) của Chính phủ về Quản lý dự án đầu tư và xây dựng công trình, Thông tư 02/2005/TT-BXD( 25/12/2005) của bộ xây dựng về hướng dẫn hợp đồng trong xây dựng.
3. Thực hiện các nguyên tắc thực hiện hợp đồng và các cam kết thoả thuận trong hợp đồng giao nhận thầu xây dựng của công ty FECON
3.1. Thực hiện các nguyên tắc thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng
Sau khi hợp đồng giao nhận thầu xây dựng được kí kết, các bên tham gia kí kết bị ràng buộc bởi những điều khoản ghi rõ trong hợp đồng, và bị ràng buộc bởi những quy định của pháp luật. Các bên phải tự chịu trách nhiệm về những nghĩa vụ của mình, đồng thời cũng được hưởng những quyền lợi chính đáng được hưởng. Để hợp đồng giao nhận thầu xây dựng được thực hiện một cách hợp pháp theo quy định của Pháp luật thi các bên phải thực hiện các nguyên tắc thực hiện hợp đồng. FECON đã thực hiện một cách đầy đủ các nguyên tắc đó, đó là những nguyên tắc sau:
Nguyên tắc chấp hành thực hiện: Nguyên tắc này đòi hỏi các bên thực hiện đúng điều khoản đối tượng của hợp đồng, không được thay thế đối tượng mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng bằng một đối tượng khác. FECON đã thực hiện rất đúng đắn nguyên tắc này. Công ty đã thoả thuận cái gì thì thực hiện cái đó, đúng số lượng, chủng loại, vật liệu.
Nguyên tắc chấp hành đúng: ý nghĩa của nguyên tắc này là các bên phải thực hiện hợp đồng một cách đầy đủ, chính xác các thoả thuận trong hợp đồng. Nếu vi phạm bất kì cam kết nào trong hợp đồng đều phải chịu trách nhiệm vật chất cho hành vi đó. Cũng chấp hành đúng nguyên tắc này, công ty và đối tác luôn thực hiện đúng đắn các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng.
Nguyên tắc hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng: nguyên tắc này đòi hỏi các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng phải có trách nhiệm hợp tác chặt chẽ, thường xuyên theo dõi lẫn nhau để giúp đỡ lẫn nhau để khắc phục khó khăn nhằm thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đã cam kết. Thực tiễn cho thấy công ty FECON luôn chấp hành đúng đắn nguyên tắc này. Công ty đã thực hiện công trình theo đúng đồ án thiết kế cả về kĩ thuật và mỹ thuật công trình, bàn giao cho bên giao thầu toàn bộ công trình sau khi đã xây lắp hoàn chỉnh theo thiết kế kĩ thuật đã được duyệt và nghiệm thu đạt yêu cầu về chất lượng theo đúng thời hạn như thoả thuận. Điều này giúp cho quá trình thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng của công ty được thuận lợi và làm tăng uy tín của công ty trên thị trường.
3.2. Thực hiện các cam kết thoả thuận trong hợp đồng
Trong quá trình thực hiện, công ty FECON luôn tuân thủ các cam kết trong hợp đồng. Công ty luôn nỗ lực thực hiện tốt trách nhiệm của mình, tránh những rủi ro có thể xảy ra. Một mặt công ty thực hiện tốt công tác hợp đồng giao nhận thầu xây dựng từ khâu chuẩn bị đến khâu kí kết, bên cạnh đó,công ty còn thực hiện tốt các cam kết trong hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Công ty tiến hành thi công và bàn giao công trình đúng theo yêu cầu về thời gian thực hiện, hoàn thành. Trong hợp đồng giao nhận thầu xây dựng công ty thường có các nghĩa vụ sau:
Bố trí đủ đủ nhân lực, vật tư, thiết bị, máy móc phục vụ thi công để đảm bảo tiến độ thi công.
Thi công các công trình theo đúng quy trình được duyệt. Bao gồm: thi công cọc khoan nhồi, khoan khảo sát địa chất, xử lý nền đât yếu…
Chịu trách nhiệm về chất lượng các công trình do công ty thực hiện.
Chịu trách nhiệm bảo hành công trình sau khi đã bàn giao công trình theo đúng quy cách đã thoả thuận.
Công ty phải tuân thủ các trình tự thi công, di chuyển thiết bị, vật tư trong phạm vi thi công cuả toàn bộ công trường.
Tổ chức an ninh và bảo vệ khu vực mà Công ty thi công, tự bảo quản thiết bị của mình và vật liệu thiết bị bên A giao cho, nếu hư hỏng phải đền bù theo giá hiện hành.
Chịu trách nhiệm an toàn về con người, máy móc thiết bị phục vụ thi công. Đảm bảo vệ sinh môi trường và cảnh quan chung trong khu vực thi công, toàn bộ vật liệu thải phải được đổ tại vị trí quy định được bên A và chủ công trình chấp thuận.
Thực hiện đầy đủ các thủ tục thi công, nghiệm thu thanh toán, hoàn thành thi công, mở sổ nhật kí để ghi chép quá trình thi công theo đúng quy định của Pháp luật.
Công ty phải mua bảo hiểm cho toàn bộ thiết bị thi công, nhân viên, các phương tiện vận tải.
Công ty không được phép chuyển nhượng hoặc cho thầu lại khối lượng công việc đã nhận của bên A khi chưa có sự chấp thuận của bên A bằng văn bản và sự chấp thuận đó nếu có sẽ không làm giảm cho công ty bất kì trách nhiệm hay nghĩa vụ nào đó theo hợp đồng.
Với việc hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ của mình, cũng như hoàn thành tốt các thoả thuận trong hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, công ty FECON luôn tạo được uy tín và niềm tin đối với các nhà thầu chính.
4. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng giao nhận thầu xây dựng và các biện pháp giải quyết tranh chấp.
4.1. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng giao nhận thầu xây dựng
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng giao nhận thầu xây dựng là một điều khoản quan trọng trong các hợp đồng được kí kết giữa công ty và đối tác. Trong quá trình kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng công ty và đối tác cùng đàm phán mức mức vi phạm hợp đồng. Khi có vi phạm hợp đồng sẽ phải chịu chịu phạt vi phạm hợp đồng. Điều khoản này được ghi rõ trong hợp đồng giao nhận thầu xây dựng và phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên trong các hợp đồng giao nhận thầu xây dựng giữa công ty và đối tác, điều khoản về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng giao nhận thầu xây dựng nhìn chung theo đúng quy định trong thông tư 02//2005/TT-BXD(25/2/2005) hướng dẫn hợp đồng trong hoạt động xây dựng.
Thưởng vi phạm hợp đồng: Nếu bên B hoàn thành các nội dung công việc của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng theo đúng tiến độ, đúng chất lượng thi bên A sẽ thưởng cho bên B với không qúa 12% giá trị hợp đồng.
