Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đnag ngày càng diễn ra một cách nhanh chóng buộc mỗi quốc gia phải biết vượt qua thử thách để cùng hoà nhập vào nền kinh tế chung của thế giới.
Với một nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu cùng với cơ sở hạtầng thấp kém sẽ là khó khăn lớn đối với đất nước ta. Chính vì vậy, hơn bao giờ hết việc cải cách hệ thống pháp luật theo hướngthông thoáng, hiệu quả là việc cần thiết phải làm ngay.
Đấu thầu tuy còn là một hình thức khá mới mẻ ở Việt Nam nhưng nó đã dần mang lại rất nhiều lợi ích to lứon cho xã hội. Bài viết đã phần nào nêu lên những quy định của pháp luật về đấu thầu đặc biệt là hoạt động quản lý đấu thầu tại Tổng công ty cơ khí xây dựng trên cơ sở tuân theo những quy định của Quy chế đấu thầu, đồng thời bài viết cũng nêu lên một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động đấu thầu ở Việt Nam .
95 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 800 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Chế độ pháp lý về đấu thầu xây dựng - Thực tiễn áp dụng tại Tổng công ty cơ khí xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.000 đồng
30.000.000 đồng
Tiến độ
60 ngày
60 ngày
60 ngày
Hiệu lực
60 ngày
60 ngày
60 ngày
Buổi lễ mời thầu đã diễn ra công khai khách quan theo đúng quy chế đấu thầu do Chính Phủ ban hành.
Biên bản được thông qua vào hồi 14 giờ 45 phút ngày 20/12/2002. Các thành viên đã thống nhất ký tên.
Đánh giá xếp hạng nhà thầu
+ Các căn cứ pháp lý để đánh giá
Căn cứ Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ- CP ngày 01/09/1999, Nghị định số 14/2000/ NĐ- CP ngày 05/05/2000 của Chính Phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu và Thông tư hướng dẫn thực hiện quy chế đấu thầu số 04/2000/TT- BKH ngày 26/05/2000 của Bộ kế hoạch và đầu tư .
. Căn cứ vào Điều lệ tổ chức và hoạt động Tổng công ty cơ khí xây dựng đã được Bộ trưởng Bộ xây dựng phê duyệt ngày 04/07/1996.
. Căn cứ vào văn bản số 1982/TCT - HĐQT ngày 09/12/2002 của chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty về việc phê duyệt tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu gói thầu số 01 : “ Xây lắp” thuộc dự án " Xưởng mạ kẽm nhúng nóng công suất 5000 tấn/năm" .
. Căn cứ vào hồ sơ mời thầu công trình " Xưởng mạ kẽm nhúng nóng công suất 5000 tấn/năm", gói thầu Xây lắp và các chỉ dẫn đối với nhà thầu đã được nêu ra trong hồ sơ mời thầu .
. Căn cứ vào hồ sơ mời thầu của các đơn vị tham gia dự thầu:
Công ty Cổ phần xây dựng số 7.
Công ty Xây lắp và kinh doanh vật tư thiết bị.
Công ty xuât nhập khẩu và đầu tư xây dựng Hà Nội.
Căn cứ cào biên bản mở thầu lập vào ngày 20/12/2002 có chữ ký của các đại biểu tham dự và đại diện các nhà thầu .
+ Đánh giá sơ bộ
Nhà thầu Công ty Cổ phần xây dựng số 7
Tính hợp lệ của hồ sơ mời thầu
Đ Nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu đúng hạn và địa điểm quy định.
Đ Hồ sơ dự thầu có bảo lãnh dự thầu .
Đ Nhà thầu có đăng ký kinh doanh
Đ Hồ sơ dự thầu có đơn dự thầu .
Đ Hồ sơ dự thầu có số lượng bản gốc và bản sao theo đúng quy định của hồ sơ mời thầu .
So với yêu cầu đặt ra, Hồ sơ dự thầu của nhà thầu này được xem là hợp lệ.
Sự đáp ứng cơ bản của hồ sơ dự thầu so với yêu cầu của hồ sơ mời thầu .
Đ Đơn dự thầu: Lập theo mẫu của hồ sơ mời thầu do Giám đốc Công ty ký
Đ Bảo lãnh dự thầu : Trị giá 30.000.000 đồng do nhà thầu nộp bằng tiền mặt.
Đ Đăng ký kinh doanh: Nhà thầu là doanh nghiệp Nhà nước, có Quyết định thành lập doanh nghiệp số 170A/BXD – TCLĐ do Bộ trưởng Bộ xây dựng Ngô Xuân Lộc ký, có Quyết định thành lập lại thành Công ty Cổ phần số 2065 QĐ/ BXD do Thứ trưởng Bộ xây dựng Nguyễn Hồng Quân ký, có đăng ký kinh doanh số 0103000756.
Đ Báo cáo tài chính : Nhà thầu không có các báo cáo tài chính các năm theo yêu cầu.
Đ Hồ sơ dự thầu có số liệu thống kê về máy móc thiết bị, thời gian sử sụng, chủng loại và số lượng bố tí cho công trình.
Đ Hồ sơ dự thầu có bản kê các công trình đã và đang thực hiện trong 5 năm gần đây.
Đ Hồ sơ dự thầu có hồ sơ về biện pháp tổ chức thi công, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, vệ sinh môi trường.
Đ Hồ sơ dự thầu không có số lượng , trình độ cán bộ, công nhân đáp ứng theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu .
Đ Hồ sơ dự thầu có bảng giá dự thầu .
Kết luận : Hồ sơ dự thầu của nhà thầu Công ty cổ phần xây dựng số 7 đạt được những yêu cầu cơ bản đề ra trong hồ sơ mời thầu và được xem xét tiếp .
Nhà thầu Công ty Xây lắp và kinh doanh vật tư thiết bị.
Tính hợp lệ của hồ sơ dự thầu .
Đ Nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu đúng hạn và địa điểm quy định.
Đ Hồ sơ dự thầu có bảo lãnh dự thầu .
Đ Nhà thầu có đăng ký kinh doanh.
Đ Hồ sơ dự thầu có đơn dự thầu .
Đ Hồ sơ dự thầu có số lượng bản gốc và bản sao theo đúng quy định trong hồ sơ mời thầu .
So với yêu cầu đặt ra, hồ sơ dự thầu của nhà thầu này được đnáh giá là hợp lệ.
Sự đáp ứng cơ bản của hồ sơ dự thầu so với yêu cầu của hồ sơ mời thầu
Đ Đơn dự thầu : Lập theo mẫu của hồ sơ mời thầu do Giám đốc Công ty ký.
Đ Bảo lãnh dự thầu : Trị giá 30.000.000 đồng do Ngân hàng công thương khu vực Chương Dương phát hành.
Đăng ký kinh doanh : Nhà thầu là doanh nghiệp Nhà nước có Quyết định thành lập doanh nghiệp số 162A/BXD- TCLĐ do Bộ trưởng Bộ xây dựng Ngô Xuân Lộc lỹ, có đăng ký kinh doanh số 110844.
Đ Báo cáo tài chính : Nhà thầu có báo cáo tài chính năm 1999, 2000, 2001.
Đ Hồ sơ dự thầu có số liệu thống kê về máy móc thiết bị, thời gian sử sụng, chủng loại và số lượng bố tí cho công trình.
Đ Hồ sơ dự thầu có bản kê các công trình đã và đang thực hiện trong 5 năm gần đây.
ĐHồ sơ dự thầu có hồ sơ về biện pháp tổ chức thi công, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, vệ sinh môi trường
Đ Hồ sơ dự thầu có bảng giá dự thầu .
Kết luận : Hồ sơ dự thầu của nhà thầu Xây lắp và kinh doanh vật tư htiết bị đạt được những yêu cầu cơ bản đề ra trong hồ sơ mời thầu và được xem xét tiếp.
Nhà thầu Công ty xuất nhập khẩu và đầu tư xây dựng Hà Nội.
Tính hợp lệ của hồ sơ dự thầu
Nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu đúng hạn và địa điểm quy định.
Đ Hồ sơ dự thầu có bảo lãnh dự thầu .
Đ Nhà thầu có đăng ký kinh doanh.
Đ Hồ sơ dự thầu có đơn dự thầu .
Đ Hồ sơ dự thầu có số lượng bản gốc và bản sao theo đúng quy định trong hồ sơ mời thầu .
