Trong thời gian một tháng thực tập tại Công ty Bánh kẹo Hải Châu từ ngày 19/8/2002 đến ngày 19/9/2002, em đã được quý Công ty tạo điều kiện thuận lợi để tìm hiểu các tài liệu và thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhờ có sự quan tâm chỉ bảo của các cô, các chú, các anh, các chị là cán bộ công nhân viên của Công ty nên em đã tiếp thu được nhiều kinh nghiệm thực tế quý báu. Về phía nhà trường em cũng nhận được sự giúp đỡ và hướng dẫn cụ thể của thầy giáo phụ trách, thầy Phan Đăng Tuất. Kết thúc khoá thực tập này, kết hợp những kiến thức đã học với thực tế thực tập tại Công ty em viết báo cáo này để trình bày những suy nghĩ của em. Trong báo cáo có gì thiếu sót xin quý Công ty và thầy giáo chỉ bảo thêm cho em.
40 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1662 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Công ty Bánh kẹo Hải Châu với lộ trình thực hiện AFTA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khô cũng tăng 21% do Công ty cho ra đời ccá sản phẩm lương khô có hương vị mới như ca cao,đậu xanh…Về sản phẩm bánh kem xốp, năm 1999 tiêu thụ được 681 tấn, tăng 12,1% so với năm 1998; năm 2000 con số này là 750 tấn tăng 10% so với năm 1999; năm 2001 là 857 tấn tăng 14%so với năm 2000. Các con số cho thấy lượng tiêu thụ kem xốp luôn tăng trên 10%/năm do Công ty luôn chú ý nghiên cứu phát triển sản phẩm này, đến nay bánh kem xốp là mặt hàng chủ lực của Công ty trên các thị trường dặc biệt là thị trường Hà Nội và các tỉnh phía Bắc .
Bên cạnh đó, các sản phẩm kẹo cũng có sự tăng trưởng đáng kể, trung bình trên 20% /năm. Sản phẩm kẹo mềm rất phù hợp với người tiêu dùng và có nhiều bao bì đẹp nên lượng tiêu thụ tăng lên rất nhanh: năm 2000 tăng 43%, năm 2001 tăng 38%. Tỷ trọng lượng tiêu thụ kẹo đang tăng lên trong tổng sản lượng tiêu thụ của Công ty mặc dù đây không phải là sản phẩm truyền thống của Công ty và có sự cạnh tranh rất gay gắt trên thị trường.
Một sản phẩm truyền thống khác của Công ty trong nhiều năm qua là bột canh. Sản phẩm luôn giữ được uy tín với khách hàng nên lượng tiêu thụ luôn có mức tăng ổn định. Sản phẩm bột canh Iốt của Công ty khi đưa ra rất được người tiêu dùng tín nhiệm và phù hợp với phong trào “ Toàn dân dùng muối Iốt ”.
2. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây
Trong những năm gần đây, mặc dù có nhiều biến động về kinh tế ở trong và ngoài nước, Công ty vẫn đạt được chỉ tiêu là trên 10% đó là một thành tích đáng khích lệ, thành tích đó được thể hiện qua bảng báo cáo kết quả kinh doanh ba năm trở lại đây.
Chỉ tiêu tổng giá trị sản lượng là một trong những chỉ tiêu hết sức quan trọng nhằm đánh giá kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Qua bảng cho thấy, giá trị tổng sản lượng của Công ty ttong những năm qua liên tục tăng, tăng từ 104,58 tỷ đồng năm 1999 lên 119,52 tỷ đồng năm 2000, tức là năm 2000 tăng 14% so với năm 1999. Năm 2001 Công ty đạt 134,27 tỷ đồng tăng 12,34% so với năm 2000 nhưng giảm so với năm 1999. Kết quả cho thấy Công ty đang ngày càng mở rộng quy mô sản xuất.
Kết Quả Hoạt Động Sản Xuất Kinh Doanh Của Công ty
Bánh Kẹo Hải Châu
(1999 – 2001)
TT
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số tuyệt đối
99/98
Số tuyệt đói
00/99
Số tuyệt đói
01/00
1
GT tổng s.lượng
Triêu đ
140.58
112.76
119.52
114
134.27
112.34
2
Doanh thu
Triêu đ
129.58
110.21
150.106
116
153.62
102.34
3
Nộp NSNN
Triêu đ
7.245
84.24
7.275
100
7.29
100.24
4
Lợi nhuận
Triêu đ
2.6
395.74
3.6
138.4
4.08
113.2
5
TNBQ tháng/người
1000đ
850
113.33
1000
117.6
1100
110
6
s.lượng spchủ yếu
Triêu đ
22.1
216.67
23.54
106.52
27.98
118.86
7
Bánh các loại
Tấn
12551
116
14875
118.52
16868.00
113.40
Kẹo các loại
Tấn
4879
142.36
5851
119.92
6584.00
112.53
B.canh các loại
Tấn
1127
109.68
1447
128.39
1765.00
121.98
Tấn
6545
113.95
7577
115.77
8519.00
112.43
Chỉ tiêu doanh thu cho biết tốc độ tiêu thụ sản phẩm qua các năm: năm 1999 đạt 129,58 tỷ đồng, năm 2000 tăng 16% đạt 150,11 tỷ đồng, năm 2001 tăng 9% đạt 163,62 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng cao chứng tỏ hướng đầu tư vào dây chuyền sản xuất mới và chính sách mở rộng thị trường tiêu thụ của Công ty áp dụng đã có hiệu quả.
Lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Lợi nhuận vừa là mục tiêu đầu tiên, vừa là mục đích cuối cùng mà mọi doanh nghiệp đều hướng tới. Qua các năm từ 1999 đến 2001 lợi nhuận phát sinh của Công ty đều tăng. Mức lợi nhuận năm 2000 đạt 3.6 tỷ đồng tăng 38,4% so với năm 1999. Năm 2001 lợi nhuận đạt 4,08 tỷ đồng bằng 113,2% năm 2000. Lợi nhuận của Công ty liên tục tăng là do hai dây chuyền kẹo mới lắp đặt và đưa vào sản xuất đã phát huy tác dụng, sản lượng kẹo tăng lên. Nguồn nguyên liệu chính trước đây nhập từ Châu Âu hiện nay chuyển sang nhập từ các nước Đông Nam á nên chi phí giảm.
Công ty cũng luôn chú ý phát triển công nghệ sản xuất, thay đổi dây chuyền sản xuất tiếp cận với những máy móc hiện đại để có được năng suất và chất lượng cao. Số vốn Công ty dành cho đầu tư xây dựng cơ bản tăng liên tục trong ba năm qua.
Bên cạnh việc củng cố vị thế trên thị trường, đầu tư thêm trang thiết bị máy móc sản xuất, Công ty còn quam tâm đến đời sống cán bộ công nhân viên. Điều đó thể hiện qua mức tăng thu nhập bình quân trong tháng. Trong ba năm gần đây, mức lương của cán bộ công nhân viên tăng trung bình hàng năm đều tăng lên 10%. Ngoài việc tăng tiền lương, Công ty còn thưởng cho cán bộ công nhân viên trong những dịp lễ tết và khen thưởng cho những lao động sáng tạo, tổ chức các hoạt động ngoại khoá bổ ích như : hội thi thợ giỏi, thi bóng bàn, bóng đá… Các hoạt động này giúp người lao động sống vui- khoẻ- lành mạnh, đảm bảo năng suất lao động.
3. Các chính sách-chiến lược kinh doanh của Công ty Hải Châu
3.1. Chiến lược sản phẩm – mặt hàng kinh doanh.
Hiện nay, sản phẩm của Công ty chia làm ba nhóm chính:
Bánh các loại.
Bột canh các loại.
Kẹo các loại.
