Chuyên đề Công tác Marketing của Công ty may Thăng Long trong lĩnh vực gia công xuất khẩu

Hoàn thiện công tác Marketing luôn là mục tiêu đề ra của các Doanh nghiệp, là biện pháp bảo đảm lãi suất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Qua thời gian nghiên cứu tìm hiểu thông qua tài liệu và thực tế về công ty may Thăng Long tôi đã lựa chọn đề tài : “Công tác Marketing của Công ty may Thăng Long trong lĩnh vực gia công xuất khẩu” làm luận văn tốt nghiệp. Trong một khoảng thời gian không dài, với sự áp dụng lý luận và thực tiễn, cũng như kiến thức thực tế của người viết còn nhiều hạn chế nhưng với mong muốn nhận thức cho bản thân, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài này và cũng mạnh dạn đưa ra một số ý liến với hy vọng có thể hoàn thiện được công tác Marketing của công ty May Thăng Long để có thể nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như mục tiêu chiếm lĩnh thị trường may mặc của công ty.

doc79 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1490 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Công tác Marketing của Công ty may Thăng Long trong lĩnh vực gia công xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngày của người tiêu dùng. Màu chủ đạo trên thế giới vẫn là màu đen và màu trắng, xu hướng khách hàng thích trang phục thường được tiết kế trên chất liệu vải như lanh, silk, cotton ... tạo dáng trẻ khoẻ, phù hợp với đời sống công nghiệp. Quần áo có thể biến điệu đơn giản về kiểu cỡ và vải áo, trang trí bàng pha, ghép màu, thêu tạo độc đáo của người mặc. Chất liệu lụa mềm mại kết hợp với hàng voal sẽ thoả mãn yêu cầu khắt khe của nhà tạo mốt để tạo ra sự nổi bật về những nét mềm mại, quyến rũ của phái đẹp. 3. Phân đoạn thị trường. Thị trường luôn luôn tồn tại với những biến chuyển không ngừng về nhu cầu. Bao gồm tất cả những khác hàng khác nhau, giới tính quan điểm sống khác nhau dẫn đến các nhu cầu về hàng hoá khác nhau. Các hãng kinh doanh muốn thành đạt thì phải tận dụng được cả thị trường, không phải chú trọng một mặt hàng, một lớp người tiêu dùng mà có thể thành công. Điều đó đòi hỏi phải có chiến lược cụ thể đáp ứng đến từng sở thích của từng lớp người. Công ty muốn xâm nhập và trở lên thành công ở các thị trường nước ngoài thì phải nghiên cứu, tìm hiểu chặt chẽ thị trường đó. Phải phân đoạn thị trường thành nhiều khúc tương ứng với từng lứa tuổi, từng giới tính. Tuỳ từng loại thị trường mà phân đoạn nhiều hay ít nhưng thông thường với các chiến lược Marketing phân đoạn kỹ thuật khả năng sẽ cao. Chẳng hạn, thị trường EU là thị trường rất khó tính về mẫu mã nên Công ty phải phân thành các đoạn : - Từ 6 -> 12 tuổi. - Từ 12 -> 25 tuổi. - Từ 25 -> 35 tuổi. - Từ 35 -> 50 tuổi. - Từ 50 -> 70 tuổi. Nhưng với thị trường Đông Âu chỉ có phân đoạn, - Từ 6 -> 12 tuổi. - Từ 12 -> 30 tuổi. - Từ 30 -> 55 tuổi. Các lớp này tương ứng với từng loại hình phục vụ riêng, mầu sắc, kiểu dáng, mẫu mốt riêng. Nếu Công ty tập trung nghiên cứu tìm hiểu nắm bắt được những đặc trưng cơ bản, sở thích của từng nhóm người, thông qua đó có chính sách sản phẩm cụ thể thì hàng hoá của Công ty sẽ có chỗ đứng trên thị trường, được người tiêu dùng ưa thích. Còn nếu không có sự nghiên cứu cụ thể, sản xuất mà không biết nhu cầu thế nào, sản phẩm sẽ lạc hậu, ứ đọng và gây khó khăn dẫn tới phá sản Công ty. 4. Công tác dự báo thị trường may mặc. * Trên thị trường Thế giới. Cùng với sự phát triển về kinh tế là nhu cầu của con người về cuộc sống cũng như đang tăng dần lên. Nhu cầu không chỉ dừng lại ở mức đủ cơm ăn áo mặc mà đã được vượt lên đòi hỏi chất lượng cao trong tất cả các lĩnh vực. Nhu cầu ăn mặc của người dân đang có sự biến chuyển từng ngày. Căn cứ vào mức thu nhập và văn hoá của các dân tộc khác nhau lên nhu cầu về mặt hàng cũng khác nhau. Nhưng họ có điểm chung là sở thích về hàng hoá thời trang. Nhu cầu hàng hoá ngày càng tăng lên thể hiện trong mức tiêu thụ của các tầng lớp dân cư. Theo thống kê của các nước EU, trung bình mức tiêu dùng hàng dệt may 17 kg/ người/năm, ở các thị trường khác như Nhật Bản, Bắc Mỹ nhu cầu cũng tương tự, hàng năm phải nhập khẩu hàng tỷ USD hàng hoá may mặc. Có thể nói ngày nay đa phần dân số nói chung có xu hướng ăn mặc đẹp, hợp thời trang. Đó là nhân tố làm tăng sức tiêu thụ mặt hàng may mặc xuất nhập khẩu trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay các nước phát triển không sử dụng ngành công nghiệp dệt tốn nhiều lao động, thiếu sức cạnh tranh mà tập trung vào hàng hoá đòi hỏi nhiều hàm lượng kỹ thuật cao. Họ chuyển công nghệ này sang các nước đang phát triển để tận dụng nguồn lao động rẻ mạt, nguyên liệu dồi dào. Cách thức này làm lợi cho cả hai bên và làm tăng mậu dịch trên toàn thế giới. Các nước đang phát triển thì có nhiều lợi thế về nguyên liệu, lao động nên sẽ làm giá thành sản phẩm giảm đi, còn các nước phát triển do không sản xuất hàng may mặc nữa thì lại nhập khẩu hàng may mặc từ các nước đang phát triển. Sự tác động qua lại làm tăng lợi nhuận cho cả hai phía và góp phần mở rộng quan hệ mậu dịch toàn cầu. Thế giới ngày nay là một ngôi nhà chung, các nước hợp tác với nhau để cùng phát triển kinh tế. Hội nghị Thương mại đã diễn ra tại Mavoc từ ngày 12 -> 13.4.1994 và Hiệp ước mậu dịch thế giới đã được 125 nước tham gia ký kết, một trong những thoả thuận cơ bản được ký là hàng dệt may. Từ năm 1993 các nước phát triển hạn chế xuất khẩu hàng dệt may bằng cách sử dụng hạn ngạch hai chiều trong khuôn khổ hiệp định đa sợi. Những hạn chế như vậy đã dẫn đến tăng các sản phẩm này. Căn cứ theo thoả thuận đã ký trong văn bản kết thúc vòng URUGUAY Hiệp định đa sợi sẽ được xoá bỏ dần trong 10 năm, bắt đầu từ 1/1/1998. Đến năm 2005 Hiệp định đa sợi được thay thế bằng Hiệp định hàng dệt may được thực hiện qua các thoả thuận khi đàm phán. Việc xoá bỏ hạn ngạch và thuế quan rất có lợi cho các nước đang phát triển là những nước xuất khẩu chủ yếu là hàng dệt may. Theo dự đoán của những chuyên gia xuất khẩu hàng dệt may, hàng may mặc của các nước đang phát triển sẽ tăng 93% so với hiện nay. Các nước phát triển cũng có lợi do hàng may giảm giá. * Tại thị trường Việt Nam Việt Nam nằn trong khu vược Đông Nam Á, là trung tâm của xu hướng chuyển dịch hàng Công nghiệp may mặc. Tận dụng được các lợi thế lớn ở trong nước cũng như ngoài nước. Các nước công nghiệp phát triển (NICS) tìm thấy ở Việt Nam một thị trường lớn, đông dân có lợi về nguyên liệu, nguồn nhân công rất rẻ so với các nước láng giềng. Bảng : Tiền công gia công may mặc của một số nước trên thế giới. Nước Tiền công USD/ giờ Canada 2,65 Mỹ 2,3 Nhật Bản 2,24 Pháp 1,72 Hồng Kông 1,2 Thái Lan 0,92 Philipine 0,67 Indonesia 0,24 Trung Quốc 0,37 Việt Nam 0,15 - 0,2 Tiền công thấp, lao động Việt Nam lại thông minh khéo léo, tiếp thu kỹ thuật mới nhanh. Cơ sở vật chất cho ngành may mặc nói chung tương đối hiện đại, có thể sản xuất được các sản phẩm với tiêu chuẩn kỹ thuật cao. Việt Nam có rất nhiều điều kiện thuận lợi cho việc giao hàng của cảng biển, tiết kiệm được chi phí vận tải. Hơn nữa lại nằm trong khu vực gần các nước xuất nhập khẩu hàng dệt may lớn như : Nam Triều Tiên, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan ... thuộc khu vực mà hàng dệt may của các nước phát triển và các nước NICS dịch chuyển sang. Có thể nói Việt Nam đang có lợi thế rất lớn về hàng may mặc về hàng xuất khẩu do có nhiều yếu tố thuận lợi. Ngành may mặc xuất khẩu Việt Nam đã không bỏ lỡ những cơ hội này, thể hiện rõ là thành quả đạt được trong công tác xuất khẩu hàng này. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu tăng đều sau các năm đạt 1,15 tỷ USD (gấp 7 lần so với năm 1991) đó là bước chuyển biến mạnh của ngành dệt may Việt Nam. Dự báo về thị trường hàng xuất khẩu dệt may Việt Nam đến năm 2002 và 2005. Thị trường Năm 2002 Năm 2005 Sản lượng xuất khẩu 200 500 Xuất khẩu sang Mỹ 80 240 Xuất khẩu sang EU 41 100 Xuất khẩu sang Nhật 25 70 Xuất khẩu sang SNG 30 40 Xuất khẩu sang Canada 4 10 Xuất khẩu sang Đông Âu và các trung tâm khác 20 40 Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) 3000 3900 ( Nguồn : Chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2005 - Bộ công nghiệp ). Bộ công nghiệp nhẹ đã xây dựng kế hoạch phát triển ngành dệt may đến năm 2002, giá trị hàng dệt may đạt 3 tỷ USD (chiếm xấp xỉ 1% thị trường may thế giới, gấp 3 lần so với năm 1999). Năm 2010 đạt 5 tỷ USD ( chiến 1,55 thị trường hàng dệt may thế giới). Mục tiêu mà bộ công nghiệp nhẹ đặt ra, vẽ ra một viễn cảnh rất lớn cho sự phát triển hàng hoá may mặc, mở ra một triển vọng phát triển cho các doanh nghiệp làm công tác xuất nhập khẩu. Về chính sách sản phẩm trong gia công may mặc xuất khẩu của công ty may Thăng Long. Để tiến hành tốt công tác về chính sách sản phẩm, công ty may Thăng Long xác định rõ : 1. Định nghĩa về hàng may mặc : Hàng may mặc nói chung là tất cả những gì thoả mãn nhu cầu mặc của con người qua một quá trình cắt may, hoàn thiện. Còn nếu hàng may mặc nói riêng thì chỉ bao gồm hai loại : + Hàng dệt kim. + Hàng dệt thoi. Trong buôn bán Quốc tế, khi đề cập đến hàng dệt may xuất khẩu, nói chung người ta nói đến hàng dệt thoi, chỉ khi nào nói rõ “dệt kim” thì mới nói đến hàng dệt kim. Đặc điểm thương phẩm. Đại bộ phận hàng dệt may đều bằng xơ sợi, trong đó có loại chế biến từ những nguyên liệu thiên nhiên như bông, tơ tằm, cũng có loại là sợi tổng hợp như xơ visco, polyester, xơ fiber . . . mà các loại xơ tổng hợp này lại được sản xuất chủ yếu từ các phụ phẩm của ngành hoá dầu. Đây là các loại hàng dễ thấm mồ hôi, hút ẩm nhanh. Loại hàng này có thể để lâu được, chuyển trở dễ dàng mà không sợ bị ảnh hưởng của thời tiết, không bị hỏng, thối như hàng nông sản, không bị vỡ, dập nát. Đặc điểm về tiêu dùng. + Thị hiếu tiêu dùng cao. Đặc điểm lớn nhất của hàng dệt may là luôn cần mốt. Mà mốt thì luôn thay đổi theo thị hiếu người tiêu dùng. Xã hội càng phát triển, đời sống càng được nâng cao, hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng càng phải phong phú, đa dạng và luôn đổi mới. Đặc biệt hàng may mặc ngoài chức năng bảo vệ cơ thể còn có chức năng thẩm mỹ nên càng cần mốt. Nếu như trước đây, người ta nhất mạnh đến tính bền chắc của sản phẩm, một sản phẩm may có thể có vòng đời là vài năm thì ngày nay bên chắc không phải là tiêu chuẩn hàng đầu, tuổi thọ của sản phẩm có thể chỉ là một năm hoặc ngắn hơn. Mỗi sản phẩm ra đời thì ngay sau đó người ta đã sẵn sàng dự trữ một sản phẩm mới có cải tiến để tung ra bất kỳ lúc nào, sản phẩm luôn bị sản phẩm mới thay thế do cạnh tranh. Chính vì thế mà sản phẩm dệt may tuy không bị hao mòn về vật chất nhưng lại hao mòn về hình do bị lạc mốt. Nếu công ty may Thăng Long không chú ý điểm này thì có thể sẽ dẫn đến thua lỗ lớn. + Nhu cầu lớn. Đây là loại hàng tiêu dùng thiết yếu, gắn liền với nhu cầu đa dạng của con người, đòi hỏi phải có nhiều chủng loại. Có thể chia nhu cầu theo : - Giới tính : Nam, Nữ. - Mùa khí hậu : Xuân, Hạ, Thu, Đông. - Yêu cầu xã hội : Mặc thường, Lễ hội, Đồng phục, Công sở. Trong mỗi loại nhu cầu được phân chia như trên lại bao gồm nhiều mẫu, kiểu dáng phù hợp với sở thích của một lớp người tiêu dùng tuỳ theo thẩm mỹ và khả năng tài chinhs của họ. 2.Những yêu cầu chung về chất lượng hàng may mặc. 2.1. Yêu cầu sử dụng. Đây là yêu cầu về thời hạn sử dụng là thời gian kể từ khi sử dụng đến khi sản phẩm bị loại. Mặt hàng may mặc nói chung và quần áo nói riêng bị loại khỏi tiêu dùng do những nguyên nhân sau : + Hao mòn vật lý : Tác động tổng hợp của môi trường xung quanh như : cơ học, ánh sáng, mồ hôi, giặt là, làm cho sản phẩm bị hao mong vật chất. + Hao mòn vô hình : là hình thức hao mòn khi mà quần áo vẫn còn giữ nguyên giá trị vật chất nhưng lạc hậu về kiểu mốt. Nó phụ thuộc vào tâm lý người tiêu dùng, điều kiện phát triển của xã hội. Vì vậy, đối với hàng may mặc thì đòi hỏi của người tiêu dùng không phải là thời hạn sử dụng dài nhất, mà là thời gian dùng hợp lý nhất. Yêu cầu sử dụng còn liên quan trực tiếp tới các yêu cầu khác, không một khách hàng nào khi đi mua quần áo lại chú ý đến yêu cầu sử dụng, mà họ còn xem chúng có đạt yêu cầu vệ sinh, về thẩm mỹ không. 