Chuyên đề Đa dạng sinh học ở Việt Nam

Nằm ở vùng Đông Nam châu Á với diện tích khoảng 330.541 km2, Việt Nam là một trong 16 nước có tính đa dạng sinh học cao trên thế giới . Đặc điểm về vị trí địa lý, khí hậu . của Việt Nam đã góp phần tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái và các loài sinh vật. Về mặt địa sinh học, Việt Nam là giao điểm của các hệ động, thực vật thuộc vùng Ấn Độ - Miến Điện, Nam Trung Quốc và Inđo-Malaysia. Các đặc điểm trên đã tạo cho nơi đây trở thành một trong những khu vực có tính đa dạng sinh học cao của thế giới, với khoảng 10% số loài sinh vật, trong khi chỉ chiếm 1% diện tích đất liền của thế giới. Đa dạng sinh học có vai trò rất quan trọng đối với việc duy trì các chu trình tự nhiên và cân bằng sinh thái. Đó là cơ sở của sự sống còn và thịnh vượng của loài người và sự bền vững của thiên nhiên trên trái đất. Do đó, ngày nay bảo vệ đa dạng sinh học đang được quan tâm không chỉ ở phạm vi ở Việt Nam mà là mối quan tâm chung của toàn nhân loại. Bởi vì bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như hạn chế các tác động của sự thay đổi khí hậu. Hệ thống khu bảo tồn hiện nay đã và đang phát huy tác dụng trong việc bảo vệ tài nguyên đa dạng sinh học. Tuy nhiên để bảo tồn tốt hơn không những đòi hỏi từng quốc gia, từng địa phương phải đề xuất được các kế hoạch quản lý thích hợp, mà các nhà quản lý, chính sách cần có những hiểu biết sâu sắc về đa dạng sinh học, về các điều kiện kinh tế xã hội và văn hoá của từng khu vực cụ thể v.v. để có những quyết định chính xác và các chính sách phù hợp cho công tác bảo tồn. Mục tiêu của bảo tồn thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học là hướng tới sự thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu cuộc sống của con người về tất cả các mặt. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi có sự liên kết, hổ trợ giúp đỡ giữa các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học, các doanh nghiệp, cộng đồng v.v. nhằm làm cho quá trình phát triển không ảnh hưởng tới các hoạt động bảo tồn và hoạt động bảo tồn sẽ hổ trợ ngày càng tốt hơn cho quá trình phát triển.

doc46 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3265 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đa dạng sinh học ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u( còn gọi là rừng khộp) Phân bố: Phân bố tập trung ở tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai. Ngoài ra còn có ở Di Linh (Lâm Đồng) và những đám rừng khộp nhỏ phân bố ở Ninh Thuận, Bình Thuận, Sông Bé, Tây Ninh ... Điều kiện sinh thái: Hệ sinh thái này có khí hậu nhiệt đới gió mùa không có mùa đông lạnh nhưng có một mùa khô điển hình. Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm từ 21o - 27oC. Nhiệt độ không khí tối cao dưới 40oC. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.200 - 1.800 mm. Khí hậu có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa khô khắc nghiệt kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Độ ẩm không khí trung bình năm 80 - 85%, trong mùa khô độ ẩm không khí chỉ có 72 - 73% .Về đất đai chủ yếu là các loại đất xám đỏ phát triển trên đá bazan, granit có tầng đất mỏng, kết vón mạnh, có nơi đang xuất hiện đá ong. Có loại đất cơ bản như (Đất xương xẩu trên đá mẹ phiến thạch sét,Đất Feralit vàng nhạt, Đất xám bạc màu trên phù sa cổ.... Cấu trúc rừng Khu hệ sinh thái này bao gồm 309 loài cây thuộc 204 chi, 68 họ, trong đó có hơn 90 loài cây gỗ với 54 loài cây gỗ lớn, gỗ trung bìnhv.v… Mật độ rừng thưa, tán cây không giao nhau. Trong mùa khô, cây rụng lá từ 3 - 4 tháng. Mật độ cây từ đường kính 10 cm trở lên từ 100 - 150 cây/ha đến 300 - 350 cây/ha. Rừng thường chỉ có một tầng cây gỗ. Mặt khác hệ này đựơc cấu tạo từ nhiều ưu hợp như(Ưu hợp cẩm liên,Ưu hợp dầu đồng ,Ưu hợp dầu trà beng ...) 1.3.6 Hệ sinh thái rừng ngập mặn Phân bố: Hệ sinh thái rừng ngập mặn phân bố dọc bờ biển Việt Nam thuộc 28 tỉnh và thành phố. đã chia vùng phân bố rừng ngập mặn Việt Nam thành 4 khu vực với 12 tiểu khu và xác định điều kiện sinh thái cho từng tiểu khu Khu vực I: ven biển Đông Bắc Khu vực II: ven biển đồng bằng Bắc Bộ Khu vực III: ven biển Trung Bộ từ mũi Lạch Trường đến mũi Vũng Tàu. Khu vực IV: ven biển Nam Bộ Điều kiện sinh thái : Hệ sinh thái rừng ngập mặn phân bố sát ngay ven biển và chịu ảnh hưởng nhiều bởi các nhân tố sinh thái như: khí hậu, thuỷ văn (dòng nước, độ mặn v.v…), địa hình, sản phẩm bồi tụ v.v… Khu vực I: Đây là vùng khí hậu nhiệt đới có mùa đông lạnh. Nhiệt độ không khí trung bình các tháng trong năm biến động lớn (15 - 30o C Nhiệt độ trung bình thấp nhất vào tháng (16o5 C), Lượng mưa trung bình hàng năm : 1.800 - 2.500 mm.Về địa hình thì vùng này có nhiều đảo ngoài vịnh Hạ Long ngăn cản ảnh hưởng của bão và gió mùa Đông Bắc nên tác động của sóng biển bị giảm đáng kể, phù sa được cố định lại ở bờ biển thuận lợi cho các loài cây ngập mặn sinh trưởng phát triển, Khu vực II: Tuy là vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh nhưng nền nhiệt độ ở đây cao hơn khu vực I. ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc yếu hơn khu vực I. Hàng năm có khoảng 2 tháng nhiệt độ không khí trung bình dưới 20oC.. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.300 - 1.900 mm. Khu vực III : Khu vực này thường chịu ảnh hưởng của bão, gây ra mưa rất lớn, lũ lụt và nước biển dâng cao, do đó ảnh hưởng đến quá trình phát triển của các loài cây trog vùng này. Khu vực IV: Khí hậu đặc trưng của khu vực này là nhiệt đới ẩm không có mùa đông. Lượng mưa hàng năm trong khu vực phân bố không đều qua các địa phương. Tuy nhiên, lượng mưa phân bố tương đối đều qua các tháng trong năm. Mặt khác địa hình của khu vực này thấp, bằng phẳng hơn các khu vực khác nên thuận lợi cho sự phát triển của các loài. Cấu trúc rừng: Hệ sinh thái rừng ngập mặn phân bố sát ngay ven biển và chịu ảnh hưởng nhiều bởi các nhân tố sinh thái như: khí hậu, thuỷ văn, địa hình, sản phẩm bồi tụ v.v… Và đây là khu vực có cấu trúc rừng là rất phong phú, gồm có nhiều quần thể cây, như Quần thể cây rừng ngập mặn,quần xã nước lợ có bần chua, ô rô, mây nước... 1.3.7 Hệ sinh thái rừng tràm Phân bố: Hệ sinh thái này phân bố tập trung ở 7 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, hình thành nên ba vùng sau đây: Vùng Đồng Tháp Mười thuộc ba tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp. Vùng Tứ Giác Long Xuyên thuộc hai tỉnh An Giang và Kiên Giang. Vùng U Minh Thượng và U Minh Hạ thuộc tỉnh Cà Mau và Hậu Giang. Điều kiện sinh thái : Hệ sinh thái này phân bố ở độ cao so với mực nước biển dưới 2 m. Nơi đất trũng, độ cao phân bố so với mực nước biển 0,46 m, có khí hậu nhiệt đới gió mùa không có mùa đông, cận xích đạo. Nhiệt độ không khí trung bình năm : 27oC nhiệt độ không khí trung bình thấp nhất cũng đạt đến 22oC. Lượng mưa trung bình năm: 1.500 - 2.400 mm. Lượng mưa phân bố theo mùa. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11. Mặt khác chế độ thuỷ văn ở đây bị chi phối bởi chế độ mưa, chế độ nước nguồn và nước lũ của hệ thống sông Cửu Long và chế độ thuỷ triều mang nước mặn từ biển vào lục địa. Chế độ thuỷ văn này đã làm cho nhiều vùng trũng thấp ngập úng nước phèn.Đặc trưng cơ bản nhất của hệ sinh thái rừng này là hình thành trên đất phèn. Cấu trúc rừng: Do hệ sinh thái rừng này hình thành trong điều kiện môi trường đặc biệt là úng phèn, chỉ có một số loài cây thích nghi tồn tại được nên cấu trúc rừng đơn giản hơn nhiều so với hệ sinh thái rừng hỗn loài thường xanh. Và cụ thể là cấu trúc hệ sinh thái rừng tràm đơn giản về thành phần loài cây và tầng thứ. Chiều cao đạt khoảng 20 - 25 m, đường kính đạt 40 cm. 1.3.8 Hệ sinh thái rừng tre nứa: Phân bố: Tre nứa phân bố rộng từ vùng nhiệt đới, á nhiệt đới đến ôn đới, từ 51o vĩ độ bắc đến 47o vĩ độ nam. Điều kiện sinh thái: Hầu hết các loài tre nứa đều yêu cầu nhiệt độ ấm và ẩm nên chúng thường phân bố ở vùng thấp và đai cao trung bình và tập trung chủ yếu ở 2 bên xích đạo.Việt Nam là một trong những vùng trung tâm phân bố tre nứa trên thế giới do có điều kiện tự nhiên thuận lợi, như chế độ nhiệt, ẩm và thổ nhưỡng. Các hệ sinh thái rừng tre nứa Việt nam rất phong phú và đa dạng, chiếm vị trí quan trọng trong tài nguyên rừng cả về mặt kinh tế, môi trường và khoa học Cấu trúc rừng: Tre nứa Việt nam có 10 loài trong số 19 loài tre ưu tiên cao để quốc tế hành động và 6 loài trong 18 loài tre khác được quốc tế ghi nhận là quan trọng.Tre nứa phân bố ở khắp cả nước, tuy nhiên diện tích, trữ lượng và thành phần loài có khác nhau giữa các vùng ; những vùng có diện tích và trữ lượng nhiều là: Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ, Đông Bắc, Đông Nam bộ và Tây Bắc... 2. SUY THOÁI ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM 2.1 Suy thoái nguồn gen di truyền Ngoài việc tạo ra các giống mới không phải là đảm bảo cho tính đa dạng của gen khi chưa biết trước những sản phẩm đó có gây hại cho con người hay không thì con người đã và đang tiêu diệt rất nhiều loài động vật và thực vật trên trái đất này. Trong thế kỷ 20, loài người đã tiêu diệt khoảng 700 loài động thực vật. Nhiều loài bị tuyệt chủng khi còn chưa được con người biết đến. Từ năm 1600 trước công nguyên đến năm 1900: trung bình 4 năm mất 1 loài. Từ năm 1900 đến 1980: 1 năm mất 1 loài. Từ 1980 đến 2000 : 1 ngày mất 1 loài. Từ 2001 đến 2010: 1 giờ mất 1 loài. Cho đến cuối thế kỷ 20, loài người đã làm biến mất khoảng từ 20% đến 50% số loài trên Trái Đất. Suy thoái đa dạng sinh học làm cho loài người mất dần các nguồn tài nguyên quý giá ( lương thực, thực phẩm, dược liệu, nguyên vật liệu, gen, tiện nghi môi trường….) đồng thời phải chống chịu với các tai biến sinh thái ngày càng tăng (dịch bệnh gia súc, dịch hại cây trồng…) do mất cân bằng sinh thái. Suy thoái sinh học ở Việt Nam đến nay là rất đáng ngại. trong vòng khoảng 10 năm cuối thế kỷ 20, trên 700 loài động, thực vật Việt Nam đã biến mất hoặc bị đẩy vào tình trạng nguy hiểm, trong đó có hầu hết các giống loài có giá trị kinh tế cao như: Động vật: Tê giác 1 sừng, voi, hổ, bò xám, bò tót, bò rừng, hươu xạ, hươu cà toong, hươu vàng, cheo cheo napu, vượn đen tuyền, vượn Hải Nam, vượn bạc má, vượn má hung, voọc đầu trắng, voọc mũi hếch, công, gà lôi lam, các cóc Tam Đảo, cá sấu…. Thực vật: sâm Ngọc Linh, bời lời, trắc, càte, trầm hương. 2.2 Suy thoái đa dạng hệ sinh thái Hầu hết các hệ sinh thái tự nhiên đều bị tác động trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Các hệ sinh thái tự nhiên với tính đa dạng sinh học bị thu hẹp diện tích hoặc chuyển sang các dạng hệ sinh thái thứ sinh khác.