Phạt vi phạm hợp đồng: Các bên quy định rõ về mức phạt do các nguyên nhân khác nhau như: vi phạm về chất lượng, vi phạm về thời hạn, không hoàn thành đủ khối lượng, số lượng sản phẩm. Tuy nhiên tổng mức phạt của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng không vượt qúa 12% giá trị hợp đồng bị vi phạm.
Tuy nhiên, trong hầu hết các hợp đồng của công ty, điều khoản về thưởng phạt vi phạm hợp đồng thường được dẫn chiếu đến điều khoản về thưởng phạt vi phạm hợp đồng trong TT 02. Các quy định thường được ghi chung chung như: Bên B vi phạm do chậm tiến độ đã thoả thuận và không hoàn thành đủ số lượng hoặc chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu quy định trong hợp đồng giao nhận thầu xây dựng thì bên B phải làm lại cho đủ và đúng chất lượng. Bên B sẽ chịu phạt theo đúng quy định tại thông tư 02/2005/TT-BXD(25/2/2005).
Một số hợp đồng giao nhận thầu xây dựng của công ty với đối tác không có điều khoản này.
4.2. Các biện pháp giải quyết tranh chấp
Các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng là các tranh chấp phát sinh khi các bên không chấp hành đúng về các điều khoản mà hai bên đã thoả thuận. Nhìn chung trong quá trình hoạt động của mình, công ty FECON thường cố gắng để không xảy ra tranh chấp bằng cách thực hiện công việc đúng về số lượng, chất lượng, thời hạn ….Khi có xảy ra tranh chấp,công ty cũng thường có các biện pháp sau:
Cùng nhau tiến hành thương lượng trên tinh thần hợp tác, hai bên cùng có lợi, tiến tới thống nhất biện pháp giải quyết thoả đáng nhất.
Nếu thương lượng không được thì vụ việc sẽ được giả quyết theo thủ tục tố tụng trọng tài hoặc toà án. Việc chọn một trong hai trường hợp giải quyết bằng toà án hay trọng tài là do hai bên tự thoả thuận sau.
Tuy nhiên, trong xu hướng hiện nay, công ty và đối tác thường tìm những biện pháp giải quyết tranh chấp một cách nhẹ nhàng, nhanh chóng, không sử dụng các biện pháp tài phán để xử lý tranh chấp. Một trong những tranh chấp chủ yếu giữa công ty với đối tác là công ty không được thanh toán đúng với thời hạn quy định trong hợp đồng. Tuy nhiên, công ty cũng giải quyết tranh chấp bằng cách thương lượng, nếu không hiệu quả công ty có thể thuê các công ty đòi nợ thuê để thu hồi những khoản nợ khó đòi, việc nhờ đến toà án hay trọng tài là rất ít, và trong qúa trình hoạt động của mình, công ty chưa từng đưa vụ tranh chấp nào ra trước toà án hay trọng tài.
5.Thanh lý hợp đồng.
Thanh lý hợp đồng giao nhận thầu xây dựng là thủ tục cuối cùng để các bên chấm dứt quan hệ hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Theo quy định của Pháp luật, hợp đồng giao nhận thầu xây dựng của công ty FECON được thanh lý trong các trường hợp sau:
Hợp đồng giao nhận thầu xây dựng đã được thực hiện xong
Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng đã hết mà không có thoả thuận kéo dài thời hạn đó
Hợp đồng giao nhận thầu xây dựng bị đình chỉ hoặc huỷ bỏ
Trong trường hợp chuyển giao hợp đồng, nêu có yêu cầu thì hợp đồng giao nhận thầu xây dựng cũng phải được thanh lý.
Khi một bên kí hợp đồng giao nhận thầu xây dựng là pháp nhân giải thể thì hợp đồng giao nhận thầu xây dựng cũng phải được thanh lý.
Các trường hợp thanh lý hợp đồng giao nhận thầu xây dựng của công ty đều là do hợp đồng đã được thực hiện xong. Khi thanh lý hợp đồng giao nhận thầu xây dựng , công ty và đối tác cùng tiến hành lập biên bản thanh lý hợp đồng. Trong biên bản ghi rõ mức độ thực hiện nội dung công việc đã thoả thuận trong hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, công ty FECON đã thực hiện đầy đủ số lượng, khối lượng, chất lượng công việc hay chưa, công ty đối tác đã thanh toán số tiền ứng trước hay chưa. Từ những nhận xét đó, hai bên mới tiếp tục đưa ra nghĩa vụ của mỗi bên sau khi thanh lý hợp đồng giao nhận thầu xây dựng.
Từ khi kí biên bản thanh lý hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, quan hệ hợp đồng giao nhận thầu xây dựng được coi như chấm dứt. Riêng những quyền và nghĩa vụ thanh toán nốt số tiền còn lại của bên A là vẫn còn hiệu lực.
Chương III. Một số đánh giá, kiến nghị về việc kí kết và thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng của công ty Cổ phần kĩ thuật nền móng và công trình ngầm FECON
I.Một số đánh giá về cơ sở pháp lý để kí kết và thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng.
1.Một số đánh giá đối với các quy định pháp luật do Nhà nứơc ban hành liên quan đến hoạt động giao nhận thầu xây dựng
Trước khi có luật Xây dựng 2003 ra đời, tiếp theo đó là hàng loạt những văn bản có giá trị khác quy định về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng như Nghị định số 16/2005/NĐ-CP(7/2/2005) của Chính phủ về Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, Thông tư 02/2005/TT-BXD(25/2/2005) hướng dẫn hợp đồng trong hoạt động xây dựng thì việc kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng chủ yếu dựa vào Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và những văn bản cũ về lĩnh vực đầu tư xây dựng như Nghị định số 88/NĐ-CP(1/9/1999) ban hành về quy chế đấu thầu. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế là một văn bản ra đời khá lâu( năm 1989), nó được sử dụng trong một thời gian khá dài như một kim chỉ nam cho các doanh nhân hay những nhà đầu tư khi kí kết hợp đồng kinh tế. Cũng nằm trong quy chế chung đó, hợp đồng giao nhận thầu xây dựng không thể tách khỏi Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và nó được tuân thủ theo các quy đinh trọng Pháp lệnh.
