Chuyên đề Công ty cổ phần hoá và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay
Công ty cổ phần ra đời đã đánh dấu một bước tiến bộ đáng kể về hình thức tổ chức kinh doanh, sự phát triển kinh tế và trình độ quản lý của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Ngày nay ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, mặc dù hình thức tổ chức kinh tế hết sức quan trọng nhất vẫn là công ty cổ phần. Được áp dụng phổ biến và rộng rãi trên toàn thế giới, Công ty cổ phần vẫn chứng tỏ là mặt phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh để khai thác và sử dụng đồng vốn đạt hiệu quả cao nhất. Nước ta đang trong qúa trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường có phương thức quản lý theo công ty cổ phần chắc chắn sẽ nâng cao hiệu quả kinh tế về mọi mặt mà nền kinh tế quốc dân.
11 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Công ty cổ phần hoá và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I
Lời nói đầu
Công ty cổ phần và vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước không còn là những hiện tượng kinh tế xã hội là đối với nền kinh tế thế giới. Công ty cổ phần đã xuất hiện từ thế kỷ XVII và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ diễn ra cách mạng công nghiệp. Đến đầu thế kỷ XX, công ty cổ phần đã trở thành hình thức tổ chức kinh doanh phổ biến ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển.
Đại hội đảng lần thứ VI (12/1986) chính thức đánh dấu sự đổi mới của nền kinh tế Việt Nam. Quá trình chuyển đổi kinh tế thị trường không chỉ làm thay đổi một cách sâu sắc nền kinh tế nước ta về cơ cấu kinh tế, cơ chế vận hành, quan hệ sở hữu mà còn xuất hiện những tổ chức kinh tế mới trong đó có công ty cổ phần.
ở nước ta, luật Công ty đã được quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 21/12/1990. Tuy nhiên đối với chúng ta đây vẫn còn là một vấn đề rất mới mẻ. Vì vậy, việc đưa ra và bàn bạc vấn đề “Công ty cổ phần hoá và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay” là xuất phát từ sự cấp thiết và tính thời sự của nó.
Trong phạm vi bài viết này, do sự hiểu biết còn hạn chế, em chỉ xin đề cập đến một số vấn đề cơ bản sau đây.
Sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần hoá
Sự cần thiết cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
Quan điểm và giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp ở Việt Nam
Phần II
Sự ra đời và phát triển của công ty
cổ phần hoá
Công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là một thách thức lớn đối với Việt Nam đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21. Đảng và Nhà nước ta đã nỗ lực, hi vọng có thể thành lập thị trường chứng khoán vào đầu thiên niên kỷ tới mà trước hết công việc có tầm chiến lược quan trọng là cổ phần các doanh nghiệp Nhà nước, những Công ty cổ phần chính là những tế bào của cơ chế thị trường chứng khoán, nó là một hình thức tổ chức doanh nghiệp kinh doanh do nhiều người góp vốn nhưng đóng góp với hình thức cổ phần thông qua việc phát hành cổ phiếu.
Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ thứ 16 ở các nước phát triển đến nay đã có lịch sử phát triển hàng máy trăm năm. Công ty cổ phần là sự hình thành một kiểu doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất kỳ lực lượng nào mà là một quá trình phát triển kinh tế khách quan, do những nguyên nhân sau.
- Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường tích luỹ và tập chung tư bản ngày càng cao để mở rộng quy mô sản xuất và hiện đại hoá các trang thiết bị tạo điều kiện nâng cao năng xuất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Song đây là một biện pháp hết sức khó khăn và hơn nữa việc tích tụ vốn phải mất một thời gian rất dài mới có thể thực hiện được. Một lối thoát có hiệu quả là các nhà tư bản vừa và nhỏ phải liên minh với nhau để thành một tư bản lớn để đủ sức cạnh tranh và giành ưu thế với các nhà tư bản khác. Đó chính là nguyên nhân hàng đầu thúc đẩy công ty cổ phần hoá ra đời.