Ở Việt Nam trong những năm gần đây lũ lụt diễn ra lien tục ở các tỉnh miền núi phía bắc, miền trung, đồng bằng song cửu long,… Đặc biệt là các tỉnh miền núi trong những năm gần đấy mực nước ngầm vào mùa khô thấp hơn so với mức trung bình khá nhiều.Nguyên nhân do sự khai thác, chặt phá rừng quá mức dẫn đến chu kỳ xuất hiện lũ ngắn dần và cường độ lũ lớn hơn. Cho đến nay, thảm thực vật rừng tại các vùng này vãn chưa thể khôi phục để có thể bảo vệ đất dẫn đến quá trình thoái hóa đất, tăng diện tích đát bạc mà. Bên cạnh đó, các chất độc hóa học này còn thẩm thấu xuống các mạch nước ngầm làm cho các thảm thực vật trên mặt đất phát triển chậm. Hệ sinh thái động vật gồm: 310 loài thú, 840 loài chim. 286 loài bò sat, 7.500 loài côn trùng và các động vật xương sống khác. Trong 30 năm qua thực vật được bổ sung vào danh sách các loài của Việt Nam như: - 5 loài thú mới là sao la, mang lớn, mang trường sơn, chà vá chân trường sơn. - 3 loài chim mới là khướu vằn đầu đen, khướu Ngọc Linh . - Khoảng 420 loài cá biển và 7 loài thú biển. Nhiều loài mới thuộc các lớp bò sát, lưỡng cư và động vật khoong xương sống cũng đã được mô tả. Hệ sinh thái thực vật gồm: 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch, khoảng 1.030 rêu, 2.500 loài tảo,826 loài nấm …. Tính từ 1993 đến năm 2002 các nhà khoa học đã nhận thêm 2 họ, 19 chi và trên 70 loài mới. Hệ sinh thái đất ngập nước với 39 kiểu, bao gồm: đất ngập nước tự nhiên 30 kiểu, đất ngập nước ven biển 19 kiểu. 2.3 Suy thoái đa dạng về loài Nhiều loài động vật, thực vật hoang dã của Việt Nam đang bị đe dọa nghiêm trọng. Theo Sách đỏ Việt Nam năm 2007 thì tổng số loài động thực vật hoang dã trong thiên nhiên của Việt Nam đang bị đe dọa hiện nay là 882 loài. Có tới 9 loài động vật được xem tuyệt chủng ngoài tự nhiên tại Việt Nam như tê giác hai sừng, heo vòi, cá sấu hoa cà. Trong hệ thực vật, hai loài lan Hài quý đã tuyệt chủng ngoài thiên nhiên. Số lượng các loài thủy sinh vật có giá trị kinh tế giảm sút nhanh chóng. Suy suy thoái tài nguyên sinh vật còn thể hiện ở sự suy giảm môi trường sống của hầu hết các loài sinh vật biển. Theo thống kê, có 236 loài thủy sinh quý hiếm bị đe dọa ở các cấp độ khác nhau, trong đó có hơn 70 loài sinh vật biển đã được liệt kê trong Sách đỏ Việt Nam. Cho tới nay, Việt Nam thống kê được gần 13.000 loài thực vật và 12.000 loài động vật. Nhiều nhóm sinh vật có tính đặc hữu cao, có giá trị khoa học và thực tiễn lớn, nhiều loài thú mới đã được phát hiện. Sự suy giảm về độ đa dạng của giống loài và sự phong phú về số lượng động thực vật hiện nay có cả các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp. Các nguyên nhân trực tiếp bao gồm sự phá vỡ và mất nơi cư trú, sự xâm lấn của các sinh vật nhập nội, việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên sống, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu toàn cầu và các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp. Bảng 2.5. Số lượng các loài của Việt Nam bị đe dọa toàn cầu Loài Năm 1992, 1998 Năm 2004 IUCN, 1996, 1998 Sách đỏ 1992, 1996 IUCN Sách đỏ Thú 38 78 41 94 Chim 47 83 41 76 Bò sát 12 43 24 39 Lưỡng cư 1 11 15 14 Cá 3 75 23 89 ĐVKXS 0 75 0 105 Thực vật bậc cao 125 337 145 605 Nấm 7 16 Tảo 12 18 Tổng 226 721 289 1.065 [Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam 2005, Phần Đa dạng sinh học]. 3. NGUYÊN NHÂN SUY GIẢM ĐA DẠNG SINH HỌC 3.1 Nguyên nhân tự nhiên Nguyên nhân tự nhiên như cháy rừng, dộng đất, núi lửa, lũ lụt, hạn hán, bão... là những nguyên nhân gây mất nơi cư trú, hủy hoại môi trường sống, thức ăn của nhiều lòai sinh vật hoặc tiêu diệt chúng dẫn đến việc suy giảm đa dạng sinh học tại các vùng xảy ra thiên tai. 3.2 Nguyên nhân do con người Thông qua việc chiếm lĩnh các hệ sinh thái trên trái đất, con người thông qua các hoạt động của mình đã và đang trực tiếp và gián tiếp làm suy giảm nguồn tài nguyên đa dạng sinh học các loài trên trái đất. 3.2.1. Sử dụng không bền vững các nguồn tài nguyên sinh vật Mở rộng đất nông nghiệp, lâm nghiêp xâm hại đến rừng và các hệ sinh thái khác: Mở rộng đất canh tác nông nghiệp có liên quan đến quá trình hình thành và phát triển của đất nước, là quy luật tất yếu phải xảy ra khi dân số tăng nhanh và văn hoá, kinh tế, xã hội ngày một phát triển. Ngày nay, phá rừng, xâm hại đến đất ngập nước để mở rộng đất canh tác không hợp lý là một trong những nguyên nhân quan trọng làm suy thoái đa dạng sinh học vì làm mất nơi sống cùa nhiều loài thực vật, động vật. Chỉ tính riêng hình thức du canh đã tàn phá khoảng 13 triệu ha rừng trước đây thành đất trống đồi núi trọc. Khai thác gỗ làm cạn kiệt rừng, mất môi trường sống: Gỗ là sản phẩm lâm nghiệp rất quan trọng trong xây dựng. Tuy nhiên, khai thác gỗ quá mức làm kiệt quệ rừng. Khai thác gỗ phục vụ cho các mục tiêu khác nhau: làm gỗ chống hầm lò trong công nghiêp khai thác, khai thác gỗ làm đồ thủ công mỹ nghệ…Kết quả là rừng bị cạn kiệt nhanh chóng cả về diện tích và chất lượng, nhiều loài thực vật, loài gỗ quý và những động vật sống trong rừng suy giảm số lượng và nhiều loài có nguy cơ bị tuyệt diệt Hơn 50% những nơi cư trú là các rừng nguyên sinh bị phá hủy tại 47 nước trong tổng số 57 nước nhiệt đới trên thế giới. Tại Châu Á nhiệt đới, 65% các nơi cư trú là các cánh rừng tự nhiên đa bị mất.Tốc độ phá hủy đặc biệt lớn tại các nước Philippines, Bangladesh, Sri Lanka, Việt Nam, Ấn Độ, các nước Châu Phi,... đa làm mất phần lớn các các nơi cư trú của các loài hoang dã, trầm trọng nhất là các nước Gambia, Ghana