Mặc dù được sử dụng khá lâu như vậy, nhưng không phải Pháp lệnh Hợp đông kinh tế không có nhược điểm, trái lại, nó có rất nhiều bất cập khi nước ta bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn của hội nhập. Cũng phải kể đến sự không thống nhất giữa các văn bản quy định về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng với nhau, điều đó đã tạo tâm lý không tốt cho những chủ đầu tư muốn đàu tư vào lĩnh vực xây dựng trên đất nước ta. Có thể kể ra đây một số những bất cập gặp phải khi thực thi Pháp lệnh hợp đông kinh tế cùng với những văn bản về lĩnh vực xây dựng như sau:
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng được quy định trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế so với chủ thể theo quy chế đấu thầu. Theo quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì chủ thể của hợp đồng có thể là pháp nhân với pháp nhân hoặc pháp nhân với cá nhân có đăng kí kinh doanh theo quy định của Pháp luật. Tuy nhiên, theo quy định của quy chế đấu thầu thì hợp đồng giao nhận thầu xây dựng chỉ được kí kết giữa các pháp nhân với nhau, đó là Bên mời thầu và bên trúng thầu. Vì vậy vấn đề đặt ra là khi hợp đồng được kí kết giữa pháp nhân với cá nhân có đăng kí kinh doanh thì có được coi là chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng hay không. Nếu áp dụng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì nó đương nhiên là chủ thể, còn nếu áp dụng quy chế đấu thầu thì nó không thể là một chủ thể. Có thể nói việc bắt buộc phải áp dụng một trong hai văn bản này là rất khó. Nếu áp dụng theo quy chế đấu thầu thì liệu việc hợp đồng được kí kết giữa hai cá nhân có đăng kí kinh doanh xây dựng, có thể hai cá nhân đó là hai doanh nghiêp tư nhân kí kết hợp đồng nhằm mục đích kinh doanh cũng không được pháp luật chấp nhận, vì không có một bên là pháp nhân. Còn nếu theo Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì hai cá nhân có đăng kí kinh doanh là có thể kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng với nhau. Trong điều kiện kinh tế nước ta lúc đó thì việc quy định việc kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng phải được tiến hành giữa hai pháp nhân là rất đúng đắn, vì trong thời điểm bấy giờ, chỉ có những pháp nhân mới có đủ năng lực tham gia vào lĩnh vực đầu tư xây dựng, điều đó cũng đảm bảo việc đầu tư xây dựng diễn ra một cách có chất lượng cao đạt yêu cầu.
Bước sang tiến trình hội nhập, để có thể tham gia vào sân chơi chung của WTO, Việt Nam ta buộc phải thay đổi những quy định cũ lạc hậu, không còn phù hợp với thế giới, để thay vào đó là những văn bản pháp luật khác phù hợp hơn với tình hình hiện tại. Một loạt những văn bản quy phạm pháp luật mới ra đời thay thế cho những văn bản khác, trong đó vấn đề về lĩnh vực đầu tư cũng được ưu tiên đổi mới. Những văn bản quy định về hợp đồng cũng được sửa đổi một cách rõ ràng mang lại sự thuận lợi khi áp dụng pháp luật. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế được thay thế bằng những văn bản quy định về hợp đồng như: Luật dân sự 2005, Luật thương mại 2005. Riêng về lĩnh vực xây dựng, các văn bản quy phạm pháp luật cũng đề cập một cách rõ ràng về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng.
Ngay trong Điều 4-Luật thương mại 2005 quy định về việc áp dụng Luật thương mại và pháp luật có liên quan có đề cập rõ:
- Hoạt động thương mại phải tuân theo luật thương mại và pháp luật có liên quan. Trong đó, theo Đ3-Luật Thương mại 2005 cũng ghi rõ: hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Như vậy hoạt động đầu tư cũng là một trong những hoạt động thuộc sự điều chỉnh của Luật thương mại. Tuy nhiên, tiếp theo Điều 4, luật thương mại có noi:
- Hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó.
- Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật thương mại và các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự.
Như vậy, hoạt động đầu tư xây dựng trước hết phải tuân thủ các quy định trong các văn bản quy định về đầu tư xây dựng. Sự rõ ràng trong dẫn chiếu luật như vậy giúp người thi hành và thực hiện pháp luật dễ dàng hơn trong nhận thức và xử lý. Trong thông tư 02/2005(25/2/2005) hướng dẫn hợp đồng trong hoạt động xây dựng, phần quy định về đối tượng áp dụng ghi rõ: thông tư này áp dụng đối với Bên giao thầu, bên nhận thầu là tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có đủ điều kiện năng lực hoạt động, năng lực ngành nghề khi tham gia kí kết hợp đồng xây dựng tại Việt nam. Phần quy định về chủ thể trong thông tư này phù hợp với quy định về chủ thể trong Luật thương mại 2005, bao gồm: Thương nhân hoạt động thương mại theo quy định; tổ chức, các nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại. Những bất cập trong những văn bản cũ đã được điều chỉnh, như vậy những cá nhân có đủ điều kiện cũng có cơ hội tham gia kí kết những hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, điều này tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp.
Thứ hai, về trách nhiệm vật chất khi vi pham hợp đồng giao nhận thầu xây dựng.
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ hợp đồng là rất phổ biến và là căn cứ pháp lý làm phát sinh nhiều tranh chấp trong quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng. Chính vì vậy, các chế định về giải quyết tranh chấp là một phần không thể thiếu trong các văn bản quy định về hợp đồng. Những tranh chấp thường xảy ra khi một trong hai bên không thực hiện đúng theo hợp đồng, hoặc không thực hiện hợp đồng. Để đảm bảo sự ổn định của nền kinh tế quốc dân, đảm bảo sự an toàn công bằng cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng thì đòi hỏi các văn bản có liên quan phải quy định một cách chặt chẽ, rõ ràng về trách nhiệm vật chất khi vi phạm quan hệ hợp đồng.
Đầu tư xây dựng là một lĩnh vực không giống như những lĩnh vực thương mại thông thường. Nó có những đặc thù riêng về cách tham gia kí kết, chủ thể tham gia kí kết, cách thực hiện công việc trong hợp đồng, chính vì vậy nó cũng đòi hỏi những quy định riêng về trách nhiệm vật chất khi vi pham hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế tuy đã chú trọng đến vấn đề này nhưng ở đó vẫn có một vài bất cập. Trong thời gian mà pháp luật về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng còn chưa được ban hành, người ta vẫn áp dụng những quy định tương tự về về trách nhiệm vật chất khi vi phạm hợp đồng giao nhận thầu xây dựng như đối với những loại hợp đồng khác. Cách quy định này không hợp lý, xuất phát từ đặc điểm trong ngành xây dựng. Trong ngành xây dựng, người ta có thể giao toàn bộ hoặc một phần dự án hoàn thành mà không ảnh hưởng toàn bộ đến chủ dự án, chính vì vậy việc áp dụng việc phạt vi phạm hợp đồng theo như Pháp lệnh hợp đồng kinh tế là không phù hợp lắm. Theo như Pháp lệnh thì không quy định về hành vi không thực hiện một phần hợp đồng mà chỉ quy định về hành vi không thực hiện toàn bộ hợp đồng. Như vậy sẽ rất bất lợi đối với những nhà trúng thầu khi vì một lý do nào đó ho không thể thực hiện toàn bộ công trình nhưng vẫn bị phạt với mức chưa hoàn thành toàn bộ công trình.
Để khắc phục tình trạng nhà trúng thầu phải chịu phạt với mức cao hơn mức đáng bị phạt thì TT 02/2005(25/2/2005) quy định về hợp đồng trong hoạt động xây dựng đã điều chỉnh những nhược điểm của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế bằng cách quy định rõ mức phạt cho phần hợp đồng bị vi phạm. Theo đó, các bên có thể thoả thuận rõ mức phạt cho phần hợp đồng bị vi phạm, nhưng không quá 12%. Quy định đó mang lại công bằng cho các nhà trúng thầu, vì theo quy định của Pháp luật thì họ chỉ phải trả tiền phạt cho phần hợp đồng họ vi pham thay cho giá trị cả hợp đồng như quy định trước kia.
Mặt khác, theo Điều 29.2 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định thì: bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm tiền phạt vi phạm hợp đồng và trong trường hợp có thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại. Như vậy theo quy định cũ thì một hành vi vi phạm hợp đồng giao nhận thầu xây dựng phải liền một lúc chịu đến hai hình thức chế tài là: phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Nguyên tắc của bồi thường thiệt hại là thiệt hại bao nhiêu bồi thường bấy nhiêu. Phạt vi phạm hợp đồng đã là một hình thức để bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm, vì vậy nếu bên bị vi pham không yêu cầu mà pháp luật đòi hỏi bên vi phạm phải chấp hành cả hai hình thức chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại là rất không nên. Trong khi đó, luật thương mại 1997 lại quy định một cách trái ngược là: chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại không được cùng một lúc áp dụng. Có thể nói hai văn bản với hai quy định trái ngược như vậy khiến cho cả người áp dụng pháp luật và người thực thi pháp luật đều khó áp dụng. Điều đó cũng khiến cho người tìm hiểu pháp luật có sự suy ngẫm sự hợp lý giữa hai văn bản. Một văn bản có lợi cho Bên giao thầu, một văn bản có lợi cho bên nhận thầu, từ đó có thể dẫn đến áp dụng pháp luật linh tinh khi quyền lợi mỗi bên bị vi phạm. Để giải quyết các khúc mắc đó, Luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 có quy định một cách khách quan và hợp lý như sau: trường hợp các bên không có thoả thuận khác thì bên vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên các bên có thoả thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại. Như vậy nếu không có thoả thuận thì sẽ không có chế tài phạt vi phạm, mà chỉ có chế tài bồi thường thiệt hại. Còn nếu hai bên thoả thuận là có phạt vi phạm thì có thể áp dụng cả hai hình thức. Như vậy pháp luật để một phần do hai bên tự quyết định, đó là sự công bằng đối với các bên, tuỳ thuộc vào sự thảo thuận và lợi thế các bên mà mỗi ben tìm cho mình một cách thực hiện tốt nhất mà vẫn đúng theo quy định của Pháp luật.
2.Một số đánh giá về hoạt động của công ty FECON
2.1. Những thuận lợi khi thực thi pháp luật về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng
Thứ nhất, về việc kí kết và công tác quản lý và thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng.
Trong thời gian hoạt động của mình, công ty đã thực hiện tốt việc kí kết và công tác quản lý thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng của công ty. Bằng việc nắm bắt tốt thị trường xây dựng đang rất nóng bỏng, công ty đã chủ động trong việc tìm những đối tác làm ăn có uy tín trên thị trường. Nắm vững quy trình tham gia đấu thầu, với sự nhạy bén trong việc tìm hiểu đối tác và đặc điểm của dự án, công ty đã đưa ra được những bản báo cáo về kĩ thuật và giá cả hợp lý cho những gói thầu, từ đó có thể nhận được nhiều công trình có chất lượng cao, quy mô tương đối lớn. Điều này cũng bắt nguồn từ việc cán bộ trong công ty đã tìm hiểu kĩ pháp luật trong ngành xây dựng, từ đó có những đấu pháp hợp lý trong quản lý.
Công ty cũng đã áp dụng hình thức giám sát, giao cho chỉ huy công trình chỉ đạo thi công để nâng cao năng suất lao động của công ty, tạo môi trường làm việc tốt, quan tâm đến việc tăng thêm thu nhập cho công nhân viên, khiến họ hăng say làm việc, nâng cao năng suất lao động, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Bên cạnh đó, hệ thống trang thiết bị phục vụ thi công của công ty ngày càng đựơc nâng cao, đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của thị trường.
Nhìn chung công ty đã có nhiều cố gắng cải tiến rõ rệt về mặt tổ chức, quản lý thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, nâng cao thu nhập cho người lao động, tạo điều kiện kí kết hợp đồng tiềp theo của công ty.
Thứ hai, về quản lý chất lượng công trình
Công ty Cổ phần Kỹ thuật Nền móng và Công trình ngầm FECON được tách ra từ Công ty kỹ thuật nền móng & xây dựng thuộc Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng (LICOGI) – Bộ Xây Dựng, được thành lập theo Luật doanh nghiệp với nguồn vốn 100% ngoài Quốc doanh huy động từ các cổ đông. Trong quá trình phát triển, Công ty đã từng bước khẳng định được thương hiệu của mình trong lĩnh vực nền móng công trình bằng chính nội lực của mình với phương châm: “Chất lượng là hàng đầu"
Một trong những yếu tố mà công ty coi trọng và đã làm nên uy tín của công ty trong lòng bạn hàng là chất lượng mỗi công trình công ty đã thực hiện. Có thể nói, chất lượng công trình là một yếu tố đặc biệt quan trọng để chủ đầu tư sử dụng để xét thầu. Vì vậy nó là một trong những điều khoản quan trọng của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng khi kí kết hợp đồng, điều khoản này cũng được quy định trong hợp đồng mẫu về xây dựng. Trong xây dưng cơ bản, rất nhiều chỉ tiêu để đánh gía chất lượng công trình vì một công trình xây dựng thường bao gồm nhiều hạng mục như: nền móng, điện nước, lắp đặt…
Nội dung của quản lý chất lượng công trình bao gồm:
- Kế hoạch hoá chất lượng công trình
- Theo dõi, kiểm tra, giám sát qúa trình thi công
- Hoàn thiện chất lượng sản phẩm
Thực tế cho thấy ở công ty FECON, việc thi công xây dựng công trình, chất lượng công trình phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: nguyên liệu, máy móc, thiết bị thi công, trình độ chuyên môn, tay nghề của công nhân, do đó, nếu quản lý lơ là thì chất lượng công trình không đựơc đảm bảo. Song song với việc đầu tư thiết bị, Công ty đã thực hiện chiến lược tuyển dụng, đào tạo đội ngũ kỹ thuật và công nhân một cách chuyên nghiệp. Hầu hết các công nghệ Công ty đang áp dụng đều được các hãng sản xuất thiết bị nổi tiếng từ nước ngoài trực tiếp chuyển giao. Đội ngũ kỹ thuật giàu năng lực và kinh nghiệm được đào tạo cập nhật và nâng cao trình độ thường xuyên ở các trung tâm đào tạo lớn của ngành xây dựng trong và ngoài nước.Công ty coi chất lượng công trình là một trong những mực tiêu hàng đầu, điều kiện dẫn đến sự tồn tại và phát triển của của công ty. Công ty đã thực hiện triệt để các quy trình, quy phạm định mức kinh tế được ban hành trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành như:
- Quyết định số 1242/1998/QĐ-BXD(25/11/1998) của Bộ xây dựng về việc ban hành định mức dự toán xây dựng cơ bản.