Thị trường hiện nay có rất nhiều loại sản phẩm bánh kẹo với chất lượng và chủng loại khác nhau. Người tiêu dùng là người quyết định có mua sản phẩm hay không. Họ chỉ mua sản phẩm khi thực sự tin tưởng sản phẩm đó đạt chất lượng. Vì vậy, Công ty luôn coi trọng công tác đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Nhận thấy thị trường có xu hướng thích các sản phẩm có hương vị trái cây tự nhiên như cam, nho, dứa… Công ty đã nghiên cứu tìm tòi những nguyên liệu mới phù hợp hơn như đưa tinh dầu các loại hoa quả và tinh dầu chịu nhiệt vào chế biến nhằm tạo hương vị hấp dẫn cho các sản phẩm mới. Công ty đã đưa ra các sản phẩm có hương trái cây: các loại kẹo mềm, kẹo xốp, bánh quy.. có hương cam, dứa, dâu, táo, mơ mật ong…Các sản phẩm này đã được người tiêu dùng chấp nhận. Bên cạnh đó Công ty cũng đưa ra nhiều loại bao gói có trọng lượng khác nhau: 125gram, 200 gram, 300gram…và cả loại đóng bao 5kg, 9kg…để phục vụ cho nhu cầu hội nghị, đám cưới,. rất tiện lợi cho người tiêu dùng.
Bên cạnh việc cho ra đời nhiều sản phẩm mới Công ty vẫn duy trì các loại sản phẩm truyền thống như bánh Hương Thảo, bánh Vani.. hầu như trong suốt 30 năm qua không có nhiều sự thay đổi. Các loại bánh này được nướng bằng than có được vị thơm và màu sắc rất riêng nên cho dù bánh có khá dày nhưng vẫn được người tiêu dùng rất ưa chuộng.
Sản phẩm bột canh là loại sản phẩm rất khó thay đổi, công nghệ sản xuất lại phần lớn là thủ công nên Công ty đã đa dạng hoá sản phẩm bằng cách đưa ra thị trường các loại bột canh Iốt, bột canh có hương vị gà, cua, bò..phù hợp với khẩu vị của người tiêu dùng.
Sản phẩm bánh kem xốp của Công ty hiện là sản phẩm có chất lượng hàng đầu . Bánh của Công ty được sản xuất trên dây chuyền hiện đại nhất trong cả nước. Gần đây sản phẩm cũng được cải tiến nhiều về hình thức đóng gói và kích thước bao gói như kem xốp thanh đóng gói 170 , 150, 125, 270, 340, 450 gram..
Sản phẩm sôcôla thanh và viên là những sản phẩm mới nhất của Công ty được thị trường đánh giá cao.
3.2. Chính sách phối phân
3.2.1. Hệ thống kênh phân phối.
Cùng với sự phát triển đi lên của Công ty, các hoạt động tiếp thị, nghiệp vụ Marketing và mở rộng kênh phân phối để tiêu thụ sản phẩm ngày càng được đẩy mạnh và có hiệu quả hơn. Để duy trì và phát triển các thị trường hiện có cả về chiều rộng lẫn chiều sâu đồng thời từng bưóc xâm nhập vào những thị trường mới, Công ty đã xây dựng được một mạng lưới phân phối trong khắp cả nước. Công ty xây dựng hệ thống 4 kênh phân phối sản phẩm. Trên mỗi kênh đều có đặc điểm riêng và khối lượng tiêu thụ trên mỗi kênh cũng khác nhau .
Hệ thống kênh phân phối của Công ty bánh kẹo hải châu
Công
ty
Bánh kẹo Hải Châu
Cửa hàng
giới thiệu
sản phẩm
Người bán lẻ
Bán buôn
Bán lẻ
Người
tiêu
dùng
cuối
cùng
Đại lý
Bán buôn
Bán lẻ
ă Kênh I _ Kênh phân phối trực tiếp
Kênh I là kênh phân phối từ Công ty thông qua các cửa hàng giới thiệu sản phẩm trực tiếp do Công ty quản lý đặt tại các tỉnh thành hay trung tâm tiêu thụ. Hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm của Công ty bao gồm :
- 2 cửa hàng ở Hà Nội : một đặt ngay tại trước cổng Công ty và một đặt trên đường Minh Khai.
-1 cửa hàng ở TP HCM : khai trương tháng 11/1999 tại số 123 đường Lê Thị Hồng Gấm – Q1–TPHCM
-1 cửa hàng ở Đà Nẵng : khai trương vào quý II/2001 để điều tiết hoạt động tiêu thụ ở miền Trung
Tổng giá trị tiêu thụ của kênh này chiếm khoảng từ 5 - 7% tổng giá trị hàng hoá tiêu thụ hàng năm của Công ty. Mặt khác, để tích cực tìm hướng xuất khẩu sản phẩm, Công ty đã xúc tiến thương mại với nhiều bạn hàng nước ngoài như Lào , Mông Cổ ; gửi hàng giới thiệu sản phẩm tới nhiều nước ở Châu Âu, Châu á, Châu Phi, bước đầu có nhiều tiến triển tốt.
Đây là hệ thống kênh phân phối trực tiếp của Công ty nhưng chưa chiếm được vị thế mạnh trong hệ thống phân phối sản phẩm do số lượng còn quá ít và bố trí mỏng nên chưa mang lại kết quả cao. Kênh phân phối trực tiếp yếu cho thấy Công ty còn bị phụ thuộc nhiều vào khách hàng là các đại lý và nhà bán buôn. Đó cũng là một thách thức cho hoạt động tiêu thụ của Công ty.
ăKênh II – Người bán lẻ
Qua kênh II, sản phẩm đến tay người tiêu dùng qua những người bán lẻ lấy hàng trực tiếp tại Công ty, họ là những người buôn bán nhỏ gần Công ty và hệ thống của hàng bán lẻ tại gia đình cán bộ công nhân viên của Công ty. Trong năm 2000, Công ty đã có thêm 15 cửa hàng như vậy ở cả nội và ngoại thành Hà Nội.
Đây là mô hình mới rất phù hợp với điều kiện kinh doanh sản phẩm của Công ty, có ý nghĩa to lớn với việc phát triển hình ảnh và uy tín của Công ty đem lại hiệu quả kinh tế cao. Cán bộ công nhân viên trực tiếp tham gia phân phối và giới thiệu sản phẩm của Công ty không những nâng cao trách nhiệm của họ đối với công việc mà còn góp phần cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên, hơn nữa tăng lòng tin của khách hàng vào chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, số lượng tiêu thụ trên kênh này còn nhỏ. Do đó Công ty đã áp dụng những chế độ ưu đãi về giá và vận chuyển cho đối tượng khách hàng này.
ă Kênh III và kênh IV
Đây là hai kênh phân phối chủ yếu của Công ty, hàng năm tiêu thụ trên 75% tổng sản phẩm tiêu thụ của Công ty. Kênh III là một kênh phân phối mạnh của Công ty với nhiều bạn hàng mua số lượng lớn và thường xuyên ở khắp các tỉnh thành như: Hà Nội, Hoà Bình, Hải Phòng, Thanh Hoá, Nghệ An, Cần Thơ, An Giang, Lâm Đồng...
Hiện nay, kênh IV phân phối qua hệ thống các đại lý của Công ty là kênh mạnh nhất với trên 300 đại lý trải rộng trên khắp cả nước.
- Vùng Đông Bắc : 50 đại lý
- Vùng đồng bằng Bắc Bộ : 80 đại lý
- Vùng duyên hải : 50 đại lý
- Vùng Tây Bắc : 40 đại lý
- Vùng từ Quảng Bình đến Tây Nguyên : 20 đại lý
- Vùng đồng bằng Nam Bộ : 20 đại lý
Qua tổng kết năm 2000 :
Có 8 đại lý có doanh thu cao trên 3 tỷ đồng trong đó 5 đại lý ở Hà Nội, 1 đại lý ở Thanh Hoá, 1 đại lý ở Nghệ An, 1 đại lý ở Thái Nguyên.
có 6 đại lý có doanh thu trên 2 tỷ đồng trong đó 4 đại lý ở Hà Nội, 1 đại lý ở Hải Phòng, 1 đại lý ở Thái Nguyên.
- Có 45 đại lý có mức doanh thu trên 1 tỷ đồng ở nhiều tỉnh và thành phố như Quảng Ninh, Vinh, Ninh Bình, Thanh Hoá..