và Ruanda. Tốc độ phá rừng hiện nay khác nhau tại nhiều nơi trên thế giới, tốc độ khá nhanh ở mức 1,5 đến 2% là các nước như Việt Nam, Paraguay, Mehico và Costa Rica. Tại vùng Địa Trung Hải, diện tích rừng nguyên sinh chỉ còn lại 10%. Đối với các loài động vật hoang dã quan trọng, phần lớn những nơi cư trú thích ứng của chúng đa bị phá huỷ, chỉ còn lại một số rất ít được bảo vệ. Ví dụ loài đười ươi khổng lồ ở Sumatra và Borneo đa mất 63% nơi sinh sống và chỉ còn 2% diện tích nơi sinh sống nguyên thuỷ của chúng được bảo tồn. Việc phá hủy các rừng mưa nhiệt đới là dấu hiệu đi kèm với việc mất các loài. Rừng nhiệt đới ẩm chiếm 7% diện tích bề mặt trái đất, nhưng ước tính chúng chứa hơn 50% tổng số loài trên trái đất. Diện tích ban đầu của rừng mưa nhiệt đới ước tính khoảng 16 triệu km2. Kết hợp với việc khảo sát mặt đất, chụp ảnh không gian và số liệu viễn thám từ vệ tinh người ta thấy rằng vào năm 1982 chỉ còn lại 9,5 triệu km2. Hằng năm có khoảng 180.000 km2 rừng mưa bị mất, trong đó 80.000 km2 bị mất hoàn toàn và 100.000 km2 bị suy thoái đến mức cấu trúc loài và các diễn thế của hệ sinh thái phần lớn bị thay đổi. Người ta còn dự báo thêm rằng với tốc độ mất rừng như hiện nay thì đến năm 2040 sẽ còn lại một số rất ít rừng nhiệt đới nguyên vẹn trừ một số khu nhỏ được đặt dưới sự bảo tồn nghiêm ngặt. Khai thác củi làm suy giảm đa dạng sinh học: Thường xảy ra ở các nước chậm phát triển và đang phát triển như Việt Nam. Theo những số liệu thống kê, trong phạm vi cả nước, 90% năng lượng dùng trong các gia đình là lấy từ thực vật. Hàng năm, khoảng 21 triệu tấn củi được khai thác từ rừng để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt trong gia đình như: nấu cám lợn, chế biến các sản phẩm nông nghiêp như chè, đường… Khai thác các sản phẩm ngoài gỗ: Khoảng 2300 loài thực vật, các sản phẩm ngoài gỗ như song, mây, tre nứa, lá, cây, thuốc… được khai thác cho những mục đích khác nhau: để dùng, để bán trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Đặc biệt việc săn bắn, đuối bắt động vật hoang dã, khai thác cây dược liệu quý là mối đe doạ lớn đối với động vật, đặc biệt là đối với các loài quý hiếm, các loài có giá trị kinh tế cao, các loài có chức năng trong đấu tranh sinh học – cân bằng sinh thái trong quần xã ngày càng mất nhiều. Buôn bán động thực vật hoang dã: Hiện nay, tình trạng lùng sục, thu gom, mua bán, vận chuyển trái phép động vật hoang dã sống và các sản phẩm từ động thực vật, cả động thực vật quý hiếm ngày càng ra tăng. Vì vậy, buôn bán động thực vật hoang dã là một nguyên nhân quan trọng làm suy giảm đa dạng sinh học, thậm chí làm cho nhiều loài, đặc biệt là các loài quí hiếm, có giá trị kinh tế cao có nguy cơ tuyệt chủng ở từng khu vực và trên toàn thế giới. 3.2.2. Sự du nhập các loài ngoại lai Cùng với việc xuất khẩu động thực vật hoang dã, việc du nhập một số giống mới cũng là nguyên nhân làm đa dạng sinh học trong các quốc gia khác nhau bị suy giảm. Phạm vi sống về địa lý của nhiều loài được giới hạn bởi các hàng rào do chính các yếu tố môi trường và khí hậu tạo ra ngăn cản sự phát tán. Các sa mạc, đại dương, đỉnh núi, và những dòng sông ngăn cản sự di chuyển của các loài. Con người đã làm thay đổi cơ bản đặc tính này bằng việc vận chuyển phát tán các loài trên toàn cầu. Tại thời kỳ trước cách mạng công nghiệp, con người mang các cây trồng và vật nuôi từ nơi này sang nơi khác khi họ tạo dựng những nơi định cư và các thuộc địa mới. Ngày nay đã có một lượng lớn các loài do vô tình hay cố ý, được đem đến những khu vực không phải là nơi cư trú gốc của chúng. Những loài đó đa được du nhập do các nguyên nhân sau đây: · Chế độ thuộc địa của các nước Châu Âu: những người Châu Âu mang đến một vùng thuộc địa mới mang theo các hàng trăm giống chim, thú của Châu Âu để làm cho phong cảnh ở đây trở nên thân quen với họ cũng như tạo ra thú vui săn bắn. · Nghề trồng cây cảnh và làm nông nghiệp: nhiều loài cây được mang đến và trồng tại những vùng đất mới như cây cảnh, cây nông nghiệp hoặc cây cho chăn nuôi gia súc. Rất nhiều loài trong số đó thoát vào tự nhiên và thâm nhập vào các loài bản địa. · Những sự vận chuyển không chủ đích: thường xảy ra là các hạt cỏ vô tình bị thu hoạch cùng các hạt ngũ cốc được đem bán và được gieo trên địa bàn mới. Chuột và các loài côn trùng cư trú bất hợp pháp trên máy bay, tàu thủy, các vectơ truyền bệnh, các động vật ký sinh được vận chuyển cùng với các động vật chủ của chúng. Các tàu thuyền thường mang theo các loài ngoại lai trong các khoang hầm. Các túi đất để dằn tàu thường mang theo các hạt cỏ và ấu trùng sống trong đất. Các túi nước để dằn tàu đổ ra ở cảng thường đem theo các loại rêu tảo, động vật không xương sống và các loại cá nhỏ. Phần lớn các loài du nhập không sống được tại những nơi mới đến do môi trường không phải lúc nào cũng phù hợp với điều kiện sống của chúng. Dù vậy, vẫn có một tỷ lệ nhất định các loài nhập cư thiết lập được cuộc sống trên vùng đất mới và nhiều loài trong đó còn vượt trội, xâm lấn các loài bản địa. Các loài du nhập này thậm chí còn cạnh tranh với các loài bản địa để có được nguồn thức ăn và nơi ở. Các loài du nhập còn ăn thịt các loài bản địa cho đến khi chúng tuyệt chủng hoặc làm chúng thay đổi nơi cư trú đến mức nhiều loài bản địa không thể nào tồn tại được nữa. Một trong những lý do quan trọng khiến các loài du nhập dễ dàng chiếm