Sự ra đời của nền đại công nghiệp cơ khí tiến bộ kỹ thuật tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển. Công ty cổ phần ra đời từ thế kỷ 16 nhưng phải đến tận thế kỷ 19 mới phát triển rộng rãi và trở thành phổ biến trong các nước tư bản. Công ty cổ phần hình thành và phát triển mạnh mẽ, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và yêu cầu khắc nghiệt của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Sự phát triển rộng rãi của chế độ tín dụng tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển không thể nào thực hiện được nếu không có thị trường tiền tệ phát triển không có những doanh nghiệp và dân cư có nhu cầu cần sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường.
Thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của các công ty cổ phần trên thế giới đều chứng tỏ việc phát hành cổ phần chỉ được thông qua các ngân hàng, đôi khi còn do bản thân Ngân hàng tiến hành. Hầu hết các Công ty cổ phần đều nẩy sinh từ sự giúp đỡ của Ngân hàng. Như vậy về lịch sử cũng như về lô gic tín dụng là một cơ sở trực tiếp, là động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển.
Tuy vậy công ty cổ phần không thống nhất với hình thức tín dụng. Khi mà cổ phần người mua hàng không phải là người cho vay của Công ty cổ phần, mà làm chủ chung của Công ty đó. Như trên thực tế việc bỏ vốn tìm ra mua cổ phần chẳng qua là việc chuyển hoá vốn đó thành vốn sinh lợi .
Đứng về mặt kinh tế thuần tuý không thể coi người chủ cổ phần với người chủ cho vay là một. Người chủ cho vay đòi hỏi phải có cho vay.Trái lại sự xuất hiện của công ty cổ phần là thủ tiêu người cho vay và thay vào đó là người quản lý, người giám đốc làm thuê, lợi tức của vốn cho vay cũng phải là lợi nhuận của doanh nghiệp với tư cách là thu nhập do quyền sở hưũ mang lại. Lợi tức cổ phần mà người chủ cổ phiếu nhận được có nghĩa là toàn bộ lợi nhuận chuyển hoá thành.
Như vậy Công ty cổ phần hoá là một loại hình doanh nghiệp mới, một loại hình trên cơ sở tín dụng. Trong lịch sử Công ty cổ phần là một kiểu tổ chức doanh nghiệp có nhiều ưu thế vì thế các Nhà nước tư bản độc quyền đã coi trọng loại hình này, nhiều Nhà nước tư bản độc quyền đã sử dụng các tổ chức tài chính đa dạng để tạo khả năng huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phiếu traí phiếu. Đồng thời sử dụng quyền lực trong việc tạo ra môi trường kinh tế, yếu tố tâm lý cũng như cơ sơ pháp luật thuận lợi thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá tạo điều kiện ra đời các công ty cổ phần.Với động tác này các công ty cổ phần đã phát triển mạnh và thịnh hành trong gia đoạnh tư bản chủ nghĩa ta bản độc quyền nhà nước có nền kinh tế phát triển. Ví dụ ở Mỹ vào năm 1939 số lượng các Công ty cổ phần chiếm 51,7% tổng số các tổ chức kinh doanh công nghiệp và 92,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp.
Công ty cổ phần là qúa trình phát triển kinh tế khách quan đòi hỏi của sự hình thành và phát triênr của nền kinh tế thị trường, nó là kết quả tất yếu của quá trình tập trung tư bản, nó là kết quả tất yếu của quá trình tập trung tư bản, nó diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền kinh tế đại công nghiệp và sự tự do cạnh tranh dưới chủ nghĩa tư bản.
Phần II
sự cần thiết cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước ở việt nam
Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
Công ty cổ phần là hình thức kinh tế mới xuất hiện, khi nước ta chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần sự hình thành công ty cổ phần ở nước ta là một thực tế khách quan, một xu hướng tất yếu không thể đảo ngược.
Các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 ở Miền Nam. Do hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau và được xây dựng trên nhiều quan điểm nên các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam có nhiều đặc trưng khác biệt so với nhiều nước trên thế giới.
Quy mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé, cơ cấu phân tán. Năm 1992 cả nước có trên 2/3 tổng số doanh nghiệp Nhà nước có số lượng lao động dưới 100 người số lượng lao động trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng số lao động xã hội khoảng 5-6%.
