Chuyên đề Cơ sở pháp lý của hoạt động Kế toán và Kiểm toán ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH tư vấn Kế toán và Kiểm toán Việt Nam

Hoạt động kế toán và kiểm toán có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường đặc biệt khi nhà nước khuyến khích phát triển đa thành phần kinh tế, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp, mở cửa hội nhập quốc tế. Doanh nghiệp muốn phát triển, phát hành cổ phiếu, thu hút vốn đầu tư thì không thể không công bố báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Khi mà quy mô hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh, các chủ đầu tư thuê quản lý kinh doanh thì họ luôn luôn yêu cầu sổ sách kế toán phải minh bạch, các rủi ro vi phạm pháp luật phải được kiểm soát và hạn chế đến mức thấp nhất

doc75 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Cơ sở pháp lý của hoạt động Kế toán và Kiểm toán ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH tư vấn Kế toán và Kiểm toán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam. 1. Quá trình hình thành của Công ty TNHH tư vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam Thời gian gần đây, đặc biệt từ sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 105/2004/NĐ – CP, hoạt động kế toán và kiểm toán nước ta đang có sự phát triển mạnh mẽ để thích hợp với cơ chế quản lí mới và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước. Trong hơn 15 năm qua, có thể nói hệ thống văn bản pháp luật quản lý lĩnh vực nghề nghiệp và dịch vụ kế toán và kiểm toán đã cơ bản được xây dựng từ không đến có, đáp ứng đủ cơ sở pháp lý cho hoạt động này. Kiểm toán độc lập từ chỗ là biện pháp bắt buộc theo quy định của Nhà nước, phần lớn các doanh nghiệp chưa hiểu rõ kiểm toán là gì? Có vai trò như thế nào thì nay đã được coi là một biện pháp quản lý mà tự thân các doanh nghiệp rất quan tâm. Chính vì vậy, số lượng các công ty dịch vụ tài chính, kế toán, kiểm toán cũng như khách hàng những năm qua đã tăng lên nhanh chóng. Công ty TNHH tư vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam cũng ra đời trong hoàn cảnh đó. Công ty TNHH Tư vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam được thành lập ngày 10/10/2006 theo giấy Đăng kí kinh doanh số 01020228384 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp. Công ty TNHH Tư vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam là một trong những loại hình Công ty TNHH 2 thành viên trở lên hoạt động trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, và tư vấn tài chính; là một tổ chức kinh tế hạch toán kinh tế độc lập, có con dấu riêng, được mở tài khoản tiền Việt Nam và ngoại tệ tại ngân hàng theo quy định của pháp luật.Công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tên công ty, địa chỉ giao dịch: Tên công ty: Công ty TNHH tư vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam Tên bằng tiếng nước ngoài: VietNam auditing and accounting consultancy company limited Tên viết tẳt: AVA CO., LTD Địa chỉ trụ sở chính: Số 160, phố Phương Liệt, Phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội Ngành nghề kinh doanh + Kiểm toán báo cáo tài chính; + Kiểm toán báo cáo tài chính vì mục đích thuế và dịch vụ quyết toán thuế; + Kiểm toán hoạt động; + Kiểm toán tuân thủ; + Kiểm toán nội bộ; + Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành(kể cả báo cáo tài chính hàng năm) + Kiểm toán báo cáo quyết toán dự án; + Kiểm toán thông tin tài chính; + Kiểm tra thông tin tài chính trên cơ sở các thủ tục thỏa thuận trước; + Tư vấn tài chính; + Tư vấn thuế; + Tư vấn nguồn nhân lực; + Tư vấn ứng dụng công nghệ thông tin; + Tư vấn quản lý; + Dịch vụ kế toán; + Dịch vụ định giá tài sản(trừ định giá những tài sản thuộc thẩm quyền Nhà nước); + Dịch vụ bồi dưỡng cập nhật kiển thức tài chính, kế toán, kiểm toán; + Các dịch vụ liên quan khác về tài chính, kế toán, thuế theo quy định của pháp luật; + Dịch vụ soát xét báo cáo tài chính (Doanh nghiệp chỉ kinh doanh khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật) Vốn điều lệ, danh sách thành viên góp vốn: Vốn điều lệ: 500.000.000(Năm trăm triệu đồng Việt Nam) Danh sách thành viên góp vốn: Số TT Tên thành viên Nơi đăng kí hộ khẩuthường trú đối với cá nhân hoặc địa chỉ trụ sở chính đối với tổ chức Giá trị vốn góp (đồng) Phần vốn góp (%) 1 LƯU QUỐC THÁI Số nhà 30/52, phố Lê Lai, phường Lạc Viên, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng 200.000.000 40 2 BÙI ĐỨC VINH Thôn Giáp Lai, xã Giáp Lai, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ 150.000.000 30 3 HÀ KIM NGỌC Đường Hùng Vương, thị xã Phúc Yên, huyện Mêlinh, tỉnh Vĩnh Phúc 150.000.000 30 Người đại diện theo pháp luật của công ty: Chức danh: Giám đốc Họ và tên: LƯU QUỐC THÁI Giới tính:(Nam) Sinh ngày: 11/08/1970 Dân tộc: Kinh Quốctịch: Việt Nam Chứng minh nhân dân(hoặc hộ chiếu) số: PTA 0400890A Ngày cấp: 20/09/2002 Nơi cấp: Cục quản lý xuất nhập cảnh Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số nhà 30/52, phố Lê Lai, phường Lạc Viên, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng Chỗ ở hiện tại: Số 34E/77, phố Bùi Xương Trạch, phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Mục tiêu hoạt động Mục tiêu hoạt động của công ty là nhằm cung cấp các dịch vụ chuyên ngành tốt nhất, đảm bảo quyền lợi và lợi ích cao nhất cho khách hàng, cung cấp những thông tin với độ tin cậy cao cho công tác quản lý kinh tế tài chính và điều hành công việc sản xuẩt kinh doanh, mang lại hiệu quả cao nhất. Hơn thế nữa với kinh nghiệm thực tiễn về chuyên ngành, gần gũi với khách hàng, tận tình, thông thạo, nghiệp vụ và hiểu biết kinh nghiệm thực tế tại Việt Nam, đội ngũ kiểm toán viên và thẩm định viên của công ty nắm rõ các yêu cầu trong quản lý, sản xuất kinh doanh, các khó khăn mà khách hàng sẽ gặp phải và hỗ trợ khách hàng giải quyết tốt các vấn đề đó mà ít có một tổ chức dịch vụ chuyên ngành nào tại Việt Nam có thể thực hiện được. Đội ngũ nhân viên Để hoạt động thành công và có hiệu quả công ty luôn coi trọng vấn đề trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên, hiện nay AVA có gần 20 kiểm toán viên cấp Nhà nước, 03 kiểm toán viên có chứng chỉ kiểm toán viên quốc tế ACCA và CPA Australia, 05 Tiến sỹ và Thạc sỹ kinh tế. Đội ngũ của công ty là những kiểm toán viên có bản lĩnh, có tính chuyên nghiệp, có nhiều năm kinh nghiệm làm việc tại các Công ty kiểm toán lớn như: AASC, KPMG, E&Y…chắc chắn sẽ đáp ứng những yêu cầu cao nhất của khách hàng. Phương châm dịch vụ của AVA Nhằm đảm bảo cung cấp những dịch vụ có chất lượng tốt nhất, mọi hoạt động của công ty luôn tôn trọng nguyên tắc: Cam kết chất lượng với khách hàng, tuân thủ các quy định của Nhà nước Việt