lĩnh các nơi cư trú mới là ở nơi cư trú mới chưa có các loài thiên địch của chúng như các loài động vật là kẻ thù, các loài côn trùng và các loài ký sinh, gây bệnh. Các hoạt động của con người tạo nên những điều kiện môi trường không bình thường, như sự thay đổi các nguồn dinh dưỡng, gây cháy rừng, tăng lượng ánh sáng,... tạo cơ hội cho các loài du nhập thích ứng nhanh hơn và loại trừ được các loài bản địa. 3.2.3. Xây dựng cơ bản làm mất đa dạng sinh học Cùng với sự gia tăng dân số là quá trình đô thị hoá diễn ra rất nhanh chóng trong thời gian gần đây. Đô thị hoá không chỉ diễn ra ở các nước công nghiệp phát triển mà còn ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, nếu như ở các nước công nghiệp phát triển, quá trình này diễn ra một cáhc tương đối có kiểm soát thì ở các nước đang phát triển, đô thị hoá hầu như là một quá trình tự phát. Đi kèm với quá trình đô thị hoá là các con đường, các khu đô thị, khu tập trung dân cư mới. Việc xây dựng cơ bản như làm đường giao thông, thuỷ lợi, khu công nghiệp, thuỷ điện, khu dân cư mới… cũng là nguyên nhân trực tiếp làm mất môi trường sống, làm suy giảm đa dạng sinh học do diện tích các khu nông nghiệp, các cánh rừng, đồng cỏ, thậm chí cả hồ ao, tức là các nơi sống của sinh vật, bị thu hẹp. Các hồ chứa được xây dựng hàng năm ở Việt Nam đã làm mất đi khoảng 30.000 ha rừng ( Lê Vũ Khôi). Ngoài việc bị phá hủy trực tiếp, các nơi cư trú nguyên là những khu vực rộng lớn của các loài thường bị chia cắt thành nhiều phần nhỏ do việc làm đường sá, ruộng vườn, xây dựng thành phố và nhiều hoạt động khác của con người. Những phần này thường bị cách ly khỏi những phần khác và hình thái cấu trúc cảnh quan bị thay đổi nhiều. Ngoài ra, việc phá hủy các nơi cư trú có thể hạn chế khả năng phát tán và định cư của loài. Rất nhiều loài chim, thú và côn trùng sống trong địa phận của rừng sẽ không vượt qua dù là một quảng ngắn khoảng diện tích trống vì có nhiều nguy cơ bị đánh bắt. Tác hại của việc chia cắt nơi cư trú sẽ làm giảm khả năng kiếm mồi của các loài thú. Ngoài ra nơi cư trú bị chia cắt cũng góp phần làm suy giảm quần thể và dẫn đến sự tuyệt chủng do quần thể lớn lúc đầu bị chia ra hai hay nhiều quần thể nhỏ. Các tiểu quần thể này rất dễ bị tổn thương do bị ức chế sinh sản và các vấn đề khác liên quan đến quần thể nhỏ. 3.2.4. Chiến tranh Chiến tranh huỷ diệt con người, cơ sở kinh tế, huỷ diệt rừng và huỷ diệt hệ động thực vật. Chiến tranh kèm theo nó là cháy rừng, phá huỷ rừng bằng các chất độc hoá học cũng đồng nghĩa là các động thực vật sinh sống trong hệ sinh thái rừng bị suy giảm và bị tiêu diệt. Trong giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1975, 13 triệu tấn bom và 72 triệu lít chất độc hoá học rải xuống chủ yếu ở miền Nam Việt Nam đã huỷ diệt khoảng 4,5 triệu ha rừng ( Lê Vũ Khôi). Hậu quả của hoá chất độc do Mỹ rải ở miền nam Việt Nam trong chiến tranh cho đến nay vẫn còn gây nên hậu quả nghiêm trọng cho người dân Việt Nam, tồn dư trong đất, trong môi trường sống và trong cơ thể động thực vật ở khu vực bị rải chất độc hoá học làm cho môi trường sống kém chất lượng, làm suy giảm đa dạng sinh học. 3.2.5. Ô nhiễm môi trường Sự tác động của ô nhiễm môi trường đến sự suy thoái đa dạng sinh học là rất lớn. Ô nhiễm môi trường kéo theo sự suy giảm, nghèo kiệt đa dạng sinh học ở các hệ sinh thái bị ô nhiễm. Nạn ô nhiễm môi trường gây ra bởi các nguồn thải, các loại hóa chất sử dụng trong nông nghiệp như phân bón hoá học, thuốc trừ sâu…và chất thải công nghiệp cũng như chất thải sinh hoạt, ngoài ra là ô nhiễm không khí, ô nhiễm biển do tràn dầu… 3.2.5.1. Ô nhiễm do các hoạt động sản xuất nông nghiệp: Sự nguy hại của thuốc trừ sâu được khuyến cáo từ những năm 1962. Nồng độ của DDT và các loại thuốc trừ sâu khác tích luỹ trong cơ thể sinh vật, tăng lên theo bậc cao dần của chuỗi thức ăn thông qua quá trình tích tụ sinh học (bioaccumulation) và khuếch đại sinh học (magnification). Việc sử dụng các loại thuốc trừ sâu để phòng trừ các loài côn trùng gây hại cho cây trồng và phun vào nước để diệt các ấu trùng muỗi đa làm hại tới những quần thể khác sống trong thiên nhiên, đặc biệt đối với những loài chim ăn côn trùng, cá và các loại động vật khác bị ảnh hưởng bởi DDT hay các sản phẩm bán phân hủy của chúng. Khi nồng độ thuốc trừ sâu có độ độc lớn tích luỹ đến mức cao trong các tế bào cơ thể chim, như các loài diều hâu hay ó, thì chúng yếu đi và có xu hướng đẻ ra những quả trứng có vỏ mỏng hơn bình thường, vỏ này dễ vỡ trong quá trình ấp. Do vậy, trứng không thể nở thành con non và quần thể loài chim suy giảm một cách đáng kể. Tại các hồ và các cửa sông, dư lượng DDT và các loại thuốc trừ sâu khác được tích luỹ lại trong cơ thể các loại cá lớn như cá heo và các động vật biển khác. Trên các khu vực canh tác nông nghiệp, các loài côn trùng có ích hay các loài có nguy cơ bị tuyệt chủng cũng đều bị tiêu diệt cùng với các côn trùng gây hại. Bảng 2.6. Hàm lượng tích lũy DDT ở các bậc dinh dưỡng ở nước và trên cạn Số lần khuếch đại Sinh vật Hàm lượng DDT (ppm) 80.000 Chim nước 1600,00 5.000 Cá 100,00 250 Tôm 5,00 1 Các loài tảo 0,02 75 Chim cổ đỏ 750,00 9 Giun đất 90,0 1 Đất 10,0 (Nguồn : Lê Huy Bá. Độc học môi trường) 3.2.5.2. Hiện tượng phú dưỡng: Các khoáng chất vi lượng tuy rất cần cho cuộc sống của động vật và thực vật nhưng chúng cũng có thể gây hại khi xuất hiện