Trình độ kỹ thuật lạc hậu, phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước được sử dụng khá lâu, có trình độ kỹ thuật công nghệ thấp kém so với các nước từ 3 đến 4 thế hệ.
Việc phân bố còn bất hợp lý về ngành, vùng. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước không còn được bao cấp mọi mặt như trước nữa, đã thế lại bị các thành phần kinh tế khác cạnh tranh quyết liệt, nên nhiều doanh nghiệp không thể trụ nổi buộc phải phá sản, giải thể. Đặc biệt trong trong những năm gần đây chúng ta đã tiến hành cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Do đó mặc dù số lượng doanh nghiệp đã giảm từ 12.084 tính đến ngày 1/4/1994 xuống còn 6.264 doanh nghiệp Nhà nước các doanh nghiệp còn lại, tổng sản phẩm giá trị tuyệt đối của kinh tế Nhà nước, cũng như tỷ trọng tổng sản phẩm quốc dân (GDP) không những không giảm mà còn tăng lên đáng kể.
Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế nước ta trong những năm qua đã tăng nhanh, đặc biệt các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ yếu trong nhiều ngành kinh tế nhất là những ngành quan trọng đòi hỏi đầu tư lớn, kỹ thuật cao và các ngành sản xuất cung ứng các hàng hoá và các dịch vụ công cộng. Đồng thời doanh nghiệp Nhà nước vẫn là thành phần kinh tế đóng góp chính cho ngân sách Nhà nước. Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước của ta hình thành từ thời quản lý tập trung quan liêu bao cấp, khi chuyển sang cơ chế mới lại thiếu kiểm soát chặt chẽ việc thành lập nên phát triển tràn lan. Một bộ phận quan trọng doanh nghiệp Nhà nước không đủ điều kiện tối thiểu để hoạt động, thiếu vốn tối thiểu, trang thiết bị quá đơn sơ, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng. Mặt khác trong điều kiện kinh tế tư nhân còn quá non yếu về mọi mặt chỉ mới hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ, tiều thủ công nghiệp và nông nghiệp nên doanh nghiệp Nhà nước chưa thể tập trung toàn lực cho yêu cầu phát triển ở những ngành lĩnh vực then chốt.
Những đặc điểm trên luôn chi phối phương hướng, bước đi, và biện pháp trong quá trình đổi mới ở nước ta. Sau 10 năm đổi mới, các doanh nghiệp Nhà nước đã và đang chuyển biến khá căn bản, đã sắp xếp lại một bước khá quan trọng, giảm được gần một nửa số doanh nghiệp chủ yếu và doanh nghiệp địa phương nhỏ bé, hoạt động không hiệu quả. Số lớn các doanh nghiệp còn lại được tổ chức và phát huy quyền tự chủ trong kinh doanh làm ăn năng động và hiệu quả. Nhưng nhìn chung các doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn rất nhiều khó khăn, hướng kinh doanh còn thấp, nhiều doanh nghiệp làm ăn còn bị thua lỗ. Sự đóng góp cho ngân sách Nhà nước còn chưa tương xứng với phần đầu tư của Nhà nước cho nó. Tình trạng thất thoát về vốn còn sẩy ra một cách nghiêm trọng việc quản lý về tài chính đối với các doanh nghiệp còn lỏng lẻo, làm Nhà nước mất đi vai trò là người chủ thực sự. Dẫn đến việc chênh lệch trong thu nhập ngày càng tăng.
Các doanh nghiệp Nhà nước ta đã và đang đóng vai trò to lớn gần như tuyệt đối trong nền kinh tế quốc dân nhưng lại hoạt động kém hiệu quả và phát sinh tiêu cực. Quá trình chuyển đất sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước là tất yếu phải đổi mới căn bản doanh nghiệp Nhà nước. Đây là mâu thuẫn lớn, song bắt buộc phải đổi mới, phải có giải pháp và bước đi phù hợp với trình độ thực tế.
