Chủ trương CPH một bộ phận DNNN là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong quá trình cải cách và sắp xếp lại các DNNN, nhằm đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định, song công tác CPH vẫn diễn ra rất chậm và chưa hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đặt ra.
Trong thời gian học tập ở trường, em đã tập trung nghiên cứu hoạt động CPH – DNNN ở nước ta. Với vốn kiến thức đã được học, kết hợp với việc nghiên cứu tình hình thực tế, em đã trình bày một số vấn đề về thực trạng CPH-DNNN của nước ta. Nhưng vì thời gian và kiến thức có hạn, nên đề tài chưa đi sâu vào các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ tác động trực tiếp lâu dài tới quá trình CPH. Các giải pháp trong đề tài chỉ mang tính chất cơ bản, chưa tạo ra bước ngoặt lớn trong quá trình CPH. Tuy nhiên, em cũng hy vọng rằng, những giải pháp này sẽ đóng góp một phần nào đó nhằm đẩy nhanh tiến độ CPH – DNNN ở nước ta hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Phạm Văn Minh đã đóng góp ý kiến tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt bài viết này.
33 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à nước, Nghị định 338- HĐBT về thành lập và giải thể DNNN, đặc biệt là quyết định 202- HĐBT và chỉ thị 84-TTg của thủ tướng Chính phủ về thí điểm CPH một số DNNN… Ngoài ra còn có các quyết định, thông tư của các Bộ và liên Bộ cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này. Điều này xác định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở mọi cấp, mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp triển khai thực hiện.
- Tình hình kinh tế của đất nước đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Giá cả thị trường đã được duy trì theo hướng tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã được giá, lãi suất ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh… Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các doanh nghiệp Nhà nước được CPH.
- Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Nhà nước mấy năm qua, thu nhập của dân cư được nâng cao. Số người khá giẩ ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp được CPH.
- Hoạt động trong cơ chế thị trường với thời gian chưa lâu nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng kinh doanh lớn; người lao động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức, tác phong và hiệu quả công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho công việc thực hiện CPH các DNNN.
- Với luật đầu tư nướcc ngoài và sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng kinh doanh của nước nngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng cổ phiếu vào các DNNN sẽ được tiến hành CPH.
- Ngoài ra, với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nướcc trên thế giới trong quá trình CPH - DNNN sẽ là những bài học bổ ích và quý giá để Nhà nước tiến hành hoạch dịnh chính sách và tổ chứcthực hiện công việc CPH các DNNN tại Việt Nam.
2. Về các yếu tố khó khăn và cản trở
- Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình CPH ở nước ta là do khu vực tư nhân nhỏ bé và yếu ớt. Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triển của kinh tế thị trường trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều này gây ra sự bỡ ngỡ, lúng túng cho cả người đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thức cổ phiếu,do đó làm cho việc tiến hành chương trình CPH ở nước ta phải thực hiện trong một thời gian dài song song với sự hình thành và phát triển hình thái công ty cổ phần cũng như xác lập môi trường pháp lý tương ứng.
- Cùng với sự yếu ớt và nhỏ bé của khu vực kinh tế tư nhân là sự thiếu vắng một thị trường tài chính thực sự, trong đó có thị trường chứng khoán. Như chúng ta biết, thị trường chứng là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các công ty cổ phần trong một nền kinh tế thị trường: nó vừa là điều kiện, vừa là tấm gương phản chiếu sự ra đời và hoạt động của các công ty cũng như huy động vốn trên thị trường tài chính. Sự thiếu vắng thị trường chứng khoán đi liền với nó là thiếu hệ thống pháp lý và tổ chức vận hành đã gây khó khăn và cản trở cho quá trình CPH. Đó là việc định giá doanh nghiệp để CPH, việc phát hành và lưu thông cổ phiếu, việc mua bán chuyển nhượng cổ phiếu, hệ thống pháp lý và tổ chức để bảo đảm duy trì được hoạt động của thị trường chứng khoán.
Đây là hai yếu tố quan trọng gây khó khăn và cản trở đến việc thực hiện CPH các DNNN ở Việt Nam. Ngoài ra, còn có một số yếu tố đặc thù khác cũng góp phần không nhỏ gây khó khăn và cản trở cho việc CPH đó là:
Sự chưa ổn định trong chính sách vĩ mô của Nhà nước về luật pháp , thuế khoá, tiền tệ,… chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro cho những người muốn đầu tư lâu dài. Nhiều chính sách ra đời chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau và thay đổi đột ngột, lạm phát chưa được kiềm chế một cách chắc chắn và vẫn còn ở mức hai con số; sự đổi mới của hệ thống ngân hàng và cơ chế hoạt động tín dụng quá chậm trễ so với đòi hỏi của cơ chế thị trường là những yếu tố gây bất lợi cho môi trường đầu tư trong nước, và do đó gây bất lợi cho quá trình CPH các DNNN.
Các DNNN hầu hết có trang bị máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, biên chế cồng kềnh, khả năng cạnh tranh thấp.. do đó khó có thể tiến hành CPH các doanh nghiệp này; số doanh nghiệp có đủ khả năng hấp dẫn để CPH còn quá ít. Và những doanh nghiệp có lợi nhuận cao thì Nhà nước lại chưa có ý định tiến hành CPH. Điều này gây khó khăn cho việc lựa chọn các doanh nghiệp CPH cũng như thu hút sự hưởng ứng của đông đảo những người có vốn muốn đầu tư bằng cổ phiếu.
Về tư tưởng và tâm lý của đa số mọi người trong xã hội còn chưa quen với vấn đề mới mẻ này, thậm chí còn có những phản ứng nhất định ở những người đang sống yên ổn trong khu vực Nhà nước. Về mặt suy nghĩ, nhiều người làm công tác lãnh đạo và quản lý Nhà nước vẫn chưa đoạn tuyệt được quan điểm coi kinh tế Nhà nước là CNXH và vì vậy, thu hẹp khu vực này có nghĩa là rời xa CNXH, là phá vỡ cơ sở của CNXH. Đa số các giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp thì ngần ngại, thậm chí phản đối vì sợ chuyển từ “người chủ” thành người “làm thuê cao cấp”, sẽ chịu sự đánh giá và kiểm soát của Hội đồng quản trị và các cổ đông về trình độ năng lực của mình, còn những người lao động thì lo sợ mất việc làm, mất biên chế Nhà nước… Đó là những trở ngại chủ quan không thể không được tính đến trong quá trình tiến hành CPH các DNNN.
Nhà nước thiếu một nguồn tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan đến chương trình CPH như các khoản trợ cấp cho người lao động thất nghiệp, chi phí đào tạo lại nghề mới và thời gian tìm việc, các chi phí cho chính sách xã hội và bảo hiểm, các chi phí để thực hiện công việc tư vấn, quảng cáo, môi giới đầu tư, chi phí phát hành và các dịch vụ về buôn bán cổ phiếu…Những khoản phí tổn này là không thể bỏ qua được và thường rất lớn. Đây là chưa kể đến chính sách bán cổ phiếu giá thấp và tín dụngcho một số đối tượng nhất định để khuyến khích và thực hiện mục tiêu xã hội sẽ làm cho chi phí tăng lên nhiều hơn nữa. Thêm vào đó, nạn tham nhũng và hối lộ sẽ lợi dụng cơ hội này để tẩu tán tài sản của Nhà nước nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ.
Hệ thống kiểm toán chưa trở thành một hoạt động phổ biến và thống nhất. Điều này gây nhiều trở ngại cho việc định giá giá trị của doanh nghiệp, tình hình và triển vọng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được CPH…và do đó gây khó khăn cho việc cung cấp thông tin trung thực, tin cậy cho những người có nhu cầu đầu tư bằng cổ phiếu với những doanh nghiệp này.