ở nồng độ cao. Các chất thải của người, các loại phân bón hóa học, các chất tẩy rửa và các quá trình sản xuất trong công nghiệp thường xuyên thải ra một lượng lớn nitrat, photphat vào hệ sinh thái thủy vực, dẫn đến hiện tượng phú dưỡng nước. nitrat và photphat với nồng độ cao sẽ gây ra sự nở hoa của các loài tảo sống trên bề mặt nước. Sự nở hoa của các loài tảo này có thể rất dày đặc đến mức lấn chiếm cả các loài động, thực vật nổi và che khuất những loài sống dưới tầng đáy. Khi lớp tảo bề mặt quá dày, phần dưới của chúng sẽ bị chết và chìm xuống đáy. Số lượng vi khuẩn và nấm phân hủy lớp xác tảo này sẽ tăng lên với cấp số nhân do nguồn dinh dưỡng mới được cung cấp thêm, hậu quả là chúng hấp thụ hầu hết lượng oxy hoà tan trong nước. Thiếu oxy, hầu hết các loài động vật sẽ chết. Kết quả quần xã bị suy giảm, chỉ còn sót lại những loài thích nghi được với điều kiện nước bị ô nhiễm hay nước có lượng oxy hoà tan thấp. 3.2.5.3. Ô nhiễm công nghiệp: . * Mưa axít: nhiệt điện sử dụng nhiên liệu là than hay dầu đa thải ra một lượng lớn các khí NOx, SOx vào không khí, các khí này khi gặp hơi nước trong không khí sẽ tạo ra axit nitric và axit sulfuric. Các axit này liên kết với những đám mây và khi tạo thành mưa làm giảm độ pH của nước mưa xuống rất thấp. Mưa axit sẽ làm giảm độ pH của đất và của nước trong các hồ, ao, sông suối trên lục địa. Mưa axit đa tiêu diệt nhiều loài động và thực vật. Do độ axit của các hồ ao tăng lên, nhiều cá con của nhiều loài cá và cả những con cá trưởng thành cũng bị chết. Độ axit tăng và nước bị ô nhiễm là nguyên nhân chính làm suy giảm đáng kể các quần thể động vật lưỡng cư trên thế giới. Đối với phần lớn các loài động vật lưỡng cư, ít nhất một phần trong chu kỳ sống của chúng phụ thuộc vào môi trường nước, độ pH của nước giảm làm cho tỷ lệ trứng và ấu trùng bị chết tăng cao. ·* Sương mù quang hoá: Xe ô tô, các nhà máy điện và các hoạt động công nghiệp thải ra các khí hydrocacbon, khí NO. Dưới ánh sáng mặt trời, các chất này tác dụng với khí quyển và tạo ra khí ozon và các chất phụ phẩm khác, tất cả khí này được gọi chung là sương mù quang hóa (photo-chemical smog). Nồng độ ozon cao ở tầng khí quyển gần mặt đất sẽ giết chết các mô thực vật, làm cho cây dễ bị tổn thương, làm hại đến các quần xã sinh học, giảm năng suất nông nghiệp. Các quần xã sinh học trên toàn cầu cũng có thể bị phá hủy hay bị thay đổi do các hợp chất chứa nitơ trong không khí theo mưa và bụi lắng đọng tự do và do đó có thể ảnh hưởng đến nguồn sản xuất lương thực và thực phẩm. ·* Các kim loại độc hại: xăng có chứa chì, các hoạt động khai mỏ, luyện kim và các hoạt động công nghiệp khác thải ra một lượng lớn chì, thiếc và nhiều loại kim loại độc hại khác vào khí quyển. Các hợp chất này trực tiếp gây độc cho cuộc sống của động và thực vật. 3.2.5.4. Sự thay đổi khí hậu toàn cầu: Những nhà khí tượng học ngày càng đồng ý với quan điểm cho rằng ở thế kỷ XXI khí hậu trái đất sẽ còn nóng lên từ khoảng 2-60C nữa vì sự gia tăng của khí CO2 và các khí khác. Tác hại của sự thay đổi nhanh chóng này vào các quần thể sinh học là rất lớn. Ví dụ như các vùng khí hậu ở khu vực ôn đới miền Bắc và miền Nam sẽ chuyển hoàn toàn về phía vùng cực. Các loài sống thích ứng với các khu rừng rụng lá phía Bắc Mỹ sẽ phải di cư từ 55 -1000 km về phía Bắc trong suốt thế kỷ XXI để thích ứng với điều kiện khí hậu thay đổi. Trong khi các loài có vùng phân bố rộng và dễ phát tán có thể thay đổi để thích ứng với sự thay đổi, thì đối với nhiều loài có vùng phân bố hẹp hoặc do khả năng phát tán kém nên việc tuyệt chủng là khó tránh khỏi. Hiện tượng nhiệt độ tăng dần lên còn làm các khối băng ở vùng cực tan ra. Do việc giải phóng một lượng nước lớn như vậy, trong vòng 50 -100 năm tới mức nước biển có thể tăng từ 0,2 -1,5 m. Mức nước biển dâng cao có thể làm ngập lụt những vùng đất thấp, những khu đất ngập nước ven bờ biển và nhiều thành phố lớn. Mực nước tăng có khả năng gây hại đến nhiều loài san hô, nhất là những loài chỉ tồn tại trong một độ sâu nhất định, nơi có ánh sáng và dòng chảy của nước phù hợp. Một số loài san hô không phát triển nhanh kịp với tốc độ nâng cao mực nước biển và dần dần chúng sẽ bị chết đuối. Sự hủy hoại còn lớn hơn nếu như nhiệt độ nước cũng tăng. Sự thay đổi khí hậu trái đất và nồng độ khí CO2 trong khí quyển gia tăng có thể làm thay đổi triệt để cấu trúc của các quần xã sinh học và sẽ chỉ còn một số loài có khả năng phát triển thích ứng với điều kiện sống mới. 3.2.6. Tăng dân số Tăng trưởng dân số quá nhanh tạo ra áp lực rất lớn đối với đa dạng sinh học. Trên thực tế, sự gia tăng dân số hiện nay là rất nhanh, với tốc độ khoảng 1,7%/năm. Với tốc độ này, đến năm 2025, dân số thế giới sẽ đạt đến 9,5 tỷ. Nếu thế giới cần 200 năm từ những năm 1650 đến những năm 1850 để tăng gấp đôi dân số từ 500 triệu lên 1 tỷ người thì lại chỉ cần 47 năm từ năm 1930 đến năm 1987 để tăng gấp đôi dân số từ 2 tỷ lên 4 tỷ người và hiện đã đạt xấp xỉ 7 tỷ người. Trong khi dân số gia tăng nhanh như vậy thì các tính toán về năng lượng sơ cấp cho thấy Trái Đất chỉ có khả năng cung cấp năng lượng cho khoảng 13 - 15 tỷ người. Sự gia tăng dân số đòi hỏi gia tăng nhu cầu sinh hoạt, lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng và các nhu cầu cần thiết khác trong khi lượng tài nguyên thì hạn hẹp, nhất là đất cho sản xuất nông nghiệp. Hệ quả tất yếu dẫn