- Vùng thị trường mới, sự hiểu biết của người tiêu dùng về Công ty còn ít, chi phí tiếp thị và giới thiệu sản phẩm còn hạn chế, song với nỗ lực, kinh nghiệm của chính mình, các đại lý đã từng bước phủ rộng sản phẩm của Hải Châu và trụ vững trên thị trường. Đặc biệt là thị trường Tây Nguyên, các đại lý đã có nhiều cố gắng năm 2000 đã nâng cao doanh thu lên 10% so với năm 1999.
Qua những thống kê trên ta thấy hệ thống phân phối của Công ty ở miền Bắc và Trung hoạt động khá hiệu quả, còn thị trường miền Nam với nhu cầu lớn và nhiều đối thủ cạnh tranh đang còn đặt ra nhiều thách thức cho Công ty. Hệ thống đại lý là kênh phân phối chính của Công ty, đóng góp to lớn vào hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. áp lực từ hệ thống phân phối đối với Công ty là rất lớn, do đó Công ty cần xây dựng mối quan hệ tốt với những bạn hàng lâu dài này.
3.2.2. Chính sách xây dựng mối quan hệ với khách hàng của Công ty
Công ty thiết lập mối quan hệ với khách hàng trên cơ sở trao đổi thông tin, tìm kiếm mối quan hệ với các đối tác khách hàng trong việc vận chuyển và thanh toán dựa trên sự tin cậy lẫn nhau. Hiện nay Công ty có 3 hình thức vận chuyển :
+ Công ty giao hàng tận nơi cho khách hàng
+ Công ty thuê xe vận chuyển ngoài cho khách
+ Công ty hỗ trợ vận chuyển cho khách hàng theo từng tuyến đường, từng cây số với từng đơn giá vận chuyển
Quá trình phục vụ và phân phối sản phẩm được thực hiện nhanh chóng, kịp thời, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng, đặc biệt với những khách hàng là đại lý lớn và lâu dài của Công ty.
Ngoài ra, Công ty còn áp dụng chế độ thưởng cho các đại lý có khối lượng tiêu thụ lớn, khuyến mại bằng sản phẩm ( tức là tăng số lượng sản phẩm trong mỗi thùng với mức giá không đổi ); tổ chức hội nghị khách hàng hằng năm và trao quà tặng cho các khách hàng.
Công ty cũng áp dụng chính sách giá chiết khấu theo phương thức thanh toán (thanh toán ngay bằng tiền mặt và thanh toán sau ) và đối tượng khách hàng ( khách hàng Hà Nội và khách hàng ngoại tỉnh).
Hà Nội
Ngoại Tỉnh
Bánh
Kẹo
Bánh
Kẹo
Thanh toán ngay
1.30%
4.30%
2.30%
5.30%
Thanh toán sau
1%
4%
1.30%
4.30%
Xây dựng chế độ chiết khấu theo vùng cho các loại sản phẩm. Hỗ trợ tăng chiết khấu cho các đại lý ở vùng xa, vùng sâu, vùng cần ưu tiên để phát triển thị trường. Thực hiện chính sách thưởng chiết khấu thêm cho khách hàng tiêu thụ tốt các sản phẩm ở các thời điểm khó tiêu thụ. Đối với những sản phẩm xâm nhập thị trường còn yếu, Công ty đều tăng mức chiết khấu từ 1% đến 2%. Điều chỉnh cước phí vận chuyển cho phù hợp với giá xăng dầu và từng vùng thị trường. Thực hiện chế độ thanh toán cước phí chuyển tiền cho các đơn vị và cá nhân thanh toán tiền hàng bằng điện chuyển tiền và tiền chuyển khoản với giá trị trên 100 triệu đồng.
Ngoài chính sách đối với các đại lý cấp I, Công ty còn quan tâm đến các đại lý cấp II bằng hình thức khuyến mại trong thùng ( tăng thêm trọng lượng đóng trong mỗi thùng). Các đại lý cấp II sẽ được hưởng phần tăng thêm trong mỗi thùng khi tiêu thụ. Chính sách này được các đại lý cấp II rất ủng hộ.
Công ty luôn chủ trương xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng, không những trong khâu tiêu thụ mà còn hợp tác để nhập nguyên liệu đổi trừ tiền hàng, đề nghị các đại lý tích cực khai thác các nguồn hàng với giá cả hợp lý và chất lượng đảm bảo để cung cấp cho Công ty.
Nhìn chung Công ty thực hiện một hệ thống chính sách khuyến khích đối với khách hàng được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với yêu cầu thực tế trong từng thời kỳ. Điều này đã giúp cho Công ty hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định và phát triển ngày càng cao.
3.3.Chính sách xúc tiến
Hoạt động xúc tiến của Công ty chủ yếu là quảng cáo và khuyến mại. Công ty quảng cáo trên truyền hình, đài phát thanh, báo chí với số tiền là 720 triệu đồng trong năm 2001. Phương thức quảng cáo trên truyền hình cả nước không nhiều, tần suất xuất hiện trên truyền hình không cao. Công ty tiến hành quảng cáo trên đài và địa phương , do các nhân viên tiếp thị đảm nhiệm.
Các chương trình khuyến mại của Công ty đưa ra nhằm mục đích tăng sản lượng bán một mặt hàng nào đó hay muốn thâm nhập thị trường mới. Tuy nhiên hình thức khuyến mại chủ yếu bằng sản phẩm, tức tăng số lượng sản phẩm trong thùng với mức giá không đổi.
Ngoài ra, Công ty còn áp dụng chế độ thưởng cho các đại lý có khối lượng sản phẩm tiêu thụ lớn, tặng quà cho khách hàng trong hội nghị khách hàng. Công ty Bánh Kẹo Hải Châu còn tham gia các hoạt động như: Hội chợ hàng tiêu dùng, Hội chợ hàng công nghiệp, Hội chợ xuân, Hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao…
Tóm lại , mặc dù các hoạt động xúc tiến của Công ty chưa thực sự linh hoạt, bắt kịp với nhịp điệu của thị trường nhưng với mỗi sự nỗ lực của mỗi cá nhân cũng như của cả tập thể đã góp phần đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của Công ty trên thị trường.
4.Kế hoạch phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải Châu trong những năm tới
Trong những năm gần đây, Công ty có nhiều bước phát triển mới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đời sống cán bộ công nhân viên không ngừng được cải thiện. Nhưng để đứng vững trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của cơ chế thị trường Công ty đã đặt ra cho mình nhiều mục tiêu cụ thể.
Về mở rộng sản xuất, trong năm 2002 Công ty đã lập dự án lắp đặt dây chuyền bánh mềm cao cấp của Tây Âu. Dây chuyền sẽ được đưa vào hoạt động trong năm 2003. Bên cạnh đó Công ty cũng liên tục cải tiến, nâng cao năng suất của các dây chuyền hiện có để đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ. Với phân xưởng sản xuất bột canh, Công ty tiến hành cơ giới hoá, cải tiến một phần khâu rang muối, khâu trộn nhằm giảm nhẹ sức lao động và đảm bảo môi trường thông thoáng, vệ sinh thực phẩm.
Về hoạt động xúc tiến, trong những năm tới Công ty giới thiệu và bán sản phẩm ở thị trường nước ngoài. Để thực hiện mục tiêu đó Công ty đã thành lập tổ xúc tiến thương mại thuộc phòng kế hoạch-vật tư để tiến hành nghiên cứu một số thị trường tiềm năng. Bước đầu Công ty đã có một số bạn hàng nước ngoài và thâm gia một số hội chợ hàng Việt Nam ở nước ngoài như hội chợ ở Lào tháng 7 vừa qua hay hội chợ tại Nga vào tháng 10 tới..