2.2. Yêu cầu về sinh. Là yêu cầu nhằm bảo vệ và đảm bảo hoạt động cơ thể trong những môi trường khác nhau, giữ cho nhiệt dộ cơ thể không đổi. Yêu cầu này có quan hệ với những đặc điểm sinh lý của các cơ quan trong cơ thể. Có hai nhóm chức năng vệ sinh của quần áo : + Bảo vệ cơ thể khỏi sự độc hại của môi trường, tác dụng của nhiệt độ cao, ánh sáng, gió, mưa . . . + Tạo điều kiện cần thiết cho các cơ quan chức năng của cơ thể hoạt động bình thường, trong đó bảo vệ cơ thể được sạch sẽ, ngăn chặt những xâm nhập của bụi bẩn, vi sinh vật, bảo đảm tuần hoàn máu và hô hấp bình thường, không gây cản trở cho các hoạt động cơ bắp, phải thấm hơi, thấm nước tốt, khối lượng nhỏ, ít nhiễm độc … 2.3. Yêu cầu thẩm mỹ. Sản phẩm may mặc được coi là đáp ững được yêu cầu thẩm mỹ trước hết, nó phải đảm bảo tính thực dụng, bền chắc, vệ sinh, có kết cấu bố cục phù hợp, có sự tương quan hợp lý giữa kích thước quần áo và nhân trắc của người tiêu dùng, mầu sắc phù hợp với lứa tuổi, nghề nghiệp, điều kiện sinh hoạt, mầu da và loại quần áo. Các bộ phận của quần áo phải có sự tương quan phù hợp : độ dài của tay, của vai, của sống lưng, cổ . . . phải theo công thức nhất định. Một khái niệm gắn liền với yêu cầu thẩm mỹ là kiểu mốt. Kiểu được coi là phong cách của sản phẩm, là sản phẩm của lao động sáng tạo của một tập thể, có quá trình hình thành lâu dài. Ngược lại, một phản ánh thị hiếu tiêu dùng của một số người nhất định và luôn thay đổi theo thời gian. Một sản phẩm may mặc có tính thẩm mỹ còn phải mang trong mình tính “thời trang”, nghĩa là mang yếu tố mới, hiện đại, sáng tạo, thể hiện một cách nhuần nhuyễn giữa thẩm mỹ nội dung và thẩm mỹ hình thức : Nó vừa tô thêm được đừng nét của cơ thể và lại vừa lịch sự, trang nhã, đồng thời có thể che dấu một phần nào đó của cơ thể. 2.4. Các yêu cầu kinh tế. Đây là yêu cầu mà sản phẩm thể hiện sức mạnh cạnh tranh của mình trên thị trường. Yêu cầu này bao gồm tính hợp lý về giá cả và tiện dụng. Hợp lý về giá cả được hiểu là làm thế nào là tốt mà giá cả lại phù hợp với túi tiền người tiêu dùng “chất lượng cao, giá thành hạ” luôn là yếu tố cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thương trường. Tính kinh tế còn thể hiện ở tính tiện dụng, tính đa năng của sản phẩm. Ví dụ : chiệc áo khoác mùa Đông, trước đây thường may theo thiết kế liền một khối nên dầy và nặng rất bất tiện. Việc nghiên cứu tính tiện dụng và đa năng của sản phẩm đã mách bảo nhà thiết kế cải tiến liên tục chiếc áo khoác thành áo khoác bên trong có lông và được may riêng có nhiều khoá thuận tiện cho việc cở ra, mặc vào, nhiều túi, lại còn có mũ có thể gấp gọn sau gáy . . . Tóm lại, chất lượng sản phẩm may mặc phải đáp ứng được yêu cầu trên. Các yêu cầu này được hình thành, duy trì và thể hiện thông qua các công đoạn của quá trình gia công : từ tiền sản xuất đến trong và sau quá trình sản xuất. Đó chính là các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hàng may mặc. Đối với sản phẩm may mặc trong lĩnh vực gia công xuất khẩu, công ty cần xác định rõ các hình thức sản phẩm sau : + MC (cutting and Making ) Người nhận gia công chỉ tiến hành cắt và may sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công. + CMP ( cutting, making and packaging) Sau khi hoàn thành cắt và may sản phẩm, bên nhận gia công phải đóng gói sản phẩm vào bao bì như đã được quy định trong hợp đồng. + CMP ( cutting, making and trimming ) Người nhận gia công, cắt, may và thực hiện cả những công việc liên quan đến việc hoàn thiện sản phẩm may. + CMPQ (cutting, making, trimming and Quota fee ) ở hình thức này nghĩa vụ của người nhận gia công nặng nề hơn. Ngoài việc cắt, và đóng sản phẩm, người nhận gia công còn phải trả phí hạn ngạch theo quy định đối với những mặt hàng được quản lý bằng hạn ngạch. Ở hình thức này một điều đáng chú ý là khi ký kết một hợp đồng gia công, cần phải tính tới số quota mà doanh nghiệp mình phải phân bổ để tránh tình trạng ký hợp đồng rồi mà lại không có quota. Ngoài các hình thức gia công kể trên, còn có một loại hình gia công khá mới trong gia công hàng dệt may đi EU. Đó là hình thức TPP còn gọi là gia công thuần tuý. Về thành phẩm. Có thể nói thành phẩm là đối tượng chính của hợp đồng đối với người đặt gia công. Nếu có sai sót gì về quy cách phẩm chất của thành phẩm (như bị dây bẩn, có kim gãy . . . ) làm ảnh hưởng đến người tiêu dùng nước ngoài thì không những công ty phải chịu trách nhiệm mà nó còn ảnh hưởng đến uy tín của công ty may Thăng Long đối với bên đặt gia công. Quy cách phẩm chất của thành phẩm được quy định theo hai cách : + Trước khi sản xuất công ty tiến hành sản xuất thử sản phẩm theo yêu cầu mẫu mã của người đặt hàng đưa ra. Nếu sản phẩm đó được đối tác chấp nhận nó sẽ trở thành mẫu đối và mỗi bên sẽ giữ một mẫu làm chuẩn. Thực tế cho thấy nhiều khi mẫu đưa sang có những sai lệch mà khi ra mẫu thấy không hợp lý thì các cán bộ kỹ thuật cần hỏi lại khách để có những điều chỉnh cho phù hợp. Cơ cấu sản phẩm gia công xuất khẩu của công ty năm 2000 STT Tên hàng Thị trường Hạn ngạch Thực hiện Đơn vị 1 Váy EU 5.000 4.820 Chiếc 2 Quần áo EU 9.000 8.500 Chiếc 3 Quần âu EU 14.000 13.250 Chiếc 4 Sơ mi nam EU 27.000 26.000 Chiếc 5 Jacket EU 30.000 29.700 Chiếc 6 Bu dông EU 63.000 52.000 Chiếc 7 Quần áo trẻ em EU 1.000 1.000 Chiếc ( Nguồn : Phòng kế toán công ty may Thăn Long ). Chúng ta nhận thấy mặt hàng xuất khẩu của công ty còn ít ( chỉ có dưới 10 mặt hàng) trong khi đó nhu cầu về mẫu mốt trên thị trường thì vô cùng phong phú đa dạng. Đơn cử như thị trường EU nơi đời sống có thu nhập cao nên nhu cầu tiêu dùng cũng rất lớn, người dân nơi đó cũng rất chú trọng đến các trang phục ăn mặc mà đôi lúc giá cả không phải là yếu tố quyết định. Xã hội có sự phân hoá, mức tiêu thụ của từng loại hàng hoá gắn liền với mức sống của từng giai cấp. Công ty đã chưa tận dụng được thế mạnh này mới chỉ xuất những mặt hàng mình có khả năng sản xuất theo hạn ngạch sang các nước EU dùng hạn ngạch đã chỉ định một mức nhập nhất định nhưng công ty cũng không đủ khả năng đáp ứng hết nhu cầu đó. Đó là một thiệt thòi rất lớn cho công ty bởi quy mô và khả năng không cho phép công ty hoàn thành kế hoạch. Qua đó còn gây sự bất tín nhiệm của bạn hàng, nếu kéo dài sẽ gây hậu qua rất xấu. Như trên đã nói, mặt hàng của công ty mới chỉ dừng lại ở quần áo sơ mi, jacket ... giá rất rẻ mà nguyên liệu máy móc để sản xuất ra nó lại rất đơn giản, chính vì thế mới đáp ứng được cho tầng lớp lao động thu nhập thấp. Những mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ cao như comple, quần áo dạ hội, áo da, áo lông thì công ty chưa hề xuất khẩu mà thậm chí trong điều kiện hiện nay cũng không thể có khả năng để xuất khẩu. Tại vì loại hàng này dành cho tầng lớp có đời sống cao, nhu cầu đòi hỏi rất cao về chất lượng, kiểu cách mẫu mã, thời trang. Trong bối cảnh hiện nay trước mắt công ty tập trung sản xuất các mặt hàng phục vụ tầng lớp nhân dân lao động, thu nhập thấp để tích luỹ vốn tạo điều kiện cho sự mở rộng thị trường, mở rộng mặt hàng cho tương lai. Cho đến nay mặt hàng chủ đạo xuất khẩu của công ty là áo sơ mi các loại. Mặt hàng áo sơ mi chiém tỷ trọng 70 % tổng thu nhập. Đây là mặt hàng có tính ổn định cao nhưng thực tế không phải hoàn toàn do công ty trực tiếp sản xuất, mà là nhận gia công. Các loại mặt hàng khác thì lên xuống thất thường giữa các năm, điều đó thể hiện tính chất không ổn định về khách hàng. * Giá thành gia công xuất khẩu của công ty may Thăng Long. Giá thành sản lượng hàng hoá chia làm ba