đến là phải mở rộng đất nông nghiệp, đất định cư và đất xây dựng… vào đất rừng và làm cho đa dạng sinh học giảm. Ở vùng miền núi, tỷ lệ tăng dân số của các dân tộc ít người còn cao hơn. Khi nguồn lợi cần thiết cho nhu cầu hàng ngày không đủ, người dân địa phương ở miền núi lại tiếp tục tập quán du canh, lấy đất trồng lúa nương, hoa màu.. và cuộc sống của họ dựa chủ yếu vào nguồn tài nguyên rừng vì thế nguồn tài nguyên đa dạng sinh học ngày càng nghèo kiệt, tài nguyên thiên nhiên và các hệ sinh thái suy giảm nghiêm trọng. Nhưng người dân miền núi vẫn trong tình trạng nghèo khổ. 3.2.7. Di dân và tập quán du canh du cư Sự di chuyển người nghèo tới các vùng khác là bình thường, tuy nhiên cuộc di chuyển dân này đã làm thay đổi sự cân bằng dân số ở miền núi. Sau khi đến nơi ở mới, những người di dân dù là di dân theo kế hoạch hay di cư tự do lại khai thác rừng lấy đất cày cấy làm nông nghiệp, chặt cây để xây dựng nhà ở…Sự di cư theo kế hoạch hay di cư tự do đã là nguyên nhân quan trọng làm tăng dân số ở các địa phương và đã làm ảnh hưởng rõ rệt đến đa dạng sinh học của vùng này. Du canh là tập quán sản xuất nông nghiệp lâu dài của nhiều dân tộc ít người ở Việt Nam. Trong số 54 dân tộc thì có tới 50 dân tộc với khoảng 9 triệu dân có tập quán du canh và do sức ép của sự gia tăng dân số, mà tốc độ của tăng dân số miền núi là cao nhất, du canh trở thành một nguyên nhân quan trọng làm mất rừng, thoái hoá đất và kết quả là tạo nên cả một vùng đất trống đồi trọc rộng lớn như hiện nay. 3.2.8. Sự nghèo đói Ở hầu hết các nước chậm phát triển và đang phát triển trên thế giới. Việt Nam với khoảng 70% dân số ở nông thôn, là một nước phụ thuộc vào nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên. Khu vực nông nghiệp còn nghèo hơn nhiều so với khu vực công nghiệp, vùng nông thông nghèo hơn khu vực thành thị, mức chênh lệch giữa nông thôn và thành thị còn rất xa. Mức nghèo đói thay đổi theo các vùng, trong đó nghèo nhất là vùng núi phía bắc và cao nguyên tây nguyên. Ngay trong các Khu bảo tồn, 90% dân địa phương sống trong vùng đệm của Khu bảo tồn. Họ kiếm sống dựa vào nông nghiệp và khai thác tài nguyên sinh học trong hệ sinh thái rừng. Hầu hết người dân thiếu đất trồng trọt. Đời sống của họ rất thấp, khoảng 50% gia đình thuộc diện nghèo. Như vậy, vì nghèo đói buộc người dân phải khai thác rừng, khai thác động thực vật, bóc lột ruộng đất của mình, làm cho tài nguyên sinh vật ngày càng suy thoái nhanh chóng hơn. 3.2.9. Mâu thuẫn trong các chính sách Các chính sách được soạn thảo và ban hành không đồng bộ, một số chủ trương chính sách nhằm kiểm soát tài nguyên sinh vật mang tính ứng phó ứng phó nhiều hơn là mang tính chủ động đã hoạch định sẵn. Các chủ trương đề ra nhằm ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học, nhưng thiếu các giải pháp kiểm soát chặt chẽ của các cấp quản lý. Đồng thời nhiều chính sách thiếu quan tâm đến mối quan hệ hữu cơ giữa cộng đồng địa phương với tài nguyên sinh vật, chưa đảm bảo tính thuyết phục nên tài nguyên sinh vật vẫn bị tác động và suy giảm. Chính sách quản lý phát triển tài nguyên sinh vật phục vụ cho các mục đích khác chưa được phối hợp đồng bộ trên cơ sở mẫu hình sử dụng bền vững tài nguyên 4. BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM 4.1 Tình hình bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam 4.1.1. Bảo tồn gen động vật hoang dã ở Việt Nam Hiện đã có hơn 275 loài và phân loài thú, 1026 loài và phân loài chim, 500 loài cá nước ngọt, khoảng 2000 loài cá biển... đã được nhận biết và còn nhiều loài động thực vật khác chưa được sưu tập, chứng tỏ nước ta là một trong những nước có tính đa dạng sinh học cao.Với 2 hình thức bảo tồn (nguyên vị và chuyển vi) và các chương trình bảo tồn các loại thú cụ thể chứng tỏ công tác bảo tồn nguồn gen động vật hoang dã đã được chú trọng. Tuy nhiên để bảo vệ được nguồn gen động vật hoang dã sự cần thiết phải có mối liên hệ chặt chẽ giữa các nhà khoa học, quản lý, dân cư địa phương và ở chính vườn Quốc gia và Khu bảo tồn, nơi đang lưu giữ các nguồn gen quí hiếm này. Chính phủ Việt Nam đã quan tâm đến việc bảo vệ nguồn gen động vật hoang dã, bảo vệ đa dạng sinh học. Năm 1962, Vườn Quốc gia đầu tiên được thành lập. Đó là Vườn Quốc gia Cúc Phương. Hệ thống rừng đặc dụng này được xây dựng nhằm bảo vệ các hệ sinh thái rừng, bảo vệ các nguồn gen động, thực vật, nhất là các loài động vật, thực vật quí hiếm và các loài có nguy cơ bị tiêu diệt. Đến nay, khi xem xét lại danh mục các khu rừng đặc dụng thì thấy còn một số hệ sinh thái điển hình còn nằm ngoài hệ thống này. Một số khu có diện tích còn nhỏ chưa đủ rộng để bảo vệ và bảo đảm sinh sống cho một số loài thú, nhất là một số loài thú lớn cần có nơi kiếm ăn rộng hơn như hổ, tê giác, bò xám, bò rừng,voi. Trong số những Khu bảo tồn có một số khu đặc biệt như Vườn Quốc gia Chàm Chim ở tỉnh Đồng Tháp để bảo vệ loài sếu cổ trụi và Khu bảo vệ Xuân Thủy ở cửa sông Hồng bảo vệ các loài chim nước di cư. Đây là khu bảo vệ Ramsar đầu tiên ở Việt Nam cũng như trong vùng Đông Nam Á. 4.1.2. Bảo tồn loài ở Việt Nam Theo danh sách đỏ của IUCN 2004, Việt Nam có 289 loài động vật và thực vật bị đe dọa toàn cầu. Sách đỏ Việt Nam cũng đã liệt kê 1.056 động vật và thực vật bị đe dọa ở mức quốc gia. So sánh với số liệu thống kê của lần biên soạn sách đỏ Việt Nam lần đầu tiên (Phần Động vật 