Thị trường xuất khẩu của từng loại sản phẩm :
Kẹo, bánh : Lào, Trung Quốc, và một số nước Châu Á khác
Bột canh : Đức , Nga
Lương khô: Nga, I-Rắc, ả Rập
Sôcôla, Bánh mềm : các nước Châu Á
Bảng kế hoạch xuất khẩu năm 2003
Stt
Diễn giải
Đvt
Thực hiện năm 2001
ước thực hiện năm 2002
Kế hoạch năm 2003
So sách %
02/01
03/02
I
Kim ngạch xuất khẩu
Usd
4000
255417
501641
6385
196
Sinh viên: vũ thị thuỳ dương lớp QTKDCN&XD
II
Hàng hoá xk
Tấn
4
215
350
5375
163
1
Kẹo, bánh,lương khô
Tấn
4
200
3000
5000
150
2
Bột canh
Tấn
10
10
200
3
Sôcôla viên
Tấn
5
10
200
4
Bánh mềm
Tấn
20
Về các biện pháp giảm chi phí sản xuất, trong thời gian tới Công ty sẽ tìm kiếm các nhà cung cấp trong khu vực ASEAN có giá cạnh tranh hơn để giảm chi phí một số nguyên liệu mà hiện nay Công ty đang phải nhập từ một số nước Châu Âu với giá thành khá cao. Bên cạnh đó, hiện nay chi phí về bao gói còn khá cao chiếm khoảng 30% đến 35% giá thành sản phẩm nên Công ty đang phối hợp cùng nhà cung cấp để tìm ra những chất liệu rẻ hơn mà vẫn đảm bảo yêu cầu về vệ sinh an toàn và bao gói thực phẩm.
Một số chỉ tiêu cần đạt được trong năm 2002:
+ Tổng giá trị sản lượng : 149 tỷ đồng
+ Sản lượng bánh các loại : 7242 tấn
+ Sản lượng kẹo các loại : 1942 tấn
+ Sản lượng bột canh các loại : 9371 tấn
+ Thu nhập bình quân CBCNV : 1.210.000 đồng/tháng.
+ Đầu tư xây dựng cơ bản : 9,58 tỷ đồng.
Phần II : Công ty Bánh kẹo Hải Châu với lộ trình thực hiện AFTA
Cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp khi thực hiện AFTA .
* Một số khái quát chung về AFTA:
AFTA gồm 7 nước: Sinhgapo, Thái Lan, Trung Quốc, Indonesia, Malaisia, Lao, Campuchia.
AFTA là một hiệp hội các nước ASEAN, Là một khối hoà nhập với mục đích quan hệ công thương phát triển kinh tế giữa các nước dựa trên nguyên tắc và quy định của hiệp hội nhằm thúc đẩy và phát triển kinh tế khu vực châu á, Thái Bình Dương
* Mục đích khi ra nhập ASEAN:
Nhằm xoá bỏ hàng rào thuế quan glữa các nước và tạo động lực cạnh tranh, phát triển, thúc đẩy kinh tế giữa các nước thành viên. (Đây là đòi hỏi và cũng là thách thức của mỗi quốc gia khi ra nhập AFTA).
Tạo dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá, đa dạng hoá.
* Công ty bánh kẹo Hải châu- quá trình chuẩn bị khi nền kinh tế Việy Nam hội nhập AFTA:
Trong thời đại ngày nay, hội nhập là một điều kiện tiên quyết đối với mọi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển. Đối với Việt Nam bất kể doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân đều không thể tách ra khỏi tiến trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế Thế Giới. Mục tiêu của Việt Nam trong thời kì tới không chỉ là hội nhập khu vực mà cả hội nhập toàn cầu. Bứơc đầu và ngay trước mắt các doanh nghiệp Việt Nam là lộ trình hội nhập AFTA (khu vực mậu dịch tự do ASEAN).
Bắt đầu từ năm 2003 đến 2006 lộ trình tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN/AFTA, nhà nước sẽ phải từng bước hoàn tất việc cắt giảm thuế nhập khẩu gần như với toàn bộ mặt hàng hiện đang có thuế suất 20% xuống còn 0 – 5%, đồng thời dỡ bỏ và đi đến chấm dứt bảo hộ đối với nhiều mặt hàng sản xuất trong nước. Tiến trình hội nhập đặt ra rất nhiều cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp và đòi hỏi các doanh nghiệp phải nghiên cứu, nắm bắt kịp thời nhằm hoá giải các nguy cơ và đón đầu các cơ hội đang mở ra trong tương lai không xa.
Chẳng còn bao lâu nữa, từ năm 2003 các doang nghiệp Việt Nam sẽ phải bước vào cuộc chay đua quyết liệt không những trên trường quốc tế mà ngay cả trong nội địa, và đây sẽ thực sự trở thành một “chiến trường” đầy thử thách cho các doanh nghiệp .
Vào thời điểm này đề cập đến vấn đề hội lộ trình hội nhập AFTA không phải là sớm mà cũng chưa quá muộn. Trong khi một số doanh nghiệp đã có những chuẩn bị đáng kể cho tiến trình hội nhập này chẳng hạn Công ty sữa Việt Nam- Vinamilk : năm 1999-2000 đã đưa sản phẩm sữa và bột dinh dưỡng xâm nhập vào thị trường các nước ASEAN; ở trong nước Công ty này chú trọng đa dạng hoá sản phẩm, đưa ra thị trường những sản phẩm có giá thành hạ, chất lượng cao, mở rộng hệ thống phân phối xuống tận xã phường, làm cho sản phẩm trở nên quen thuộc với cuộc sống hàng ngày của mọi người dân. Một ví dụ khác là Công ty Biti’s: Công ty đã xây dựng thương hiệu trong nước với một hình ảnh bảo vệ giá trị truyền thống “ Nâng niu bàn chân Việt ”, duy trì một chính sách giá chung trên toàn quốc; để mở rộng hoạt động kinh doanh ra nước ngoài Công ty đã xây dựng một nhà máy sản xuất giày dép ngay trên đất của đổi thủ cạnh tranh mạnh nhất là Trung Quốc.
Công ty bánh kẹo Hải châu cũng đang dồn toàn bộ sức lực, trí lực để chuẩn bị cùng đất nước hội nhập AFTA. Ngoài thương hiệu độc đáo “Hải châu chỉ có chất lượng vàng” đã có từ lâu công ty cũng đang nghiên cứu và đưa ra một số thương hiệu riêng cho từng chủng loại sản phẩm. Việc Công ty bánh kẹo Hải châu tham gia hội nhập AFTA có các bước chuẩn bị như:
Ngoài các thiết bị hiện tại: có một dây truyền bánh kem xốp nhập từ năm 1993- là một dây truyền tương đối hiện đại từ châu âu. Năm 1995 nhập thêm một dây truyền phủ socola trên bánh kem xốp. Năm 1997 nhập thêm một dây truyền sản xuất kẹo cứng, kẹo mềm và kẹo có nhân. Năm 2000-2001 nhập thêm dây truyền sản xuất socola. Công ty cũng đang chuẩn bị nhập dây truyền sản xuất bánh mềm với công suất 350kg/giờ vào cuối năm 2002.
Ngoài ra Công ty còn mở rộng hợp tác, liên doanh, liên kết để học hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật, sáng tạo của các nước tiên tiến.
Có thể nói giá vượt rào của mặt hàng bánh kẹo khi xâm nhập vào Việt Nam dù chịu một phần thuế nhập khẩu cao mà giá vẫn ngang bằng thậm chí thấp hơn sản phẩm của Công ty. Hơn thế nữa sản phẩm của nước ngoài mẫu mã bao bì đẹp, một số loại có chất lượng thật sự tốt và tiêu thụ rất mạnh như bánh chocoby socola, kem xốp socola, kẹo mềm của Malaisia.
Vấn đề đặt ra đối với Hải châu là khi xoá bỏ hàng rào thuế quan đòi hỏi Công ty bánh kẹo Hải châu cần nghiên cứu quan tâm và xem xét lại về:
Giá cả từng loại sản phẩm.
Mẫu mã bao bì.
Chất lượng sản phẩm.