Nam, các Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam do Nhà nước ban hành cũng như các Chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận chung. Bên cạnh đó công ty cũng luôn nhận thức đặt lợi ích hợp pháp của khách hàng lên hàng đầu. 2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty TNHH tư vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam. 2.1. Những kết quả đạt được Công ty TNHH tư vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam mới thành lập nhưng ban lãnh đạo của công ty đều là các trưởng phòng, phó phòng, phó giám đốc của công ty Kiểm toán AASC chuyến sang. Hơn nữa các thành viên ban giám đốc và các kiểm toán viên đã có kinh nghiệm từ 3 đến 12 năm trong lĩnh vực tài chính, thường xuyên trực tiếp tham gia kiểm toán và tư vấn cho nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau trong nhiều năm qua. Với những lợi thế trên danh sách khách hàng của AVA đã ngày một nhiều hơn với tốc độ tăng cao hơn trong vài tháng qua. Khách hàng của Công ty năm 2006 -2007: + Tổng Công ty Nhà nước: Tổng Công ty Hoá chất Việt nam, Tổng Công ty Xi măng Việt nam, Tổng Công ty Xây dựng Hà Nội, Tổng Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam (Vinaconex), Tổng Công ty Sông Đà, Tổng Công ty Xây dựng Tây Hồ,... + Doanh nghiệp Nhà nước: Công ty Phân bón Miền Nam, Công ty Phân Lân Văn Điển, Công ty Hoá chất cơ bản Miền Nam, Công ty Hơi Ký nghệ Que Hàn, Công ty Cao su Phước Hoà, Công ty Đồng Nai, Công ty Thuốc Sát trùng Việt Nam, Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội.,.. + Doanh nghiệp cổ phần: Công ty Cổ phần Bột giặt và Hoá chất Đức Giang, Công ty Cổ phần Xà phòng Hà Nội, Công ty Cổ phần Phân Lân Ninh Bình, Công ty Cổ phần Phân Lân Ninh Bình, Công ty Cổ phần Phân Lân Ninh Bình, Công ty Cổ phần Sông Đà 11 , Công ty Cổ phần Bóng Đèn Điện Quang, Công ty Cổ phần bao bì Xi măng Bút Sơn. + Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Công ty thực phẩm Mỳ Hàn Quốc, Công ty Sunfat Việt Nam, Công ty Visorutex, Công ty Mortor Việt Nam, Công ty TNHH Tayjang ( Hàn Quốc) + Các đơn vị hành chính sự nghiệp: Cục thuế Hà tây, Cục thuế Hoà Bình, Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc, Bênh viện Đa Khoa Xanh Phôn,... +Các Ban Quản lý dự án: Ban quản lý dự án Quốc lộ 5, Ban quản lý dự án Đại học Quốc gia, Ban quản lý dự án dây chuyền 2 Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn, Ban quản lý dự án dây chuyền 2 Nhà máy Xi măng Bút Sơn, .... Công ty đã cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp: + Dịch vụ kiểm toán Báo cáo tài chính năm 2006 + Dịch vụ kiểm toán Quyết toán vốn đầu tư công trình xây dựng cơ bản hoàn thành. + Dịch vụ xác tư vấn định giá doanh nghiệp, + Dịch vụ Tư vấn kế toán + Dịch vụ tư vấn xác định giá trị tài sản. Tổng giá trị đạt được Tính đến thời điểm hiện tại : Công ty đã ký gần 80 Hợp đồng dịch vụ các loại với tổng giá trị trên : 3,8 tỷ đồng . Trong đó: + 37 Hợp đồng kiểm toán Báo cáo Tài chính giá trị: 2,5 tỷ. + 04 Hợp đồng tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp giá trị : 0,3 tỷ. + 33 Hợp đồng kiểm toán Quyết toán vốn đầu tư công trình xây dựng cơ bản hoàn thành với giá trị: 0,65 tỷ + 02 Hợp đồng tư vấn xác định giá trị tài sản với giá trị : 0,15 tỷ + 02 Hợp đồng tư vấn tài chính giá trị: 0,2 tỷ. Công ty đang trong quá trình hoạt động của giai đoạn đầu. Với những khó khăn của một doanh nghiệp mới kết quả đạt được trong giai đoạn này còn khiêm tốn nhưng Ban giám đốc của công ty không ngừng hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý của công ty và đề ra những phương hướng phát triển trong giai đoạn tới và chiến lược phát triển lâu dài để đáp ứng được nhu cầu của thị trường đặc biệt là tính cạnh tranh mạnh mẽ của hoạt động kế toán và kiểm toán trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay. 2.2. Những thuận lợi và khó khăn của hoạt động kế toán và kiểm toán tại Công ty TNHH tư vấn kế toán và kiểm toán Xuất phát từ lợi ích của hoạt động kiểm toán độc lập, trong 15 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến ngành kiểm toán độc lập, tạo mọi điều kiện để kiểm toán độc lập Việt Nam phát triển. Ngành kiểm toán độc lập Việt Nam tuy còn non trẻ song đã có những bước tiến bộ đáng kể. Năm 1991, Bộ Tài chính thành lập 2 công ty kiểm toán đầu tiên với 13 nhân viên, đến nay đã có 105 công ty thuộc đủ các thành phần kinh tế, gồm: 6 DNNN, 66 công ty TNHH, 4 công ty 100% vốn đầu tu nước ngoài, 12 công ty cổ phần và 17 công ty hợp danh với 156 chi nhánh và văn phòng ở các tỉnh, thành phố trên khắp cả nước, với số lượng gần 4.000 nhân viên. Hoạt động kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán... đã và đang góp phần xây dựng và phổ cập cơ chế chính sách kinh tế, tài chính; thực hiện công khai, minh bạch báo cáo tài chính của doanh nghiệp; ngăn ngừa lãng phí, tham nhũng; phục vụ đắc lực cho công tác quản lý và điều hành kinh tế, tài chính của Nhà nước và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Với phương châm và mục đích phát triển như trên, trong 15 năm qua, bằng những kết quả đạt được, hoạt động kiểm toán độc lập đã khẳng định là nhu cầu cần thiết, khách quan, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước trong sự ngiệp đổi mới. Hội nghị tổng kết 15 năm hoạt động nhằm đánh giá thực trạng hoạt động kiểm toán độc lập, kết quả đạt được trên các mặt về số lượng và qui mô tổ chức kiểm toán, đội ngũ Kiểm toán viên chuyên nghiệp, về khách hàng, về chất lượng dịch vụ, về tốc độ tăng trưởng, kết quả kinh doanh và tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Đồng thời đánh giá và phân tích rõ các nguyên nhân tồn tại của hoạt động kiểm toán độc lập trong 15 năm qua. Có thể nói rằng, ngành kiểm toán độc lập đã đạt được những thành tích quan trọng trong quá trình đổi mới và hội nhập. Tuy nhiên, trong những năm tới để tiếp tục thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 và kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 mà Đại hội Đảng X đã đề ra và để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được trong 15 năm qua, đòi hỏi ngành kiểm toán phải tiếp tục đổi mới, phát triển để trở thành những công cụ sắc bén, có hiệu quả trong công tác giám sát, kiểm tra, kiểm soát tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp. Bên cạnh những thuận lợi, dịch vụ kế toán và kiểm toán trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế còn rất nhiều khó khăn. Hoạt động kiểm toán vẫn còn nhiều hạn chế, qui mô thị trường kiểm toán còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng và tốc độ tăng trưởng của kinh tế-xã hội. Khách hàng kiểm toán hiện nay chủ yếu là kiểm toán theo luật định bắt buộc. Trong mấy năm qua, các công ty kiểm toán mới được thành lập nhiều dẫn đến sự cạnh tranh giữa các công ty kiểm toán ngày càng gay gắt, cả về chất lượng dịch vụ và giá phí. Khách hàng kiểm toán là công ty cổ phần, công ty TNHH và tư nhân còn rất ít do Luật Doanh nghiệp chưa qui định bắt buộc phải kiểm toán báo cáo tài chính, mặt khác sự hiểu biết của các doanh nghiệp về lĩnh vực này còn hạn chế. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen sử dụng dịch vụ tư vấn thay cho hướng dẫn của cơ quan quản lý Nhà nước. Khách hàng yêu cầu cơ quan kiểm toán chủ yếu là bị bắt buộc theo yêu cầu của luật định chứ không phải do tự nguyện. Dù với các tên gọi khác nhau nhưng thực chất các công ty đều cung cấp các loại dịch vụ tương tự nhau, tỷ trọng dịch vụ kiểm toán vẫn là lớn nhất. Dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán, thuế chiếm tỷ trọng cao hơn ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và còn hạn chế ở các công ty trong nước. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế chưa có nhu cầu và chưa thực sự tin tưởng vào các dịch vụ tư vấn tài chính, thuế, kế toán, quản lý do các công ty kiểm toán cung cấp. Thực tế, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, vẫn còn hiện tượng một số công ty có vốn đầu tư nước ngoài chưa thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính theo luật định nhưng vẫn được cơ quan thuế chấp nhận. Hiện nay nguồn nhân lực kiểm toán của Việt Nam đang ở tình trạng thiếu hụt trầm trọng. Cả nước chỉ có gần 1.000 kiểm toán viên có chứng chỉ hành nghề. Con số này quá ít ỏi trước sự bùng nổ của nhu cầu kiểm toán. Ngoài ra, Việt Nam đang có tình trạng chảy máu chất xám do các kiểm toán viên bỏ nghề, hoặc do những người có chứng chỉ quốc tế chuyển ra nước ngoài công tác hay định cư. Ngoài ra, không thể phủ nhận được một thực trạng đối với nguồn nhân lực kiểm toán của Việt Nam là vấn đề chất lượng chuyên môn. Hiện nay chứng chỉ kiểm toán viên của Việt Nam chưa được công nhận rộng rãi và con số trên 200 kiểm toán viên có chứng chỉ quốc tế trong tổng số gần 1.000 kiểm toán viên Việt Nam là một con số quá ít để có thể có được sự an tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Hạn chế lớn nhất của nguồn nhân lực kiểm toán trong nước thuộc về vấn đề nhận thức về chuẩn mực. Cũng như tất cả các quốc gia khác trên thế giới khi nỗ lực đưa chuẩn mực quốc tế vào áp dụng trong điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng nước, Việt Nam chúng ta còn phải nỗ lực rất nhiều để hoàn thiện và thực sự đưa bộ chuẩn mực của Việt Nam vào áp dụng. Hiện nay chúng ta còn gặp vướng mắc. Thứ nhất, đó là vấn đề khung pháp lý. Chúng ta cần có các cơ chế hỗ trợ từ các cơ quan chức năng để đảm bảo việc thực hiện chuẩn mực. Người làm kế toán và kiểm toán viên cần phải có đầy đủ cơ sở pháp lý để thực hiện đúng theo chuẩn mực, tránh xảy ra trường hợp nếu thực hiện theo chuẩn mực thì lại bị chi phối bởi một điều khoản hay quy định không phù hợp.Thứ hai, việc sử dụng chuẩn mực hiện nay chưa trở thành ý thức của người hành nghề chuyên môn, Chúng ta quen dựa vào các quy định và văn bản hướng dẫn, và không ít trường hợp việc áp dụng các văn bản hướng dẫn này lại không hoàn toàn thống nhất. Do vậy khi nói đến chuẩn mực, không ít người còn ngần ngại và thậm chí không hiểu có chuẩn mực để làm gì. Việt Nam sẽ mở cửa hoàn toàn dịch vụ tài chính, đặc biệt là dịch vụ kế toán - kiểm toán cho các bên nước ngoài. Điều này dẫn đến một thực tế là thị trường tài chính, đặc biệt là các dịch vụ kế toán, kiểm toán, bảo hiểm cũng như thị trường chứng khoán sẽ có sự tham gia của rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Để đáp ứng các đòi hỏi về thông tin tài chính của họ, yêu cầu phải có các báo cáo tài chính minh bạch và đáng tin cậy cũng gia tăng đáng kế. Do đó sự bùng nổ trong lĩnh vực kiểm toán sẽ là điều tất yếu. Các doanh nghiệp kiểm toán trong nước sẽ phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để giữ được thị phần trước làn sóng các “đại gia” quốc tế. Ở giai đoạn đầu trong thời kỳ “hậu WTO”, áp lực cạnh tranh này không quá nặng nề với các doanh nghiệp kiểm toán và tư vấn thuế Việt Nam vì chúng ta còn có thế mạnh về phong tục, tập quán và ngôn ngữ. Các doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam có thể an tâm với một lượng khách hàng truyền thống từ các doanh nghiệp nhà nước, hay các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước là những nơi có thể chưa mặn mà với việc giao dịch vụ kiểm toán cho một công ty kiểm toán nước ngoài. Dịch vụ tư vấn thuế cũng có thể an tâm trong thời gian đầu vì các công ty tư vấn thuế trong nước vẫn có ưu thế trong việc hiểu rõ cách áp dụng các quy định về thuế vào thực tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, khi gia nhập WTO chúng ta không tránh được việc sử dụng các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế cũng như đưa các quy định về pháp luật và thuế theo thông lệ quốc tế vào áp dụng tại Việt Nam. Như vậy các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính trong nước không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc nâng cao chất lượng dịch vụ của mình để theo kịp chuẩn mực khu vực và quốc tế nếu không muốn mất thị phần trong lĩnh vực này. Một trong những lý do khiến cho hoạt động kiểm toán chưa đạt chất lượng là do công tác kiểm tra vẫn còn một số tồn tại. Nội dung kiểm tra chưa đi vào thực chất, còn mang tính hình thức hành chính, như nặng về kiểm tra các loại giấy phép, chứng chỉ. Việc kiểm tra chưa có tính chuyên nghiệp cao do những người thực hiện không chuyên sâu về nghề nghiệp; Qui trình và nội dung kiểm tra chưa nhất quán do chưa có văn bản về qui chế và qui trình kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán... Sở dĩ kiểm toán độc lập đã đi vào hoạt động 15 năm nhưng vẫn còn những yếu kém này là do hệ thống luật pháp liên quan tới hoạt động dịch vụ kiểm toán và kế toán của Việt Nam chưa thật hoàn chỉnh và đồng bộ; Trình độ tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và kế toán của các công ty kiểm toán còn nhiều hạn chế; sự cạnh tranh trong kinh doanh giữa các công ty kiểm toán còn mang nặng lợi ích kinh tế cục bộ; Nhà nước chưa có hướng dẫn thống nhất qui trình nghiệp vụ kỹ thuật, chưa thực hiện các biện pháp quản lý và chưa có qui chế về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán… III. Những cơ hội, thách thức phát triển thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 1. Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới và yêu cầu mở của thị trường dịch vụ kế toán và kiểm toán Việt Nam. Hiện nay Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Trở thành thành viên của WTO, VN phải tuân thủ toàn bộ các hiệp định và quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, do đang phát triển ở trình độ thấp lại đang trong quá trình chuyển đổi nên Việt Nam yêu cầu và được WTO chấp nhận cho hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh... Như vậy, các doanh nghiệp trong và ngoài nước khi hoạt động hay tiến hành đầu tư cần phải tuân thủ một cách đúng đắn các cam kết này. Theo công bố của Bộ Tài chính thì hầu hết các dịch vụ tài chính đều cam kết mở cửa rộng rãi, các DN nước ngoài có thể tham gia thị trường Việt Nam với hình thức đầu tư 100% vốn trong thời gian tối đa là 5 năm tới.Cụ thể, đối với lĩnh vực dịch vụ kế toán - kiểm toán đã được mở cửa hoàn toàn cho các bên nước ngoài. Lĩnh vực dịch vụ tư vấn thuế được cam kết tương tự dịch vụ kế toán - kiểm toán. Tuy nhiên các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập pháp nhân ở Việt Nam cung cấp dịch vụ tư vấn thuế chỉ được cấp phép hoạt động sau 1 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO. 2. Những cơ hội và thách thức Trong lĩnh vực dịch vụ kế toán, kiểm toán thì xuất phát điểm bước vào hội nhập của Việt Nam cũng có những điểm khả quan: Hệ thống khuôn khổ pháp lý đang trong quá trình được hoàn thiện; Các nguyên tắc, thông lệ quản lý tài chính – kế toán – kiểm toán quốc tế đang trong quá trình hòa nhập vào Việt Nam; Các phương pháp, kỹ thuật, công nghệ hiện đại bước đầu được tiếp cận; Hệ thống các đơn vị cung cấp dịch vụ kế toán – kiểm toán đang trong quá trình hình thành phát triển; … Tuy nhiên nếu nghiêm túc nhìn nhận thì xuất phát điểm của các loại dịch vụ tài chính nói chung và dịch vụ kế toán, kiểm toán nói riêng của Việt Nam tham gia hội nhập còn khá thấp: Thị trường trong nước còn nhỏ hẹp; Chưa mở mang được thị trường ở nước ngoài; Quy mô cung cấp dịch vụ còn quá nhỏ; Chất lượng các loại dịch vụ còn thấp; Các loại dịch vụ chưa đa dạng; Chưa thiết chế được mô hình đào đạo chuyên gia kế toán(Ngang tầm CPA quốc tế); Quy định pháp lý cụ thể, phù hợp làm môi trường cho việc “ hành nghề kế toán, kiểm toán” trong điều kiện kinh tế thị trường điều kiện hội nhập mới được thiết lập và chưa hoàn thiện;… Với xuất phát điểm như vậy thì những cơ hội và thách thức trong việc phát triển dịch vụ kế toán, kiểm toán ở nước ta trong quá trình hội nhập lại càng lớn. Những cơ hội lớn đẩy nhanh sự phát triển thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán là: + Tạo cơ hội tiếp thu và vận dụng những thông lệ quốc tế vào điều kiện cụ thể của Việt nam; + Tạo cơ hội cho các tổ chức, lạo hình dịch vụ kế toán, kiểm toán tiếp cận với thông lệ, các chuẩn mực kế toán, kiểm toán và phương pháp, kỷ thuật, công nghệ hiện đại; + Mở rộng thị trường và khả năng cung cấp dịch vụ; + Tạo môi trường cạch tranh gay gắt hơn, buộc các tổ chức cung cấp dịch vụ phải tìm cách trụ vững và vươn lên; + Tạo dựng môi trường tài chính công khai, minh bạch, thúc đẩy đầu tư trong nước và tăng cường đầu tư nước ngoài. Đồng thời, cững phải thừa nhận những thách thức đáng kể đối với việc phát triển thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán về các phương diện: Sự công nhận lẫn nhau; Về thị trường cạch tranh; Về đào tạo đội ngũ nhân viên; Về tạo môi trường pháp lí cho việc hành nghề; Về tính cấp bách tham gia hội nhập;.. Việt Nam sẽ mở cửa hoàn toàn dịch vụ tài chính, đặc biệt là dịch vụ kế toán - kiểm toán cho các bên nước ngoài. Điều này dẫn đến một thực tế là thị trường tài chính, đặc biệt là các dịch vụ kế toán, kiểm toán, bảo hiểm cũng như thị trường chứng khoán sẽ có sự tham gia của rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Đây là một thách thức lớn khi kế toán, kiểm toán Việt Nam chưa được quốc tế thừa nhận. Để đáp ứng các đòi hỏi về thông tin tài chính của họ, yêu cầu phải có các báo cáo tài chính minh bạch và đáng tin cậy cũng gia tăng đáng kế. Do đó sự bùng nổ trong lĩnh vực kiểm toán sẽ là điều tất yếu. Các doanh nghiệp kiểm toán trong nước sẽ phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để giữ được thị phần trước làn sóng các “đại gia” quốc tế.Ở giai đoạn đầu trong thời kỳ “hậu WTO”, áp lực cạnh tranh này không quá nặng nề với các doanh nghiệp kiểm toán và tư vấn thuế Việt Nam vì chúng ta còn có thế mạnh về phong tục, tập quán và ngôn ngữ. Các doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam có thể an tâm với một lượng khách hàng truyền thống từ các doanh nghiệp nhà nước, hay các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước là những nơi có thể chưa mặn mà với việc giao dịch vụ kiểm toán cho một công ty kiểm toán nước ngoài.Dịch vụ tư vấn thuế cũng có thể an tâm trong thời gian đầu vì các công ty tư vấn thuế trong nước vẫn có ưu thế trong việc hiểu rõ cách áp dụng các quy định về thuế vào thực tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, khi gia nhập WTO chúng ta không tránh được việc sử dụng các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế cũng như đưa các quy định về pháp luật và thuế theo thông lệ quốc tế vào áp dụng tại Việt Nam. Như vậy các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính trong nước không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc nâng cao chất lượng dịch vụ của mình để theo kịp chuẩn mực khu vực và quốc tế nếu không muốn mất thị phần trong lĩnh vực này. CHƯƠNG III: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀO HOẠT ĐỘNG KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN TẠI CÔNG TY TNHH TƯ VẤN KẾ TOÁN VÀ KIỂM TOÁN VIỆT NAM Để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật vào hoạt động kế toán, kiểm toán tại Công ty TNHH tư vấn kế toàn và kiểm toán Việt Nam phải triển khai rất nhiều giải pháp khác nhau, cả về phía nhà nước; phía công ty kế toán, kiểm toán; kiểm toán viên và phía các đối tượng được kiểm toán và được cung cấp dịch vụ. Những vấn đề cần tiếp tục phải hoàn thiện trong khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế đang chuyển đổi sang kinh tế thị trường với những thành tựu tăng trưởng ngày càng cao. Trong những năm qua, hoạt động kế toán, kiểm toán đã xác lập định hướng cải cách và phát triển trên cơ sở tiếp cận và hoà nhập với thông lệ quốc tế phổ biến được nhiều quốc gia thừa nhận và áp dụng. Đến nay, khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán đã ban hành và công bố là khá hoàn chỉnh, hài hoà ở mức độ khá cao với thông lệ quốc tế. Cùng với việc triển khai thực hiện Luật kế toán có hiệu lực từ 01/01/2004, việc ban hành các Nghị định, 26 Chuẩn mực kế toán, 38 Chuẩn mực kiểm toán, Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và các Thông tư hướng dẫn kế toán để thực hiện các Chuẩn mực kế toán đã góp phần làm trong sạch và lành mạnh hoá tình hình tài chính của các doanh nghiệp nói chung, đáp ứng yêu cầu cấp thiết trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển nền kinh tế đất nước đã góp phần cho hoạt động kế toán, kiểm toán của Việt Nam phát triển sẽ theo kịp các nước có nền kinh tế thị trường. Đồng thời tạo điều kiện về môi trường pháp lý cho hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực ASEAN. Tuy nhiên, trong những năm tới, khi Việt Nam gia nhập WTO cũng như tiếp tục thực hiện chính sách hội nhập kinh tế ở mức độ cao hơn, ngành kế toán, kiểm toán sẽ đứng trước nhiều cơ hội thuận lợi, đồng thời phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn. Do đó, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán là công việc hết sức cần thiết, góp phần tạo môi trường pháp lý lành mạnh và hỗ trợ cho việc quản lý, kiểm tra, giám sát của Nhà nước về hoạt động kế toán, kiểm toán bao gồm: Thứ nhất: Tiếp tục rà soát, cập nhật và hoàn thiện nội dung của 26 Chuẩn mực kế toán và 38 Chuẩn mực kiểm toán đã ban hành; hoàn chỉnh, bổ sung những điểm còn chưa phù hợp hoặc chưa thống nhất do các Chuẩn mực được ban hành thành 5 đợt trong 5 năm khác nhau. Những điểm chưa phù hợp còn do trong thời gian vừa qua Chuẩn mực kế toán quốc tế đã có những thay đổi, đòi hỏi chúng ta phải cập nhật đảm bảo sự nhất quán với Chuẩn mực kế toán quốc tế mới nhất. Thứ hai: Tiếp tục nghiên cứu, soạn thảo, ban hành mới các Chuẩn mực kế toán Việt Nam cần thiết cho nền kinh tế (do đến nay chúng ta chưa ban hành được) Tuy nhiên, Chuẩn mực kế toán quốc tế đang trong quá trình bổ sung, sửa đổi, xây dựng trên cơ sở nền kinh tế thị trường phát triển cao, qui định cho khu vực doanh nghiệp tư nhận là chủ yếu. ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường còn đang trong quá trình chuyển đổi, khu vực doanh nghiệp Nhà nước còn chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế, mối quan hệ giữa Chuẩn mực kế toán với Luật thuế và cơ chế tài chính còn mang nhiều nét đặc thù, lại đòi hỏi phải xây dựng, ban hành Chuẩn mực kế toán không xảy ra xung đột về mặt pháp lý với những qui định trong Luật thuế và chính sách tài chính trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Chuẩn mực kế toán Việt Nam không qui định các nội dung mà nền kinh tế Việt Nam chưa có hoặc chưa đạt đến trình độ tiếp cận, chưa phát sinh hoặc chưa trở thành phổ biến ở Việt Nam. Vì thế, chỉ nên đưa vào Chuẩn mực những vấn đề chung, có tính chất bao trùm và những nội dung mà Việt Nam đã có qui định phù hợp hoặc căn bản phù hợp với nội dung của IFRS. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chúng ta sẽ từng bước nghiên cứu, công bố thêm các Chuẩn mực kế toán cho phù hợp. Đặc điểm này đã chi phối đến thứ tự ưu tiên trong việc lựa chọn các Chuẩn mực kế toán để soạn thảo và công bố. Điều đó cũng đã được xác định rõ trong Quyết định số 38/2000/QĐ-BTC ngày 14/03/2000 của Bộ Tài chính về việc ban hành và công bố áp dụng hệ thống Chuẩn mực kế toán, Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam là dựa trên cơ sở Chuẩn mực kế toán quốc tế phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam, phù hợp với hệ thống luật pháp, trình độ, kinh nghiệm kế toán của Việt Nam. Thứ ba: Do việc tiếp tục ban hành Chuẩn mực kế toán trong thời gian tới, đặc biệt là các Chuẩn mực kế toán có quan hệ mật thiết đến Chính sách tài chính hiện nay và xu hướng đổi mới Chính sách tài chính. Vì vậy, cần phải có định hướng rõ ràng, chiến lược tài chính làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống Chuẩn mực kế toán. Thứ tư: Hoàn thiện Chế độ kế toán cho các lĩnh vực đặc thù: Căn cứ Luật Kế toán, các văn bản hướng dẫn Luật, các Chuẩn mực kế toán và chế độ ké toán doanh nghiệp mới ban hành cần phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện và Chế độ kế toán cho từng lĩnh vực đặc thù, cụ thể: + Ngân hàng và bảo hiểm là các ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Từng quốc gia phải có hệ thống văn bản pháp luật riêng, đặc biệt là hệ thống kế toán để thực hiện thống nhất, để kiểm soát, điều chỉnh, thúc đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm, ngân hàng phát triển và giúp Nhà nước quản lý toàn diện và kiểm tra, giám sát thường xuyên mọi hoạt động của các lĩnh vực kinh tế đặc thù này. + Chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ ban hành theo Quyết định 1177/1996/QĐ-BTC ngày 23/12/1996 và sửa đổi, bổ sung theo Quyết định số 144/2001/QĐ-BTC ngày 21/12/2001 đến nay đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết và không còn đáp ứng được yêu cầu quản lý do khuôn khổ pháp lý mới về kế toán được thiết lập, Luật thuế và cơ chế tài chính mới được bổ sung, sửa đổi. Do vậy, trong thời gian tới, trên cơ sở Chế độ kế toán doanh nghiệp mới ban hành, Bộ Tài chính đang khẩn trương nghiên cứu, ban hành lại Chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, dễ hiểu, dễ làm cho phù hợp với đặc điểm tổ chức hoạt động và trình độ quản lý của doanh nghiệp vừa và nhỏ.Ngoài ra còn phải nghiên cứu, hoàn thiện Chế độ kế toán áp dụng cho các ngành đặc thù như dầu khí, điện lực, hàng không, xây lắp, Chế độ kế toán hộ kinh doanh cá thể, tổ chức và văn phòng đại diện nước ngoài... nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất. Thứ năm: Về hệ thống kế toán Nhà nước, đến nay vẫn chưa có một cơ quan hoặc tổ chức chuyên trách làm kế toán. Mỗi cơ quan, đơn vị còn áp dụng một chế độ, phương pháp khác nhau. Việc quản lý và kế toán tài sản, vốn, quỹ, thu - chi Ngân sách Nhà nước còn do nhiều cơ quan cùng đồng thời thực hiện. Do đó, số liệu kế toán phản ánh chưa thống nhất, kịp thời đặc biệt là số liệu thu - chi Ngân sách Nhà nước giữa các cấp ngân sách còn trùng lặp. Tài sản quốc gia chưa được đánh giá và phản ánh đủ vào số liệu kế toán quốc gia, việc tổng hợp tài sản quốc gia hiện nay chủ yếu vẫn dùng phương pháp thống kê. Có thể nói rằng để phản ánh, tổng hợp và kiểm tra được tài sản quốc gia (cả bằng tiền và hiện vật) thì hệ thống kế toán Nhà nước phải được qui về một mối và phải có một tổ chức của Nhà nước đứng ra thực hiện. Trong những năm tới, việc hoàn thiện hệ thống kế toán Nhà nước Việt Nam sẽ triển khai thực hiện theo định hướng hợp nhất hệ thồng kế toán thu, chi Ngân sách, kho bạc với kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp để tạo lập thành một hệ thống Tổng kế toán Nhà nước. Mục tiêu của việc hoàn thiện hệ thống kế toán Nhà nước là phải xây dựng hệ thống kế toán Nhà nước dựa trên cơ sở dữ liệu thông tin duy nhất, đầy đủ và áp dụng thống nhất cho tất cả các cơ quan, đơn vị công quyền và công lập từ trung ương đến địa phương. Hệ thống kế toán đó phải đảm bảo thông tin tin cậy, thông suốt giữa các đơn vị tham gia vào quá trình lập, phân bổ, chấp hành và quyết toán Ngân sách Nhà nước. Với mục tiêu đó, Hệ thống kế