3. Chủ trương và chính sách của Chính phủ về CPH – DNNN
Mặc dù quan niệm và phương thức tiến hành CPH DNNN ở mỗi nước có những khác biệt nhất định, song đều nhằm mục đích chung là tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá không ngừng tăng lên của xã hội.
Để tạo cơ sở pháp lý cho CPH - DNNN, Chính phủ và các Bộ, ngành hữu quan đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách theo hướng ngày càng đổi mới, thông thoáng hợp với tình hình thực tế ở nước ta. Chủ trương CPH - DNNN được Chính phủ đề ra tại điều 22 của quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1997 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) và đã được nhấn mạnh trong Nghị quyết khoá họp thứ tư Quốc hội Khoá VIII, song vì chưa có hướng dẫn của các bộ, ngành chức năng nên chỉ có số ít các DNNN triển khai thực hiện và mỗi nơi làm một kiểu, dẫn đến tình trạng rời rạc không hiệu quả. Chỉ đến khi có quyết định số 202/CT ngày 08/06/1992 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ), kèm theo đề án triển khai thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần, thì chủ trương này mới thực sự được tiến hành có tổ chức, có hệ thống. Mặc dù vậy vẫn còn phải có sự đôn đốc của Thủ tướng Chính phủ bằng chỉ thị số 84/TTg ngày4/3/1993, Thông tư số 36/TC-CN ngày 7/5/1993 của Bộ tài chính, thông tư số 09/LĐTBXH-TT ngày 22/7/1992 của Bộ lao động thương binh và xã hội thì CPH mới thực sự đi vào sự nghiệp cải cách khu vực kinh tế Nhà nước.
CPH một số DNNN là một chủ trương đúng đắn, song phải mất một thời gian dài, chính thức là 5 năm, từ phác thảo đến mô hình, cách đặt vấn đề cho đến lúc triển khai thực hiện một cách có tổ chức có hệ thống.
Doanh nghiệp CPH được hưởng những ưu đãi sau:
DNNN chuyển thành công ty cổ phần là hình thức đầu tư mới, được hưởng ưu đãi theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi).
Trường hợp những doanh nghiệp không đủ điều kiện hưởng ưu đãi theo quy địng của luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được giảm 50% thuế lợi tức (thuế TNDN) trong hai năm liên tiếp kể từ sau khi chuyển sang hoạt động theo luật công ty.
Đựơc miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của DNNN-CPH thành sở hữu của Công ty cổ phần.
Được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng Thương mại, Công ty Tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như áp dụng đối với DNNN.
Được tiếp tục XNK hàng hoá theo các chế độ quy định hiện hành như đối với DNNN trước khi CPH.
Trước khi CPH được chủ động sử dụng số dư quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi (bằng tiền) chia cho người lao động đang làm việc (không phải nộp thuế thu nhập) để mua cổ phần.
Được duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật các công trình văn hoá, câu lạc bộ, bệnh xá, nhà điều dưỡng để đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong Công ty cổ phần. Những tài sản này thuộc sở hữu của tập thể người lao động do Công ty cổ phần quản lý với sự tham gia của tổ chức công đoàn.
Các khoản chi phí thực tế, hợp lý và cần thiết cho quá trình chuyển DNNN thành Công ty cổ phần được trừ vào tiền bán cổ phần thuộc vốn Nhà nước theo quy định của Bộ tài chính.
Người lao động trong doang nghiệp CPH được hưởng những ưu đãi sau:
Được nhà nước bán với giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp tuỳ theo năm công tác của từng người. Một năm làm việc cho nhà nước được mua tối đa 10 cổ phần (trị giá một cổ phần: 100.000 đồng) với mức giảm giá 30% so với các đối tượng khác. Tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không quá 20% giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Người lao động sở hữu cổ phần nói trên có quyền chuyển nhượng để thừa kế và các quyền khác của cổ đông theo quy định của pháp luật và điều lệ tổ chức hoạt động của công ty cổ phần.
b. Người lao động nghèo trong doanh nghiệp được mua cổ phần theo giá ưu đãi thì được hoãn trả trong 3 năm đầu để hưởng cổ tức và trả dần tối đa trong 10 năm không phải chịu lãi suất. Số cổ phần mua trả dần cho người lao động nghèo không vượt quá 20% tổng số cổ phần nhà nước bán theo giá ưu đãi. Người sở hữu cổ phần trả dần không đượcc chuyển nhượng khi chưa trả tiền cho nhà nước.
Sau 12 tháng kể từ khi DNNN chyển thành Công ty cổ phần, nếu do nhu cầu tổ chức lại hoạt động kinh doanh, thay đổi công ghệ dẫn đến người lao động mất việc làm thì chính sách đối với những người lao động này được giải quyết theo những quy định hiện hành của Chính phủ.
Phần II: Thực trạng vấn đề CPH các DNNN ở nước ta hiện nay.
Tình hình tiến triển.
CPH-DNNN được bắt đầu từ những năm 90, đã trải qua các thời kỳ thí điểm đến thực hiện một cách bình thường đối với các DNNN nằm trong danh mục cần tién hành CPH và đa dạng hoá các hình thức sở hữu, mô hình tổ chức quản lý.
1.1 Thời kỳ thí điểm.
Thời kỳ này, thực hiện quyết định số 202/CT của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), các bộ, các ngàng đã hướng dẫn DNNN đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang Công ty cổ phần. Trên cơ sở số lượng DNNN đã đăng ký, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng đã ra quyết định số 203/CT ngày 8-6-1992 chọn 7 DNNN do Chính phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành Công ty cổ phần:
Nhà máy xà bông (Thuộc liên hiệp Công ty bột giặt miền Nam, Tổng Công hoá chất II, Bộ công nghiệp nặng).
Nhà máy diêm Thống Nhất (thuộc liên hiệp sản xuất – xuất nhập khẩu giấy gỗ diêm, Bộ công nghiệp nhẹ).
Xí nghiệp nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc (thuộc Công ty chăn nuôi và thức ăn gia súc I, Bộ Nông nghiệp và công nghệ thực phẩm).
Xí nghiệp chế biến gỗ Long Bình (thuộc Tổng Công ty dịch vụ, sản xuất và xuất nhập khẩu lâm sản 3, Bộ lâm nghiệp).
Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng (thuộc Tổng Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Hà Nội, ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội).
Xí nghiệp may mặc (thuộc Công ty dệt – da – may Legamex, UBND TP. Hồ Chí Minh).
Tuy nhiên sau thời gian làm thử, 7 doanh nghiệp Nhà nước Chính phủ chọn thí điểm đều xin rút lui hoặc không đủ điều kiện để tiến hành CPH như Nhà máy xà bông miền Nam, Xí nghiệp may mặc (thuộc Công ty dệt – da – may Legamex)…
Trong số hơn 30 DNNN đăng ký với Bộ Tài chính để thực hiện CPH thì sau hơn bốn năm thực hiện Quyết định số 202/CT có năm DNNN chuyển thành Công ty cổ phần là:
Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển (Bộ giao thông vận tải).
Công ty cổ phần cơ điện lạnh (TP. Hồ Chí Minh)
Công ty cổ phần giầy Hiệp An (Bộ công nghiệp).
Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (tỉnh Long An).
Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc (Bộ Nông nghiệp).
1.2 Thời kỳ mở rộng thí điểm và thực hiện bình thường (1996 -2000)
Từ năm 1996 – 2000 là giai đoạn mở rộng thí điểm.
Ngày 7/5/1996 chính phủ đã ban hành nghị định số 28/CP “ về việc chuyển một số DNNN thành Công ty cổ phần”, thay thế cho quyết định số 202/CT với những quy định cụ thể rõ ràng hơn.