Theo đánh giá của bản thân qua nghiên cứu cũng như nhận định của Công ty thì chất lượng sản phẩm cũng như mẫu mã bao bì không khác gì so với sản phẩm nhập ngoại. Do vậy vấn đề quan tâm hiện nay chỉ là giá cả sản phẩm. Mà Công ty bánh kẹo Hải châu là một ngành sản xuất và chế biến công nghệ thực phẩm. Các nguyên liệu chủ yếu như sữa, bột mỳ, tinh dầu là nhập khẩu còn lại các nguyên liệu khác đều được khai thác trong nước. Vì vậy giá thành sản phẩm của Công ty bánh kẹo Hải châu bị ảnh hưởng rất nhiều do trình độ phát triển trong nước. Đường là nguồn nguyên liệu chiếm trên 70% nguyên liệu sản xuất ra bánh kẹo. Trong những năm gần đây giá đường không được ổn định và hoạt động của các ngành sản xuất mía đường ở Việt Nam kém hiệu quả nên giá đường trong nước rất cao(cao hơn cả giá đường nước ngoài). Nếu như Nhà Nước không có các biện pháp nhằm thúc đẩy các hoạt động sản xuất mía đường cũng như giảm giá đường trong nước thì sẽ rất khó khăn đối với các cơ sở sản xuất bánh kẹo trong nước trong việc cạnh tranh với thị trường Thế giới.
Bên cạnh các doanh nghiệp đã ý thức mạnh mẽ về quá trình hội nhập thì còn không ít các doanh nghiệp vẫn đang lúng túng, chưa chuẩn bị sẵn sàng cho một sự cạnh tranh ngày càng cam go, quyết liệt. Để xây dựng được những chính sách, phương thức cụ thể , trước hết cần xác định rõ cơ hội và nguy cơ đang chờ đợi các doanh nghiệp của Việt Nam.
1. Những cơ hội trong quá trình hội nhập.
Khi hội nhập AFTA mở rộng quan hệ với các nước ASEAN, vốn là các nước cùng trong khu vực có những điều kiện tương đồng về lịch sử, văn hoá, địa lý … sẽ là bước đệm cho chúng ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đối với sản xuất, hội nhập tạo điều kiện thâm nhập và mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm các nưóc trong khu vực từ đó tạo cơ hội cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rông quy mô sản xuất và tạo đà phát triển cho doanh nghiệp. Một khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt Nam là thiếu vốn và trình độ khoa học kỹ thuật thấp do đó hội nhập cũng giúp các doanh nghiệp mở rộng giao lưu tìm kiếm đối tác hợp tác liên doanh. Đây là biện pháp hữu hiệu đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn thiếu vốn để tổ chức sản xuất kinh doanh. Phải nhận thấy rằng chúng ta còn yếu kém hơn phần lớn các nước trong khu vực cả về trình độ công nghệ và trình độ quản lý. Do đó tham gia hội nhập AFTA là cơ hội tốt để chúng ta tiếp cận và tiếp thu trình độ quản lý mới, nâng cao hiệu quả lao động, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực. Đứng trước những cơ hội đang mở ra trước mắt các doanh nghiệp Việt Nam cần đề ra những chiến lược tổng thể để nắm bắt cơ hội đồng thời phải có những nghiên cứu kỹ càng tránh những sai lầm khi hợp tác kinh doanh với các đối tác nước ngoài.
2. Thách thức đối với các doanh nghiệp
Đối với các nước chưa phát triển thì khi tham gia hội nhập sẽ phải đối đầu với nhiều khó khăn tiềm ẩn. Trước hết đó là năng lực cạnh tranh yếu kém của sản phẩm . Điều này là nguy cơ cho các doanh nghiệp Việt Nam ngay trên thị trường trong nước khi tham gia hội nhập. Nguyên nhân chính là do thực trạng yếu kém của nền sản xuất trong nước: năng suất lao động và hiệu quả dịch vụ của ta còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của một nền sản xuất hiện đại. Hơn nữa có một thực tế là trình độ công nghệ ở nước ta lạc hậu so với một số nước trong khu vực từ 15 đến 20 năm, chi phí sản xuất còn cao hơn họ từ 30 đến 50%. Tăng sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam là bài toán phức tạp nhất đặt ra cho các doanh nghiệp trong thời điểm hiện nay. Phải giải được bài toán này các sản phẩm Việt Nam mới có chỗ đứng trên thị trường khu vực và có lẽ ngay cả ở thị trường trong nước.
Một thách thức thứ hai là qui mô vốn của các doanh nghiệp Việt Nam quá nhỏ so với các doanh nghiệp nước ngoài. Hiện tại theo thống kê thì vốn lưu động của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì thế cần huy động thêm 2000 tỷ đồng, chưa kể các nguồn vốn khác đầu tư vào cơ sở hạ tầng và mặt bằng sản xuất. Thách thức này có thể được khắc phục bằng nhiều biện pháp như các chính sách hỗ trợ của nhà nước, hay cá nhân các doanh nghiệp tự tìm cách huy động vốn bằng nhiều con đường, chẳng hạn như cổ phần hoá (là một chủ trương đúng đắn) hoặc với các doanh nghiệp có khả năng thì ra nhập thị trường chứng khoán là một biện pháp tốt để huy động vốn. Ngoài ra doanh nghiệp còn có thể sử dụng một số biện pháp tài chính khác như thuê vận hành, thuê tài chính…
Một khó khăn nữa cho các doanh nghiệp Việt Nam là khả năng tiêu thụ và khuyếch trương sản phẩm ở trong nước và nước ngoài. Khả năng tiêu thụ chậm sẽ hạn chế việc kích thích nâng cao hiệu quả sản xuất và cải cách cơ cấu mặt hàng. Khi hội nhập AFTA đây sẽ là một yếu điểm vô cùng nguy hiểm, bởi khi đó hàng hoá nước ngoài sẽ tràn vào thị trường Việt Nam với chủng loại phong phú, chất lượng cao mẫu mã đẹp thì các sản phẩm của Việt Nam sẽ bị bỏ qua, các doanh nghiệp Việt Nam già nua và chậm chạp với những biến động của thị trường sẽ nhanh chóng thất bại.
Tất cả các thách thức đó đặt ra cho chúng ta một yêu cầu phải xây dựng một chiến lược tổng thể đúng đắn cho tiến trình hội nhập. Bên cạnh những chính sách tổng quất của nhà nước, mỗi doanh nghiệp cũng cần phải nỗ lực đề ra những chiến lược cho riêng mình để không bị động khi bước vào tiến trình hội nhập.
II. Những yếu tố cần quan tâm trên lộ trình hội nhập AFTA.
Để khắc phục những yếu điểm và hoá giải các nguy cơ của quá trình hội nhập chúng ta cần quan tâm đến rất nhiều các yếu tố khác nhau để phát huy thế mạnh, hạn chế khuyết điểm nhằm tăng cường khả năng và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam .
Trước hết cần đề cập đến vấn đề đổi mới thiết bị công nghệ. Việc đổi mới phải gắn liền với yêu cầu của ngành hàng, tốc độ phát triển của công nghệ trong ngành cũng như điều kiện và khả năng của doanh nghiệp. Hơn nữa, cần phải đổi mới theo một trình tự sao cho hợp lý, đảm bảo đúng lúc, đúng chỗ và đúng thiết bị. Trong lĩnh vực cải tiến công nghệ đòi hỏi phải có những chuyên gia để xây dựng những đề án khả thi và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Trình tự đổi mới thiết bị công nghệ:
- Phân tích môi trường kinh doanh và môi trường công nghệ: Trong thời đại ngày nay khoa học công nghệ phát triển rất nhanh chóng, nếu ta không nắm bắt kịp thời sẽ tụt hậu hơn so với các đối thủ cạnh tranh, làm mất ý nghĩa của việc đổi mới công nghệ.
- Đánh giá lại công nghệ hiện tại: Bước này nhằm xem xét công nghệ hiện tại đang sử dụng là lỗi thời, lạc hậu hay còn mới, còn phù hợp để ra quyết định có đổi mới hay không tránh lãng phí.
- Lập dự án chuyển đổi công nghệ: Trong dự án phải nêu đủ về nguyên nhân dự án, tính khả thi, chi phí để doanh nghiệp chuẩn bị về tài lực, vật lực nhằm thực hiện dự án kịp thời, hợp lý.
- Thẩm định dự án: Bước này cần tham khảo ý kiến của các chuyên gia để chắc chắn rằng thiết bị và công nghệ mới naỳ hoàn thiện, hiện đại, hợp với trình độ phát triển của doanh nghiệp .