So với yêu cầu đặt ra, hồ sơ dự thầu của nhà thầu này được đánh giá là hợp lệ.
Sự đáp ứng cơ bản của hồ sơ dự thầu so với yêu cầu của hồ sơ mời thầu
Đ Đơn dự thầu : Lập theo mẫu của hồ sơ mời thầu do Giám đốc Công ty ký.
Đ Bảo lãnh dự thầu : Trị giá 30.000.000 đồng do Nhà thầu nộp bằng tiền mặt.
Đ Đăng ký kinh doanh : Nhà thầu là DNNN có Quyết định thành lập doanh nghiệp số 6335/QĐ - UB do Phó chủ tịch uỷ ban nhâm dân Thành Phố Hà Nội Lê Sinh Tặng ký, có đanưg ký kinh doanh số 100540.
Báo cáo tài chính : Nhà thầu có báo cáo tài chính năm 1999, 2000, 2001.
Đ Hồ sơ dự thầu có số liệu thống kê về máy móc thiết bị, thời gian sử sụng, chủng loại và số lượng bố tí cho công trình.
Đ Hồ sơ dự thầu có bản kê các công trình đã và đang thực hiện trong 5 năm gần đây.
Đ Hồ sơ dự thầu có hồ sơ về biện pháp tổ chức thi công, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, vệ sinh môi trường
Đ Hồ sơ dự thầu có bảng giá dự thầu .
Đ Hồ sơ dự thầu có số lượng, trình độ cán bộ, công nhân đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu .
Kết luận : Hồ sơ dự thầu của nhà thầu Công ty xuất nhập khẩu và đầu tư xây dựng Hà Nội đạt được những yêu cầu cơ bản đặt ra trong hồ sơ mời thầu và được xem xét tiếp.
KếT LUậN CHUNG Về PHầN ĐáNH GIá SƠ Bộ CáC Hồ SƠ Dự THầU:
Sau khi xem xét, đánh giá sơ bộ, các nhà thầu đạt tiêu chuẩn được tiếp tục đánh giá chi tiết về chất lượng kỹ thuật và tiến độ thi công gồm có:
Công ty Cổ phần xây dựng số 7.
. Công ty Xây lắp và kinh doanh vật tư thiết bị.
. Công ty Xuất nhập khẩu và đầu tư xây dựng Hà Nội.
+ Đánh giá chi tiết về chất lượng kỹ thuật và tiến độ thi công .
Sau khi đã tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng về tiêu chuẩn chất lượng kỹ htuật và tiến độ thi công cuả các nhà thầu ta có kết quả như bảng dưới đây :
Bảng đề nghị đánh giá chi tiết về chất lượng kỹ thuật và tiến độ thi công của hồ sơ dự thầu
Gói thầu số 01 : Xây dựng nhà xưởng.
Dự án : Xây dựng " Xưởng mạ kẽm nhúng nóng công suất 5000 tấn/năm"
Stt
Tiêu chuẩn đánh giá
Điểm tối đa
Nhà thầu Công ty CPXD số 7
Nhà thầu Công ty Xây lắp và kinh doanh vật tư thiết bị
Nhà thầu Công ty XNK và đầu tư xây dựng Hà Nội
Tổng số điểm
75
43
68
60
A
Đánh giá về chất lượng kỹ thuật
1
Tổ chức mặt bằng thi công hợp lý
+ Phù hợp
+ Tương đối phù hợp
+ Không phù hợp
5
5
+
5
+
5
+
2
Có biện pháp thi công đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, tiến độ
+ Phù hợp
+ Tương đối phù hợp.
+ Không phù hợp.
25
18
+
25
+
25
+
3
Có thiết bị thi công đáp ứng yêu cầu tiến độ kỹ thuật, an toàn lao động, vệ sinh môi trường, an toàn kiến trúc liền kề
+ Phù hợp
+ Tương đối phù hợp.
+ Không phù hợp
10
5
+
10
+
10
+
4
Có biểu đồ nhân công, sơ đồ tổ chức nhân lực chỉ huy tới sản xuất đáp ứng yêu cầu, tiến độ tổ chức thi công
+ Phù hợp
+ Tương đối phù hợp.
+ Không phù hợp
10
5
+
5
+
5
+
5
Có biểu đồ bố trí máy móc, thiết bị thi công đáp ứng yêu cầu kỹ thuật tiến độ theo biện pháp tổ chức thi công.
+ Phù hợp
+ Tương đối phù hợp.
+ Không phù hợp
5
0
+
3
+
0
+
6
Có biện pháp bảo đảm an toàn cho công tình liền kề và đảm bảo việc sử dụng bình thường trong suốt quá trình thi công công trình
+ Phù hợp
+ Tương đối phù hợp.
+ Không phù hợp
5
0
+
5
+
0
+
7
Có biện pháp bảo đảm an toàn lao động, đảm bảo trật tự vệ sinh môi trường trong quá trình thi công công trình
+ Phù hợp
+ Tương đối phù hợp.
+ Không phù hợp
5
5
+
5
+
5
+
8
Có biện pháp PCCC trong suốt quá trình thi công công trình
+ Phù hợp
+ Tương đối phù hợp.
+ Không phù hợp
5
0
+
5
+
5
+
B
Tiêu chuẩn đáp ứng về tiến độ
+ Phù hợp
+ Tương đối phù hợp.
+ Không phù hợp
5
5
+
5
+
5
+
C
Tỷ lệ % của Tổng số điểm
100%
57%
91%
80%
+ Đánh giá chi tiết về mặt năng lực tài chính.
Tuân thủ theo phương pháp đánh giá đơn thầu đã được duyệt, Tổ chuyên gia triển khai công tác đánh giá về mặt tài chính. Kết quả kiểm tra như sau :
Bảng kết quả đấu thầu phần đánh giá kinh tế.
Gói thầu số 01 : Xây dựng nhà xưởng.
Dự án : Xây dựng " Xưởng mạ kẽm nhúng nóng công suất 5000 tấn/năm"
Tiêu chuẩn
Công ty cổ phần xây dựng số 7
Công ty xây lắp và kinh doanh vật tư thiết bị
Công ty xuất nhập khẩu và đầu tư xây dựng Hà Nội
Giá chào thầu sau khi sửa lỗi số học và hiệu chỉnh
1.285.798.885
1.315.588.997
1.227.253.445
Giảm giá
-
23.588.997
-
Giá chào thầu sau khi sửa lỗi số học và hiệu chỉnh và giảm giá
1.285.798.885
1.292.000.000
1.227.253.445
Giá chào thầu trong hồ sơ thầu
1.356.856.000
1.315.588.997
1.294.751.000
Giá chào thầu trong hồ sơ thầu và sau khi giảm giá
1.356.856.000
1.292.000.000
1.294.751.000
Độ sai lệch giữa giá chào thầu trong hồ sơ thầu và giá sửa lỗi số học sau khi giảm giá
71.057.115
-
67.497.555
Hồ sơ dự thầu có lỗi số học sai khác 15%
-
-
-
Hồ sơ dự thầu có giá trị sai lệch vượt quá 10% so với giá dự thầu
-
-
-
+ Đánh giá tổng hợp các hồ sơ dự thầu
Sau khi đã đánh giá về các mặt như đã nói ở trên ta đưa ra được kết quả như sau:
stt
Tên nhà thầu
Kết quả đánh giá
Tiêu chuẩn năng lực và kinh nghiệm
Tiêu chuẩn chất lượng và tiến độ thi công
Cộng
Giá đánh giá
1
Công ty cổ phần xây dựng số 7
11.5
43
54.5
1.285.798.885
2
Công ty xây lắp và kinh doanh vật tư thiết bị
17.5
68
85.5
1.292.000.000
3
Công ty XNK và đầu tư xây dựng Hà Nội
20.5
60
80.5
1.227.253.445
Công bố kết quả trúng thầu
Ngày 30/12/2002, Công ty cơ khí xây dựng và lắp máy điện nước lập tờ trình lên Tổng công ty xem xét, phê duyệt kết quả đấu thầu với nội dung như sau :
“ Sau quá trình làm việc nghiêm túc của các thành viên trong tổ chấm thầu, qua báo cáo kết quả chấm thầu, Hội đồng xét thầu Công ty cơ khí xây dựng và lắp máy điện nước nhận thấy : Nhà thầu Công ty xây lắp và kinh doanh vật tư thiết bị là nhà thầu có đầy đủ năng lực , kinh nghiệm cũng như khả năng đảm bảo chất lượng, tiến độ thi công của gói thầu : “ Xây lắp” . Đây là nhà thầu có thể đáp ứng các yêu cầu đầy đủ nhất mà chủ đầu tư đã đề ra” .