Thực hiện nghị định số: 28/CP, công tác CPH-DNNN đã được quan tâm hơn cụ thể: có 30 tỉnh, thành phố, Bộ , ngành và các tổng công ty 91 đã đăng ký thực hiện CPH hơn 200 DNNN, nhưng đến đầu năm 1998 mới có 18 DNNN thực hiện CPH, chuyển sang hoạt động theo luật Công ty với tổng số vốn là: 121384.000.000đ, trong đó:
- Phân theo ngành:
Ngành Giao thông vận tải
4 doanh nghiệp
Ngành Công nghiệp
7 doanh nghiệp
Ngành xây dựng
1 doanh nghiệp
Ngành chế biến Nông lâm thuỷ hải sản
3 doanh nghiệp
Ngành dịch vụ
3 doanh nghiệp
Phân theo lãnh thổ:
TP. Hồ Chí Minh
10 doanh nghiệp
TP. Hà Nội
1 doanh nghiệp
TP. Hải Phòng
1 doanh nghiệp
Tỉnh Long An
1 doanh nghiệp
Tỉnh Ninh Bình
1 doanh nghiệp
Tỉnh Bình Định
1 doanh nghiệp
Tỉnh Cà Mau
1 doanh nghiệp
Tỉnh An Giang
1 doanh nghiệp
TP. Đà Nẵng
1 doanh nghiệp
Trong số 18 công ty cổ phần có 1 công ty cổ phần nhà nước không nắm giữ cổ phần, 17 công ty còn lại nhà nước nắm giữ cổ phần ít nhất là 18%, cao nhất là 51%, cổ phần còn lại do cổ đông ngoài xã hội chiếm giữ.
So với yêu cầu cải cách doanh DNNN và số lượng doanh nghiệp nhà nước trong diện CPH thì kết quả đạt được trong các năm 1992 – 1998 là quá ít, tốc độ cổ phần hoá rât chậm.
Từ năm 1998 đến nay là giai đoạn thực hiện bình thường và phổ biến đối với tất cả các DNNN tthuộc danh sách cần phải CPH. CPH DNNN có chuyển biến rõ rệt và đáng khích lệ từ khi có nghị định số 44/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ “ về việc chuyển DNNN thành Công ty cổ phần”. Riêng 6 tháng cuối năm 1998 đã cổ phần hoá được 90 DNNN. Năm 1999 cổ CPH được 250 DNNN, gấp 7 lần so với 6 năm trước đó (1992 – 1997) cộng lại. Đến đầu năm 2000 cả nước đã CPH được 370 DNNN, và đến cuối năm 2000 cả nước đã có 523 DNNN chuyển thành Côn ty cổ phần chiếm 8,5% tổng số DNNN hiện có. Tính đến tháng 9/2001 thì cả nước đã có khoảng 700 DNNN được CPH. Con số này quả là đáng khích lệ. Tốc độ thực hiện CPH một bộ phận DNNN ở nước ta gần đây đang gia tăng. nhưng so với kế hoạch được duyệt từ 150 – 200 doanh nghiệp được CPH trong năm 1998; 400 – 500 doanh nghiệp trong năm 1999 là 1000 doanh nghiệp cho năm 2000 thì tốc độ CPH hiện nay vẫn còn quá chậm.
Kết quả thực hiện
Bên cạnh những chuyển biến về mặt số lượng như trên, bước đầu quá trình CPH DNNN đã tạo ra một số kết quả tích cực sau:
2.1 Nghị định số 44/1998/NĐ-CP đã kế thừa được nhiều nội dung tốt nếu trong các quy định của nghị định 28/CP, đồng thời bổ sung sửa đổi và phát triển được nhiều điểm mới để đáp ứng yêu cầu CPH. Đặc biệt nghị định 44/1998/NĐ-CP đã quy định cụ thể các chính sách khuyến khích đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp CPH thể hiện ở nhiều cơ chế ưu đãi đồng thời có phân cấp cụ thể đối với các cấp trong quá trình triển khai thực hiện CPH, do đó tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp và các cấp quản lý triển khai thực hiện quy trình kế hoạch CPH.
2.2 Công tác hướng dẫn phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về CPH đã được chú trọng triển khai tích cực hơn. Thông qua các lớp tập huấn cho cán bộ, các văn bản hướng dẫn thì các chủ trương chính sách và chính sách và quy trình CPH được phổ biến sâu rộng làm cho nhiều người, nhiều cấp quan tâm hiểu rõ cách thức CPH. Các phương tiện thông tin đại chúng như các báo, đài ở trung ương và địa phương bằng nhiều hình thức phong phú: mở chuyên mục, diễn đàn, đối thoại, phỏng vấn…về CPH đã đưa tin kịp thời góp phần tích cực tuyên truyền phổ biến, biểu dương các đơn vị điển hình, phản ánh kịp thời những vướng mắc cần thiết phải tháo gỡ để đẩy nhanh tiến trình CPH.
2.3 Về thực hiện mục tiêu CPH-DNNN, tuy số lượng doanh nghiệp CPH mới chiếm 7% tổng số doanh nghiệp hiện có nhưng qua đó bước đầu đã huy động thêm được các nguốn vốn khác ngoài nguồn vốn nhà nước để đầu tư vào doanh nghiệp CPH. Mặt khác, thực tế cho thấy, phần vốn nhà nước tại các doang nghiệp CPH không những không bị giảm đi mà ngược lại đã tăng lên từ 10-15% so với giá trị ghi trên sổ sách. Thay đổi phương thức quản lý tạo độg lực cho thúc đẩy kinh doanh đạt hiệu quả cao. Vai trò làm chủ thực sự của người lao động với tư cách là cổ đông trong công ty cổ phần bước đầu khơi dậy, phát huy thể hiện ở tinh thần hăng say, tự giác làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật và tiết kiệm trong sản xuất – kinh doanh được nâng lên, nhằm chi tiêu kinh tế tăng lên rõ rệt so với thời kỳ trước khi CPH.
2.4 Về phạm vi và tổ chức chỉ đạo thực hiện CPH thì hiện nay theo tinh thần của Nghị định 44/1998/NĐ-Cp có nhiều Bộ, ngành, địa phương, nhiều Tổng công ty 91 đã chủ trương lựa chọn và xác định diện DNNN cần thực hiện CPH, không chỉ bó hẹp trong một vài doanh nghiệp của TP. Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam như trước đây. Hiện tại đã có 7/13 bộ, 10/17 Tổng công ty 91, 43/61 tỉnh thành đã có DNNN được CPH. Đặc biệt là có một số Bộ, ngành, tỉnh, Tổng Công ty 91 đã tích cực triển khai CPH doanh nghiệp như: Hà nội, TP. HCM, Nam định, Thanh Hoá, Tuyên Quang, Bình Định, Lầm Đồng, Bộ Xây Dựng, Bộ NN và PTNT, Tổng công ty Hàng Hải, Tổng công ty Xi măng, Tổng công ty cà phê.
2.5 Hiệu quả kinh doanh có tiến bộ đáng kể. Báo cáo hoạt động của 50 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá hơn một năm cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều có chuyển biến tích cực trên nhiều mặt, kể cả các doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá bị thua lỗ, doanh thu hàng năm tăng trên 25%, có một số tăng 50%. Trong 6 tháng đầu năm 1999 có công ty cổ phần đạt doanh thu gấp đôi so với trước khi CPH. điển hình là công ty cơ điện lạnh đạt 353 tỷ đồng so với 78 tỷ đồng, công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển đạt 163 tỷ đồng so với 16 tỷ đồng.
Số lao động không bị giảm mà còn tăng bình quân 10%, có công ty tăng trên 20%. Ví dụ công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An từ 900 người lên 1280 người, công ty cổ phần cơ điện lạnh từ 334 người tăng lên 739 người, công ty cổ phần đại lý liên hợp vận chuyển từ 85 người tăng lên 350 người.