toán Nhà nước phải phản ánh được đầy đủ mọi đối tượng của kế toán Nhà nước gồm: Kế toán quĩ Ngân sách Nhà nước; Kế toán toàn bộ các khoản thu, chi Ngân sách nhà nước và Ngân sách các cấp; Kế toán tài sản quốc gia, các khoản dự trữ, các quĩ của Chính phủ và việc sử dụng các quĩ; Kế toán các nghiệp vụ tài chính đối ngoại, các khoản nợ của Nhà nước; Kế toán quá trình tiếp nhận và sử dụng kinh phí, kế toán các khoản chênh lệch thu - chi và xử lý chênh lệch thu - chi của các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp có sử dụng kinh phí Ngân sách Nhà nước. Thứ sáu: Trong quá trình xây dựng hệ thống Tổng kế toán Nhà nước như trên, một việc không thể không làm là nghiên cứu, ban hành hệ thống Chuẩn mực kế toán Nhà nước phù hợp với Chuẩn mực quốc tế về kế toán công do IFAC ban hành. Việc này đang được Bộ Tài chính triển khai, bước đầu là dịch toàn bộ các Chuẩn mực quốc tế về kế toán công ra tiếng Việt để có cơ sở học tập, nâng cao nhận thức về nó, làm cơ sở cho việc ban hành trong vài năm tiếp theo. Thứ bảy: Nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động kế toán, hoạt động kiểm toán và làm lành mạnh hoá thông tin tài chính trong nền kinh tế quốc dân, trong thời gian sớm nhất, Bộ Tài chính cần ban hành ngay “Quy chế kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán” để áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp có cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán và cá nhân hành nghề kế toán. Nhận thức rõ vai trò của kiểm soát chất lượng, ngoài Chuẩn mực kiểm toán số 220 “Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán”, Uỷ ban soạn thảo Chuẩn mực kiểm toán quốc tế đã nghiên cứu và công bố Chuẩn mực quốc tế về kiểm soát chất lượng đối với các công ty cung cấp dịch vụ kiểm toán và soát xét thông tin tài chính trong quá khứ, các dịch vụ đảm bảo và các dịch vụ có liên quan (ISQC số 01 có hiệu lực từ ngày 15/6/2005). Do vậy “Quy chế kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán” cần được nghiên cứu, ban hành trên cơ sở Chuẩn mực quốc tế mới ban hành cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Thứ tám: Về hành nghề kế toán ở Việt Nam mới chính thức có từ khi có Luật kế toán năm 2003. Đến nay mới cấp được 49 Chứng chỉ hành nghề kế toán. Chúng ta vẫn chưa ban hành được qui chế quản lý họ. Do đó trong thời gian tới Bộ Tài chính cũng sẽ tiếp tục nghiên cứu và ban hành “Qui chế quản lý hành nghề kế toán” làm cơ sở kiểm soát người hành nghề kế toán, đào tạo, bồi dưỡng cũng như công khai danh sách kế toán viên hành nghề để doanh nghiệp lựa chọn tốt nhất. Thứ chín: Hành nghề kiểm toán độc lập ở Việt nam đã có 15 năm nay nhưng văn bản pháp luật cao nhất đến nay chỉ có là Nghị định của Chính phủ. Do đó trong tuơng lai gần, Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ, Quốc Hội công bố Luật Kiểm toán độc lập nhằm nâng cao địa vị pháp lý của hoạt động này cũng như luật hoá các qui định về quản lý Nhà nước đối với cá nhân KTV, công ty kiểm toán, đối tượng kiểm toán và người sử dụng thông tin tài chính đã được kiểm toán. Luật kiểm toán độc lập cũng sẽ xác lập vai trò của tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán trong việc tham gia quản lý hoạt động nghề nghiệp này phù hợp với thông lệ quốc tế, hướng đến mục tiêu được quốc tế thừa nhận về dịch vụ kiểm toán Việt Nam. Thứ mười: Trong vài năm tới đây, Chính phủ hoặc Bộ Tài chính cần tiếp tục ban hành văn bản pháp luật để chuyển giao tiếp và mạnh hơn nữa công việc quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán từ cơ quan Nhà nước sang cho các tổ chức nghề nghiệp. Các tổ chức nghề nghiệp đã có như Hội kế toán và kiểm toán Việt Nam (VAA), Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) cần duy trì và phát triển mạnh mẽ hơn, phải thực sự là tổ chức độc lập và tự quản, mang tính nghề nghiệp cao, phải có uy tín và danh tiếng để thu hút Hội viên đẳng cấp nghề nghiệp cao hướng đến mục tiêu ngang tầm khu vực và quốc tế. Như thế theo xu thế thời đại, khi thế giới chúng ta đang ngày càng thu hẹp lại, các giao dịch xuyên quốc gia đang ngày càng phát triển một cách mạnh mẽ hơn, tất cả các quốc gia đang tìm cách hoà hợp các Chuẩn mực kế toán, kiểm toán trong nước với các Chuẩn mực quốc tế. Chính vì thế, cùng với các lĩnh vực khác của Việt Nam đang trong quá trình tiến tới một khuôn khổ pháp lý chung, ngành kế toán, kiểm toán Việt Nam cũng theo con đường đó - Con đường duy trì và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế để phát triển nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt Nam phù hợp với thông lệ chung được thừa nhận nhằm đạt được sự công nhận của khu vực và quốc tế, làm rạng danh các thế hệ cán bộ kế toán, kiểm toán Việt Nam, góp phần phát triển nền kinh tế, tài chính đất nước ta. Chất lượng và kiểm soát chất lượng hoạt động là vấn đề sống còn của hoạt động kiểm toán.Để nâng cao chất lượng kiểm toán phải triển khai rất nhiều giải pháp khác nhau, cả về phía nhà nước, phía công ty kiểm toán, kiểm toán viên và phía các đối tượng được kiểm toán và được cung cấp dịch vụ. Với những kết quả công ty đã đạt được và những khó khăn công ty đang khắc phục tôi xin nêu một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty: Giữ vững và phát triển thị phần trong kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán quyết toán vốn đầu tư, dịch vụ tư vấn xác định giá doanh nghiệp là các lĩnh vực thế mạnh và có uy tín với khách hàng. Đẩy mạnh các dịch vụ kiểm toán , tư vấn đối với mảng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (đây là thị trường còn nhiều tiềm năng trong tương lai), Phát triển các dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán, thuế. Phát triển mạnh cả về số lương và chất lượng đội ngũ cán bộ, kiểm toán viên và nhân viên trong Công ty.... Doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu luật chơi của WTO, nghiên cứu kỹ thỏa thuận về việc gia nhập WTO khi được phổ biến. II. Một số khuyến nghị về phía công ty kế toán, kiểm toán; kiểm toán viên và phía các đối tượng được kiểm toán và được cung cấp dịch vụ. 1. Về phía công ty kế toán, kiểm toán và kiểm toán viên. Các công ty Kiểm toán cần chuyển đổi hình thức sở hữu và thay đổi Giám đốc không đủ điều kiện Tại Điều 20 của Nghị định 105/2004/NĐ-CP về kiểm toán độc lập và Nghị định 133/2005/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 105 do Chính phủ ban hành có quy định rõ là các công ty kiểm toán được thành lập và hoạt động theo một trong bốn mô hình sau: công ty có vốn đầu tư nước ngoài, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH. Với quy định này, được hiểu là các công ty kiểm toán có sở hữu nước ngoài sẽ luôn được thành lập và hoạt động theo mô hình TNHH theo quy định của Luật Đầu tư; đồng thời, sẽ không có mô hình công ty kiểm toán là công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước. Đối với công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước (bao gồm công ty nhà nước và công ty TNHH một thành viên) cần phải chuyển đổi xong trước ngày 21/4/2007.Như vậy, việc chuyển đổi mô hình quản lý (đối với các công ty cổ phần kiểm toán) và chuyển đổi sở hữu (đối với các công ty cổ phần kiểm toán có sở hữu của Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước) được coi là một bắt buộc mang tính pháp lý. Đồng thời, đây cũng là một nhu cầu rất bức thiết của các công ty này vì yêu cầu của sự phát triển, vì yêu cầu của việc nâng cao năng lực quản lý và năng lực cạnh tranh. Các lý do chủ yếu được phân tích là: + Thông lệ và xu thế tất yếu phát triển ngành nghề kế toán, kiểm toán trên thế giới. Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế này. Dù các quy định này được ban hành hơi chậm, nhưng các công ty kiểm toán của Việt Nam đã sẵn sàng cho việc chuyển đổi, và coi việc chuyển đổi này như là một trong những cơ hội tốt để các công ty tiếp tục phát triển và thành công. + Với cam kết gia nhập WTO và với chiến lược sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam, không thể có sự tiếp tục tồn tại các công ty kiểm toán có sở hữu Nhà nước. Thêm nữa, các Tổ chức tài trợ quốc tế và các nhà đầu tư nước ngoài thường thuê các công ty kiểm toán danh tiếng, có chất lượng đã được khẳng định và đặc biệt là phải có tính độc lập, minh bạch rất cao để kiểm toán, phù hợp với yêu cầu của Công ty mẹ cũng như của các nhà đầu tư trên toàn thế giới. + Đối với các công ty kiểm toán có sở hữu vốn của nhà nước, việc chuyển đổi sở hữu còn có tác động tích cực và mạnh mẽ trên một số mặt quan trọng sau: Chủ động hoàn toàn trong chính sách trả lương cho nhân viên - không bị khống chế tỷ lệ quỹ lương; không bị trừ quỹ lương theo cơ chế “Lợi nhuận năm sau phải cao hơn năm trước và không được thấp hơn lợi nhuận kế hoạch”. Điều này thực sự quan trong vì nó cho phép các công ty được trả lương cao để thu hút các nhân viên giỏi, đồng thời cho phép công ty chủ động đầu tư chi phí vào đào tạo và nâng cao chất lượng nhân viên và chất lượng dịch vụ; Tăng cường trách nhiệm cá nhân của các thành viên Ban Giám đốc trong việc điều hành công ty, quản lý và nâng cao chất lượng dịch vụ gắn với trách nhiệm vật chất; Các thành viên của Ban Giám đốc các công ty sau khi chuyển đổi cũng phải có trách nhiệm trong việc nâng cao năng lực cá nhân cả về diều hành và kiến thức chuyên môn để duy trì ổn định hoạt động và tiếp tục phát triển công ty cao hơn; Giải quyết hoàn toàn tính độc lập nghề nghiệp do ảnh hưởng bởi sở hữu Nhà nước. Về phía đội ngũ Kiểm toán viên. Theo Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán Bộ Tài chính, cả nước hiện nay có gần 1.200 kiểm toán viên được cấp chứng chỉ hành nghề, nhưng thực tế số làm việc trong ngành chiếm khoảng 2/3. Hiện cả nước có 5 công ty kiểm toán quốc doanh, trong đó có 2 công ty Kiểm toán: Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) và công ty Tư vấn Tài chính - Kế toán và Kiểm toán (AASC) là có đội ngũ kiểm toán viên đông nhất (trên 100 người). Đối với những công ty TNHH mới thành lập khi có Luật Doanh nghiệp thì số kiểm toán viên thường chỉ khoảng 10 người, thậm chí có Cty chỉ có 3-4 người). Số lượng kiểm toán viên quá ít không đủ sức kiểm toán hàng vạn doanh nghiệp. Trong khi đó các công ty kiểm toán nước ngoài đã và đang vào Việt Nam bằng hình thức kết nạp công ty Việt Nam là thành viên. Họ đầu tư đào tạo, cung cấp thông tin, giúp đỡ công ty thành viên cho đến lúc đạt trình độ tương đương. Khi đó, công ty thành viên sẽ phục vụ khách hàng quốc tế của họ ở Việt Nam. Một điều mà các công ty kiểm toán trong nước cần quan tâm đúng mức đó là cơ chế tiền lương. Bởi lẽ, các công ty nước ngoài luôn thu hút đội ngũ kiểm toán viên bằng mức tiền lương hấp dẫn. Nhiều kiểm toán viên trong nước đã ra đầu quân cho các công ty kiểm toán nước ngoài. Từ thực tế thấy rằng bài toán về nhân lực đang là điều kiện sống còn của các công ty kiểm toán. Bên cạnh đó, vấn đề đạo đức hành nghề của kế toán viên và kiểm toán viên cần được quan tâm ngay từ bây giờ. Chuẩn mực đạo đức là một khái niệm nhạy cảm của bất cứ ngành nghề nào trong xã hội, nhất là đối với nghề nghiệp có liên quan mật thiết với hoạt động kinh tế như kế toán, kiểm toán. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán đã được xây dựng trên nền tảng: độc lập; khách quan và chính trực; bảo mật; năng lực chuyên môn và tính thận trọng; tư cách nghề nghiệp; tuân thủ chuẩn mực chuyên môn. Không có đạo đức nghề nghiệp thì chất lượng sản phẩm và dịch vụ kế toán, kiểm toán cung cấp cho xã hội sẽ không đảm bảo được giá trị sử dụng của nó. Đạo đức nghề nghiệp – Tài sản “vô hình” quí giá của người hành nghề. Đã đến lúc vấn đề này phải được đưa vào giáo trình của các trường đại học. Bởi lẽ, các công ty kiểm toán cũng như các kiểm toán viên có một vị trí hết sức quan trọng trong việc xác nhận tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp niêm yết nói riêng trước khi được công bố ra công chúng. Thông tin đó làm cơ sở cho các nhà đầu tư và ảnh hưởng tới các quyết định và quyền lợi của các nhà đầu tư. Công việc phải làm phía trước của ngành kiểm toán còn nhiều và cần có thêm thời gian để kịp hoàn thiện. Cánh cửa hội nhập đã mở, buộc chúng ta phải có phương án hành động thích hợp. 2. Về phía các đối tượng được kiểm toán và được cung cấp dịch vụ. Một nguyên nhân dẫn đến chất lượng kiểm toán trong nước chưa cao cũng bởi người sử dụng báo cáo kiểm toán chưa đòi hỏi cao. Người sử dụng phải đòi hỏi cao thì người làm kiểm toán mới cung cấp những sản phẩm chất lượng cao. Kiểm toán viên tạo ra những sản phẩm chất lượng cao nhưng người sử dụng không đánh giá được hết “tầm” của sản phẩm, nên họ chưa thực sự bỏ công sức ra làm tốt... Kết quả kiểm toán ngoài việc để báo cáo cơ quan quản lý, mục đích quan trọng là phục vụ cho doanh nghiệp trong quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hiệu quả và phục vụ mọi tổ chức, cá nhân có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến doanh nghiệp. III. Một số khuyến nghị tại công ty TNHH tư vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật vào hoạt động kế toán và kiểm toán tại công ty Công ty TNHH Tư vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam được thành lập ngày 10/10/2006 theo giấy Đăng kí kinh doanh số 01020228384 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp. Công ty TNHH Tư vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam là một trong những loại hình Công ty TNHH 2 thành viên trở lên hoạt động trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, và tư vấn tài chính. Công ty mới thành lập với quy mô còn nhỏ nó có cũng những đặc điểm chung của các công ty kiểm toán nhưng đồng thời có những nét đặc thù của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thời gian và kinh nghiệm hoạt động chưa nhiểu nhưng với những thuận lợi ban đầu công ty đã phát triển rất nhanh chóng và ngày được các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đón nhận. Sự phát triển của hoạt động kế toán, kiểm toán nói chung và tại công ty TNHH tư vấn kế toán và kiểm toán trong những năm gần đây là rất nhanh trên mọi phương diện và đã góp phần làm lành mạnh hóa nền tài chính . Tuy nhiên sự phát triển này đó còn chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu phát triển của nền kinh tế nhất là về chất lượng và sự đa dạng của dịch vụ kiểm toán, tư vấn tài chính, kế toán, thuế... Đặc biệt ngành kiểm toán độc lập của chúng ta chưa tạo được sự nhận thức đúng đắn về tác dụng to lớn của hoạt động kiểm toán độc lập với ý nghĩa là người trợ giúp cho tất cả các loại hình doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vì vậy đòi hỏi ngành kiểm toán độc lập phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ và đạo đức nghề nghiệp. Đây vừa là vấn đề mang tính chiến lược, vừa là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với nghề kiểm toán Việt Nam. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, những năm qua, các cơ quan quản lý nhà nước đã xây dựng được Quy chế về kiểm toán độc lập, Luật kế toán, Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán, Chuẩn mực kế toán và các văn bản quy phạm pháp luật có liên toán rất đầy đủ, chặt chẽ và phù hợp, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho ngành kiểm toán độc lập hoạt động và phát triển. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, hoạt động của các doanh nghiệp kiểm toán còn gặp nhiều khó khăn, nhất là các doanh nghiệp kiểm toán vừa và nhỏ. Vì vậy, yêu cầu đòi hỏi phải tiếp tục xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về kế toán, kiểm toán; đồng thời coi trọng việc hướng dẫn cụ thể và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các quy định của pháp luật, các chuẩn mực kế toán kiểm toán đã ban hành để nâng cao chất lượng các dịch vụ kiểm toán độc lập. Công ty TNHH tư vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam mới thành lập, số lượng nhân viên ít, chỉ có vài người có chứng chỉ KTV, vốn đầu tư trên dưới 1 tỷ đồng, khách hàng thường cũng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa cố định... Do đó, tiềm lực tài chính, tiềm lực chuyên môn đều hạn hẹp, không có khả năng cử nhân viên theo học các lớp KTV quốc tế, ít có dịp đi tham quan, khảo sát nước ngoài. Do ít KTV nên thường chỉ 1 - 2 hoặc rất ít khi qua được 3 khâu soát xét chất lượng dịch vụ. Do đó nhằm giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm bảo nâng cao chất lượng dịch vụ Bộ Tài Chính và Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) cần có một số biện pháp như: + Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho các kiểm toán viên, các nhân viên của các công ty kiểm toán vừa và nhỏ, đặc biệt là bồi dưỡng kỹ thuật kiểm toán, kỹ thuật tư vấn tài chính, kế toán, thuế + Hàng năm cần mở lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý doanh nghiệp kiểm toán cho các đối tượng là Giám đốc, Phó Giám đốc của các công ty kiểm toán vừa và nhỏ nhằm trang bị cho họ những kiến thức cơ bản, những tác nghiệp cụ thể trong kỹ thuật kiểm toán cũng như kiến thức quản lý, điều hành doanh nghiệp kiểm toán. KẾT LUẬN Hoạt động kế toán và kiểm toán có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường đặc biệt khi nhà nước khuyến khích phát triển đa thành phần kinh tế, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp, mở cửa hội nhập quốc tế. Doanh nghiệp muốn phát triển, phát hành cổ phiếu, thu hút vốn đầu tư thì không thể không công bố báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Khi mà quy mô hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh, các chủ đầu tư thuê quản lý kinh doanh thì họ luôn luôn yêu cầu sổ sách kế toán phải minh bạch, các rủi ro vi phạm pháp luật phải được kiểm soát và hạn chế đến mức thấp nhất Công ty TNHH tư vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam là loại hình Công ty TNHH hai thành viên trở lên hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán, kế toán và tư vấn tài chính có đội ngũ kiểm toán viên và cộng tác viên đông đảo và giàu kinh nghiệm. Công ty đang trong giai đoạn đầu của quá trình thành lập, cơ cấu tổ chức và quản lý của công ty đang được dần hoàn thiện và Ban giám đốc dự định sẽ ổn định vào Quý II năm 2007. Trong những năm gần đây các công ty kế toán, kiểm toán mới được thành lập nhiều và Việt Nam sẽ mở cửa hoàn toàn dịch vụ tài chính, đặc biệt là dịch vụ kế toán - kiểm toán cho các bên nước ngoài dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty cả về chất lượng dịch vụ và giá phí do đó ngay từ ngày mới thành lập công ty đã rất coi trọng năng lực và kinh nghiệm ập nhật thông tin để mở rộng và phát triển công ty, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ có giá trị cao cả về số lượng và chất lượng. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn bản pháp luật Các văn bản pháp luật về kế toán Luật kế toán số 03/2003/QH11 ngày 17/6/2003 Nghị định số 128/2004/NĐ-CP ngày 31/5/2004 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kế toán áp dụng trong lĩnh vực kế toán Nhà nước Nghị định số 129/2004/NĐ-CP ngày 31/5/2004 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kế toán áp dụng trong hoạt động kinh doanh Nghị định số 185/2004/NĐ-CP ngày 04/11/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán Thông tư số 120/2004/TT-BTC ngày 15/12/2004 của Bộ Tài Chính hướng dẫn thi hành thực hiện một số điều của Nghị định số 185/2004/NĐ-CP ngày 04/11/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán Các văn bản pháp luật về kiểm toán Luật kiểm toán Nhà nước số 37/2005/QH11 ngày 14/6/2005 Nghị định của Chính phủ số 105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004 về kiểm toán độc lập Nghị định số 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 105/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/3/2004 về kiểm toán độc lập; Thông tư số 60/20006/TT-BTC của Bộ tài chính ngày 28/6/2006 về tiêu chuẩn, điều kiện thành lập và hoạt động đối với các doanh nghiệp kiểm toán. Tạp chí Tạp chí kiểm toán số 3/2006 Tạp chí kiểm toán số tất niên năm 2006 Tạp chí kiểm toán số 10/2006 Tạp chí kiểm toán số 6/2006 Các Website truy cập MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31992.doc
Tài liệu liên quan