Tổng giám đốc Tổng công ty sau khi nhận được tờ trình như trên đã ra quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu với nội dung cơ bản như trên.
Sau khi nhận được Quyết định phê duyệt, Công ty cơ khí xây dựng và lắp máy điện nước tiến hành thông báo kết quả đấu thầu và mời nhà thầu Công ty xây lắp và kinh doanh vật tư thiết bị đến để thương thảo hợp đồng.
Ký kết và thực hiện hợp đồng.
Hai bên tiến hành ký hợp đồng theo những thoả thuận nhất định
Trên đây là toàn bộ quy trình tổ chức đấu thầu tại Tổng công ty cơ khí xây dự
Chương III
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy chế đấu thầu xây dựng
Đánh giá khái quát thực tiễn công tác đấu thầu xây dựng .
Những kết quả đạt được của pháp luật về đấu thầu .
Có thể khẳng định một điều chắc chắn là từ khi Chính phủ ban hành Quy chế đấu thầu đã đem lại một hiệu quả không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Sự thay thế của Nghị định 88/199/NĐ- CP cho Nghị định 43/CP ngày 16/07/1996 và sự ra đời của Nghị định 52/1999/NĐ- CP được coi như một bước tiến mới của pháp luật về đấu thầu . Cụ thể Quy chế đấu thầu đã mang lại lợi ích to lớn thể hiện trên các khía cạnh sau :
Thứ nhất : Việc ban hành Quy chế đấu thầu đã tạo ra một hệ thống cơ sở pháp lý vững chắc điều chỉnh hoạt động đấu thầu ở Việt Nam . So với các nước trên thế giới, ở Việt Nam hoạt động đấu thầu được coi là một hình thức khá mới mẻ nên khó có thể đi vào thực tiễn, vào hiểu biết của nhiều người, nhiều doanh nghiệp . Việc ban hành Quy chế đấu thầu góp phần tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp có cơ hội được tìm hiểu và áp dụng một cách có hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, việc thực hiện tốt Quy chế đấu thầu sẽ góp phần giúp cho các doanh nghiệp đảm bảo quyền lợi của mình khi tham gia đấu thầu , tiết kiệm được chi phí , giảm rủi ro và nâng cao uy tín của mình.
Thứ hai : Trên cơ sở ban hành quy chế đấu thầu , Nhà nước có điều kiện để quản lý một cách có hiệu quả hoạt động đầu tư và xây dựng , hoạt động đấu thầu và nhất là quản lý các dự án có nguồn vốn từ ngan sách Nhà nước hay nguồn viện trợ ODA. Sở dĩ như vậy là vì Quy chế đấu thầu đã quy định khá chi tiết các bước của quy trình đấu thầu , cách thức, biện pháp, nguyên tắc tiến hành công tác đấu thầu cũng như trách nhiệm của các bên : Bên mời thầu , nhà thầu cũng như các cấp quản lý có liên quan. Như vậy, việc kiểm tra, giám sát hoạt động đấu thầu ngày càng có hiệu quả và thuận lợi hơn.
Thứ ba : Việc sử dụng đấu thầu trong đầu tư xây dựng cơ bản đã tạo ra hiệu quả kinh tế kỹ thuật, pháp lý cao. Xuất phát từ bản chất của hoạt động đấu thầu là nhằm lựa chọn ra nhà thầu có đủ khả năng nhất, đáp ứng được tốt nhất các yêu cầu của chủ đầu tư . Thông qua cạnh tranh công bằng, lạnh mạnh đã giúp cho việc lựa chọn đạt kết quả cao, tiết kiệm được chi phí mà vẫn đảm bảo các yêu khác. Do có sự cạnh tranh giữa các nhà thầu mà khiến cho tiến độ thực hiện quá trình thi công diễn ra nhanh hơn. Bên cạnh đó, đấu thầu còn là một biện pháp tốt khiến cho các chủ thể tham gia tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ tư : Ban hành Quy chế đấu thầu đã tạo ra cơ sở pháp lý thông thoáng cho các nhà thầu quốc tế đầu tư vào Việt Nam , tạo điều kiện thúc đảy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam từ đó nâng cao cơ sở hạ tầng cho đất nước. Rhông qua đấu thầu, các nhà thầu quốc tế nếu trúng thầu sẽ đem thiết bị, máy móc, công nghệ hiện đại vào Việt Nam , do đó chất lượng công trình sẽ được nâng cao. Chính vì thế, việc xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt độgn đầu tư xây dựng là cơ sở pháp lý đáng tin cậy để các nhà thầu nước ngoài đầu tư vào Việt Nam với số lượng và thời gian nhiều hơn.
Thứ năm : Phương thức đấu thầu trong xây dựng cơ bản là một biện pháp hữu hiệu thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung , các đơn vị có nhiệm vụ ký kết hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh . Công việc của họ là do Nhà nước giao cho và buộc phải thực hiện. Các đơn vị kinh tế không có quyền tự tìm kiếm công việc, không được tự thoả thuận và ký hợp đồng. Do đó, trong cơ chế này không thể tồn tại phương thức đấu thầu .
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thôgn tin thì đấu thầu được xem là một hoạt động tất yếu. Chính bởi trong cơ chế thị trường các đơn vị kinh tế có quyền tự do tìm kiếm, thoả thuận công việc, tụư do ký hợp đồng nên sự cạnh tranh giữa những người bán với những người mua sẽ giúp cho chủ đầu tư lựa chọn được nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của mình.
Mặt khác,khoa học kỹ htuật ngày càng phát triển , yêu cầu của các dự án , công trình ngày càng hiện đại hơn. Vì vậy, các doanh nghiệp muốn đảm bảo hoạt động đấu thầu thì phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, mà muốn có khả năng cạnh tranh thì các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả và luôn phải hoàn thiện hơn nưã để thắng thầu.
Ngoài ra, do nguồn vốn đầu tư vào nước ta một phần do nguồn vốn trong nước, một phần khác là do nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Đối với chủ đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư mong muốn vốn của họ phải được sử dụng đúng hiệu quả, đúng mục đích. Do đó, đấu thầu là hình thức buộc áp dụng để lựa chọn các nhà thầu có tầm cỡ quốc tế và có năng lực nhất.
Qua đây chúng ta có thể khẳng định rằng đấu thầu là một hình thức, biện pháp hữu hiệu nhất thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước.
Những tồn tại của pháp luật về đấu thầu .
Bên cạnh những kết quả mà quy chế đấu thầu mang lại, qua thực tiễn áp dụng thì Quy chế đấu thầu còn bộc lộ nhiều hạn chế , cụ thể là :
Thứ nhất : Hệ thống văn bản còn chồng chéo lên nhau.
Vấn đề đựơc xem là khó khó nhất hiện nay là trong việc lựa chọn mguồn luật áp dụng . sau ngày 1/1/1998, Luật thương mại có hiệu lực thì một câu hỏi được đặt ra là nguồn luật để điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hoá sẽ là nguồn luật nào. Luật thương mại ngày 10/5/1997 hay Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ- CP và liệu Luật thương mại với Nghị định 88/1999/NĐ- CP có gì mâu thuẫn với nhau hay không?
Về mặt pháp lý, Luật thương mại có hiệu lực từ nagỳ 1/1/1998 và thực tế nó đã đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, riêng với hoạt động mua sắm hàng háo thì vãn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể mà chỉ dừng lại ở những định hướng chung. Vì thế mà hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hoá trên thực tế vẫn áp dụng nguồn luật chủ yếu là Quy chế đấu thầu . Đây có thể được xem là một thiếu sót lớn của các cơ quan lập pháp đòi hỏi cần phải được khắc phục và giải quyết
Thứ hai : Quy định đối với nhà thầu nước ngoài chưa hợp lý.