Thu nhập của người lao động tăng bình quân 20%(chưa kể thu nhập cổ tức), điển hình là công ty liên hiệp vận chuyển, trước khi CPH thu nhập là 1.1 triệu đồng/người/tháng, nay đạt 4.4 triệu đồng/người/tháng. công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc từ 524 ngàn đồng tăng lên 1.3 triệu đồng.
Lợi nhuận trước thuế hàng năm tăng lên 26%, có công ty đạt tổng lợi nhuận gấp hai ba lần so với trước khi CPH. Ví dụ: Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển lãi từ 4.1 tăng lên 37 tỷ đồng, công ty cổ phần cơ điện lạnh lãi từ 8.8 tỷ đồng tăng lên 34 tỷ đồng.
Nộp ngân sách hàng năm tăng bình quân trên30%, một số công ty đạt gấp đôi so với trước khi CPH. Chẳng hạn năm 1998, công ty CP Cơ điện lạnh nộp ngân sách 68 tỷ đồng so với 3,7 tỷ đồng trước khi CPH; Công ty CP đại lý Liên hiệp vận chuyển nộp ngân sách 40 tỷ đồng so với 5,1 tỷ đồng trước khi CPH.
Vốn điều lệ tăng bình quân trên 25%/năm, có một số tăng lên 2 lần.
Lãi cổ tức đạt cao hơn lãi tiết kiệm bình quân đatẹ 12% /tháng, Công t CP sửa chữa và đóng tàu thuyền Bình Định đạt 20% trong năm 98, các Côngty CP sơn Bạch Tuyết , chế biến thức ăn gia súc, chế biến hàng xuất khẩu Long An đều đạt cổ tức 2% /tháng.
3. Tình hình CPH- DNNN ở một số địa phương.
3.1. CPH-DNNN ở thành phố Hà Nội.
Hà Nội là một trong số các địa phương có nhiều DNNN được CPH. Trong số 880 DNNN trên địa bàn Hà Nội có 320 DN do địa phương quản lý. Qua khảo sát cho thấy, phần lớn số doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý có quy mô nhỏ bé, trong đó 87 DN quy mô vốn chỉ dưới 1 tỷ đồng(chiếm 26,5%). Xét về hiệu quả trong số 320 DN có 219 DN làm ăn có lãi, gần 1/3 kinh doanh chỉ hoà hoặc lỗ vốn, trong đó 33 DN thua lỗ kéo dài. Do vậy CPH - DNNN ở Hà Nội là một vấn đề cấp thiết. Trong thời gian 5 năm từ 1992 - 1997, Hà Nội mới chỉ thực hiện CPH được 5 DNNN. Năm 1998, Hà Nội hoàn thành CPH 30 DNNN và đến hết tháng 10/1999 lại tiếp tục CPH thêm 30 DNNN nữa trong chỉ tiêu 40 DNNN cần CPH của năm 1999.
Về hiệu quả sản xuất kinh doanh, tuy các DNNN được thực hiện vào nhiều thời điểm khác nhau, song đều sớm đi vào ổn định và phát triển, cụ thể là: Công ty sứ Bát Tràng 6 tháng đầu năm 1998 chỉ có 5 mẫu hàng mới – bị thua lỗ 13 triệu đồng; sau khi thực hiện CPH, 6 tháng cuối năm cho ra đời 44 mẫu hàng mới, lãi 164 triệu đồng, mức cổ tức đạt 1,438%/tháng;Công ty Phú Gia sau khi CPH, hệ số sử dụng buồng phòng đạt 70%, hàng tháng tiết kiệm được 50% tiền điện so với trước,chi phí hành chính vệ sinh giảm 30%. Đặc biệt là Simex sau khi CPH, doanh thu tăng 18%, lợi nhuận trước thuế tăng 83%, thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 1,9 triệu đồng/tháng., lợi tức cổ phiếu đạt 1,59%/tháng.
3.2. CPH-DNNN ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong các địa phương đi đầu trong thí điểm thực hiện CPH-DNNN. Trong thời kỳ thí điểm thành phố có hai DNNN chuyển thành Công ty CP là Công ty CP cơ điện lạnh và Công ty Ong mật, sau đó lại chững lại. Tính đến cuối năm 1997, do thực hiện Nghị định 28/CP, Thành phố CPH thêm được 4 DNNN là:
Khách sạn Sài Gòn(tháng2/1997)
Trung tâm nghiên cứu và sản xuất hoá mỹ phẩm(tháng6/1997)
Xí nghiệp sơn Bạch Tuyết(11/1997)
Xí nghiệp bông Bạch Tuyết(12/1997)
Mặc dù vậy, tiến triển CPH ở Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn rất châm. Tính đến tháng 5/1999, toàn thành phố mới chuyển đổi được 10 DNNN sang hoạt động theo luật Công ty CP. Đến quýIII/1999, Thành phố dự kiến xét duyệt chuyển 13 DNNN thành Công ty CP, hỗ trợ 16 DNNN có vướng mắc về tài sản,công nợ, chọn thêm 50 DNNN xin đưa vào kế hoạch CPH năm 2000
3.3. CPH - DNNN ở Hải Phòng.
Hải Phòng nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm ở phía Bắc có nhiều lợi thế để thúc đẩy kinh tế phát triển.Tuy nhiên, quá trình CPH-DNNN lại chưa được đẩy lên tương xứng.Trên địa bàn thành phố hiện nay có 140 DNNN, nhưng cho đến nay tổng số DNNN được CPH cũng chỉ dừng lại ở con số 17.
Trong năm 2000, Hải Phòng tiến hành chuyển đổi hình thức sở hữu cho khoảng 80 DNNN và áp dụng một số biện pháp mạnh mẽ để đẩy nhanh quá trình CPH-DNNN, tập trung vào các DN làm ăn có hiệu quả.
3.4. CPH - DNNN ở TP Đà Nẵng.
So với các thành phố lớn khác trong cả nước, tiến độ CPH-DNNN ở Đà Nẵng trong các năm qua diễn ra một cách chậm chạp. Đến nay, sau 3 năm kể từ ngày chia cách địa giới hành chính, toàn thành phố đã chuyển được 4 DNNN sang công ty CP là:
Công ty CP Khí công nghiệp và hoá chất Đà Nẵng.
Công ty CP khai thác và dịch vụ thuỷ sản Đà Nẵng.
Công ty CP xây dựng Miền Trung.
Công ty CP xi măng Ngũ Hành Sơn.
Sau khi đã được CPH cả 4 DN trên đều làm ăn có hiệu quả.
Trong năm 2000, Đà Nẵng tiến hành CPH 10 DNNN, trong đó có nhiều doanh nghiệp trong danh sách từ các năm trước chuyển sang và hiện đang phải đối mặt với nhiều khó khăn. Đến quý I/2000, trong số 10 DNNN được đề cử CPH, có 3 DN đã xây dựng xong đề án CPH, xác định dự án doanh nghiệp hiện đang bán cổ phần, có 6 DN đã và đang thẩm tra giá trị,hoàn chỉnh đề án CPH.
Quá trình CPH - DNNN còn diễn ra ở nhiều tỉnh thành khác trên cả nước, tuy nhiên so với kế hoạch của Nhà nước và công tác CPH còn diễn ra quá chậm chạp, chưa năm nào đạt được chỉ tiêu đăt ra. Đây là vấn đề đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải tìm ra những giải pháp để thúc đẩy nhanh việc cải cách và sắp xếp lại DNNN trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta.
Một số nhận định bước đầu:
Các DNNN thực hiện CPH do huy động thêm được vốn để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ nên năng lực sản xuất kinh doanh, năng suất, hiệu quả, lợi nhận cao hơn trước.
Quyền lợi của người lao động trong công ty đồng thời là các cổ đông gắn với quyền lợi của công ty. Người lao động một mặt làm việc với tinh thần trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình, mặt khác cũng yêu cầu HĐQT, giám đốc điều hành phải chỉ đạo và lãnh đạo công ty hoạt động có hiệu quả để lợi nhuận cao hơn.