loại: - Giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước vào sản xuất kinh doanh căn cứ vào định mức dự toán các chi phí của kỳ kế hoạch. - Giá thành định mức là giá thành được tính toán trước khi bắt đầu sản xuất kinh doanh được xây dựng trên cơ sở các định mức hiện hành tại thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch. - Giá thành thực tế là giá thành được xác định sau khi hoàn thành công việc sản xuất san phẩm căn cứ vào chi phí thực tế phát sinh. Người ta còn chia giá thành thành hai loại : + Giá thành sản xuất - sản phẩm (giá thành công xưởng ) · Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. · Chi phí nhân công trực tiếp. · Chi phí sản xuất chung. + Giá thành toàn bộ sản phẩm = giá thành sản phẩm + chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp . Giá thành đơn vị của một số sản phẩm chủ yếu của công ty Thăng Long - TALIMEX - Hà nội Tên sản phẩm Giá thành 1. áo sơ mi 34.000 đ / chiếc 2. áo sơ mi xuất khẩu 70.000 đ / chiếc 3. áo trẻ em 18.000 đ / chiếc 4. Quần kaki 110.000 đ / chiếc 5. áo phông dệt kim 22.000 đ / chiếc 6. áo jacket 90.000 đ / chiếc Đây là vấn đề nhạy cảm nhất, là mục đích cuối cùng của người đi làm thuê và thường gây tranh cãi nhiều nhất trong khi đàm phán ký kết hợp đồng. Ta có thể hình dung được người Việt Nam đã bỏ bao sức người sức của để làm ra một sản phẩm may gia công xuất khẩu qua 8 nhân tố chính như sau : Giá gia công : + Chi phí trực tiếp. + Chi phí sử dụng máy móc thiết bị. + Chi phí phân xưởng. + Chi phí quản lý xí nghiệp. + Chi phí ngoài sản xuất + Dự phòng lương. + Lãi. + Thủ tục xuất nhập khẩu. Tuy nhiên để có được gia công thực tế ghi trong hợp đồng thì còn phải tuỳ thuộc một số yếu tố sau : - Tuỳ từng loại mặt hàng, tính chất phức tạp kiểu dáng và mặt bằng giá chung. - Tuỳ thuộc vào người đặt gia công mà mức giá có thể khác nhau. Nếu người gia công là người bán ra trực tiếp hay là người có thể tham gia vào hệ thống buôn bán ở các nước phát triển, nơi có mức sống và thu nhập cao thì giá gia công sẽ cao. Nếu người đặt gia công sẽ bán hàng ở các nước NICS hoặc các nước có trình độ phát triển tương tự thì giá gia công sẽ chỉ ở mức trung bình. Nếu người đặt gia công là các công ty nhỏ của các nước chưa đạt trình độ trên thì giá gia công sẽ ở mức thấp nhất. - Thù lao phụ thuộc vào tương quan thương mại và quan hệ cung cầu trên thị trường. Ví dụ, ở nước ta có nhiều doanh nghiệp may nhận may gia công cho nước ngoài, không có mức giá gia công tối thiểu nên khi cung lớn hơn cầu thì giá gia công càng hạ xuống, cộng thêm vào đó là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tranh khách hàng nên giá gia công cũng không thể cao được. - Thời điểm nhận và giao hàng cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến thù lao gia công. Tuỳ theo khi nhận hàng và giao hàng; chính vụ hay ngoài vụ mà thù lao gia công khác nhau. Do đặc điểm của hàng may mặc là sản xuất và tiêu thụ chịu tác động to lớn của nhân tố thời gian nên trong phương thức gia công, công việc phân bố không đều, có những lúc công nhân làm không hết việc (chính vụ) có lúc ít hoặc không có việc (ngoài vụ) nên thù lao cũng vì thế mà giao động theo từng thời ký. - Ngoài ra, có thể tuỳ theo khối lượng đặt gia công nhiều hay ít mà thù lao có thể chênh lệch. Nếu khối lượng đặt gia công nhiều thì thù lao có thể gảm so với hàng cùng loại số lượng đặt hàng gia công ít. Nói một cách khác, thù lao CMP chính là yếu tố cơ bản của giá gia công. Giá gia công cao hay thấp phụ thuộc chính vào nhân tố này. Ta lấy một ví dụ đối với mặt hàng áo Jăcket. Giá gia công trung bình giao động từ 28 USD đến 3,7 USD/chiếc. Tuỳ theo mức độ đơn giản, phức tạp hay loại vải mà giá gia công khác nhau, nên có chênh lệch so với mức giá chuẩn. + Áo có mũ, có cổ : 0,08 USD - 0,12 USD + Nhiều túi kiểu cầu kỳ : 0,08 USD - 0,20 USD + Nhiều chi tiết, hoạ tiết trên áo : 0,10 USD - 0,20 USD + Chất liệu vải nhăn, dễ nhăn : 0,25 USD - 0,40 USD Tổng cộng độ giao động giá khoảng ± 1 USD. Mức giá chuẩn được xác định dựa trên các mẫu hàng được coi là tiêu chuẩn để làm căn cứ đối chiếu khi ký kết gia công cho mỗi mẫu hàng khi vào vụ. Ví dụ : Kiểu Jacket 3 lớp đơn giản : 2,52 USD/áo. Kiểu Jacket 3 lớp phức tạp 3,4 USD/áo. Kiểu Jacket 3 lớp rất phức tạp, vải microfiber : 3,7 USD/áo. + Yếu tố phụ liệu do bên nhận gia công cung cấp tuỳ thuộc vào thị trường phụ liệu đó vào thời điểm mua. Tức là, giá này phụ thuộc vào cung và cầu phụ liệu, chất lượng phụ liệu. + Phí xuất nhập khẩu, thủ tục hay phí hạn ngạch do bộ Thương mại quy định theo từng mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu hay không. Về bao bì đóng góp ký mã hiệu : - Liên quan đến việc duy trì và thể hiện chất lượng sản phẩm : Bao bì đảm bảo an toàn cho hàng may mặc trong quá trình vận chuyển, bốc xếp cả về số lượng và chất lượng. - Thường là bên đặt gia công cung cấp bao bì và giá cả bao bì được tính gộp vào giá hàng. Với hàng may mặc lớp bao hàng bên trong thường là túi PE, còn lớp bì bên ngoài là thùng Carton. Quy cách đóng gói cũng phải được ghi cụ thể đến từng chi tiết. Ví dụ như trong trường hợp đồng số 99001/HEPC/EREETEX quy định : áp Jacket được gấp bằng phẳng 5 chiếc đóng gói trong một túi PE cùng cỡ, cùng màu và 30 chiếc đóng trong một thùng Carton 95,5 x 72 x 40 cm. Bên ngoài Carton được dán băng dính và được xiết bằng đai nẹp nhựa . . . - Ký mã hiệu là những chữ, con số, ký hiệu . . . đặc trưng để phân biệt hàng này với hàng khác, có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sao cho người chuyên chở giao đúng hàng hoá cho người nhận. Vì vậy ký mã hiệu phải rõ ràng và mang thông tin đầy đủ để dễ nhận biết lô hàng. Công tác quảng cáo và xúc tiến thương mại. * Triển lãm thương mại. Có hai phương cách để công ty may Thăng Long giới thiệu cụ thể về sản phẩm của mình cho thị trường nước ngoài đó là việc các kỳ hội chợ thương mại tổ chức ở nước ngoài và tham gia vào các phái đoàn thương mại đi thăm viếng các nước. Trên thị trường quốc tế ngày nay, hội chợ thương mại là nơi bày hàng để hàng nghìn công ty từ nhiều nước đến trưng bày mặt hàng của mình. Đấy là nơi giới thiệu để cung và cầu gặp nhau, nhiều hội chợ đặc biệt là hội chợ Châu âu đã có hàng thế kỷ. Tham dự các hội chợ thương mại đưa đến nhiều công việc mà công ty may Thăng Long cần phải hoạch định trước. - Trong hàng trăm hội chợ tổ chức mỗi năm nên lựa chọn hội chợ nào cho đúng để tham dự. Có những hội chợ tổ chức riêng cho hàng may mặc công ty phải tính toán, lựa chọn để mặt hàng của mình thu hút được sự chú ý