Theo quy định tại Khoản 3- Điều 1- Nghị định 14/2000/NĐ- CP ngày 5/5/2000 có quy định : “ Nhà thầu nước ngoài khi tham dự đấu thầu quốc tế tại Việt Nam về xây lắp phải liên danh với nhà thầu Việt Nam hoặc phải cam kết sử dụng nhà thầu phụ Việt Nam nhưng phải nêu rõ sự phân chia giữa hai bên về phạm vi công việc, khối lượng và đơn giá tương ứng’. Đây là một quy định gây khó khăn cho các nhà thầu nước ngoài, bởi lẽ việc lựa chọn một nhà thầu để liên danh hay làm nhà thầu phụ không phải là một việc đơn giản. Đặc biệt, đối với các nhà thầu nước ngoài lần đầu tiên tham dự đấu thầu tại Việt Nam lại ít hiểu biết về đấu thầu tại Việt Nam thì quy định như thế gây khá nhiều bất lợi cho họ. Quy định này đwocj xem là theo hướng có lợi cho các nhà thầu trong nước, là cơ hội để cho các nhà thầu trong nước thắng thầu mặc dù có năng lực thấp hơn các nhà thầu nước ngoài. Điều này sẽ làm giảm tính cạnh tranh công bằng, bình đẳng giữa các nhà thầu .
Thứ ba : Vấn đề gói thầu , giá xét thầu.
Theo quy định tại Điều 3- Mục 23- Nghị định 88/1999/NĐ- CP thì “ giá gói thầu” là gí được xác định cho từng gói thầu trong kế hoạch đấu thầu của dự án trên cơ sở tổng mức đầu tư , tổng dự toán, dự toán được duyệt là giá trần vì giá dự thầu không được bỏ quá giá gói thầu, nếu vượt quá là vi phạm tiêu chuẩn đánh giá. Vậy khi nào htì tổng mức đầu tư , tổng dự toán, dự toán được gọi là giá trần hay giá không chế ? Điều này còn tuỳ thuộc vào hình thức hợp đồng. Vấn đề này Quy chế đấu thầu không quy định một cách rõ ràng, cụ thể.
Giá dự thầu cũng là một vấn đề cần quan tâm hiện nay. Trong thực tế, các nhà thầu đều muốn bỏ thầu giá thấp vì giá dự thầu là một trong các nhân tố quyết định đến việc được hay mất của nhà thầu . Trong thời gian gần đây, giá dự thầu được bỏ thấp đến mức chóng mặt bởi nhu cầu bức bách về việc làm dẫn đến sự không thành công của rất nhiều gói thầu khi mà nhà thầu không lựa được sức của mình. Hiện nay,, Quy chế đấu thầu không quy định giá trúng thầu tối thiểu là bao nhiêu mà hcỉ quy định không vượt quá giá gói thầu . Do đó dẫn đến tình trạng tiêu cực trong đấu thầu đó là các nhà thầu , bên mời thầu có thoả htuận ngầm để đưa giá đt tới mức thấp nhất, sau đó khi đi vào thực tiễn lại thông đồng tăng những khoản phát sinh. Do đó dẫn đến chất lượng công trình không đảm bảo. Vì vậy mà cần có những quy định cụ thể về vấn đề này trong Quy chế đấu thầu để giải quyết những tồn tại này.
Thứ tư : Phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu trong đấu thầu xây dựng hiện nay còn chưa hợp lý.
Theo như quy định hiên nay, về mặt kỹ thuật khi đánh giá để lựa chọn danh sách ngắn, các nhà thầu đạt số điểm tối thiểu từ 70% tổng số điểm về kỹ htuật trở lên sẽ được chọn vào danh sách ngắn. Điều này chưa hợp lý vì như vậy về năng lực, kỹ thuật và chất lượng công trình không được coi trọng. Hơn nữa điểm kỹ thuật phản ánh năng lực của nhà thầu và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công trình, nhất là những công trình yêu cầu về kỹ thuật cao. Vì vậy cần thiết phải có những thay đổi ở điểm này tuỳ theo yêu cầu kỹ thuật của công trình để công trình xây dựng khi đấu thầu đạt giá cả hợp lý và đảm bảo chất lượng công trình.
Thứ năm : Vấn đề trách nhiệm của cơ quan tư vấn.
Hiện nay pháp luật về đấu thầu quy định chưa đầy đủ về vấn đề này, trong nhiều trường hợp các kết luận, những ý kiến đánh giá của các cơ quan tư vấn thiếu chính xác, không trung thực, không khách quan gây ra các thiệt hại tổn thất thì xử lý bồi htường như thế nào. Điều này gây ra tình trạng làm việc không hiệu quả cảu các cơ quan tư vấn , ảnh hưởng đến lợi ích của chủ đầu tư , nhà thầu và lợi ích của toàn xã hội. Hơn nữa, vị không quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan tư vấn nên nhiều khi nhà tư vấn không hiểu được tầm quan trọng của mình là thay mặt chủ đầu tư có thể thực hiện tất cả các bước, từ tư vấn đầu tư đến tư vấn xây dựng công trình mà điều này quyết định sự thành công hay thất bại của công trình, nhiều khi vì sự kém hiểu biết của nhà tư vấn sẽ dẫn đến có những hậu quả nghiêm trọng.
Thứ sáu : Thủ tục hành chính trong khâu đấu thầu còn chưa hiệu quả.
Thủ tục trình duyệt kế hoạch hiện nay còn tốn kém khá nhiều thời gian. Bởi vì một số dự án, gói thầu cung cấp thiết bị đã chuẩn bị xong về đến công trình trong khi kế hoạch đấu thầu vẫn chưa được duyệt dẫn tới kéo dài thời gian thực hiện.
Ta thấy rằng, đấu thầu là công việc của chủ đầu tư , do chủ đầu tư chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện trong quá trình quản lý dự án . Khi tổ chức thực hiện dự án, đương nhiên chủ đầu tư phải tuân theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng của Chính Phủ. Điều này được thực hiện qua trình tự đầu tư vãd từ khâu lập, thẩm định và phê duyệt dự án, thiết kế và dự toán, thi công xây lắp, nghiệm thu, bàn giao và quyết toán công trình. Bên cạnh đó, chủ đầu tư còn phải tuân thủ theo đúng trình tự đấu thầu đã được quy định trong Quy chế đấu thầu . Chính các quy định này đã làm cho chủ đầu tư giảm đi tính chủ động và quan trọng hơn là chủ đầu tư phải thực thi cùng một lúc cả Quy chế đầu tư và xây dựng và Quy chế đấu thầu .
Thứ bảy : Về thời điểm lập kế hoach đấu thầu .
Quy chế đấu thầu yêu cầu phải lập kế hoạch đấu thầu ở giai đoạn “ dự án khả thi” nhưng trong thực tế ở giai đoạn này chỉ có thể lập kế hoạch đấu thầu thiết bị, đấu thầu tư vấn, thiết kế . Còn đối với đấu thầu xây lắp thì ở giai đoạn này chưa thể phân chia rõ ràng được, nhất là các dự án lớn. Bởi vì muốn phân chia gói thầu xây lắp phải dựa trên thiết kế và dự toán thì chất lượng hồ sơ mời thầu mới được đảm bảo, nhưng ở giai đoạn này lại chưa có thiết kế và dự toán. Vậy cần phải nghiên cứu việc phân chia gói thầu xây lắp ở thời điểm nào ? Về vấn đề này, Quy chế đấu thầu cần phải có quy định cụ thể đối với từng loại đấu thầu.
Thứ tám : Vấn đề tiêu cực trong đấu thầu.