- Quyết định số 439/BXD-CSXD(25/09/1997) của Bộ xây dựng về việc ban hành quy chuẩn xây dựng Việt Nam.
Trong công tác nghiệm thu công trình đòi hỏi phải có sự chính xác cao, công ty thường áp dụng nghiệm thu từng phần công việc và thấy cách nghiệm thu này có hiểu quả hơn phương pháp nghiệm thu một lần thi công khi công trình hoàn thành thi công. Theo cách nghiệm từng phần công việc, Công ty sẽ tránh được tình trạng phải xử lý sai sót mà công đoạn trước chưa khắc phục hết. Cán bộ kĩ thuật và chỉ huy công trình luôn bám sát hiện trường để chỉ đạo thi công, giám sát kĩ thuật, hướng dẫn công nhân thực hiện đúng quy trình kĩ thuật. Sau mỗi giai đoạn phải có sự nghiệm thu nghiêm túc, dứt điểm. Tuỳ theo mức độ các công việc thi công mà Công ty sẽ tổ chức nghiệm thu theo các cấp khác nhau.
Sự kết hợp giữa kiến thức chuyên sâu về nền móng, tính năng động sáng tạo của kỹ sư và kinh nghiệm của đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề cùng với khả năng tiếp cận các công nghệ mới là thế mạnh giúp Công ty nhanh chóng khẳng định được vị thế của mình, thiết lập được lòng tin đối với các đối tác trong và ngoài nước. Công ty đã đầu tư thiết bị & công nghệ hiện đại để đảm nhiệm được hầu hết các công việc và kỹ thuật nền móng công trình bao gồm: khảo sát địa chất địa hình, thi công móng cọc các loại, thi công xử lý nền đất yếu bằng cọc cát & bấc thấm và thí nghiệm kiểm tra chất lượng cọc. Một trong những mặt mạnh của Công ty là công tác thí nghiệm kiểm tra chất lượng cọc khoan nhồi trong đó thí nghiệm nén tĩnh với tải trọng đến 3000 tấn, thí nghiệm siêu âm (SONIC), thí nghiệm biến dạng nhỏ (PIT) và thí nghiệm biến dạng lớn (PDA) áp dụng chuyển giao công nghệ từ Hoa Kỳ và các nước phát triển.
Chính việc luôn chú trọng đến chất lượng công trình trong thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, công ty đã thực hiện những công trình đạt yêu cầu về chất lượng, kĩ thuật, có tính thẩm mĩ, phát huy hiệu quả các công trình xây dựng. Những thành công này chứng tỏ sự cố gắng vượt bậc của công ty nhằm góp phần và khẳng định uy tín của công ty trên thị trường xây dựng. Với tiêu chí sản xuất kinh doanh “Chuyên nghiệp – uy tín – chất lượng", Công ty mong muốn được hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước trong lĩnh vực xây dựng để khẳng định đẳng cấp bằng các sản phẩm và dịch vụ của mình.
Bằng nỗ lực không ngừng của mình, công ty mong muốn và hy vọng sẽ đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
2.2. Những khó khăn khi thực thi pháp luật về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng
Mặc dù trong công tác thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, Công ty đã có nhiều cố gắng và đạt được những thành tích đáng kể. Tuy nhiên công ty vẫn còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu, xem xét lại, khắc phục để nâng cao hiệu quả của công tác kí kết và thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Những hạn chế mà công ty gặp phải là:
Thứ nhất: Đối với cơ sở pháp lý để kí kết hợp đồng, mặc dù Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã hết tác dụng, nhưng trong qúa trình kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, công ty vẫn đưa Pháp lệnh đó vào danh sách những văn bản có gía trị pháp lý để làm cơ sở. Điều này thể hiện sự không chú ý đến sự phát triển của chế độ hợp đồng thương mại dịch vụ của Việt Nam. Cán bộ công ty nói chung và cán bộ phụ trách thảo hợp đồng nói riễng đã không nắm bắt được sự thay đổi của hệ thống quy phạm pháp luật hoặc có nắm bắt được nhưng không thay đổi thói quen cũ. Nó có thể bắt nguồn từ sự cẩu thả khi thảo hợp đồng hoặc sự thiếu hiểu biết về pháp luật của cán bộ công ty. Công ty cần chú ý đến vấn đề này vì trong giai đoạn mà sự cạnh tranh rất khốc liệt như hiện nay, sự đúng đắn trog áp dụng pháp luật là cơ sở mang lại sự chiến thắng cho mỗi doanh nghiệp, đảm bảo sự chặt chẽ trong kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng.
Thứ hai: Một trong những hạn chế của công ty trong quá trình kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, đó là mẫu hợp đồng của công ty với đối tác rất sơ sài. Những mẫu hợp đồng do công ty kí kết nhìn chung chỉ có những điều khoản được quy định trong luật, kể cả khi các điều khoản đó ghi rất chung chung, để các bên có thể bổ sung cho phù hợp với hoàn cảnh riêng của từng thời kì, từng hoàn cảnh. Tuy nhiên, khi công ty thảo hợp đồng thường ghi rất chung chung. Một số hợp đồng giao nhận thầu xây dựng được kí kết của công ty chỉ có vài điều khoản như:
+ Nội dung công việc
+ Khối lượng công việc
+ Thời gian tiến hành
+ Điều khoản thanh toán
+ Trách nhiệm mỗi bên
+ Cam kết chung
Bên cạnh những hợp đồng giao nhận thầu xây dựng rất sơ sài, công ty cũng kí kết một số hợp đồng có bổ sung đầy đủ các điều khoản theo hướng dẫn tại Thông tư 02/2005(25/2/2005) của Bộ xây dựng về hợp đồng trong lĩnh vực xây dựng, đó là những điều khoản như:
+ Tranh chấp và giải quyết tranh chấp
+Trường hợp bất khả kháng
+ Điều khoản tạm dừng huỷ bỏ hợp đồng
+ Phạt vi phạm hợp đồng
+Ngôn ngữ sử dụng
Tuy rằng các điều khoản đã được bổ sung đầy đủ nhưng nội dung của các điều khoản cũng không hề được thể hiện một cách chi tiết. Ví dụ như trong điều khoản Tranh chấp và giải quyết tranh chấp, hợp đồng giao nhận thầu xây dựng giữa công ty và đối tác chỉ ghi:
+ Trong trường hợp có vướng mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng các bên nỗ lực chủ động bàn bạc để tháo gỡ và thương lượng giải quyết.
+ Trong trường hợp không đạt được thoả thuận giữa các bên, việc giải quyết thông qua hoà giải hoặc toà án kinh tế giải quyết theo quy định của Pháp luật.