Về vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ta được đặt ra từ những năm 1992, nhưng cho đến nay tốc độ cổ phần hoá diễn ra vẫn còn rất chậm có nhiều nguyên nhân phát sinh trong quá trình cổ phần hoá chậm. Từ chủ trương chính sách quan điểm cho đến những vấn đề thực tiễn triển khai ở các doanh nghiệp. Chúng ta khẳng định rằng: việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị kinh doanh hiệu quả hơn phù hợp với quá trình đổi mới. Thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước cải cách thủ tục hành chính.
Hiện nay với gấn 6000 doanh nghiệp Nhà nước nắm giữa 88% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, nhưng hiệu quả kinh doanh quá thấp, chỉ có khoảng 50% doanh nghiệp có lãi, trong đó thực sự làm ăn có lãi và lâu dài chiếm khoảng 30% thực tế doanh nghiệp Nhà nước nộp ngân sách chiếm 80 –85% tổng số thu, nhưng nếu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu thì doanh nghiệp Nhà nước chỉ đóng trên 30% ngân sách Nhà nước.
Đặc biệt nếu tính chi phí và tài sản cố định, đất đai theo giá thị trường thì các doanh nghiệp Nhà nước hoàn toàn không tạo ra được tích luỹ. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là tài sản cố định, đặc biệt là máy móc thiết bị đã cũ, lạc hậu về kỹ thuật (so với thế giới lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ, có ngành từ 4 đến 5 thế hệ). Hiện nay có đến 54,3% doanh nghiệp Nhà nước, TW và 74% doanh nghiệp Nhà nước địa phương sản xuất và ở trình độ thủ công, quy mô doanh nghiệp nhỏ ít vốn, Vốn hoạt động thực tế chỉ bằng 80% vốn ghi trên sổ sách, riêng vốn huy động chỉ còn 50% được huy động và sản xuất kinh doanh, tài sản vật tư bị thất thoát, kém phẩm chất. Với những thực trạng trên doanh nghiệp hầu như không có khả năng cạnh tranh trên thị trường và đổi mới công nghiệp cũng như sản phẩm, ngân sách Nhà nước không có khả năng cấp vốn và bao cấp doanh nghiệp như trước đây. Ngân hàng cho vay cũng phải có những điều kiện đảm bảo thu tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh để tính đến khả năng thu hồi vốn. Các doanh nghiệp ở trong tình trạng luẩn quẩn, vốn không có nhiều nhưng cũng không có cách nào để huy động.
Để khắc phục tình trạng khó khăn trên, cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước được coi là giải pháp tốt nhất nhằm tạo ra môi trường hoạt động và huy động vốn dài hạn, lâu dài cho người dân để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và sản phẩm cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế tạo đà và sức bật mới cho nền kinh tế. Chính vì vậy việc phát triển cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay là một nhu cầu cấp bách cần được phát triển rộng rãi.
Phần III
Quan điểm và giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp ở việt nam
Trước đây trình độ xã hội hoá sản xuất ở nước ta vẫn còn thấp. Nền sản xuất chủ yếu là nền sản xuất nhỏ manh mún tản mạn , phân công lao động chưa phát triển (70% lao động là nông nghiệp) kỹ thuật lạc hậu, trình độ công nhân còn hạn chế từ đó dẫn đến năng xuất lao động thấp, tích luỹ thấp, các doanh nghiệp luôn thiếu vốn và khó có điều kiện đổi mới kỹ thuật để tăng năng xuất lao động. Vì vậy, khi muốn trở thành Công ty cổ phần doanh nghiệp phải phát hành cổ phiếu thì cổ phần sẽ kém sức hẫp dẫn với các cổ đông. Nhưng từ ngày nhà nước ta mở cửa nền kinh tế, nền kinh tế của nước ta đã có những bước tiến nhẩy vọt.
Trong thời điểm hiện nay sau khi tiến hành cổ phần hoá hầu hết các doanh nghiệp đều làm ăn có hiệu quả. Đối tượng doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá lần này có quy mô lớn và diện cổ phần hầu hết là các lĩnh vực của nền kinh tế. Ngoài quỹ hỗ trợ sẵp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo động lực mạnh mẽ hơn cho tiến trình cổ phần hoá. Với quy chế này sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ mở đường ra thị trường mới cho các doanh nghiệp được cổ phần hoá, tăng thêm được nguồn vốn đầu tư.