Đay là một hiện tượng đang xảy ra rất nhiều trong đấu thầu những năm gần đay và được xem là nỗi la ngại cho các nhà đầu tư cũng như đối với các nhà thầu. Hiện tượng này xảy ra là do các quy định của pháp luật còn chồng chéo, rườm rà, chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng đấu thầu giả, nhất là với hình thức đấu thầu hạn chế, các nhà thầu thường thoả thuận ngầm với nhau để tìm ra nhà thầu thắng. Hoặc do những bí mật không cần thiết đã tạo điều kiện để xảy ra tiêu cực, như tiêu chuẩn xét thầu thường được xen vào ý đồ chủ quan hướng đến cho nhà thầu nào mà chủ đầu tư có ý định chọn. Trong trường hợp này các nhà thầu khác cầm chắc thất baị trong một cuộc cạnh tranh không công bằng mà sự không công bằng này bên ngoài khó có thể nhận ra được. Đó là những tiêu cực xảy ra gây bất lợi cho các nhà thầu , cho cả chủ đầu tư và phá vỡ môi trường cạnh tranh lành mạnh. Những tiêu cực này cần phải có những quy định , biện pháp xử lý thích hợp. Trong Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP có quy định về xử lý vi phạm song mới chỉ có những biện pháp và hình thức chung chung mà không thể xử lý được. Bởi lẽ vậy, cần phải có những quy định cụ thể để xử lý tình trạng này để hoạt động đấu thầu diễn ra đạt được mục tiêu cạnh tranh lành mạnh, công bằng và hiệu quả.
Trên đay là những vấn đề còn tồn tại của pháp luật về đấu thầu, những vấn đề tồn tại này gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động đầu tư và xây dựng. Chính vì vậy cần thiết hơn hết là Nhà nước cần phải có các biện pháp khắc phục ngay tình trạng trên nhằm làm cho các quy định của pháp luật về đấu thầu thật đầy đủ và thống nhất.
Đánh giá khái quát công tác tổ chức đấu thầu xây dựng ở Tổng công ty cơ khí xây dựng
2.1.Những kết quả đạt được
Mặc dù mới thực sự tham gia hoạt động đấu thầu trong vòng hơn 6 năm trở lại đây, song với kinh nghiệm và sự đoàn kết nội bộ, Tổng công ty cơ khí xây dựng đã từng bước vươn lên tự khẳng định vị trí của mình trên thị trường và đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Rất nhiều công trình, dự án đã được thực hiện ở rất nhiều nơi trong cả nước, từ Bắc vào Nam, có ý nghĩa to lớn, góp phần vào xây dựng và phát triển ngành cơ khí xây dựng nói riêng và vào nền kinh tế của cả nước nói chung. Trong thành công của mỗi dự án có một sự đóng góp không nhỏ của công tác đấu thầu. Quá trình đấu thầu ở Tổng công ty cơ khí xây dựng đẫ đạt được những thành tựu rõ ràng, giúp nâng cao chất lượng công trình, tiết kiệm được vốn đầu tư , đảm bảo tiến độ theo kế hoạch. Cụ thể :
Về mặt cơ sở pháp lý.
+ Tổng công ty cũng như các bên tham gia đấu thầu đã ttuan thủ nghiêm chỉnh luật pháp, các Quy chế và quy định của Nhà nước về nội dung, trình tự đấu thầu và có đầy đủ cơ sở pháp lý cho các cuộc đấu thầu tổ chức tại Tổng công ty.
+ Đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý, cùng với các Nghị quyết, Quyết định do Nhà nước ban hành thì Tổng công ty cũng đã có quyết định riêng nhằm hỗ trợ, bổ sung cho công tác tổ chức đấu thầu ở Tổng được tiến hành một cách thuận lợi. Qua đó giúp cho các dự án triển khai ở Tổng công ty đều đã phát huy được hiệu quả trong thực tế.
Về mặt hiệu quả kinh tế xã hội.
+ Về mặt kinh tế.
Nhờ có đấu thầu nên chất lượng, tiến độ thực hiện các công trình được đảm bảo và tiết kiệm được tổng số vốn đầu tư.
Như đã biết, trong nền kinh tế thị trường thì cạnh trnah là điều kiện không thể tránh khỏi. Trong đấu thầu thì sự cạnh tranh giữa các nhà thầu là hết sức quyết liệt và để giành được thắng lợi trong cuộc cạnh tranh đó thì các nhà thầu phải thể hiện hết sức mình qua chất lượng công trình, tiến độ thực hiện dự án, giá thành thực hiện công trình cũng như nhiều yếu tố khác. Vì vậy, qua hình thức đấu thầu , các nhà thầu lựa chọn được những giải pháp kỹ thuật cho công trình một cách tối ưu mà bản thân bên mời thầu không nghĩ ra sẽ đem lại hiệu quả cao cho dự án.
Mặt khác, khi nhà thầu đã giành được hợp đồng thì họ sẽ phải thực hiện dự án theo đúng yêu cầu về chất lượng và tiến độ nếu không sẽ ảnh hưởng đến uy tín của nhà thầu đó mà trong sự cạnh tranh quyết liệt như hiện nay việc mất uy tín trên thị trường đồng nghĩa với việc phá sản doanh nghiệp. Hơn nữa, do sự ràng buộc trong hợp đồng khiến cho nhà thầu phải luôn bám sát theo hợp đồng. Từ đó, chất lượng công trình cúng như tiến độ của gói thầu luôn được theo dõi và giám sát chặt chẽ đảm bảo đưọc những yêu cầu của Bên mời thầu. Đồng thời nó cũng mang lại tính khả thi cao hơn cho dự án bởi vì tính khả thi của dự án được tạo nên tù nhiều yếu tố kết hợp lại như giải pháp kỹ thuật, biện pháp thi công, khả năng về vốn, nguòn cung ứng nguyên vật liệu, lao động và tiến độ thực hiện
+ Về hiệu quả xã hội.
Không chỉ mang lại hiệu quả về mặt kinh tế mà thôngỡƠÁ G ¿ ẽD bjbjŽÙŽÙ Š ỡ³ ỡ³ ự> ề ÿÿ ÿÿ ÿÿ ] R R R R R R R f f f f 8 ž ỡƠÁ G ¿
ẽD bjbjŽÙŽÙ Š ỡ³ ỡ³ ự> ề
ÿÿ ÿÿ ÿÿ ] R R R R R R R f f f f 8 ž các cán bộ này cũng rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích cho việc tổ chức các gói thầu sau này nhằm đem lại lợi ích cho chủ đầu tư mà cụ thể ở đây là Tổng công ty cơ khí xây dựng .
Đấu thầu đem lại tính minh bạch cho các dự án đầu tư.
Thông qua đấu thầu thì các dự án được tiến hành công khai, đảm bảo không bị lạm dụng vốn của Tổng công ty để nhằm vào các mục đích riêng của những cán bộ Tổng công ty. Đồng thời quyền lợi của các bên tham gia được bảo vệ. Tính minh bạch được thể hiện rõ trong việc công khai thông báo gọi thầu, cung cấp hồ sơ gọi thầu với những nội dung như yêu cầu kỹ thuật chủ yếu của công trình, điều khoản hợp đồng chủ yếu, tiêu chuẩn và phương pháp xét thầu, trình tự mở thầu, xét thầu và quyết định chọn thầuMinh bạch trong việc mở thầu đúng thời gain và địa điểm quy định trong hồ sơ mời thầu , đánh giá theo hồ sơ mời thầu, lựa chọn người ưu tú nhất có đủ năng lực làm người trúng thầu một cách không thiên vị theo cùng một hệ thống chuẩn mực và do Hội đồng xét thầu có đủ năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức đảm nhận. Lý do chọn nhà thầu trúng thầu cũng như lý do các nhà thầu khác bị loại đều được giải thích đầy đủ. Rõ rnàg bằng các văn bản, tránh ngờ vực.
Đấu thầu góp phần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà thầu.
Nhờ đấu thầu , các nhà thầu đã có một “ sân chơi” tự do để cạnh tranh với nhau. Môi trường cạnh trnah bình đẳng này đã tạo ra cơ hội cho các nhà thầu thực sự phát huy sức mạnh của mình. Đồng thời, sự tự do này cũng buộc các nhà thầu có năng lực chưa thực sự mạnh phải tìm cách đổi mới để nâng cao năng lực cạnh tranh thì mới có thể mong tồn tại được. Và như vậy, đấu thầu đã tạo ra các động cơ thúc đẩy buộc các nhà thầu không ngừng vươn lên đổi mới để tự hoàn thiện mình và để nhanh chóng bắt kịp với xu thế phát triển của thời đại, nếu không thì họ sẽ bị đào thải ngay lập tức. Đó chính là tất yếu của quy luật cạnh tranh. Như vậy có thể nói, công tác đấu thầu đã góp phần không nhỏ vào việc tổ chức các gói thầu đồng thời tạo điều kiện cho quy luật cạnh tranh phát huy tác dụng.