của người xem. Các mặt hàng đưa ra phải chuẩn bị kỹ lưỡng về mẫu mã, chất lượng. - Phải tính đến vấn đề thuê mặt bằng ở hội chợ, cùng với vấn đề thiết kế gian hàng trưng bày sản phẩm phù hợp. Chú ý tới việc vận chuyển hàng tới nơi triển lãm với việc bóc mở thùng hàng vào vị trí nào, khi người xem đến phải có chính sách hướng dẫn cụ thể, chân tình, gây ấn tượng với khách. * Triển lãm mẫu hàng bằng Video. Cho quay phim Video những sản phẩm may mặc, có thể quay kèm cả người mẫu để gây ấn tượng sản phẩm của mình. Quay phim cả công đoạn tạo ra sản phẩm, có lồng tiếng, có màu sắc. Sau đó in thành nhiều bản rồi gởi đi các cơ quan đại diện của Việt Nam tại nước ngoài đã được lựa chọn đem ra trình chiếu hoặc gửi đi các khách hàng, các đại lý hàng may mặc. Các băng hình được trình chiếu với sản phẩm sống động giúp cho sản phẩm của công ty được chứng minh và được người tiêu dùng tin tưởng hơn. * Hiệp hội kinh doanh. Trong mấy năm gần đây các công ty và các xí nghiệp may đã hình thành rất nhiều để đáp ứng nhu cầu của thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên cũng vì thế mà sự cạnh tranh trở lên mạnh mẽ hơn, lợi dụng điểm này khách hàng nước ngoài thường ép giá gây ra thua thiệt cho bên Việt Nam. Hiệp hội kinh doanh ra đời trên cơ sở các nhà kinh doanh tự nguyện hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Ở Việt Nam hiệp hội may mặc ra đời đó là điều kiện rất thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc. Thông qua sự hoạt động của hội, công ty hiểu sâu sắc hơn thị trường, quan hệ cung cầu, cũng thông qua hội chợ để công ty giới thiệu, quảng cáo sản phẩm, khuyếch trương uy tín của mình. Như vậy, thông qua hội chợ, nhờ vào hội mà công ty nâng cao được uy tín, tránh được nhiều rủi ro trong kinh doanh. * Cửa hàng giới thiệu sản phẩm. Công việc của công ty ngày càng phát triển thì cửa hàng giới thiệu sản phẩm ngày càng phát triển càng có vị trí quan trọng. Cửa hàng giới thiệu sản phẩm có 3 chức năng cơ bản : - Quảng cáo. - Yểm trợ. - Bán hàng. Quảng cáo thông qua cửa hàng giới thiệu sản phẩm không phải chỉ đơn thuần là giới thiệu mặt hàng mà quan trọng hơn là thông qua đó để khuyếch trương mặt hàng, gợi mở nhu cầu. Thông qua cửa hàng giới thiệu sản phẩm để yểm trợ cho khả năng thâm nhập và nâng cao uy tín của mặt hàng. Khách hàng nước ngoài có thể xem xét hàng của công ty tại các cửa hàng này. Để đảm bảo tính phổ cập rộng rãi đến các khách hàng nước ngoài, khi thành lập nên đảm bảo một số yêu cầu sau : - Có tụ điểm phù hợp với yêu cầu quảng cáo, thường là tụ điểm ở các thành phố, đầu mối quan trọng. - Tổ chức quảng cáo tốt ở các cửa hàng. Các điều kiện mua bán thuận tiện thu hút khách hàng, cửa hàng đồng thời cũng là nơi tăng cường quan hệ giao tiếp. Bên cạnh đó, công ty cũng nên mở ra những phòng trưng bày giới thiệu mốt, thời trang. Để có một bộ phận mốt riêng cần thông qua các hình thức sau : Mua bộ mốt, thuê các nhà thiết kế, sáng tạo . . . Đây là hình thức đòi hỏi chi phí lớn nhưng hiệu quả kinh tế không cao. Hình thức liên doanh, liên kết mẫu mã có ưu điểm chi phí không nhiều, tranh thủ được trình độ của đối tác, hiệu quả cao nhưng phụ thuộc vào bạn hàng. Hình thức tự thiết kế mẫu mã, trước hết ta khó làm cho trình độ chuyên môn về hàng may mặc cũng như kiến thức về thị trường chưa đủ. Song về lâu dài công ty phải đầu tư thích đáng cho việc tự thiết kế mẫu mốt, hình thành được “khái niệm sản phẩm” của công ty đối với người tiêu dùng, và ngày càng có uy tín mới, có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Đồng thời với các hình thức quảng cáo và giới thiệu sản phẩm khác như : catalog, quảng cáo qua phương tiện báo chí như : tivi, radio, tranh ảnh, quà tặng . . . sẽ có ảnh hưởng tích cực cho việc tiêu thụ hàng hoá và uy tín, sản phẩm của công ty. * Tham khảo ý kiến của các nhà tư vấn thương mại quốc tế. Các nhà tư vấn thương mại quốc tế có thể cho ý kiến và giúp đỡ một nhà sản xuất về tất cả các vấn đề tiếp thị ra nước ngoài. Họ thực hiện nghiên cứu thị trường nước ngoài và với các cơ sở cần thiết khác như : công ty quảng cáo, các đơn vị dịch vụ sản phẩm, các luật sư địa phương. Các nhà tư vấn có thể góp ý xem các đại lý nào phải cần đến, ai là kẻ cạnh tranh và làm thế nào đương đầu với họ. - Liên kết kinh tế kỹ thuật trong ngành may xuất khẩu : Đó là liên kết giữa công ty, xí ngiệp may ngoài việc giúp đỡ nhau trong sản xuất, kinh doanh, kỹ thuật công nghệ, còn phối hợp với nhau trong lĩnh vực xuất khẩu, đấu tranh giành thị trường, thông tin và hợp tác với nhau về giá cả. Công ty ngày càng bám sát hơn quá trình sản xuất sản phẩm đến tận cơ sở làm hàng nhằm giải quyết kịp thời những khó khăn khi phát sinh. Tăng cường việc hướng dẫn kỹ thuật sản phẩm, kiểm tra giám sát sản phẩm cũng như nghiệm thu kỹ thuật sản phẩm kịp thời. Đàm phán và đấu tranh với nước ngoài để nâng giá bán sản phẩm cũng như tiền gia công cho các cơ sở sản xuất, phối hợp cùng các cơ sở sản xuất, xuất khẩu hàng may mặc. Để từ đó xây dựng khung giá hợp lý, tạo sức mạnh và ổn định kinh doanh trên thị trường ngoài nước. - Liên kết giữa các ngành sản xuất và phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu hàng may mặc như các cơ sở của ngành dệt, các đơn vị này là khách hàng cung cấp vải, nguyên liệu phục vụ cho việc cắt may. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mốt là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu để tồn tại và phát triển ngành may mặc thì, + Liên kết với các cơ sở ngành dệt sẽ đáp ứng được đầy đủ, kịp thời các kiểu chất lượng vải, màu sắc đa dạng phù hợp với nhu cầu thị hiếu về mốt. + Liên kết với các ngành sản xuất phụ liệu hàng may mặc như : cúc, chỉ, bao bì và các ngành cơ khí, kỹ thuật sản xuất, thiết bị, phụ tùng may. - Liên kết giữa các ngành với các cơ sở khoa học : Sự liên kết này chưa được xem trọng, cơ sở nghiên cứu mẫu mốt cho ngành còn nhỏ bé, số các bộ thiết kế, sáng tác mẫu còn rất ít, cơ sở vật chất còn nghèo nàn. Hầu hết các mặt hàng đều do khách hàng đưa mẫu đến gia công, phương thức này gây khó khăn, thiệt thòi cho ngành may. Các ngành khoa học chưa đầu tư nghiên cứu vải, mex . . . áp dụng công nghệ tiên tiến dần dần thay thế may comple. - Đào tạo công nhân, cán bộ kỹ thuật may : Công ty may Thăng Long đã cử cán bộ đi đào tạo và quy hoạch cán bộ lâu dài song số cán bộ có đào tạo của Công ty vẫn còn thiếu. - Liên doanh với nước ngoài : Hiện nay công ty đã có liên doanh, liên kết với một số hãng như : POSCELIN .. ., liên kết nước ngoài đem lại cho ta kỹ thuật và công nghệ mới, cũng như phương thức sản xuất, quản lý tiên tiến. Đẩy mạnh được tiêu thụ hàng hoá ra nước ngoài. CHƯƠNG IV : MỘT SỐ VẤN ĐỀ VÀ KIẾN NGHỊ A. Về phía công ty. Điểm yếu nhất của những điểm yếu trong gia công may xuất khẩu là trình độ khoa học công nghệ và nghiệp vụ của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật thiết kế mẫu mã. Ngày nay ngành may đã được sử dụng rộng rãi các thiết bị điện tử tin học vào dây chuyền may : Máy may tự động dừng kim, lại mũi theo chương trình, máy thùa tự động nhiều khuyết trên nẹp áo, máy may áo tự động . . . Sử dụng hệ thống máy tính thiết kế, giác sơ đồ vào công nghệ sản xuất hàng may mặc là bước tiến vượt bậc, đây là công đoạn lâu nay tưởng chường chỉ có thể làm thủ công được mà thôi. Trên thế giới người ta đã nghiên cứu cơ giới thiết kế và giác sơ đồ cho ngành may và từng bước sử dụng trên 20 năm nay, nhờ dự phát triển nhanh chóng của máy tính nên hệ thống thiết kế giác sơ đồ bằng máy tính ngày càng hoàn thiện. Ngày nay, hệ thống thiết kế giác sơ đồ, nhảy cỡ, vẽ ra giấy .. . một cách hoàn hảo. Nó có thể thiết kế giác sơ đồ trong 5 - 10 phút với phương án tối ưu nhất, nếu giác sơ đồ thủ công thì phải là người có tay nghề giỏi, có khi mất cả buổi làm việc. Công ty may Thăng Long cũng đã áp dụng công nghệ thông tin hệ CAD/CAM vào hệ thống tạo mẫu cắt : Một trong những nhân tố đem đến thành công ở công ty may Thăng Long là mạnh dạn đầu tư thiết bị hiện đại, dây chuyền công nghệ tiên tiến đồng bộ của các nước Nhật Bản, Đài Loan. Sớm nhận thức được tầm quan trọng của khâu chuẩn bị sản xuất quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Đây là khâu yếu nhất của các doanh nghiệp may hiện nay. Hầu hết các doanh nghiệp trong ngành vẫn còn duy trì quá lâu phương pháp chuẩn bị sản xuất cổ phần, giác sơ đồ, cắt mẫu bằng phương pháp thủ công do đó không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của năng suất lao động. Sau khi nghiên cứu và khảo sát ở nhiều hãng sản xuất thiết bị máy tính hệ CAD/CAM chế tạo mẫu cắt bằng Computer, Công ty may Thăng Long đã tiếp thu đầy đủ hướng dẫn của chuyên gia và bắt tay ngay vào việc áp dụng thực tiễn sản xuất ở công ty mình. Thời gian đầu tư chỉ dùng hệ CAD/CAM để thiết kế mẫu cho các sản phẩm trong nước bởi lẽ ở đây các kế hoạch không đòi hỏi khẩn trương như các đơn hàng xuất khẩu. Kể từ khi chuyển giao công nghệ công ty may Thăng Long đã quyết định thảo luận bổ sung thiết bị thành một hệ quy mô lớn đủ năng lực chế tạo 100% mẫu cắt của công ty, chấm dứt việc chế tạo mẫu bằng phương pháp thủ công. Thành công này đánh dấu một bước ngoặt trong công tác chuẩn bị sản xuất của công ty may Thăng Long, đồng thời cũng là mốc son đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc trong việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất của ngành may Việt Nam. Thành công của công ty may Thăng Long khi áp dụng công nghệ tin học hệ CAD/CAM vào chế tạo mẫu cắt sẽ tạo ra tiền đề tốt đẹp cho sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam nhưng cũng có khó khăn do ta phải chấp nhận máy móc thiết bị lạc hậu của nước ngoài khi họ góp vốn. Biện pháp và điều kiện cần thiết để thực hiện tốt liên kết kinh tế kỹ thuật. - Các doanh nghiệp tự liên kết khoa học, công nghệ trên cơ sở hợp đồng nhằm đem lại lợi ích giữa các bên. Các mối liên hệ thiết lập giữa công ty và các doanh nghiệp như : các hợp đồng thiết kế thiết bị và phụ tùng, dưới các hợp đồng bao tiêu hoặc mua bán sản phẩm của các cơ sở sản xuất. Công ty may Thăng Long sẽ tập trung các cơ sở sản xuất của các địa phương thành một đầu mối tiêu thụ và xuất khẩu, từ đó tạo thành thế mạnh về số lượng của sản phẩm, tránh cạnh tranh ép giá. - Liên doanh, liên kết với nước ngoài là một mục tiêu quan trọng của công ty, phía nước ngoài sẽ bảo đảm về vốn, kỹ thuật mẫu mã thiết bị sản phẩm. Về phía công ty cũng phải đảm bảo trách nhiệm của mình như đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân viên đủ năng lực và tay nghề, nắm bắt được khoa học và công nghệ tiên tiến, đồng thời ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như năng suất lao động. * Sử dụng hợp lý nguyên liệu. Để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm thì công ty may Thăng Long phải tìm mọi cách để giảm giá thành như : tăng năng suất lao động, định mức nguyên vật liệu sát sao, triệt để tận dụng nguồn nguyên liệu trong nước. Trước đây nguyên liệu trong nước chỉ được công ty sử dụng trong sản xuất quần áo bảo hộ lao động, áo sơ mi, quần âu . . . nay mặt đang được đa dạng hoá nguyên vật liệu trong nước và đang được cải thiện đáng kể, đạt tiêu chuẩn chất lượng tốt. Công ty sẽ sử dụng nguồn vốn nguyên vật liệu trong nước như lụa tơ tằm, hàng thổ cẩm dân tộc để sản xuất những mặt hàng đạt chất lượng cao và mang tính đặc trưng. Công ty có kế hoạch thay thế và sử dụng rộng rãi nguyên vật liệu trong nước từ các nhà máy trong nước như : Dệt Nam Định, Dệt 8 - 3 . . . nguyên liệu phụ phong phú thay vì trước đây phải nhập khẩu bằng nguyên liệu thì công ty cũng cố gắng sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước. Các mặt hàng dùng nguyên liệu truyền thống như hàng cotton sẽ dùng nhiều và mở rộng sản xuất cũng như xuất khẩu và được coi là mặt hàng thế mạnh của công ty. * Đào tạo cán bộ công nhân viên. Muốn thâm nhập thị trường mới thì việc dành chữ tín là rất quan trọng điều đó đòi hỏi chất lượng sản phẩm phải được đảm bảo. Chất lượng ở đây bao gồm kiểu dáng, đường may, chất liệu . . . trong đó tay nghề công nhân ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm thành công hay thất bại trong mọi hoạt động chủ yếu phụ thuộc vào yếu tố con người. Để có được đội ngũ công nhân lành nghề phải được giáo dục, đào tạo hoàn thiện và chính trị, tư tưởng văn hoá, khoa học kỹ thuật và tay nghề. Không những với cán bộ công nhân viên của mình mà còn phối hợp với các nhà máy xí nghiệp có quan hệ bạn hàng. - Về tư tưởng : Thường xuyên hoặc trực tiếp thông qua các đoàn thể công đoàn, đoàn thành niên mở lớp tập huấn bồi dưỡng tư tưởng chính trị để mọi người hiểu rằng : “ sản xuất sản phẩm có chất lượng là lương tâm vinh dự đạo đức của mỗi người công nhân”. Mỗi người góp phần vào việc củng cố và nâng cao uy tín của công ty, uy tín này được khẳng định thông qua chất lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường quốc tế. Làm cho họ thấy rằng lợi ích kinh tế của họ gắn liền với sản phẩm có chất lượng cao hay không. Đồng thời công ty cũng nên có chế độ khuyến khích lợi ích vật chất đối với những người thợ giỏi có sáng