Phương pháp quản lý, điều hành doanh nghiệp thay đổi, từ việc Giám đốc doanh nghiệp nhà nước do cấp trên chỉ định sang hình thức cổ đông bầu HĐQT, Ban kiểm soát và Ban giám độc do đó trách nhiệm của hội đồng quản trị và giám đốc điều hành cao hơn, hoạt động của doanh nghiệp có tính đến hiệu quả cụ thể hơn.
CPH là chuyển từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần, tạo điều kiện cho người lao động thật sự làm chủ doanh nghiệp, làm cho tài sản xã hội tăng lên. Tính khả thi và hiệu quả của các DNNN - CPH nói riêng và các doanh ngiệp cổ phần nói chung đã được thực tế chứng minh. Một không khí sản xuất mới đã dược thiết lập.
Tình trạng lãng phí của cải, tài sản giảm thiểu, vấn đề ăn nhậu xa hoa không còn, tiền phong bao cũng không có. Bởi vì thông thường điều lệ của các công ty quy định rất rõ định mức các khoản chi nhất là chi tiếp khách.
Nhà nước đã thu về được một lượng vốn đáng kể, các chỉ tiêu khác như vốn, nộp ngân sách, việc làm, thu nhập bình quân đều tăng đáng kể.
Nhờ sự làm ăn có hiệu quả tốt nên giá cổ phiếu của công ty CPH đã tăng nhanh. Giá trị cổ phiếu bình quân tăng 2 đến 3 lần
Một số vấn đề tồn tại.
Chỉ thị số 20/1998/CT-TTg ngày 21/4/1998 “về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN” quy định đến hết năm 2000, sẽ chuyển khoảng 20% DNNN, tức là 1200 đơn vị thành công ty cổ phần. Nhưng cho đến hết năm 1999 mới thực hiện được 370 DNNN, năm 2000 thực hiện được 500 DNNN và đến tháng 9 năm 2001 cũng chỉ thực hiện được khoảng 700 DNNN. Còn cách quá xa chỉ tiêu dự định CPH - DNNN trong năm 2000.
4.1 Số DNNN được CPH còn chiếm tỷ trọng thấp so với kết quả phân loại doanh nghiệp. Số DNNN đã CPH chỉ chiếm 6,8% tổng số DNNN do địa phương quản lý và khoảng 36% tổng số DNNN cần CPH tại địa phương. Đối với các Bộ, ngành Trung ương thì con số tương tự là 5,5% và 29,6%.
Một trong những mục tiêu của CPH – DNNN là thu hút vốn ngoài xã hội để cơ cấu lại doanh nghiệp, nhưng phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đã CPH đều nhỏ, khoảng 90% có số vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng. Tổng số vốn Nhà nước tại DNNN. CPH chỉ chiếm khoảng 0,7% tức không vượt qua 1000.000.000 đồng.
Tỷ lệ bình quân cổ phần do Nhà nước và cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp nắm giữ khoảng 70 - 80%, suy ra vốn thu hút từ ngoài xã hội không nhiều.
Nước ta đi theo con đường XHCN, kiên trì chủ nghĩa Mac – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh lâu nay trong nhận thức của mỗi người đã khẳng định một ý tưởng muốn xây dựng một xã hội mới công bằng dân chủ và văn minh thì phải xoá bỏ tư hữu về tư liệu sản xuất. Song trong một thời gian dài đã đồng nhất kinh tế quốc doanh với CNXH, vì vậy đã có không ít người phản đối CPH – DNNN, cho rằng như vậy là “ rời xa CNXH, phá vỡ cơ sở kinh tế của CNXH”. Trong nhận thức của một số cán bộ quản lý doanh nghiệp và ở một số cấp quản lý chưa thực sự quyết tâm tiến hành CPH – DNNN, còn ngần ngại do dự. Nhất là khi CPH bộ phận hoặc doanh nghiệp thành viên, còn có tâm lý sợ CPH sẽ làm giảm doanh thu, vốn và tài sản, lợi nhuận giảm quy mô và xếphạng của công ty, tổng công ty. Một số các Bộ quản lý doanh nghiệp sợ CPH sẽ làm cho mất sức mất quyền, mất lợi.
Đối với người lao động thì một bộ phận sợ mất việc làm vì trình độ tay nghề thấp nên dễ bị sa thải, một số chưa quen chuyển từ công nhân viên chức Nhà nước thành nguời lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, một số có tâm lý muốn làm việc trong các DNNN để có thu nhập ổn định.
Cơ sở pháp luật của CPH – DNNN chậm được ban hành đồng bộ, thiếu cụ thể. Một số nội dung liên quan đến quy định trong pháp lệnh chống tham nhũng, pháp lệnh cán bộ công chức, Nghị định 44/1998/NĐ-CP và các văn bản khác, vẫn còn có những điểm chưa phù hợp, thậm chí chưa thúc đẩy mạnh mẽ việc huy động vốn của các cổ đông tham gia vào công ty cổ phàn. Ví như khống chế tỷ lệ tối đa được mua cổ phần với giá ưu đãi không vượt mức cổ phần bình quân của các cổ đông trong doanh nghiệp. Một số nội dung chậm được hướng dẫn cụ thể, đã gây nhiều lúng túng trong thực hiện: Qui chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, quỹ hỗ trợ và sắp xếp CPH – DNNN, cơ chế khuyến khích người cung ứng nguyên liệu cho doanh nghiệp chế biến khi tiến hành CPH, quyền và trách nhiệm cụ thể của doanh nghiệp và giải quyết tài sản tồn đọng, chờ thanh lý hoặc phải điều đi, cơ chế và nguồn chi trả để giải quyết việc một số bộ quản lý doanh nghiệp không bố chi đượcchỗ làm khi chuỷen sang công ty cổ phần.
Trong quá trình tiến hành CPH – DNNN thường vấp phải không ít tồn tại, vướng mắc về tài sản, tiền vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước như: Đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm TSCĐ không theo đúng nguồn vốn, thậm chí sử dụng cả vốn lưu động, vốn chiếm dụng trong thanh toán để xây dựng, mua sắm vật tư, thiết bị; Hàng hoá tồn kho, ứ đọng không có khả năng tiêu thụ, nợ dây dưa, khó xác nhận, khó thu hồi… Xác định giá trị doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn,nhiều doanh nghiệp chưa có đủ giấy tờ pháp lý về quyền sở hữu tài sản cố định, nhà xưởng, vật kiến trúc. Mặt khác quy trình CPH vẫn chưa thật khoa học, các khâu xác định giá trị doanh nghiệp và điều chỉnh giá trị doanh nghiệp vẫn phải kéo dài vì cần phối hợp với nhiều cơ quan tham gia chưa có đầy đủ văn bản hướng dẫn cụ thể về mặt nghiệp vụ.
Chuyển DNNN thành công ty cổ phần và hướng dẫn nó hoạt động theo luật công ty là một vấn đề mới mẻ mà chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Trong điều kiện đó, quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp CPH lại chưa được quy định cụ thể và kịp thời, gây cho các doanh nghiệp CPH có nhiều bỡ ngỡ, lúng túng trong hoạt động hoặc có tâm lý ngần ngại khi chuyển đổi từ DNNN thành công ty cổ phần.
Về quy trình CPH: Theo Quyết định số 01/CPH ngày 4/9/1996 của Ban chỉ đạo trung ương cổ phần hoá thì qui trình CPH chỉ phân thành 4 bước nhưng có rất nhiều công đoạn và trình tự thủ tục kèm theo, gây tốn nhiều thời gian.
Về chính sách ưu đãi cho người lao động tại các DNNN – CPH.