Những tồn tại
Mặc dù đã có những kết quả đáng kể, song hoạt động tổ chức đấu thầu ở Tổng công ty vẫn còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu để tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của công tác tổ chức đấu thầu nhằm góp phần xây dựng Tổng công ty thêm lớn mạnh. Cụ thể :
Hạn chế về cơ chế pháp luật.
Mặc dù chính phủ đã ban hành Nghị định 88/1999/NĐ- CP về quy chế đấu thầu và Nghị định 14/2000/NĐ- CP về việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 88/CP nhưng nói chung còn khá nhiều bất cập, chưa phù hợp. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho Tổng công ty khi áp dụng Quy chế đấu thầu . Mặt khác, hiện nay các văn bản pháp luật về đấu thầu thường xuyên sửa đổi, bổ sung làm cho việc áp dụng nó ở Tổng công ty có nhiều bất lợi vì Tổng công ty phải bỏ ra khá nhiều thời gian, chi phí, công sức để tìm hiểu, so sánh sự thay đổi này sao cho thực hiện đúng pháp luật.
Tiến độ tổ chức đấu thầu chậm.
Tiến độ công tác tổ chức đấu thầu đôi khi bị chậm lại do chậm trễ trong một số khâu :
+ Chậm trễ trong quá trình lập hồ sơ mời thầu.
Điều này bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Nguyên nhân chủ quan là vẫn còn những sai sót, nhầm lẫn trong khi lập hồ sơ mời thầu do sự bất cẩn, thiếu sót của người lập hồ sơ mời thầu và do yêu cầu gấp rút trong thời gian nhiều khi là rất ngắn giữa khoảng thời gian phát hành hồ sơ mời thầu đã định trước với thời gian nhận được quyết định phê duyệt hồ sơ mời thầu của Tổng công ty nên công tác hiệu chỉnh lại hồ sơ mời thầu theo bàn duyệt trogn thời gian ngắn không đảm bảo được tính chính xác còn nguyên nhân khách quan là do bên tư vấn thiết kế không giao kịp bản vẽ kỹ thuật và tổng dự toán theo đúng kế hoạch.
+ Trình tự trình duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu, báo cáo kết quả đấu thầu phải trải qua nhiều bước, nhiều thủ tục kéo dài. Nguyên nhân chủ quan là do các cán bộ phụ trách việc trình duyệt không thường xuyên theo dõi quá trình phê duệt với các cấp trên để kịp thời giải đáp các vấn đề phát sinh. Nguyên nhân khách quan có thể kể đến là việc thực hiện cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng chưa được tốt.
Về công tác đánh giá hồ sơ dự thầu.
Theo quy định của Nhà nước, Nhà thầu được kiến nghị thắng thầu khi đạt các yêu cầu về năng lực tài chính, kỹ thuật và có giá đánh giá thấp nhất. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây đã bắt đầu phổ biến hiện tượng một số nhà thầu đua nhau bỏ thầu giá thấp , thậm chí dưới 50% giá ước tính của chủ đầu tư, để giành giật bằng được công trình. Các nhà thầu sẽ cố tình khai giảm khối lượng công việc, hạ thấp giá dự thầu xuống để được trúng thầu, còn đến khi thanh toán lại dùng khối lượng phát sinh để bù lại. Và khi được trao hợp đồng thường các nhà thầu này thi công dây dưa kéo dài, không đảm bảo chất lượng và tiến độ công trình, và dẫn đến các chi phí trong thực tế sẽ gia tăng. Cách đấu thầu này đã gây ra rất nhiều hậu quả xấu và làm mất đi tính hấp dẫn của đấu thầu xây dựng.
Về công tác trang bị cơ sở vật chất.
Tuy đã có trang bị về cơ bản nhưng tình trạng thiếu máy móc và một số trang thiết bị khác vẫn chưa đảm bảo khối lượng công việc ngày càng nhiều. Chính điều này cũng gây ra nhiều khó khăn khiến thời gian thực hiện công việc bị kéo dài.
Về quản lý chi phí tổ chức đấu thầu .
Công việc này chưa được quản lý chặt chẽ đúng mức, chưa có một cán bộ chuyên trách có chuyên môn sâu về quản lý chi phí phụ trách lĩnh vực này, trình độ năng lực cán bộ quản lý còn hạn chế, cơ chế quản lý chưa chặt chẽ. Do vậy sẽ dẫn đến gây lãng phí vốn đầu tư .
Về đội ngũ cán bộ làm việc trong lĩnh vưc đấu thầu.
Mặc dù Tổng công ty đã có một đội ngũ chuyên gia có trình độ và kinh nghiệm nhưng số lượng không nhiều, do các gói thầu được tổ chức đấu thầu thường là các gói thầu có quy mô nhỏ nên chưa có kinh nghiệm nhiều trong gói thầu lớn đòi hỏi trình độ cao, phức tạp. Mặt khác, Tổng công ty vẫn chưa thực sự quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý về đấu thầu bởi lẽ một phần công tác đấu thầu không phải là hoạt động chính của Tổng công ty mà hoạt động chính là kinh doanh, nên công tác tổ chức đấu thầu chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Một số cán bộ chưa thực sự đứng ngành nghề nhưng vẫn có thể tham gia công tác đấu thầu của Tổng công ty và điều này làm ảnh hưởn không nhỏ đến công tác đấu thầu.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý về đấu thầu xây dựng.
Kiến nghị với Nhà nước.
Thứ nhất : Sửa đổi quy định đối với nhà thầu nước ngoài cho hợp lý.
Trong khoản 3- Điều 1- Nghị định 14/2000/NĐ- CP ngày 05/05/2000 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/CP ngày 01/09/1999 có quy định : “ Nhà thầu nước ngoài khi tham dự đấu thầu quốc tế tại Việt Nam về xây lắp phải liên danh với nhà thầu Việt Nam hoặc phải sử dụng nhà thầu phụ Việt Nam , nhưng phải nêu rõ sự phân chia giữa các bên về phạm vi công việc, khối lượng và đơn giá hợp lý”. Như đã trình bày ở trên quy định này gây khó khăn cho các nhà thầu nước ngoài khi tham dự đấu thầu tại Việt Nam. Vì vậy, theo tôi Chính Phủ nên sửa lại điều khoản này như sau : “ có chế độ ưu tiên đối với nhà thầu nước ngoài khi tham dự đấu thầu quốc tế tại Việt Nam về xây lắp mà có cam kết hoặc liên danh với nhà thầu Việt Nam hoặc sử dụng nhà thầu phụ Việt Nam”. Nếu quy định như vậy chúng ta sẽ giải thoát được một khó khăn lớn cho các nhà thầu quốc tế. Bởi vì hoạt động đấu thầu ở Việt Nam còn nhiều mới mẻ, việc tìm được nhà thầu để liên danh hay sử dụng làm nhà thầu phụ không phải là dễ. Do vậy, công việc này phải làm xong trong một thời gian ngắn, từ khi nhận được thông báo mời thầu hay thư mời thầu đến khi nộp hồ sơ dự thầu. Ngoài ra, nếu quy định như vậy chúng ta sẽ thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và sẽ tạo thuận lợi cho chủ đầu tư để có thể lựa chọn được nhà thầu tối ưu nhất.
Thứ hai : Vấn đề giá gói thầu và giá xét thầu.
Về giá gói thầu( Quy định tại điều 3- Mục 23- Nghị định 88/1999/NĐ- CP) .
Vấn đề này cần được quy định rõ hơn, cụ thể là cần phải quy định như sau : “ Giá gói thầu trong kế hoạch đấu thầu được căn cứ trên cơ sở tổng mức đầu tư đối với các gói thầu thiết bị hoặc tư vấn, thiết kế và được dựa trên tổng dự toán với các gói thầu xây lắp theo hợp đồng có điều chỉnh giá hoặc dựa trên dự toán hạng mục đối với các gói thầu xây lắp theo hợp đồng trọn gói”.
Về giá trần và giá sàn.