kiến, có như vậy mới kích thích được lòng say mê và tận tâm với công việc. - Về văn hoá : Có kế hoạch nâng cao trình độ văn hoá cho công nhân, khi có trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, thẩm mỹ làm cho người lao động có nhiều sáng tạo trong sản xuất, làm cho năng suất lao động và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng. - Về tay nghề : Công ty phải thường xuyên bồi dưỡng tay nghề, nâng cao tay nghề từ đó công nhân sử dụng tinh thông về máy móc, thiết bị, công cụ lao động, hiểu biết các yếu tố cấu thành sản phẩm cũng như nguyên nhân gây ra phế phẩm, từ đó có biện pháp sử lý đối với sự cố, sai làm hoặc phát hiện lỗi, khắc phục một cách nhanh chóng. Mặt khác công nhân có đủ trình độ sẽ tự kiểm tra chất lượng sản phẩm của mình, không có sự kiểm tra nào có hiệu quả bằng công nhân tự kiểm tra lấy sản phẩm của mình khi họ được trang bị đầy đủ kiến thức và giác ngộ cao về quyền lợi chung, gắn liền với quyền lợi cá nhân. B. Về phía nhà nước. a) Hạn chế dễ nhìn thấy nhất của phương pháp gia công là hiệu quả kinh doanh thấp đang gây cản trở cho sự phát triển của ngành kinh tế mũi nhọn với các mặt hàng may xuất khẩu. Ví dụ trong doanh thu 30 triệu USD tiền nguyên phụ liệu đã là 28 triệu USD, tiền gia công chỉ còn 2 triệu USD. - Không những thế, một số xí nghiệp may còn bị các thương nhân nước ngoài lợi dụng lúc ngoài vụ “đói việc làm” ép giá tới mức rẻ hơn 20% so với giá lúc bình thường, thậm chí có khi còn thấp hơn đến mức rẻ mạt : 1 áo Jacket thông thường ký hợp đồng với giá 3 USD/áo, nhưng những lúc thiếu việc làm đã phải ký với giá 1,3 - 1,7 USD. - Trong phương thức gia công quốc tế, người sản xuất không phải lo nguyên vật liệu đầu vào mà vẫn hoạt động được, nên không thúc đẩy ngành dệt may trong nước phát triển nâng cao chất lượng vải, đáp ứng cho ngành may công nghiệp xuất khẩu trực tiếp. - Một nguyên nhân nữa là do phát triển nhanh, ngành may đã đi trước bỏ lại ngành dệt một đoạn đường khá xa và cũng vì vậy mà “dệt” và “may” đã không hỗ trợ cho nhau : Vải dệt ra không sử dụng được bao nhiêu vì không đáp ứng yêu cầu của khách hàng nước ngoài. Ngành may phát triển nhanh, còn ngành dệt phát triển chậm khiến ngành may trồng cây công nghiệp không phát triển nữa. Hệ quả của những sự phát triển lệch ở trên dẫn đến tình trạng “bỏ ngỏ” thị trường nội địa, một sự thất bại về cạnh tranh hàng may mặc ngay tại sân nhà. b) Bỏ ngỏ thị trường trong nước. Thị trường trong nước với số dân gần 80 triệu người và tương lai là 100 triêu vào năm 2010 là một thị trường đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp Dệt - may Việt Nam. Nhưng hiện tại nước ta vẫn phải nhập khẩu một số lượng tương đối lớn bao gồm cả vải và quần áo may sẵn. Trên thị trường nội địa, hàng dệt may ngoại tràn ngập ( nhất là hàng Trung Quốc và Thái Lan ) cạnh tranh với sản phẩm nội địa về chất lượng, kiểu dáng đặc biệt là giá cả làm cho những khó khăn trong toàn ngành tăng lên gấp đôi. Dám chắc một điều : Đến thời điểm này, chưa một doanh nghiệp nào dám coi đây là một thị trường ổn định. Các công ty đầu đàn trong ngành dệt may hầu như đều bằng lòng với việc may gia công cho nước ngoài. Một nghịch lý đang diễn ra là những công ty càng danh tiếng trong xuất khẩu thì tỷ lệ hàng tiêu thụ trong nội điạ càng nhỏ. Nhìn vào bảng thống kê dưới đây ta sẽ dễ dàng nhận ra điều đó : STT Tên công ty Tỷ lệ hàng dành cho nội địa trên tổng công ty 1 May Hữu Nghị 1,95 2 May Bình Minh 1,52 3 May Nhà Bè 3,09 4 May Phương Đông 3,55 5 May Đồng Nai 4,91 6 May Đức Giang 6,75 7 May Hưng Yên 7,21 8 May Chiến Thắng 7,48 9 May Nam Định 12,48 Hiện nay các xí nghiệp may lớn ở Trung Ương và các địa phương đều đang cố gắng giành năng lực tốt nhất cho sản xuất hàng xuất khẩu, phần nào không xuất được thì để lại tiêu thụ trong nước. Người tiêu dùng Việt Nam vẫn thường bắt gặp cảnh một xí nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu lại đưa ra cửa hàng giới thiệu sản phẩm của mình (trong nước) những lò sản phẩm may xuất khẩu kém bán cho người tiêu dùng. Đó là những chiếc áo, chiếc quần rộng quá khổ, khác biệt về kiểu màu sắc đối với người Việt Nam. c) Ở nước ta chỉ tính đến tháng 12/1999 số dự án được cấp phép gia công hàng may mặc chiếm khoảng 30% số dự án có vốn đầu tư nước ngoài về ngành dệt may (30/102 dự án đang hoạt động). Nói chung việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực gia công may mặc xuất khẩu không lớn nhưng cũng đã góp phần giải quyết vấn đề về vốn đầu tư, công nghệ sản xuất và góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên về lâu dài Nhà nước cần hạn chế cấp giấy phép đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực gia công may mặc, vì thực tế mặt hàng này vốn đầu tư không phải là cao, thời gian đào tạo công nhân tay nghề không quá dài, nếu bỏ qua khâu trung gian là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì các bên đặt hàng gia công nước ngoài buộc phải tìm đến các doanh nghiệp Việt Nam ký hợp đồng trực tiếp. Qua đó sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. d) Kinh nghiệm cho thấy, khi một công ty biết tiến hành ký kết hợp đồng thời các hoạt động kinh doanh về tài chính, công nghiệp và thương nghiệp, công ty nhất định sẽ hơn hẳn về mặt cạnh tranh đối với các công ty khác chỉ hoạt động trong một ngành rieeng mà thôi. Đối với nguồn vốn nước ngoài, cần có những biện pháp gọi vốn đầu tư thích hợp với thành phần kinh tế cơ bản của nhà nước như : chủ động xây dựng các dự án đầu tư trực tiếp nhằm tăng thêm sự quan tâm của các nước, các tổ chức tài chính quốc tế hoặc tham gia tích cực vào hoạt động của cộng đồng quốc tế và khu vực. Các hình thức gọi vốn rất đa dạng, có thể là các xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp cổ phần hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Mới đây, xuất hiện các hình thức mới như hợp tác xã sản xuất, cho thuê xí nghiệp ... cũng mang lại những hiệu quả tốt trong sản xuất và kinh doanh. Điển hình cho hình thức này chính là ở công ty may Thăng Long. Việc thu hút vốn FDI cần hạn chế loại hình doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, vì đối với hình thức này ngoài tiền lương mà công nhân Việt Nam được hưởng thì lợi nhuận do doanh nghiệp tạo ra sẽ bị người nước ngoài chuển toàn bộ về nước. Đó là chưa kể việc có nhiều lợi thế do luật đầu tư nước ngoài quy định, các sản phẩm của các doanh nghiệp theo laọi hình này đang bóp chết các sản phẩm nội địa cùng loại. Mặt khác khuyến khích người nước ngoài đầu tư nhưng không đầu tư trực tiếp mà đầu