- Sử dụng công nghệ có hiệu quả : Đây là khâu then chốt cuối cùng, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lực lượng lao động giỏi tay nghề, đã được đào tạo, tập huấn về sử dụng công nghệ, thiết bị mới để nó được vận hành liên tục, đúng công suất và có hiệu quả.
Ngày nay nhân tố con người là trung tâm của sự phát triển. Coi trọng người lao động, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện cũng là một trong những mục tiêu của phát triển bền vững. Do đó doanh nghiệp cần đổi mới công tác quản lý nguồn nhân lực, có chính sách thu hút nguồn nhân lực đồng thời hoàn thiện cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, đơn giản và có hiệu quả.
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá hiện nay chúng ta không thể “bế quan toả cảng”, mà phải luôn quan tâm đến việc mở rộng thị trường. Để khai thác tốt các thị trường sẵn có và tìm kiếm các thị trường tiềm năng thì công tác nghiên cứu, lựa chọn, phát triển và khai thác thị trường là một đòi hỏi cấp thiết. Một thị trường cần được phân tích đầy đủ trên nhiều mặt như thói quen tiêu dùng, nhu cầu, khả năng thanh toán của người tiêu dùng, tôn giáo, dân tộc, hàng hoá thay thế…Từ đó đề ra một chiến lược cụ thể, có hiệu quả cho mỗi thị trường, mỗi mặt hàng. Trên mỗi thị trường cần phải xây dựng một mạng lưới tiêu thụ phù hợp với thói quen mua hàng của người tiêu dùng ở đó, đồng thời tăng tiếp xúc của doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp với người tiêu dùng.
Nền kinh tế mở hướng vào nền kinh tế thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế. Đây là một khó khăn cỏ bản của Việt Nam khi tham gia hội nhập vì người lao động Việt Nam chưa quen với việc bị giám sát, kiểm tra tỉ mỉ trong quá trình làm việc nên việc triển khai các hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ ở Việt Nam còn chậm. Hiện tại trên cả nước chỉ có hơn 300 doanh nghiệp có chứng nhận ISO về hệ thống quản lý chất lượng .
Quản lý tài chính là điều lớn nhất chúng ta cần học tập các nước khác để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, chống thất thoát, tham ô, tham nhũng _ một trong những tệ nạn xã hội nghiêm trọng. Quản lý tài chính tốt vô cùng quan trọng, nó thúc đẩy phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh an toàn, tạo niềm tin cho nhiều nhà đầu tư và thu hút cả nguồn vốn dư thừa trong dân .
Bên cạnh đó chúng ta cũng cần đẩy nhanh tiến trình cải cách hành chính , đơn giản hoá các thủ tục tạo điều kiện để các doanh nghiệp, các nhà đầu tư có thể nhanh chóng nắm bắt những cơ hội kinh doanh.
Phần III đánh giá và đề xuất
1. Điểm mạnh - Điểm yếu của Công ty bánh kẹo Hải Châu
1.1. Điểm mạnh
Công ty bánh kẹo Hải Châu là một doanh nghiệp nhà nước đã có trên 35 năm hình thành và phát triển. Sản phẩm của Công ty được người tiêu dùng biết đến như là những sản phẩm luôn có chất lượng hàng đầu như tiêu chí sản xuất của Công ty “ Hải Châu chỉ có chất lượng vàng”. Danh tiếng và uy tín của Công ty đã và đang được khẳng định qua 15 huy chương vàng cho các sản phẩm của Công ty ở các kỳ hội chợ và danh hiệu do người tiêu dùng bình chọn “Hàng Việt Nam chất lượng cao”. Điều đó chứng tỏ các sản phẩm của Công ty không chỉ được cả giới chuyên môn và người tiêu dùng đánh giá cao. Trong những năm gần đây Công ty đã cạnh tranh và cạnh tranh thành công với nhiều đối thủ trên thị trường nhờ luôn đổi mới, đa dạng hoá sản phẩm, cải tiến công nghệ sản xuất, qui cách đóng gói… Đó sẽ là những bài học kinh nghiệm cho Công ty khi bước vào cạnh tranh trong một môi trường có nhiều biến động hơn. Sau nhiều năm sản xuất kinh doanh có uy tín Công ty đã thiết lập được một hệ thống phân phối rộng khắp trong cả nước. Mối quan hệ giữa Công ty với các đại lý dựa trên nền tảng chia sẻ tình cảm, thuận mua vừa bán, vừa có tình vừa có lý cùng với những chính sách mềm dẻo cho thấy sự quam tâm thực sự của Công ty tới lợi ích của các nhà phân phối nên được họ rất ủng hộ.
Một điểm nữa là trong nhiều năm qua Công ty luôn quan tâm đến việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên. Ngoài việc yêu cầu phải tốt nghiệp PTTH đối với mọi công nhân ký hợp đồng với nhà máy, kể cả hợp đồng ngắn hạn, Công ty còn thường xuyên tổ chức tập huấn cho công nhân để đảm bảo an toàn vệ sinh lao động. Bên cạnh đó Công ty luôn chú ý nâng cao dời sống cho cán bộ công nhân viên nên họ rất gắn bó với Công ty, có nhiều gia đình cả cha mẹ và con cái đều làm việc cho Công ty. Điều này đã giúp cho Công ty vượt qua nhiều thời điểm khó khăn suốt trong quá trình hình thành và phát triển.
Là một doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả nên Công ty đã tạo được mối quan hệ tốt với nhiều ngân hàng, ngoài nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp hàng năm, các ngân hàng thương mại cũng sẵn sàng cho Công ty vay vốn để tổ chức sản xuất kinh doanh. Đây cũng là một lợi thế khi các doanh nghiệp luôn ở trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh.
Sau nhiều năm chú trọng tới đổi mới thiết bị công nghệ sản xuất, cho đến nay Công ty đã có những dây chuyền sản xuất hiện đại nhất trong nước được nhập từ các nước công nghiệp phát triển ở Châu Âu như Đức, Hà Lan, Bỉ…Với công nghệ sản xuất hiện đại này Công ty luôn cho ra những sản phẩm có chất lượng hàng đầu trong làng bánh kẹo Việt Nam .
1.2. Điểm yếu
Trước hết về cơ chế hành chính, Công ty bánh kẹo Hải châu nằm trong Tổng Công ty Mía đường I – Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, hoạt động của Công ty có quan hệ không nhiều tới các thành viên khác trong Tổng Công ty nhưng mỗi quyết định của Công ty đưa ra đều phải thông qua Tổng Công ty nên mất đi tính kịp thời, bỏ lỡ mất thời cơ kinh doanh. Cơ cấu tổ chức trong Công ty chưa thật hợp lý, phòng Kế hoạch-Vật tư phụ trách quá nhiều mảng công việc nên chưa có tính chuyên môn cao .
Cũng như tình trạng chung ở nhiều doanh nghiệp Việt Nam khác nguồn vốn kinh doanh của Công ty nhỏ, luôn thiếu vốn. Trong khi các Công ty nước ngoài luôn hơn chúng ta về điểm này, khi tham gia vào thị trường khu vực đây sẽ là điểm yếu quyết định. Họ sẵn sàng bỏ hàng trăm triệu để làm thị trường chấp nhận lỗ vốn trước mắt để thu lợi về sau, điều mà các doanh nghiệp Việt Nam không thể làm được. Bài học góp vốn liên doanh với Công ty nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam và ngay ở Công ty bánh kẹo Hải Châu cho thấy qui mô vốn kinh doanh cũng phải không ngừng được tăng cường để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong khi hội nhập kinh tế khu vực.
Công ty đã lập dự án triển khai hệ thống chất lượng ISO 9001/2000 nhưng tiến độ thực hiện rất chậm. Nguyên nhân chính là do chưa ý thức được rõ ràng về sự cần thiết phải áp dụng hệ thống này khi hội nhập, hơn nữa đội ngũ cán bộ cũ không quen với việc bị kiểm tra, giám sát thường xuyên. Đây cũng là tình trạng chung tại các doanh nghiệp Việt Nam .