Đây là hai vấn đề còn gây nhiều tranh cãi, đặc biệt đối với các gói thầu quốc tế. Trong điều kiện các nhà thầu Việt Nam không có khả năng tham gia các gói thầu tổ chức theo đấu thầu quốc tế, không chỉ vậy trình độ Bên mời thầu và các nhà tư vấn đấu thầu của ta không đủ khả năng để đánh giá được toàn bộ hồ sơ dự thầu của các nhà thầu quốcỡƠÁ G ¿ ẽD bjbjŽÙŽÙ Š ỡ³ ỡ³ ự> ề ÿÿ ÿÿ ÿÿ ] R R R R R R R f f f f 8 ž ỡƠÁ G ¿ ẽD bjbjŽÙŽÙ Š ỡ³ ỡ³ ự> ề ÿÿ ÿÿ ÿÿ ] R R R R R R R f f f f 8 ž iều thiệt hại cho ngành, cho Nhà nước.Nhưng giá sàn lại cũng có hai mặt của nó. Tức là nếu áp dụng giá sàn trong đấu thầu nhằm chống lại sự phá giá thì đồng thời nó cũng lại gây nghi ngờ về tính đúng đắn của nó. Bởi vì giá sàn còn phụ thuộc vào trình độ, trách nhiệm của tư vấn mà tổ chức này lại đứng ngoài cuộc đấu thầu nên giá sàn thì vẫn lại do tư vấn xác định mà thôi.
Do vậy, Nhà nước ta nên chăng không cần phải quy định giá sàn trong Pháp lệnh đấu thầu sắp tới, nhưng vẫn phải cho phép các chủ đầu tư, Bên mời thầu dùng giá sàn để xét thầu. Điều này sẽ rất có lợi cho chủ đầu tư tinh thông nghiệp vụ và đây là công việc hoàn toàn không phức tạp và rất dễ tiến hành.
Mặt khác, để khắc phụctình trạng bỏ giá thấp do không có mức giá sàn làm chuẩn làm ảnh hưởng đến chất lượng công trình và sự phát triển vững chắc của các nhà thầu, ta có thể xác định giá xét thầu như sau:
-Nhà thầu trúng thầu là người chào giá gần nhất( là giá đnáh giá) so với giá trùn bình của tất cả các hồ sơ dự thầu mà chủ đầu tư nhận được.
- Nhà thầu trúng thầu là người chào giá có thể thấp hơn giá trung bình nói trên, nhưng là giá gần nhất với giá này và vẫn thấp hơn giá dự toán của chủ đầu tư.
- Nhà thầu trúng thầu là người chào giá gần nhất với mức giá trung bình, sau khi đã loại giá thầu thấp nhất và cao nhất trong các hồ sơ dự thầu nhận được.
- Ngoài ra còncó thể quy định rằng những nhà thầu nào bỏ thấp hơn giá dự toán của chủ đầu tư 10% đều bịloại hoặc quy định nghiêm cấm những nhà thầu nào bỏ giá thầu thấp hơn giá thành.
Như vậy, có rrát nhiều giải pháp, vấn đề là Nhà nước cần phải cân nhắcđể lựa chọn ra giải pháp có tính tối ưu nhất, giải quyết vấn đề một cách tốt nhất.
Thứ ba : Về phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu.
Theo quy định tại khoản 1- Điều 30 - Nghị định 88/1999/NĐ-CP thì về điểm kỹ thuật, nếu quy định điểm tối thiểu 70% trở lên sẽ được chọn và danh sách ngắn. Trong thực tế đã có nhiều nhà thầu năng lực không cao nhưng cũng lọt vào danh sách ngắn. Sau khi lọt vào danh sách ngắn,những nhà thầu này lại thường có giá đnáh giá thấp nhất và hậu quả là chất lượng công trình bị hạn chế. Vì vậy,cần thiết nên nâng điểm tối thiểu kỹ thuật lên 80% hoặc cao hơn tuỳ theo yêu cầu kỹ thuật của công trình thì xét “ đạt” hoặc thay bằng phương pháp tổng hợp cả hai điểm kỹ thuật và giá để xem xét lựa chọn nhà thầu trúng thầu như thông lệ quốc tế. Bởi vì chỉ có như thì công trình xây dựng khi đấu thầu mới đạt được giá cả hợp lý, để đảm bảo hcất lượng công trình. đặc biệt là loại trừ được những đơn vị yếu kém hơn về kỹ htuật, năng lực thi công và góp phần vào làm giảm đi những tiêu cực trong đấu thầu xây dựng.
Thứ tư : Cần có biện pháp để giải quyết những tiêu cực trong đấu thầu.
Để hạn chế tiêu cực trong đấu thầu, Nhà nước cần có biện pháp tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ công tác đấu thầu. Nhất là trong việc nghiệm thu chất lượng công trình để tránh được tình trạng moc ngoặc giữa bên thi công và nghiệm thu công trình, tránh gây thiệt hại về tiền của,công sức của nhân dân. Nếu cá nhân, tập thể nào vô trách nhiệm hoặc cố ý buông lỏng công tác đấu thầu thì phải thi hành kỷ luật kịp thời, thích đáng. Để công tác xử lý vi phạm có hiệu quả, Nhà nước nên xây dựng hẳn một chương trong Quy chế đấu thầu về hình thức vi phạm và biện pháp xử lý đối voí những cá nhân, tổ chức vi phạm Quy chế đấu thầu. Có như thế mới giảm bớt hiện tượng vi phạm và tiêu cực trong đấu thầu.
Thứ năm : Nhà nước cần nhanh chóng ban hành Pháp lệnh đấu thầu.
Thực tế cho thấy là Quy chế đấu thầu hiện nay là một bước tiến vượt bậc nhưng khi thực hiện công tác đấu thầu đối với các gói thầu có quy mô lớn, công nghệ cao thì việc thực hiện còn lúng túng do tính chuyên môn hoá cao và những quy định chưa đầy đủ. Do quy mô và tầm quan trọng của hình thức đấu thầu thì cần phải có một văn bản pháp lý cao để xứng đáng với hoạt động đó. Nếu có Pháp lệnh đấu hầu hoặc Luật đấu thầu điều hcỉnh hoạt động đến đấu thầu thì việc quản lý của Nhà nước về hoạt động này sẽ được thuận lợi hơn.
3.2. Kiến nghị với Tổng công ty.
3.2.1. Chuẩn bị tố hồ sơ mời thầu.
Hồ sơ mời thầu là cở, là căn cứ để các nhà thầu chuẩn bị và xác định các côngviệc phải làm nếu được chọn, đó là tất cả mọi yêu cầu của Bên mời thầu . Vì thế khi chuẩn bịtốt hồ sơ mời thầu sẽ giúp cho các nhà thầu khái quát được công việc , hình dung được tiến độ thực hiện và phân bộ nguồn lực sao cho có hiệu quả nhất.
Hồ sơ mời thầu được chuẩn bị tốt sẽ tạo điều kiện cho hồ sơ dự thầu được soạn thảo tốt,giúp cho các gói thầu được thực hiện thuận lợi với các giải pháp tối ưu nhất. Như vây, việc chuẩn bị hồ sơ mời thầu cũng là một trong những tiền đề quyết định sự thành công góp phần vào hoàn thiện công tác đấu thầu.Do vậy, lập hồ sơ mời thầu đòi hỏi tính khoa học cao,mọi thông tin phải chính xác giúp nhà thầu dễ đọc và dễ hiểu yêu cầu của Bên mời thầu, tránh hiện tượng lặp đi lặp lại một thông tin nào ở các phần khác nhau.
3.2.2. Nâng cao chất lượng của công tác tổ chức tư vấn.
Công tác tư vấn( tư vấndự án, tư vấn xét thầu, tổ chuyên gia xét thầu) thực chất làhoạt động dịch vụ “ chất xám”. Hoạt động tư vấn có ý nghĩa quan trọng và mang tính quyết định đến hiệu quả đầu tư và chất lượng của các dự án xây dựng. Bởi lẽ chức năng của tổ chức tư vấn là thay mặt chủ đầu tư để thực hiện các bước như : Lập hồ sơ thiết kế kỹ thuật, lập tổng dự toán công trình, chuẩn bị hồ sơ mời thầu, xét thầu...
3.2.3. Đào tạo, bố trí và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ.
Cần bổ sung đội ngũ cán bộ về số lượng và chất lượng, đặc biệt là những cán bộ có chuyên môn về lĩnh vực cụ thể trong đầu tư xây dựng và đấu thầu.Bởi vì, khi có những cán bộ có chuyên môn sâu như vậy họ sẽ xem xét nghiên cứu kỹ lưỡng những vấn đề cần quan tâm quản lý thì khi ban hành ra các quyêts định sẽ đem lại sự chính xác cao, hiệu quả cao, tránh được những tiêu cực gây thiệt hại cho chủ đầu tư, nhà thầu và cho đất nước.