Còn tình trạng hạn chế tiêu chuẩn và mức hưởng cổ tức trên số cổ phần thuộc sở hữu nhà nước, vì chỉ có những người có thâm niên từ 3 năm trở lên mới được hưởng, mức hưởng cũng không đáng kể ( chỉ 6 tháng lương cấp bậc ).
- Còn tình trạng hạn chế mức mua chịu cổ phần cho người lao động, vì cũng chỉ những người có thâm niên từ 3 năm trở lên mới có quyền mua chịu. Đồng thời trong qui định là tổng mức mua chịu không vượt quá tổng mức mua tiền mặt, nhưng không rõ trong từng người có mua chịu được nhiều hơn không, những ai không mua tiền mặt có mua chịu được hay không?
- Bên cạnh đó còn có tình trạng cách biệt về số lượng mua cổ phiếu giữa công nhân và cán bộ lãnh đạo trong doanh nghiệp, thực ra là giữa người có nhiều tiền và người có ít tiền mua cổ phiếu.
4.8 Trình độ dân trí thấp, mang nặng tâm lý sản xuất nhỏ. Xuất phát từ nền sản xuất nhỏ lại nhiều năm vận hành trong cơ chế cũ, nên trình độ kiến thức và yếu tố tâm lý của ta còn bị ảnh hưởng nặng nề, chưa thích ứng với cơ chế mới. Kiến thức thiếu hụt nhất trong nhân dân và cán bộ ta hiện nay là về kinh tế thị trường, công nghệ, tin học và ngoại ngữ. Ngay cả đội ngũ giám đốc các DNNN cũng phần lớn chưa ngang tầm nhiệm vụ được giao. Qua khảo sát 506 DNNN có 37 giám đốc chưa tốt nghiệp văn hoá phổ thông, chỉ có 187 người sử dụng đuợc ngoại ngữ nhưng chưa thành thạo. đội ngũ này trình độ đào tạo mới chỉ được nâng lên về mặt hình thức. Ngay cả những người làm công tác đào tạo cũng chưa được đào tạo lại. Vì vậy những tri thức về thị trường, kinh doanh… chưa được chuyển tải kịp thời và đầy đủ cho đội ngũ cán bộ doanh nghiệp. Đây là lực cản không nhỏ đối với tiến trình CPH.
Về mặt tâm lý: Do bị ảnh hưởng tư tưởng trong xã hội cũ, những năm bao cấp, nên nhân dân ta còn mang nặng tâm lý (đồng tiền đi liền khúc ruột), chưa quen với việc đầu tư tiền vào mua cổ phiếu. Những hiện tượng như lừa đảo, chiếm dụng vốn của nhau, tham nhũng, coi thường kỷ cương phép nước… đã có ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý đầu tư vào mua cổ phiếu của người có vốn. Thực tế, vốn trong dân có nhiều nhưng do môi trường pháp lý chưa thực sự đảm bảo nên họ không giám đầu tư.
- Không chỉ những khó khăn trên mà còn rất nhiều các tác động tiêu cực của các yếu tố khác như một môi trường kinh doanh chịu tác động ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và quốc tế, tác hại to lớn của thiên tai, dịch hoạ…đã làm cho quá trình CPH – DNNN ở nước ta thời gian qua và trong một số năm tới không thể diễn ra một cách “thuận buồm xuôi gió”.Trái lại nó đòi hỏi phái quyết tâm cao và cố gắng lớn, tìm ra cách làm phù hợp để hoàn thành chương trình CPH – DNNN ở nước ta góp phần xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Phần III: Một số biện pháp nhằm đẩy nhanh quá trình CPH – DNNN.
I.Một số quan điểm cơ bản trong quá trình tiến hành CPH – DNNN.
Từ thực tiễn CPH trong những năm qua cho thấy, cần phải xác định rõ một số quan điểm cơ bản có tính chất chỉ đạo cho việc thực hiện chương trình CPH các DNNN.
- Quan điểm thứ nhất: Việc lựa chọn những doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần phải được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước và sáp xếp lại các DNNN.
- Quan điểm thứ hai; việc lựa chón các doanh nghiệp để tiến hành CPH thuộc thẩm quyền và chức năng của Nhà nước với tư cách là người sở hữu chứ không tuỳ thuộc vào ý kiến cử giám đốc và tập thể lao động trong doanh nghiệp. Nguyên tắc này được nêu ra để làm cơ sở cho các cơ quan chủ quản của nhà nước phân loại các doanh nghiệp do mình quản lý để thực hiện CPH.
- Quan điểm thứ ba: dựa trên bảng cân đối tài sản và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần xác định các mục tiêu chủ yếu và cụ thể đối với từng doanh nghiệp được lựa chọn CPH.
- Quan điểm thứ tư: mọi tài sản của doanh nghiệp đều thuộc sở hữu nhà nước trừ quỹ phúc lợi xã hội của tập thể là phần tiền lương không chia để lại cho mọi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp cùng hưởng. Phần “vốn tự có” của các DNNN hiện nay thực chất là phần lợi nhuận và quỹ khấu hao được nhà nước cho phép giữ lại để tái sản xuất mở rộng, nên đương nhiên là thuộc về nhà nước và trở thành vốn cổ phần của nhà nước trong công ty cổ phần sẽ được hình thành. Vì vậy, lẽ đương nhiên khi tiến hành lập bảng cân đối tài sản trong doanh nghiệp, xác lập giá trị tài sản còn lại để CPH thì cũng không thể đưa “vốn tự có” ra ngoài bảng cân đối vì nó là của tập thể. Xác định quan điểm này để bảo đảm việc chống lại sự phân tán tài sản của Nhà nước và phân phối không công bằng trong quá trình chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần.
- Quan điểm thứ năm: Việc xác định giá trị của DNNN để CPH phải chú ý đến cả hai yếu tố cấu thành: giá trị hữu hình và giá trị vô hình. Trong yếu tố giá trị hữu hình về cơ bản có hai bộ phận: giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp và giá trị đất đai mà doanh nghiệp đang sử dụng làm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Trong yếu tố giá trị vô hình như uy tín và nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp ưu thế về thị trường và khả năng cạnh tranh, các điều kiện về địa điểm, quảng cáo, bạn hàng… tựu chung lại đều biểu thị ở khả năng sinh lợi hay tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Quan điểm thứ sáu: Phương pháp bán cổ phiếu ở những doanh nghiệp được lựa chọn CPH cần thực hiện công khai, rõ ràng, thủ tục đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người.
- Quan điểm thứ bảy: Để thực hiện thành công chương trình CPH, Nhà nước không chỉ chú ý đến thu hồi vốn mà cần phải biết chấp nhận một khoản phí tổn nhất định.
Đó là những khoản phí tổn cần thiết, phải có như những chi phí bảo hiểm, trợ cấp cho người lao động bị mất việc làm và tìm kiếm nghề mới, những chi phí do bán giá thấp nhằm ưu đãi những tầng lớp dân cư nhất định theo những mục tiêu chính trị, xã hội của Chính phủ, những chi phí cho bộ máy thực hiện và các cơ quan môi giới, tư vấn, quảng cáo.
- Quan điểm tứ tám: các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá cần phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
- Quan điểm thứ chín: Các doanh nghiệp được lựa chọn để CPH cần phải có sự giải quyết rõ ràng, dứt điểm các vấn đề tồn đọng về tài chính và lao động trước khi chuyển sang công ty cổ phần.
Quá trình CPH sẽ diễn ra một cách trôi chảy nếu trong quá trình thực hiện tốt theo nội dung các quan điểm đã nêu trên.
II. Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ CPH DNNN.