Hầu hết các doanh nghiệp đã được chuyển thành công ty cổ phần hoá đều cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng lên rõ rệt. Nhờ hiệu quả được nâng cao nên tăng thêm được việc làm, tăng thu nhập cho cổ đông, lại tăng được việc làm, tăng thu nhập cho cổ đông, lại tăng được giá trị vốn góp cho công ty. Nhà nước ngoài việc được tăng vốn góp, được chia cổ tức, các khoản nộp ngân sách Nhà nước cũng tăng nhanh.
Cùng với việc khẩn trương đổi mới một số cơ chế chính sách nhất là cơ chế tài chính liên quan đến cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, chính phủ đã và đang triển khai các biện pháp chủ yếu sau đây để góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
1. Tạo ra sân chơi bình đẳng doanh nghiệp Nhà nước và công ty cổ phần về những điều kiện hoạt động kinh doanh. Do đó có thể thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá cần tạo ra sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế và ngoài nước. Đồng thời cần phải xoá bỏ chế độ bao cấp cho khu vực kinh tế quốc doanh.
2. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về tài chính như miễn thuế lợi tức, thuế thu nhập, trong thời gian đầu của các doanh nghiệp cổ phần để kích thích các thành phần kinh tế tham gia mua cổ phiếu.
Trường hợp những doanh nghiệp không đủ điều kiệnk hưởng ưu đãi theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được giảm 50% thuế lợi tức (Thuế thu nhập doanh nghiệp) trong 2 năm liên tiếp từ sau khi chuyển sang hoạt động theo luật công ty. Được duy trì và phát triên quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật. Các chương trình văn hoá, câu lạc bộ nhà điều dưỡng để đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong công ty cổ phần. Những tài sản này thuộc sở hữu tập thể người lao động do công ty cổ phần quản lý với sự tham gia của tổ chức công đoàn.
3. Nhà nước cần có sự hỗ trợ giúp đỡ đối với cán bộ công nhân viên có đủ khả năng mua cổ phần ở các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá, như cho vay tín dụng với lãi suất thấp, thời hạn dài. Tương tự như Nhà nước cho nông dân vay vốn để sản xuất. Đây là một kinh nghiệm tốt mà nhiều nước trên thế giới đã thực hiện trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp.
4. Định giá cổ phiếu và mức độ cổ phần, cổ phiếu chế độ tài chính thống nhất ghi mẫu in ấn cung cấp tờ cổ phiếu chậm nhất trong vòng 30 ngày kể từ khi kết thúc thời hạn phát hành của doanh nghiệp cổ phần hoá. Các cơ quan tài chính phổ biến hướng dẫn các công ty cổ phần thực hiện.
5. Cần phải đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi về cổ phần hoá. Kinh nghiệm cho thấy muốn kinh tế phát triển năng động có hiệu quả trước hết phải có chiến lược con người, xây dựng đội ngũ các nhà kinh doanh nhất là đối với công ty cổ phần hoá mới hình thành, giám đốc điều hành giỏi là hết sức cần thiết.
Phần IV
Kết luận
Công ty cổ phần ra đời đã đánh dấu một bước tiến bộ đáng kể về hình thức tổ chức kinh doanh, sự phát triển kinh tế và trình độ quản lý của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Ngày nay ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, mặc dù hình thức tổ chức kinh tế hết sức quan trọng nhất vẫn là công ty cổ phần. Được áp dụng phổ biến và rộng rãi trên toàn thế giới, Công ty cổ phần vẫn chứng tỏ là mặt phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh để khai thác và sử dụng đồng vốn đạt hiệu quả cao nhất. Nước ta đang trong qúa trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường có phương thức quản lý theo công ty cổ phần chắc chắn sẽ nâng cao hiệu quả kinh tế về mọi mặt mà nền kinh tế quốc dân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0646.doc