3.4. Kiến nghị với nhà thầu
Thứ nhất : Yêu cầu các nhà thầu phải tuyệt đối tuân thủ các quy định pháp luật về đầu tư xây dựng và đấu thầu đặc biệt là Quy chế đấu thầu, cần xem xét thật kỹ lưỡng yêu cầu trong hồ sơ mời thầu để khi mình trúng thầu thì mình sẽ đảm bảo thực hiện tôt nhất các yêu cầu đó.
Thứ hai : Bồi dưỡng , tuyển dụng các cán bộ chuyên môn về công tác đấu thầu. Cụ thể phải chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn và kiến thức pháp luật về đấu thầu, tin học , ngoại ngữ cho các cán bộ quản lý, kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, công nhân kỹ thuật nâng cao nghiệp vụ từ đó việc tiến hành công tác dự thầu sẽ diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn..
Nâng cao trình độ cho cán bộ sẽ tạo ra ưu thế lớn cho mỗi một nhà thầu, thông qua đó năng lực cạnh tranh của mỗi nhà thầu sẽ cao hơn rất nhiêu. Muốn làm được điều đó thì các nhà thầu phải chú trọng việc sắp xếp, phân công một cách hợp lý, đúng đối tượng, đúng trình độ chuyên môn, tay nghề. Có kế hoạch chi tiết về việc tuyển dụng, bôi dưỡng phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ điều hành của Công ty.
Các nhà thầu cũng cần thiết phải cư các cán bộ đi học qua các khoá học tập trung hay học tập ở đơn vị bạn, cần có chiến lược kế hoạch hoá nguồn nhân lực nhằm thích ứng với đối thủ cạnh tranh. Thực hiện tốt hơn nữa giải pháp đào tạo kiến thức sẽ giúp cho các nhà thầu nâng cao hiệu quả đấu thầu nói chung và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung.
Thứ ba : Trong quá trình lập hồ sơ mời thầu phải dựa hoàn toàn vào hồ sơ mời thầu của chủ đầu tư nên phải xem xét thật kỹ lưỡng những nội dung, yêu cầu trong hồ sơ mời thầu để xem mình có đủ năng lực hay không nhằm tránh được những hậu quả xảy ra khi tham gia đấu thầu.
Thứ tư : Hoàn thiện phương pháp lập giá toán dự thầu . Xây dựng chính sách giá cạnh tranh linh hoạt, lành mạnh. Cụ thể các nhà thầu cần phải xem xét, điều chỉnh cách tính giá dự toán xây dựng công trình của mình sao cho sạt thực với cách lập giá dự toán của chủ đầu tư. Việc đưa ra được giá bỏ thầu cạnh tranh không chỉ phụ thuộc vào phương pháp lập giá, chiến lược bỏ giá cơ bản mà còn phụ thuộc rất nhiều vào việc tiết kiệm chi phí xây dựng công trình, nâng cao hiệu suất của máy móc, năng suất của lao động.
+ Biện pháp nhằm nâng cao năng suất lao động: Các nhà thầu cần sử dụng lao động một cách hợp lý, đúng ngành nghề, chuyên môn. Bố trí đào tạo và tuyển dụng thợ có tay nghề cao với chính sách trả lương hợp lý, bên cạnh đó với những công nhân cũ cần có những đợt huấn luyện nhằm đào tạo lại và củng cố thêm trình độ sẵn có của họ.
+ Biện pháp nâng cao hiệu suất máy móc thiết bị : Các nhà thầu cần chú trọng khâu đầu tư máy móc thiết bị, thay thế máy móc cũ bằng những thiết bị hiện đại, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới nhằm nâng cao chất lượng công trình và nâng cao uy tín của mình, kết quả đấu thầudo đó, để cho công tác đấu thầu đạt hiệu quả cao thì buộc mỗi chủ đầu tư phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật về đấu thầu , chỉ được phép tiến hành tổ chức đấu thầu khi có quyết định của cơ quan chủ quản chủ đầu tư mà cụ thể ở đây là Tổng công ty cơ khí xây dựng . Có như vậy thì công tác đấu thầu mới mang lại hiệu quả cao cho chính chủ đầu tư, cho nhà thầu và cho các cơ quan có liên quan đến hoạt động này.
Thứ hai : Lựa chọn phương thức đấu thầu một cách hợp lý.
Việc lựa chọn được nhà thầu có tối ưu hay không phụ thuộc khá nhiều vào quyết định chọn phương thức đấu thầu của chủ đầu tư. Chính bởi mỗi nhà thầu đều có những khả năng nhất dịnh nên chủ đầu tư cần lựa chọn nên lựa chọn phương thức đấu thầu nào sao cho hợp lý, phù hợp với từng dự án cụ thể.
Thứ ba : Cần lựa chọn nhà tư vấn có đủ năng lực thực sự.
Như ta đã nói ở trên, pháp luật về đấu thầu hiện nay chưa có quy định một cách cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm của nhà tư vấn trong đấu thầu, do đó chủ đầu tư cần phải có kế hoạch lựa chọn được nhà tư vấn có đủ năng lực thực sự đáp ứng với yêu cầu của từng dự án , tránh tình trạng không khách quan, không trung thực , thiếu chính xác trong quyết định của nhà tư vấn gây ra tổn thất to lớn không chỉ cho chủ đầu tư mà còn cho nhà thầu, cho xã hội. Chính vì thế, chủ đầu tư cần phải hết sức thận trọng trong khâu tuyển chọn này, có như thế mới nâng cao được chất lượng công trình, nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành cơ khí xây dựng nói riêng và của nền kinh tế nước nhà nói chung
Kết luận
Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đnag ngày càng diễn ra một cách nhanh chóng buộc mỗi quốc gia phải biết vượt qua thử thách để cùng hoà nhập vào nền kinh tế chung của thế giới.
Với một nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu cùng với cơ sở hạtầng thấp kém sẽ là khó khăn lớn đối với đất nước ta. Chính vì vậy, hơn bao giờ hết việc cải cách hệ thống pháp luật theo hướngthông thoáng, hiệu quả là việc cần thiết phải làm ngay.
Đấu thầu tuy còn là một hình thức khá mới mẻ ở Việt Nam nhưng nó đã dần mang lại rất nhiều lợi ích to lứon cho xã hội. Bài viết đã phần nào nêu lên những quy định của pháp luật về đấu thầu đặc biệt là hoạt động quản lý đấu thầu tại Tổng công ty cơ khí xây dựng trên cơ sở tuân theo những quy định của Quy chế đấu thầu, đồng thời bài viết cũng nêu lên một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động đấu thầu ở Việt Nam .
Tài liệu tham khảo
Các văn bản quy phạm pháp luật
+ Luật thương mại ngày 10/05/1997.
+ Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 của Chính Phủ về việc ban hành quy chế đấu thầu.
+ Nghị định 14/2000/NĐ-CP ngày 05/05/2000 của Chính Phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999.
+ Thông tư số 04/2000/TT-BKH ngày 26/05/2000 hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP và Nghị định 14/2000/NĐ-CP.
+ Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 của Chính Phủ về việc ban hành Quy chế quản lý đầu tư và đấu thầu.
+ Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/05/2000 của Chính Phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP.
+ Nghị định 43/CP ngày 16/07/1996 của Chính Phủ về việc ban hành Quy chế đấu thầu.
+ Quyết định số 24/BXD-VKT ngày 12/2/1990 của Bộ xây dựng ban hành quy chế đấu thầu trong xây dựng .
+ Dự thảo lần thứ hai Pháp lệnh đấu thầu ngày 12/10/2000 của Uỷ ban thường vụ quốc hội.
Các tài liệu tham khảo khác.
+ Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam – Trường Khoa học xã hội và nhân văn.
+ Tạp chí xây dựng số 11/2000, số 7/2001, số 9/2001.
+ Tạp chí kinh tế dự báo số 3/2000, số 2/2000, số 6/2000.
+ Một số mẫu hồ sơ mời thầu của Tổng công ty cơ khí xây dựng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NKT139.doc