Như chúng ta đã biết tiến độ CPH DNNN ở nước ta trong những năm vừa qua diễn ra hết sức chậm chạp, chưa năm nào hoàn thành được kế hoạch đặt ra. Vì vậy, để tiến độ CPH DNNN được diễn ra nhanh hơn, hoàn thành được chỉ tiêu đã đề ra thì cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây:
Cần tạo sự thống nhất về nhận thức, quan điểm về chủ trương CPH một bộ phận DNNN từ Trung Ương đến cơ sở phải có sự quan tâm, lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và chính quyền mới đẩy nhanh được tiến độ CPH.
Các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải quán triệt, tuyên truyền, giải thích trong nhân dân chủ trương chính sách của Đảng về CPH DNNN, CPH phải xuất phát từ yêu cầu của DNNN nhằm huy động thêm vốn từ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp để đầu tư mở rộng ngành nghề, hiện đại hoá công nghệ tạo thêm công ăn việc làm, phân công lại lao động, phát triển sản xuất tăng tích luỹ cho doanh nghiệp, đóng góp cho ngân sách và thu nhập của người lao động.
Tổ chức Đảng, chính quyền tại doanh nghiệp được CPH phải nắm vững về chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước tránh tình trạng không hiểu sâu dẫn đến những lo ngại CPH sẽ làm mất chủ quyền của Nhà nước, làm mất vai trò kinh tế quốc doanh.
Việc thực hiện CPH hoá là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà nước – nó không phải là một giải pháp tình thế mà là một phương thức đổi mới cơ chế quản lý cho thích nghi với sự vận động của cơ chế thị trường. Do đó chủ trương CPH phải được chủ động giải quyết từ phía Nhà nước, không chỉ dựa vào sự tự nguyện của các doanh nghiệp
Phải tuyên truyền chủ trương CPH sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng, giải đáp các thắc mắc dù nhỏ của người lao động tại doanh nghiệp, không phải chỉ tuyên truyền chung chung mà phải xuống tận cơ sở, tiếp xúc với người lao động và cả Giám đốc của họ. Khi quần chúng lao động nhận thức được và lãnh đạo doanh nghiệp có quyết tâm, tiến độ CPH sẽ rất nhanh.
2. Tạo môi trường pháp lý đầy đủ đồng bộ về CPH – DNNN
CPH – DNNN cũng có nghĩa là bán đi một phần tài sản Nhà nước có giá trị lớn hàng chục ngàn tỉ đồng. Vậy liệu Nghị định 44/1998/NĐ và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính của Ban đổi mới doanh nghiệp Trung Ương có đủ tầm cỡ và sức mạnh pháp lý để điều chỉnh hay phải có văn bản pháp luật cao hơn (Luật kinh tế cổ phần chẳng hạn…). Trong khi chưa có luật, Nhà nước giao nhiệm vụ cho Ban chỉ đạo CPH Trung Ương tập trung chỉ đạo các tỉnh , thành phố và các Bộ phải thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình, giúp các doanh nghiệp tiến hành CPH và hoạt động thuận lợi. Tiến hành bổ sung, sửa đổi kịp thời các văn bản có liên quan, hoàn chỉnh dần các chính sách nhằm bảo đảm CPH – DNNN một cách vững chắc, đạt mục tiêu đã đề ra, không để xảy ra tiêu cực, thất thoát tài sản Nhà nước.
Nhà nước nên thành lập ủy Ban Quốc Gia (UBQG) về CPH – DNNN do một phó Thủ tướng làm Chủ tịch, BộTài chính làm phó Chủ tịch thường trực, các Bộ liên ngành làm Uỷ viên. UBQG về CPH được quyền giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến CPH theo Luật kinh tế cổ phần.
Từ Ban đổi thành Uỷ Ban đồng nghĩa với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy… để tương ứng với hai nhiệm vụ cơ bản là:
Tổ chức thực hiện các Nghị định trên cơ sở Luật CPH
Nghiên cứu, đề xuất, sửa đổi, bổ sung kịp thời các chế độ chính sách có liên quan đến CPH
Uỷ Ban sẽ tự giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của nó.
Xác định giá trị doanh nghiệp để thực hiện CPH.
Xác định đúng giá trị thực tế của doanh nghiệp để CPH là một vấn đề hết sức quan trọng và phức tạp, là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho tiến độ CPH chậm. Hiện nay tồn tại nhiều quan điểm về xác định giá trị doanh nghiệp có nội dung khác nhau. ở đây em xin giới thiệu cách xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp dựa vào giá thị trường, giá trị còn lại của tài sản cố định, tài sản lưu động là hiện vật đã được kiểm kê…
n
G = Gi * T
i=1
G : Tổng số giá trị nội tại của doanh nghiệp
Gi : Giá trị thị trường của từng loại tài sản cụ thể tại thời điểm CPH
i = 1,2,3 … n
T : Giá trị sử dụng còn lại của tài sản
Đối với tài sản là vốn bằng tiền thì tính theo số dư bằng tiền đã kiểm quỹ hoặc đã đối chiếu tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Đối với nợ phải thu là các khoản nợ đã được đối chiếu, xác nhận
Đối với các khoản chi phí dở dang thì tính theo số dư chi phí thực tế trên sổ kế toán.
Đối với tài sản ký quỹ, ký cược ngắn hạn và dài hạn thì tính theo số dư thực tế trên sổ kế toán đã xác nhận, đối chiếu tại thời điểm xác nhận giá trị doanh nghiệp.
Đối với tài sản đầu tư ngắn hạn và dài hạn thì tính vào giá trị doanh nghiệp các khoản mà Công ty cổ phần sẽ kế thừa.
Tính giá trị sử dụng đất để CPH – DNNN
Hiện nay, nếu tính đủ yếu tố đất sẽ kéo giá trị của doanh nghiệp lên rất cao, khó bán được cổ phiếu.
Ví dụ: Doanh nghiệp cơ điện lạnh (REE) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nếu tính theo bản giá đất mới, với diện tích 40.000 m2 sẽ có giá trị 35 tỷ đồng thay vì 3,2 tỷ đồng như hiện nay (trong tổng giá trị doanh nghiệp được đánh giá là 16 tỷ đồng).
Do đó cách tốt nhất là doanh nghiệp nên thuê quyền sử dụng đất của Nhà nướcvà khấu hao trả dần.
Có thể có 2 cách tính giá trị đất như sau:
Giá trị đất được tính vào giá trị doanh nghiệp, coi như vốn góp của Nhà nước vào Công ty Cổ phần. Giá trị này được điều chỉnh theo thời giá, cứ 5 năm 1 lần nhằm đảm bảo 2 điều kiện: một là, giá trị đất phải là một bộ phận của giá trị doanh nghiệp theo thông lệ Quốc tế; hai là: không thay đổi quyền sở hữu đất.
Có xác định giá trị đất nhưng không nộp vào giá trị doanh nghiệp để CPH, coi như Nhà nước cho thuê. Giá đất được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tính khấu trả dần hàng năm.
Nếu doanh nghiệp chiếm quá nhiều đất thì cả 2 cách tính trên đều đội giá thành sản phẩm. Do đó, Nhà nước sẽ thu hồi dần diện tích dư thừa đó.
5. Mệnh giá cổ phiếu và đối tượng mua cổ phiếu.
Mệnh giấ cổ phiếu được đem bán sẽ quyết định khả năng thu hồi phần vốn Nhà nước. Việc xác định mệnh giá và số lượng cổ phần đem bán có quan hệ mật thiết với giá trị doanh nghiệp, đến các yếu tố lợi thế và tình thế, liên quan đến tương lai của doanh nghiệp được CPH. Xác định giá cổ phiếu phải tương đối hấp dẫn với cổ đông và không làm thiệt hại cho doanh nghiệp. Đó là bài toán khá phức tạp và tế nhị, vừa mang tính khoa học lại vừa mang tính nghệ thuật.