Hoạt động Marketing ở Công ty còn ít và kém hiệu quả hơn so với nhiều đối thủ cạnh tranh trong ngành. Tư duy marketing chưa thật sự đi sâu vào các hoạt động kinh doanh của Công ty,áp dụng các chính sách Marketing còn ít. Hơn nữa ,theo luật thương mại Việt Nam thì chi phí dành cho bán hàng của các doanh nghiệp Việt Nam nhỏ hơn gấp nhiều lần so với các Công ty nước ngoài nên các hoạt động marketing chỉ tạo được một số hiệu quả nhất định. Từ đó Công ty chưa thấy được vai trò của hoạt động này nên chưa có những điều tra đầy đủ và khoa học để đưa ra những chiến lược cụ thể, dài hạn và tổ chức thực hiện.
Hoạt động xúc tiến thương mại ở thị trường nước ngoài của Công ty gần đây mới được triển khai nên chưa có nhiều kinh nghiệm và thành tựu. Việc tìm hiểu các thi trường khu vực để sớm nắm bắt cơ hội sẽ quyết định thành công bước đầu khi tham gia thị trường khu vực.
Nói tóm lại Công ty chưa có một cái nhìn toàn diện cho vấn đề hội nhập thị trường khu vực trong thời gian tới. Để có thể tiếp tục phát triển và làm ăn có lãi Công ty còn phải chuẩn bị nhiều việc, hoàn thiện nhiều khâu của quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
2. Một số đề suất với Công ty.
2.1. Tăng cường nghiên cứu Marketing .
Ngày nay, trong một môi trường cạnh tranh gay gắt, để tồn tại và phát triển thì trước khi tạo ra một sản phẩm mới hay thâm nhập vào một môi trường kinh doanh mới, người sản xuất phải nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường để xác định xem :
- Thực tế thị trường có tồn tại nhu cầu về sản phẩm đó hay không?
- Quy mô của khu vực thị trường mới này ?
Luôn luôn nghiên cứu, đánh giá thị trường là điều cốt lõi vì không có thị trường nào là tĩnh cả. Sự hiểu biết thị trường sâu sắc sẽ tạo điều kiện cho các nhà sản xuất phản ứng với những biến động của thị trường một cách nhanh nhạy, đồng thời nhận biết được cơ hội xuất hiện trên thị trường. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, bao gồm cả đối thủ cạnh tranh, Công ty có thể nhận thấy cơ hội nào là phù hợp với Công ty để tiến hành khai thác cơ hội đó. Nghiên cứu thị trường là một điều kiện tiên quyết đối với mọi Công ty muốn khai thác có hiệu quả cơ hội hấp dẫn xuất hiện trên thị trường. Hiện nay không còn bó hẹp ở thị trường trong nước mà Công ty còn phải vươn ra các thị trường khu vực và thế giới. Việc tìm kiếm các thông tin cụ thể về thị trường và doanh nghiệp nước ngoài có thể thực hiện thông qua các tham tán thương mại của Việt Nam ở nước ngoài để đảm bảo thông tin chính xác và cập nhật.
Để thực hiện thành công mục tiêu đó, Công ty cần quan tâm hơn nữa đến công tác nghiên cứu thị trường. Hiện tại, công tác nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại do phòng kế hoạch vật tư đảm nhận. Phòng KHVT đã thực hiện nhiều chức năng khác nhau lập kế hoạch sản xuất, tiêu thụ, tiếp thị, đảm bảo vật tư cho sản xuất... nên hiệu quả nghiên cứu thị trường không cao, thông tin thu thập được chưa có độ chính xác cao. Công ty nên thành lập phòng Marketing sẽ tạo thuận lợi cho công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch tiêu thụ trong những năm sau. Phòng này có nhiệm vụ thu thập, xử lý thông tin có liên quan đến hoạt động tiêu thụ, dự báo nhu cầu và xu hướng tiêu dùng trên thị trường. Trên cơ sở các thông tin thu thập được, ban lãnh đạo Công ty đưa ra được các quyết định đúng phù hợp với điều kiện thực tế.
Ngoài ra, Công ty cũng cần có sự đầu tư thích đáng cho bộ phận nghiên cứu thị trường với đầy đủ trang thiết bị cần thiết để công việc được tiến hành nhanh và có hiệu quả cao.
Công ty nên tham gia các hoạt động để khuyếch trương uy tín của Công ty như tài trợ cho một số hoạt động thể thao, văn hoá, tổ chức các cuộc giao lưu ca nhạc giữa các chi đoàn của Công ty và của địa phương, cấp học bổng cho các học sinh, sinh viên nghèo học giỏi... Tham gia hoạt động này giúp Công ty tạo được hình ảnh và uy tín tốt cho Công ty.
2.2. Cải tiến, hoàn thiện và đa dạng hoá sản phẩm.
Sản phẩm là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển hay không là tuỳ thuộc vào sức sống của sản phẩm. Sản phẩm chỉ có thể tiêu thụ được khi nó đáp ứng đợc nhu cầu của thị trường, lôi cuốn được sự tò mò của khách hàng, từ đó thúc đẩy họ đi đến quyết định mua và tiêu dùng sản phẩm. Vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng, cải tiến tính năng của sản phẩm, chế tạo sản phẩm mới là vấn đề cực kỳ quan trọng.
Chủng loại sản phẩm của Công ty hiện tại là khá phong phú, với cách bao gói rất hiện đại, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Tuy nhiên bao gói chưa có nét đặc sắc riêng để người tiêu dùng nhận ra sản phẩm của Công ty, vừa tránh nhầm lẫn khi mua hàng vừa giúp họ dễ dàng phân biệt được với hàng giả, đảm bảo uy tín của Công ty.
Về sản phẩm bánh cần có các khuôn đa dạng hơn, tạo hình đẹp hơn để bắt mắt người tiêu dùng. Về sản phẩm kẹo thì viên kẹo, nhất là kẹo mềm phải có hình dạng đều và gọn hơn.
Điều mấu chốt trong cạnh tranh hiện nay là chất lượng sản phẩm. Khi trình độ dân trí cao, người tiêu dùng sẽ đặt vấn đề chất lượng sản phẩm lên hàng đầu chứ không phải là hình thức. Để nâng cao chất lượng của sản phẩm, Công ty cần quan tâm đến tất cả các khâu của quá trình sản xuất bắt đầu từ khâu thiết kế sản phẩm, cung ứng nguyên vật liệu, tổ chức sản xuất, kiểm tra chất lượng … Bên cạnh chất lượng sản phẩm thì giá cả cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định tiêu dùng. Tạo cho sản phẩm một mức giá cạnh tranh là cần thiết trong tiến trình hội nhập. Công ty cũng cần giảm các chi phí trung gian phát sinh trong quá trình sản xuất để tiết kiệm và tăng lợi nhuận. Để thực hiện tất cả các mục tiêu đó thì quá trình sản xuất phải được kiểm tra, kiểm soát liên tục bằng một hệ thống kiểm tra chất lượng đồng bộ. Do đó việc đẩy nhanh quá trình thực hiện ISO 9001/2000 là đòi hỏi bức thiết.
2.3. Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm.
Công ty bánh kẹo Hải Châu hoạt động trong ngành thực phẩm chế biến cho nên vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cần được đặc biệt quan tâm. Nhất là khi tham gia AFTA với mức giảm thuế xuống còn từ 0-5% thì các nước sẽ đưa yêu cầu này ra như một rào cản kỹ thuật phi thuế quan để ngăn cản hàng của các nước khác tràn vào thị trường. Ta cần có những chuẩn bị trước để đáp ứng những đòi hỏi đó ngay từ đầu tránh bị bỡ ngỡ hay thiệt hại khi tham gia thị trường khu vực.
Vì đây là ngành thực phẩm chế biến nên yêu cầu vệ sinh rất nghiêm ngặt, an toàn thực phẩm được đánh giá trên 4 khía cạnh:
+ Các chỉ tiêu về chất lượng dinh dưỡng: các chỉ tiêu này có sự khác nhau giữa các nước nhập khẩu và ở ngay cả từng người tiêu dùng. Tuy nhiên ta cần nghiên cứu để tìm ra một hàm lượng hợp lý hoặc đưa ra nhiều sản phẩm có hàm lượng dinh dưỡng khác nhau phục vụ cho các đối tượng khác nhau.