tư qua chứng khoán. Làm như vậy buốc các doanh nghiệp dệt - may phải hoạt động có hiệu quả cao hơn. Hiện nay hai quan điểm trái ngược nhau đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là : + Quan điểm thứ nhất cho rằng cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua hình thức liên doanh (không đầu tư trực tiếp) để tận dụng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng sẵn có. Liên doanh để đầu tư chiều sâu và đồng thời hài hoà dây chuyền sản xuất hiện có của doanh nghiệp Việt Nam. + Quan điểm thứ hai cho rằng thà đầu tư trực tiếp, phải xây dựng cơ sở hạ tầng từ đầu còn hơn là liên doanh, tận dụng được cơ sở vật chất sẵn có nhưng cái lợi thu được từ đây không bù đắp được việc “kéo cày trả nợ” cho doanh nghiệp Việt Nam (do làm ăn yếu kém ở giai đoạn trước). Để nhìn nhận, đánh giá hai quan điểm này, ngoài việc xem xét từng trường hợp cụ thể, những người quản lý vĩ mô còn có cách nhìn trên phương diện tổng thể. e) Thị trường là vấn đề nan giải nhất của các doanh nghiệp may xuất khẩu Việt Nam. Muốn xuất được hàng các doanh nghiệp của ta phần lớn đành phải chấp nhận “phương thức tam giác”, ba đỉnh của tam giác gồm : Nhà sản xuất - Khách hàng - Người tiêu dùng. Chính khách hàng ( người nước ngoài ) mới là người khai thác thị trường. Họ đưa mẫu, nguyên liệu ta sản xuất, đóng mác, nhãn của họ và bao tiêu sản phẩm. Người tiêu dùng ở các thị trường trên thế giới chỉ biết họ với tư cách là người cung cấp chứ không quan tâm đến nhà sản xuất. Tình hình này dẫn đến các doanh nghiệp của ta thu được ngoại tệ ít ỏi nhưng uy tín, sản phẩm của ta không hề được biết đến, tất cả những yếu tố của thị trường (giá cả, sức mua, tâm lý người tiêu dùng, sự biến đổi sở thích ...) ta hoàn toàn không nắm được. Nói cách khác, trong “phương thức tam giác” ta chỉ là sản xuất còn thị trường là của khách hàng. Một doanh nghiệp muốn bán hàng theo thể thức bán thẳng phải có đủ ba yếu tố : Nguyên liệu - thiết kế mẫu - thị trường. Mà cả ba yếu tố này có nhiều điểm bất câph bởi vậy tỷ lệ bán thẳng thấp, thị trường bị khách hàng chiếm lĩnh là điểm rất dễ hiểu. 1. Nghiên cứu một số kinh nghiệm chiếm lĩnh thị trường hàng may mặc của thế giới. Đó là nói đến kinh nghiệm của một số nước đang phát triển ở gần Việt Nam như : Trung Quốc, Thái Lan ,Ấn Độ, Malayxia, Băng Lađét ... Những nước này thuộc 15 nước đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới trong những năm gần đây. Ngoài việc xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển hợp lý ngành (trong đó có chính sách công nghệ đúng đắn, chính sách tạo nguồn nguyên liệu trong nước, chăm lo đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư mạnh cho nghiên cứu thiết kế, thực hiện các bước đi kết hợp), các nước trên đã thực hiện những biện pháp chiếm lĩnh thị trường hữu hiệu. Những biện pháp đó có thể coi là những kinh nghiệm quý báu đối với các nước đang phát triển. Một số kinh nghiệm đó là : + Đáp ứng đầy đủ yêu cầu chất lượng của khách hàng. Tiêu chuẩn chất lượng của thị trường các nước phát triển đối với hàng may mặc thường rất ngặt nghèo. Để chiếm lĩnh thị trường này các nước trên buộc các nhà sản xuất phải tuân theo các tiêu chuẩn đó. Họ có những cơ quan kiểm nghiệm và phòng thí nghiệm hiện đại để kiểm tra chất lượng trước khi xuất. Họ thường áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000 và nhãn hiệu CE đối với hàng may mặc xuất khẩu ( CE là nhãn hiệu của cộng đồng Châu Âu, bảo đảm phấm chất hàng hoá phù hợp với yêu cầu pháp lý của Châu Âu) . Trong quá trình công nghệ, các nhà sản xuất thực hiện hai biện pháp mà họ coi là bí quyết trong quản lý : * Kiểm tra “on - line” (kiểm tra trên dây chuyền) nhằm ngăn ngừa tật lỗi ở sản phẩm dệt - may ngay từ khi chúng còn là bán thành phẩm. * Triệt để giữ vệ sinh công nghệ ở khâu sản xuất. Cả hai biện pháp trên được kết hợp lại thành một khẩu hiệu hành động ở các khâu sản xuất: “Sạch! Sạch! Sạch ! Theo dõi, theo dõi, theo dõi !”. + Tích cực tìm kiếm những thị trường không hạn ngạch : Đây là kinh nghiệm của Thái Lan, Inđônêxia. Nhiều khi thị trường Mỹ, Châu Âu bị trì trệ hoặc do không cạnh tranh nổi với Trung Quốc ở thị trường này, các công ty may Thái Lan, Inđônêxia đã tìm những nước không hạn ngạch để xuất khẩu như Nhật Bản, Hà Lan, Đài Loan, Trung Đông, các nước Châu Phi và thật chớ trêu là cả Việt Nam. + Thực hiện nhiều biện pháp tổ chức. Các công ty Ấn Độ và Inđônêxia đã lập kho hàng của mình ngay tại cảng ở Châu Âu ( như cảng Rotterdam) để bám sát lịch giao hàng. Đó là vấn đề tối cần thiết để có thể cạnh tranh được với những nhà giao hàng khác. Inđônêxia cũng thành lập trung tâm mậu dịch và phân phối của mình ở Rotterdam. Trung tâm có quan hệ chặt chẽ với cảng biển, sân bay và giữ vai trò “cửa mở” vào Châu Âu, đưa hàng may xuất khẩu vào thị trường này. Trung tâm cũng đưa ra lò địa điểm cho các cuộc trưng bày triển lãm và các mục đích thương mại khác, Inđônêxia còn lập thêm nhưng trung tâm tương tự ở những địa điểm quan trọng khác ở Châu Âu. KẾT LUẬN CHUNG Hoàn thiện công tác Marketing luôn là mục tiêu đề ra của các Doanh nghiệp, là biện pháp bảo đảm lãi suất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Qua thời gian nghiên cứu tìm hiểu thông qua tài liệu và thực tế về công ty may Thăng Long tôi đã lựa chọn đề tài : “Công tác Marketing của Công ty may Thăng Long trong lĩnh vực gia công xuất khẩu” làm luận văn tốt nghiệp. Trong một khoảng thời gian không dài, với sự áp dụng lý luận và thực tiễn, cũng như kiến thức thực tế của người viết còn nhiều hạn chế nhưng với mong muốn nhận thức cho bản thân, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài này và cũng mạnh dạn đưa ra một số ý liến với hy vọng có thể hoàn thiện được công tác Marketing của công ty May Thăng Long để có thể nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như mục tiêu chiếm lĩnh thị trường may mặc của công ty. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. BÁO CÁO TỔNG KẾT CỦA HIỆP HỘI NĂM 2000. 2. TÌM HIỂU VỀ THỊ TRƯỜNG SẢN XUẤT KINH DOANH - NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG 1997 - TRẦN NAM HẢI. 3. MARKETING CĂN BẢN - NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ HÀ NỘI 1997 - PHILIP KOTLER. 4. QUẢN TRỊ MARKETING - NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG 1999 - LƯU VĂN NGUYÊN. 5. HƯỚNG DẪN PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM TỚI NĂM 2010 - NÀ XUẤT BẢN ĐỒNG NAI. 6. MỘT SỐ TẠP CHÍ THƯƠNG MẠI.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0506.doc
Tài liệu liên quan