Điều khoản này không nói rõ khi có vi phạm thì các bên sẽ áp dụng hình thức nào để giải quyết tranh chấp mà chỉ ghi chung chung để các bên có thể lựa chọn sau. Quả thực những điều khoản này không mang tính sáng tạo mà chỉ mang tính rập khuôn, hình thức. Cán bộ làm hợp đồng trong công ty không nghiên cứu kĩ đặc thù của từng loại hợp đồng từng loại dự án, hoàn cảnh có thể xảy ra để có thể có những điều kiện cho phù hợp mà đưa nguyên xi mẫu hợp đồng được quy định trong pháp luật. KH
Không chỉ có điều khoản giải quýểt tranh chấp mà còn những điều khoản khác cũng rập khuôn như mẫu hợp đồng. Như trường hợp bất khả kháng, tạm dừng huỷ bỏ hợp đồng, phạt vi phạm hợp đồng. Điều này thể hiện sự không nghiên cứu chú trọng trong khâu thảo hợp đồng của cán bộ trong công ty. Đó là một hạn chế đối với công ty trong quá trình kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng.
Thứ ba: Công ty chủ yếu tham gia kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng đối với các nhà thầu chính, công ty đa phần chỉ nhận thầu phụ, cho nên công ty chủ yếu mới lấy được uy tín đối với các nhà thầu chính mà chưa tạo được vị thế cũng như tên tuổi của mình trong lĩnh vực đấu thầu. Vì vậy khả năng công ty tham gia đấu thầu là ít và khả năng trúng thầu thấp. Sự cạnh tranh trên thị trường xây dựng gay gắt làm cho thị trường của công ty có nguy cơ bị thu hẹp, ngày càng có nhiều công ty trong nước và quốc tế có khả năng cạnh tranh cao.
Thứ tư: Do năng lực tài chính còn hạn chế, trang thiết bị thi công mặc dù đã được bổ sung nhưng vẫn chưa đủ mạnh, trình độ của cán bộ quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu thầu nên công ty thường chỉ là nhà thầu phụ cho các nhà thầu lớn trong nước và nước ngoài, vì vậy công ty mất đi cơ hội có thể trúng thầu tiến hành kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng đối với chủ đầu tư. Mặt khác, mặt tài chính của công ty hoạt động chưa được hiệu quả. Trong thời gian qua, việc thu hồi công nợ của công ty còn chưa được thực hiện hiệu quả nên chưa tận thu được các công trình đã thi công và thường để ra tình trạng nợ đọng, điều này làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của công ty. Hơn nữa trong bối cảnh hiện nay, khi mà đồng vốn được quay vòng một cách chóng mặt, không phải chủ công trình nào cũng có sẵn trong tay nguồn vốn đầu tư mà phải điều động từ nhiều nguồn khác. Do đó, số lượng vốn và thời gian vay phụ thuộc vào các tổ chức tín dụng, nhiều khi muốn có ngay cũng không được.
Thứ năm: Trong công tác thi công quản lý chất lượng công trình, một số khâu trong các công trình đôi lúc còn chưa được bảo đảm. Cán bộ kĩ thuật chỉ huy công trình đội trưởng thi công nhiều khi không bám sát hiện trường nên sự sai sót trong thi công có lúc xảy ra làm tăng những chi phí không cần thiết, giảm lợi nhuận của công ty.
Thứ sáu: Việc quả lý, sử dụng và đầu tư máy móc thiết bị chưa hợp lý. Hầu hết các công trình đều do chủ đầu tư hoặc nhà thầu chính hoặc đặt mua ở các đối tác khác. Do đó, công ty không chủ động trong việc cung cấp vật tư xây dựng, làm giảm tiến độ thi công của công trình. Mặt khác việc sử dụng máy móc, thiết bị thi công hiệu quả chưa được theo yêu cầu dẫn đến chi phí sản xuất lớn là một trong những nguyên nhân chính khiến cho một số công trình bị nợ đọng kéo dài. Nếu tình trạng này không được khắc phục sẽ kéo tới tình trạng công ty làm việc không có hiệu quả.
Thứ bảy: Công ty cũng gặp một số khó khăn về vấn đề nhân lực. Mặc dù công ty đã có sự lựa chọn, tuyển dụng những cán bộ giỏi, có năng lực trình độ chuyên môn cao trực tiếp tham gia vào công tác thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, tuy nhiên, số lượng cán bộ này không nhiều, nên đôi lúc chưa đáp ứng được yêu cầu của các chủ đầu tư trong và ngoài nước khắt khe.
Thứ tám: Việc quản lý người lao động của công ty còn gặp nhiều khó khăn. Do đặc điểm sản xuất xây dựng có tính di động cao thay đổi theo thời vụ, nên lao động trong công ty cũng luôn không ổn định, phải làm việc ngoài trời và luôn thay đổi nơi làm việc. Công ty thường xuyên phải thuê thêm lao động hợp đồng vì vậy lượng lao động sử dụng hàng năm của công ty vượt quá số lượng lao động chính thức.
Với những tồn tại như trên, nhìn chung lại đã làm giảm khả năng thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng của công ty đối với đối tác. Những tồn tại trên không phải là lớn nhưng cũng sẽ khiến cho công ty giảm năng lực cạnh tranh trên thị trường, công ty cần có những biện pháp khắc phục.
II. Một số giải pháp và kiến nghị.
1.Kiến nghị đối với nhà nước.
Pháp luật là những nguyên tắc sử sự chung do Nhà nước đặt ra để quản lý đất nước. Pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc giữ gìn trật tự đất nước nói chung và trật tự trong nền kinh tế nói riêng. Hiện nay trong xu thế hội nhập vơi thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ, Nhà nước ta đã sửa đổi nhiều văn bản pháp luật nhằm hướng những văn bản đó gần với những quy định của quốc tế. Từ năm 2005, chính phủ đã ban hành một loạt những văn bản quy phạm pháp luật mới thay thế cho những văn bản cũ không còn phù hợp với những thông lệ của Quốc tế, đặc biệt là những văn bản trong lĩnh vực kinh tế. Những văn bản mới được ban hành lại như: Luật dân sự 2005, Luật doanh nghiệp 2005, Luật thương mại 2005, luật đấu thầu, nghị định 16/2005/NĐ-CP(7/2/2005) về quản lý dự án đầu tư, thông tư 02/2005/TT-BXD(25/2/2005) hướng dẫn hợp đồng trong lĩnh vực xây dựng…và còn rất nhiều văn bản hướng dẫn có giá trị khác.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mới ra đời đã bổ sung những thiếu sót của những văn bản cũ trong thời gian qua. Nó khắc phục được những nhược điểm mà những văn bản cũ mắc phải. Có thể nói những văn bản mới ban hành trong thời gian gần đây đã một bước hoàn thiện những quy định của Pháp luật về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Tuy nhiên không phải những gì đổi mới đều là toàn ưu điểm mà không có nhược điểm. Tuy có rất nhiều tiến bộ trong việc ban hành một hệ thống văn bản về hợp đồng thì cũng phải kể đến một số những khó khăn cần khắc phục khi thi hành pháp luật.