Mệnh giá cổ phiếu được xác định theo công thức:
Giá trị DN đem bán
Mệnh giá cổ phiếu =
Số cổ phiếu phát hành
Việc bán cổ phiếu cho ai cũng là vấn đề có nhiều ý kiến. Vì phải đạt 3 mục tiêu chuyển đổi sở hữu, thu hồi vốn và tạo điều kiện cho người lao động làm chủ thực sự thì việc bán cho ai trở thành vấn đề cần xem xét.
Theo em thì việc bán cổ phiếu trước hết nên ưu tiên bán cho các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Mỗi người phải có ít nhất một cổ phiếu của Công ty và cũng nên dành một tỷ lệ nhất định để bán ra ngoài nhằm thu hút những tài năng kinh doanh mới, đổi mới cơ chế quản lý, tạo sức cạnh tranh phát huy các ưu điểm của Công ty cổ phần. Đồng thời luôn khuyến khích CPH – DNNN, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, qua đó đem lại việc làm, thu nhập cho người lao động nhiều hơn so với trước khi CPH. Lợi ích đó mới là cơ bản, lâu dài, chứ không phải ở chỗ người lao động được hưởng ưu đãi nhiều hay ít. Bên cạnh đó phải có chính sách đãi ngộ hợp lý với Ban quản lý, nhất là những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả.
6. Về quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp CPH .
Nhằm đảm bảo sau CPH các doanh nghiệp thực thi “cơ chế quản lý Nhà nước” theo đúng Luật Công ty, ngoại trừ các DNNN do Nhà nước nắm cổ phiếu chi phối hoặc cổ phần đặc biệt, Nhà nước chỉ giữ 2 cổ đông làm đại diện. Một là, đại diện của Cục quản lý vốn (Công ty tài chính); hai là, đại diện cơ quan chủ quản. Khi tiến hành đại hội cổ đông để bầu Hội đồng quản trị, hoặc Tổng giám đốc (Giám đốc) doanh nghiệp đại diện Nhà nước chỉ bỏ phiếu không tuỳ thuộc vào số vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp nhiều hay ít. Như vậy, loại trừ khả năng Nhà nước dùng quyền khống chế để cử người vào Hội đồng quản trị hay Giám đốc theo ý đồ riêng, bảo đảm quyền dân chủ rộng rãi trong bầu cử.
Nhà nước nên nhanh chóng chấm dứt cơ quan chủ quản, để doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp số 13/1999/ QH10. Khi đó đại diện vốn Nhà nước chỉ còn là một của Bộ Tài chính.
7, Phát triển hệ thống Ngân hàng Thương mại, Công ty Tài chính, Công ty Bảo hiểm, đưa nhanh thị trường Chứng khoán vào hoạt động … là những công cụ đắc lực giúp đẩy nhanh tiến độ CPH – DNNN.
Chủ trương hình thành và đưa vào hoạt động thị trường Chứng khoán ở nước ta đã có từ năm 1996. Đến năm 2000, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đầu tiên đã đưa vào hoạt động từ đó tạo lòng tin vào cổ đông của các doanh nghiệp được CPH. Bởi vì khi cổ phiếu của Công ty được niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thì khi cầu tiền mặt hoặc giảm lòng tin đối với Công ty mà mình mua cổ phần, cổ đông có thể bán ngay cổ phần mình có tại thị trường Chứng khoán.
Công ty cổ phần và thị trường Chứng khoán là “hai người bạn đồng hành” vốn có quan hệ nhân quả với nhau, cái nọ là tiền đề để cái kia tồn tại và phát triển, tạo nên thị trường vốn. Điều này giúp làm lành mạnh hoá nền tài chính Quốc gia và là một biểu hiện cụ thể “sức khoẻ” của nền kinh tế. Khi có thị trường Chứng khoán, vốn nhàn rỗi trong xã hội sẽ được thu hút vào đầu tư.
Tuy nhiên, do thị trường Chứng khoán ở nước ta đang ở giai đoạn sơ khai, do đó việc tham gia thị trường Chứng khoán của các Công ty cổ phần để huy động vốn còn phải thực hiện nhiều thủ tục phức tạp. Vì vậy Bộ Tài chính cần đơn giản thủ tục phê chuẩn phát hành cổ phần nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tham gia thị trường Chứng khoán .
8. Về chính sách hỗ trợ tài chính đối với doanh nghiệp CPH.
Căn cứ NĐ 44/1998/ NĐ-CP thì doanh nghiệp sau khi CPH được hưởng hai nội dung ưu đãi: một là, miễn lệ phí trước bạ khi chuyển sở hữu từ DNNN sang Công ty Cổ phần; hai là, giảm 50% thuế lợi tức hai năm liên tiếp kể từ sau khi chuyển sang hoạt động theo Luật Công ty.
Những nội dung còn lại về thực chất không có gì đáng gọi là ưu đãi. Nhà nước nên có những chính sách thật sự ưu đãi hơn nữa cho các doanh nghiệp cổ phần như:
Giảm mức thuế suất thu nhập Công ty cổ phần thấp hơn các loại hình doanh nghiệp khác (như nhiều nước đã làm)
Miễn thuế thu nhập cho phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư.
Khi xác định giá trị doanh nghiệp để CPH nên theo giá “thuận mua vừa bán”, không nên quá nặng về bên nào.
Không nên hạn chế số lượng cổ phần bán ra cho công nhân viên (trừ giới lãnh đạo doanh nghiệp)và cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Số tiền thu được do bán cổ phần nên ưu tiên đầu tư lại cho doanh nghiệp CPH (để đào tạo lại công nhân viên, đầu tư đổi mới công nghệ …).
Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình CPH các DNNN đồng thời thúc đẩy hoạt động của mọi công ty cổ phần phát triển bền vững.
KếT LUậN
Chủ trương CPH một bộ phận DNNN là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong quá trình cải cách và sắp xếp lại các DNNN, nhằm đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định, song công tác CPH vẫn diễn ra rất chậm và chưa hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đặt ra.
Trong thời gian học tập ở trường, em đã tập trung nghiên cứu hoạt động CPH – DNNN ở nước ta. Với vốn kiến thức đã được học, kết hợp với việc nghiên cứu tình hình thực tế, em đã trình bày một số vấn đề về thực trạng CPH-DNNN của nước ta. Nhưng vì thời gian và kiến thức có hạn, nên đề tài chưa đi sâu vào các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ… tác động trực tiếp lâu dài tới quá trình CPH. Các giải pháp trong đề tài chỉ mang tính chất cơ bản, chưa tạo ra bước ngoặt lớn trong quá trình CPH. Tuy nhiên, em cũng hy vọng rằng, những giải pháp này sẽ đóng góp một phần nào đó nhằm đẩy nhanh tiến độ CPH – DNNN ở nước ta hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Phạm Văn Minh đã đóng góp ý kiến tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt bài viết này.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. PGS.TS Phạm ngọc côn : CPH –DNNN
2. pts nguyễn ngọc quang: CPH-DNNN
3. hoàng công phi: CPH các DNNN ở Việt Nam
4. gs.ts trần văn tránh: Một số biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ CPH- DNNN (Tạp chí phát triển kinh tế, Số 111/2000).
pgs.ts nguyễn kế tuấn: Về CPH- DNNN (Tạp chí kinh tế phát triển, Số 34/2000).
hồng thuý: Ba nguyên nhân cơ bản làm chậm tiến trình CPH .
ts trần trung tín: CPH- DNNN kết quả và giải pháp (Tạp chí kinh tế và dự báo,Số 1/2001).
Thạc sĩ nguyễn hoàng sơn: Đẩy mạnh CPH ở Việt Nam- Những khó khăn và giải pháp tháo gỡ (Tạp chí phát triển kinh tế , Số 122/2000).
đào ngọc lâm: CPH ,Tại sao chậm? (Tạp chí kinh tế và dự báo, 4/1997).
nguyễn sơn: Về một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình CPH –DNNN .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0785.doc