+ An toàn vi sinh vật chủ yếu được đánh giá trong quá trình lên men tinh bột. Yêu cầu này phụ thuộc vào trình độ công nghệ của nước nhập khẩu, nhưng cũng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm nên rất đáng được quan tâm.
+ An toàn bao gói và ghi nhãn là yêu cầu tiên quyết ở các nước phát triển có trình độ dân trí cao. Ngày nay nhiều quốc gia còn đòi hỏi sản phẩm phải được đóng gói bằng vật liệu có thể tự tiêu huỷ. Công ty cần thiết kế một mẫu bao bì đáp ứng được những yêu cầu đóng gói và ghi nhãn phổ biến trên thế giới hiện nay, đồng thời tiếp tục cộng tác với Công ty bao bì để tìm ra những vật liệu mới thích hợp hơn, hay có giá thành rẻ hơn nhưng vẫn đáp ứng được các yêu cầu vệ sinh an toàn.( vì hiện nay tỉ lệ chi phí cho bao bì trong giá thành sản phẩm của Công ty khá cao từ 30 đến 40%)
+ Điều kiện sản xuất của công nhân phải vệ sinh, an toàn từ máy móc đến con người, điều này vừa đảm bảo chất lượng vừa tăng hiệu quả sản xuất của Công ty .
Vấn đề này thực sự là một thách thức cho những doanh nghiệp Việt Nam vốn chỉ quen với lối sản xuất thủ công nhỏ lẻ, chúng ta cần thay đổi tư duy kịp thời để tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá của Việt Nam .
2.4 Một số ý kiến khác.
Thực tế cho thấy, Công ty bánh kẹo Hải Châu với năng lực sản xuất bị hạn chế do trình độ trang thiết bị máy móc đã không thể đáp ứng được nhu cầu thị trường. Chẳng hạn, sản phẩm bột canh Iốt khi mới tung ra thị trường nhu cầu rất lớn nhưng lúc đó năng lực sản xuất của Công ty bị hạn chế nên một phần lớn thị trường đã bị các Công ty khác nhảy vào chiếm lĩnh. Hay sản phẩm bánh kem xốp của Công ty tiêu thụ rất nhanh nhưng vì sản xuất không kịp nên các Công ty khác, đặc biệt là Công ty Hải Hà đã chiếm lĩnh một phần lớn thị trường tại Hà Nội. Như vậy, Công ty Hải Châu cần nghiên cứu để có thể phát huy tối đa công suất của các dây chuyền đảm bảo sản xuất đáp ứng đủ nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó có thể mở rộng sản xuất trên những phần đất thuộc Công ty nay vẫn còn bỏ trống (như khu đất thuộc phân xưởng mỳ ăn liền trước đây).
Trong những năm tới, xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam thực hiện cam kết AFTA và tiến tới gia nhập WTO. Tất cả những điều đó dẫn đến hàng hoá của Việt Nam sẽ phải chịu cạnh tranh với hàng hoá của các nước khác, đặc biệt là hàng hoá của các thành viên ASEAN. Công ty bánh kẹo Hải Châu được coi là doanh nghiệp loại 1 trong ngành sản xuất bánh kẹo nên không thể tránh khỏi sự cạnh tranh đó. Công ty có thể thực hiện các biện pháp như liên kết, sát nhập với các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo khác để phát huy tối đa khả năng của Công ty đồng thời khai thác được ưu thế của doanh nghiệp liên kết. Công ty có thể phát triển thị trường tiêu thụ tại các tỉnh miền Nam bằng cách liên doanh với cơ sở sản xuất bánh kẹo khu vực này và nhờ vào uy tín của Công ty đã có để khai thác thị trường đó. Các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo trong nước có thể liên kết với nhau để cùng nhau phát triển, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đối phó với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Để làm những điều đó Công ty phải có nguồn vốn kinh doanh lớn hơn, Công ty nên tìm hiểu các hình thức thuê mua tài chính hiện đang phát triển tại Việt Nam để mở rộng nguồn vốn kinh doanh.
Kết luận
Trong vài năm gần đây, Công ty bánh kẹo Hải Châu có những bước phát triển vượt bậc cả về chiều rộng và chiều sâu. Trên thị trường, sản phẩm của Công ty ngày càng đa dạng và được người tiêu dùng tín nhiệm. Trong Công ty, đời sống của cán bộ công nhân viên không ngừng được cải thiện. Có được những thành tựu đó là do sự nỗ lực của tập thể người lao động của Công ty và ban lãnh đạo đã có những quyết sách đúng đắn, kịp thời. Tuy nhiên Công ty vẫn chưa thoát khỏi yếu điểm chung của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia hội nhập vào thị trường khu vực và quốc tế là chưa đủ nội lực. Trong thời gian trước mắt Công ty sẽ còn nhiều vấn đề phải giải quyết để tham gia thành công tiến trình thực hiện cam kết AFTA.
Trong thời gian một tháng thực tập tại Công ty Bánh kẹo Hải Châu từ ngày 19/8/2002 đến ngày 19/9/2002, em đã được quý Công ty tạo điều kiện thuận lợi để tìm hiểu các tài liệu và thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhờ có sự quan tâm chỉ bảo của các cô, các chú, các anh, các chị là cán bộ công nhân viên của Công ty nên em đã tiếp thu được nhiều kinh nghiệm thực tế quý báu. Về phía nhà trường em cũng nhận được sự giúp đỡ và hướng dẫn cụ thể của thầy giáo phụ trách, thầy Phan Đăng Tuất. Kết thúc khoá thực tập này, kết hợp những kiến thức đã học với thực tế thực tập tại Công ty em viết báo cáo này để trình bày những suy nghĩ của em. Trong báo cáo có gì thiếu sót xin quý Công ty và thầy giáo chỉ bảo thêm cho em.
Em xin chân thành cảm ơn quý Công ty đã tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt kỳ thực tập giữa khoá. Em cũng xin cảm ơn thầy giáo phụ trách đã giúp đỡ em hoàn thành bản báo cáo này.
Sinh viên : …………………………
Mục lục
Lời nói đầu 1
Phần I: Tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh của
Công ty bánh kẹo Hải Châu
2
I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
2
1.Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty
2
1.1.Giai đoạn 1 (1965-1975)
2
1.2. Giai đoạn 2 (1975-1986)
3
1.3.Giai đoạn 3 (1986 đến nay)
3
2. Nguồn nhân lực
5
3.Đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của Công ty Hải Châu.
6
3.1. Cơ cấu tổ chức.
6
3.2.Quy trình sản xuất tổng quát một số sản phẩm chính
9
II. Hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty bánh kẹo Hải Châu.
10
1. Tình hình tiêu thụ sản phẩm chính của Công ty .
10
2. Kết quả sản xuất kinh doanh ở Công ty những năm gần đây
12
3. Các chính sách-chiến lược kinh doanh của Công ty Hải Châu
14
3.1. Chiến lược sản phẩm – mặt hàng kinh doanh.
14
3.2. Chính sách phối phân
15
3.2.1. Hệ thống kênh phân phối.
15
3.2.2. Chính sách xây dựng mối quan hệ với khách hàng
18
3.3.Chính sách xúc tiến
20
4.Kế hoạch phát triển hoạt động kinh doanh của
21
Phần II : Công ty Bánh kẹo Hải Châu với lộ trình thực hiện AFTA
23
I.Cơ hội, thách thức cho các doanh nghiệp khi thực hiện AFTA
24
1. Những cơ hội trong quá trình hội nhập.
27
2. Thách thức đối với các doanh nghiệp
27
II. Những yếu tố cần quan tâm trên lộ trình hội nhập AFTA.
29
III. Thực tế tại Công ty bánh kẹo Hải Châu.
32
1. Điểm mạnh - Điểm yếu của Công ty bánh kẹo Hải Châu
32
1.1. Điểm mạnh
32
1.2. Điểm yếu
33
2. Một số đề suất với Công ty.
34
2.1. Tăng cường nghiên cứu Marketing .
34
2.2. Cải tiến, hoàn thiện và đa dạng hoá sản phẩm.
35
2.3. Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm.
36
2.4 Một số ý kiến khác.
37
Kết luận:
40
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33644.doc