Một hệ thống văn bản chỉ phát huy được tác dụng của nó khi nó được thực hiện và chấp hành một cách đầy đủ. Hệ thống văn bản dù có hoàn thiện chặt chẽ đến mấy mà không có sự thực thi và chấp hành một cách đúng đắn thì cũng không thể là một hệ thống pháp luật có hiệu quả cao. Bên cạnh việc ban hành những văn bản quy phạm pháp luật mới thì nhà nước cũng cần hoàn thiện khâu thực thi pháp luật để pháp luật được đưa vào thực tiễn sử dụng có hiệu quả. Sau đây là một số giải pháp đề nghị về việc thực thi pháp luật:
Thứ nhất: Nhà nước cần có những biện pháp quản lý chặt chẽ việc thực hiện các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành trong quá trình đấu thầu và trúng thầu. Nước ta bắt nguồn từ một nền kinh tế nhỏ lẻ, tự phát, các doanh nhân làm ăn với nhau cũng một cách tự phát, không theo một quy pham nào cả. Điều đó đã ăn sâu vào tâm lý những doanh nhân Việt Nam, bản thân nhà nước cũng không thể quản lý hết những mối quan hệ không theo pháp luật. Nhưng khi đã bước vào nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh khốc liệt cùng với sự giao thoa của các nền văn hoá khác nhau thì việc chấp hành theo các quy định pháp luật là cơ sở pháp lý quy nhất giúp nhà nước quản lý được các chủ thể kinh tế, đồng thời cũng giúp các doanh nhân tự bảo vệ mình. Bên cạnh việc các doanh nhân cần chấp hành thực hiện đúng các quy đinh trong pháp luật thì nhà nước cũng cần có những biện pháp quản lý việc thực thi pháp luật của các chủ thể kinh tế. Nhà nước cần thắt chặt các biện pháp kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, không để tình trạng trên bảo dưới không theo.
Đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng, khi đấu thầu là một giai đoạn quan trọng để có thể kí kết một hợp đồng giao nhận thầu xây dựng thì việc làm thế nào để trúng thầu là suy tư của biết bao những người làm trong lĩnh vực xây dựng. Tuy nhiên, lẽ ra nên bằng những biện pháp tích cực như đầu tư kĩ thuật cao, cạnh tranh bằng giá thì một số nhà tham gia dự thầu lại muốn cạnh tranh bằng những con đường mờ ám, trái với quy định của Pháp luật. Vi đó mà những gói thầu đạt chất lượng cao về kĩ thuật và giá cả hợp lý nhất lại không trúng thầu, thay vào đó là những người dung tiền để mua gói thầu. Như vậy chất lượng không thể đạt hiệu quả cao. Nhà nước cần đặt ra một ban quản lý về việc đấu thầu, kỉêm tra trình độ kĩ thuật, năng lực thực sự của mỗi bên tham gia đấu thầu, từ đó tạo sân chơi công bằng bình đẳng cho tất cả mọi doanh nhân.
Thứ hai: Nhà nước cần có sự quản lý chặt chẽ trong khâu thực thi dự án. Điều này rất cần thiết đối với những gói thầu thuộc dự án nhà nước, khi các nhà quản lý có tư tưởng sống chết mặc bay. Những nhà trúng thầu với những bản cáo chất lượng rất tốt nhưng khi thực hiện dự án lai hoàn toàn không thực chất như vậy. Thực trạng những công trình nhà nước bị rut ruột nhiều như thời gian quan là một thực trạng đáng báo động, nó đòi hỏi nhà nước cần phải có biện pháp quản lý kiểm tra và báo cáo ngay về tình trạng thi công của các nhà thầu. Sự bỏ rơi buông lỏng trong quản lý dẫn đến tình trạng các nhà thầu tham ô tiền của nhà nước hàng ngàn tỉ đồng, vậy mà chỉ đến khi phanh phui ra nhân dân và các cơ quan chức năng mới biết. Nhà nước cần phải có ban kiểm tra thi công dự án làm việc có trách nhiệm và chất lượng, đẩy lùi việc thực thi công trình không như thoả thuận.
Thứ ba: Cùng với sự tăng cường quản lý, nhà nước cần nâng cao năng lực và phẩm chất của cán bộ nhà nước. Một hệ thống pháp luật được thực thi tốt khi nó có những nhà làm luật tốt có đủ năng lực phẩm chất. Trong những năm gần đây, một số bộ phận cán bộ đảng viên có những biểu hiện không đúng trong chừng mực mà đảng và nhà nước ta yêu cầu, có nhiều hiện tượng quấy nhiễu nhân dân, gây phiền hà khó khăn cho nhân dân. Nhà nước cần có những biện pháp mạnh nhằm ngăn chặn tình trạng này, đảm bảo sự trung thực và đúng đắn trong thực hiện pháp luật.
Thứ tư: Một trong những việc mà nhà nước ta cần làm luôn là nâng cao năng lực hiểu bíêt và thực thi đúng pháp luật của bản thân các doanh nhân, đặc biệt là những doanh nhân trong lĩnh vực xây dựng. Bản thân họ phải nhận thức rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn của mình, không được làm những việc trái pháp luật và đạo đức để dẫn tới những hậu quả đáng tiếc cho bản thân. Nhà nước nên tổ chức những buổi giao lưu phổ biến về pháp luật cho những người hoạt động trong lĩnh vực xây dựng để ngoài lĩnh vực chuyên môn, họ còn nắm chắc pháp luật, từ đó có thể tự mình tránh khỏi những khó khăn khi tham gia vào pháp luật
2.Kiến nghị đôí với công ty FECON.
Trong tình hình đất nước đang trong đà phát triển như hiện nay, xây dựng là một lĩnh vực phát triển mạnh theo xu thế tất yếu. Vì vậy,các công ty xây dựng có tương lai tiến triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, sự hội nhập cũng là nhân tố làm hiện tượng cá lớn nuốt cá bé gia tăng. Những công ty không đủ năng lực sẽ bị đào thải để nhường chỗ cho sự phát triển lớn mạnh của những công ty lớn có tiêm lực lớn mạnh. Trong quá trình thực tập ở công ty Cổ phần kĩ thuật nền móng và công trình ngầm FECON, tôi nhận thấy việc kí kết và thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng của công ty có nhiều thành tựu. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu thi vẫn còn có những vướng mắc,nếu loại bỏ được những vướng mắc này thì công ty sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn nữa trong công việc kinh doanh nói chung và việc kí kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng nói riêng.
Sau đây, tôi xin đề xuất một số ý kiến mang tính đóng góp vào hoạt động của công ty:
Thứ nhất: về vấn đề nhân sự, công ty cần tăng cường các biện pháp nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên của công ty trên tất cả các mặt: ngoại ngữ, pháp luật, kinh nghiệm làm việc. Công ty cần có những cán bộ chuyên sâu về nghiệp vụ cũng như nắm bắt được tình hình và xu thế phát triển trong nước và thế giới để có thể nâng cao vị thế cạnh tranh của công ty trong tình hình các công ty xây dựng phát triển mạnh như thời gian hiện nay. Bên cạnh những cán bộ có đầy đủ năng lực về lĩnh vực xây dựng, công ty cần phải có những cán bộ phụ trách về mảng pháp luật, vì pháp luật là một trong những yếu tố quan trọng để một công ty có thể bắt kịp với xu thế hội nhập như hiện nay. Để nâng cao kiến thức pháp luật cho cán bộ công nhân viên chức, công ty cần thực hiện các biện pháp sau:
Tổ chức đào tạo tại chỗ cho cán bộ công nhân viên chức.
Cử cán bộ công nhân viên chức đi học nâng cao nghiệp vụ tại các trường,các viện, các trung tâm pháp luật có uy tín. Bên cạnh đó, cán bộ công ty có thể tham gia các lớp đào tạo ngắn hạn do các trung tâm có uy tín tổ chức. Một trong những trung tâm uy tín là trung tâm tư vấn pháp luật của khoa Luật, trường Đại học Kinh tế quốc dân tổ chức.
Công ty tổ chức nên tổ chức các buổi họp phổ biến pháp luật, khuyến khích cán bộ công nhân viên tham gia xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật tại công ty.
Thứ hai:về công tác Marketing của công ty. Cùng với việc hoàn thiện năng lực Pháp luật, công ty nên hoàn thiện hệ thống Marketing trong công ty nhằm thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, xây dựng kế hoạch dự báo giá cả linh hoạt để có thể ứng biến kịp thời với sự biến động của thị trường. Marketting tạo ra chất lượng, giá cả phù hợp với yêu cầu của thị trường. Mặc dù đã có nhiều đổi mới trong công tác quản lý ở các công ty xây dựng trong lĩnh vực marketing, tuy nhiên cho đến nay, vấn đề marketing trong lĩnh vực xây dựng cơ bản vẫn chưa được thực hiện một cách bài bản, khoa học. FECON cũng ở vào tình trạng như vậy. Tổ chức hoạt động Marketing của công ty vẫn còn ở trạng thái tự phát, chưa thành một hệ thống vì vậy chưa phát huy được hiệu quả Marketing trong hoạt động xây dựng. Một số bước cơ bản trong hoạt động Marketing lĩnh vực xây dựng cơ bản là:
Thu thập các thông tin về tình hình biến động giá cả thị trường để có biện pháp điều chỉnh giá cả hợp lý, đảm bảo cơ hội trúng thầu lớn.
Thu thập các thông tin về đối tác của mình, các thông tin về những dự án đang và sẽ là đối tượng mà công ty hướng tới, nhằm đạt được những hợp đồng tốt nhất.
Thu thập những thông tin về đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực xây dựng. Xem xét năng lực, trình độ của đối thủ cạnh tranh, từ đó có những phương án giải pháp nhằm cạnh tranh lành mạnh, đạt hiệu quả cao.
Thứ ba: công ty cần có những biện pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của công ty, để có thể thầu những công trình lớn, nâng cao vị thế của công ty trên thị trường trong nước và quốc tế. Để giải quyết vấn đề vốn, công ty cần tiến hành một số các biện pháp sau:
Trước hết công ty có thể nâng cao vốn điều lệ bằng cách trích từ nguồn lãi của công ty, thay cho việc chia cổ phần cho các cổ đông.
Bên cạnh đó,công ty có thể tận dụng vốn của các nhà đầu tư bằng cách thi công dứt điểm các công trình được thầu, nhằm được thanh toán trong thời gian nhanh nhất, đạt hiệu quả kinh tế cao.
Công ty cũng nên xây dựng mối quan hệ tốt đối với các tổ chức tín dụng để tranh thủ sự trợ giúp vốn xây dựng, giúp công ty mở rộng quy mô.
Bên cạnh đó, công ty cũng nên có quan hệ làm ăn tốt với nhứng nhà thầu có uy tín, gây dựng những thiện cảm tốt đẹp thông qua việc thi công các hợp đồng giao nhận thầu xây dựng một cách đúng chất lượng, khoa học, kĩ thuật, thời gian bàn giao công trình, thái độ làm việc chuyên nghiệp, tạo dựng niềm tin cho khách hàng.
Thứ tư: bên cạnh việc nâng cao năng lực tài chính,năng lực cán bộ công nhân viên, công ty cũng cần nâng cao chất lượng máy móc, trang thiết bị, cơ sở vật chất, kĩ thuật nhằm đáp ứng được yêu cầu cao trong xây dựng trong thời điểm hiện tại và tương lai. Khi cơ sở vật chất kĩ thuật được nâng cao, năng lực cạnh tranh cũng sẽ được nâng cao, giúp công ty có cơ hội hơn khi tham gia nhận thầu các dự án.
Kết luận
Lĩnh vực xây dựng là một lĩnh vực quan trọng,liên quan đến hầu hết các ngành kĩ thuật khác. Vì vậy việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư xây dựng nói chung và về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng nói riêng là hết sức cần thiết, nó tạo ra hành lang pháp lý khách quan cho hoạt động đầu tư xây dựng. Với đặc điểm nền kinh tế nước ta hiện nay đang phát triển mạnh mẽ, tuy vậy chúng ta vẫn còn là một nước đang phát triển, nền kinh tế và quản lý còn yếu kém thì việc ban hành các văn bản quy pham pháp luật có hiệu lực cao, phù hợp với thực tiễn là hết sức cần thiết. Sự chặt chẽ, an toàn sẽ giúp các nhà đầu tư yên tâm đầu tư vào Việt Nam, đồng thời cũng nâng cao sự cạnh tranh của các công ty xây dựng trong nước.
Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong việc kí kết và thực hiện các hợp đồng giao nhận thầu xây dựng tại công ty FECON, bài viết đã phần nào đưa ra được thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng và nâng cao năng lực kí kết một hợp đồng giao nhận thầu xây dựng của công ty FECON nói chung cũng như những công ty có quy mô vừa và nhỏ nói riêng.
Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế,bài viết không tránh khỏi những thíếu sót. Em mong được sự giúp đỡ và góp ý của các thầy cô giáo và những anh chị thuộc công ty FECON để bài viết được hoàn thiện hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Văn bản pháp luật
Luật doanh nghiệp 1999
Luật doanh nghiệp 2005
Bộ luật dân sự 2005
Bộ luật tố tụng dân sự 2004
Luật thương mại 2005
Luật thương mại 1997
Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003
Luật tổ chức tòa án nhân dân 2002
Luật xây dựng 2003
Luật đấu thầu 2005
Thông tư của Bộ xây dựng số 02/2005/TT-BXD ngày 25/02/2005 hướng dẫn hợp đồng trong hoạt động xây dựng.
Nghị định của chính phủ số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 về quản lí dự án đầu tư xây dựng công trình
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31983.doc