1992, phần thực vật 1994), vào thời điểm năm 2005 số lượng loài được các nhà khoa học đề xuất đưa vào sách cần được bảo vệ của Việt Nam tăng lên đáng kể: 1065 loài so với 721 loài. Điều này chứng tỏ một thực tế là xu hướng quần thể của rất nhiều loài động thực vật tại Việt Nam đang suy giảm, ngày càng có nhiều loài phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Rất nhiều loài hiện chỉ còn tồn tại trong các quần thể có số lượng rất nhỏ và bị chia cắt. Mặc dù đã tham gia vào nhiều công ước quốc tế về đa dạng sinh học và đã có nhiều bộ luật liên quan tới công tác bảo tồn như luật bảo vệ môi trường, luật bảo vệ rừng và mới đây là luật đa dạng sinh học; nhưng hiện trạng bảo vệ đa dạng sinh học, nhất là bảo tồn các loài sinh vật quý hiếm ở Việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Một số trung tâm cứu hộ động vật đã được xây dựng như ở Cúc Phương, một số Khu bảo tồn loài cũng được thiết lập như các công viên Thủ Lệ, Bách Thảo ở Hà Nội và Thảo Cầm Viên ở Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng hoạt động của các tổ chức này còn yếu do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về tài chính. 4.1.3. Các khu bảo tồn tại Việt Nam Việt Nam là một trong những nước sớm quan tâm đến vấn đề bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học. Ngày 7 tháng 7 năm 1962, Vườn quốc gia Cúc Phương là KBT đầu tiên được thành lập ở miền Bắc. Thời gian đầu gọi là khu “rừng cấm” Cúc Phương, đây là khu bảo tồn thiên nhiên đối với hệ động thực vật trên núi đá vôi nằm tiếp giáp ở vùng sinh thái đồng bằng Bắc bộ và Tây Bắc. Ở miền Nam, năm 1965, Phạm Hoàng Hộ và Phùng Trung Ngân đã đề nghị và được chính phủ Sài Gòn quyết định thành lập 10 khu bảo vệ vùng thấp: Côn Đảo, Châu Đốc, Bảo Lộc, Rừng cấm săn bắn Đức Xuyên (Buôn Ma Thuột), đảo Hoang Loan và Mũi Dinh. Vùng núi cao có 3 khu: Chư Yang Sin (2405m), Đỉnh Lang Bian (2183m) và Bạch Mã-Hải Vân (1450m). Theo số liệu của IUCN (1974) miền Nam Việt Nam có 7 khu bảo tồn với diện tích 753.050 ha (Cao Văn Sung- Hệ thống các khu bảo vệ thiên nhiên ở Việt Nam-1994). Sau ngày thống nhất đất nước hệ thống các KBT được dần dần mở rộng, bổ sung và hoàn thiện cả về quy mô diện tích. Theo thống kê của Cục Kiểm lâm, đến tháng 12 năm 2005, Việt Nam đã có 130 khu BTTN với diện tích 2.409.288 ha được phân bố trên các vùng sinhthái trong cả nước bao gồm: + 31 Vườn Quốc gia + 48 khu Dự trữ thiên nhiên + 12 khu BTL/SC + 39 khu Bảo vệ cảnh quan Bảng 2.7: Số lượng và diện tích các khu BTTN (theo số liệu của Cục Kiểm Lâm năm 2005) TT Phân hạng Số lượng Diện tích (ha) I. Vườn quốc gia 31 1.050.242 II. Khu Bảo tồn thiên nhiên 60 1.184.372 II.1 Khu dự trữ thiên nhiên 48 1.100.892 II.2 Khu bảo tồn loài/sinh cảnh 12 83.480 III. Khu bảo vệ cảnh quan 39 174.614 Tổng cộng: 130 2.409.228 (Nguồn: Phòng BTTN-Cục Kiểm Lâm, 2005) Trong 130 KBT rừng, có 31 Vườn quốc gia (VQG), 48 Khu dữ trữ thiên nhiên, 12 khu bảo tồn loài và sinh cảnh, 39 khu bảo vệ cảnh quan, với tổng diện tích 2.409.228 ha, chiếm 7,3 % diện tích tự nhiên trên đất liền của cả nước. Một số khu rừng nghiên cứu tại các Viện, Trung tâm, các trường học cũng đã được thống kê vào trong hệ thống rừng đặc dụng, theo Luật bảo vệ và phát triển rừng sửa đổi năm 2004. Hê thống các khu rừng đặc dụng hiện có phân bố rộng khắp trên các vùng sinh thái toàn quốc. Tuy nhiên hệ thống các khu rừng đặc dụng hiện nay có đặc điểm là phần lớn các khu rừng đặc dụng đều có diện tích nhỏ, phân bố phân tán. Trong số 130 KBT có 15 khu có diện tích nhỏ hơn 1000 ha, chiếm 11,5%. Các khu có diện tích nhỏ hơn 10.000 ha là 53 khu, chiếm 40,8% các khu bảo tồn, bao gồm VQG 4 khu, 9 khu dữ trữ thiên nhiên, 9 khu bảo vệ loài, 31 khu bảo vệ cảnh quan. Chỉ có 12 khu có diện tích từ 50.000 ha trở lên. Nhiều khu bảo tồn còn bao chiếm nhiều diện tích đất nông nghiệp, đất thổ cư, ranh giới một số khu bảo tồn trên thực địa chưa rõ ràng, còn có tranh chấp, tính liên kết các khu yếu, chưa hình thành được các hành lang liên kết các KBT nhỏ, có nhiều đặc điểm giống nhau. Ở Viêt Nam, đã có nhiều khu Rừng đặc dụng (RĐD) đã được công nhận là các khu BTTNThế giới với các hình thức sau:   - 06 Khu bảo tồn sinh quyển thế giới: Cần giờ (Tp. Hồ Chí Minh), Cát Tiên (Đồng Nai, Lâm Đồng và Bình Phước), Cát Bà (Tp. Hải Phòng) và khu ven biển Đồng bằng sông Hồng (Ninh Bình, Nam Định và Thái Bình); Tây Nghệ An và Kiên Giang - 02 khu di sản TN thế giới: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) và Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình)` - 02 Khu Ramsar, bảo tồn đất ngập nước: Xuân Thủy (Nam Định), Vân Long 4.2 Giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam 4.2.1. Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên. - Hoàn thiện qui hoạch và phân hạng, xếp loại hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam ở các hệ sinh thái khác nhau (bao gồm các khu bảo tồn thiên nhiên trên cạn, đất ngập nước và khu bảo tồn thiên nhiên biển), trình Thủ tướng Chính phủ xét duyệt và quyết định về hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam trong thời kỳ mới. - Xác lập thứ tự ưu tiên quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên dựa trên nguyên tắc ưu tiên bảo tồn đa dạng sinh học và các tiêu chí được cấp có thẩm quyền phê duyệt. 4.2.2. Tăng cường quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. - Làm rõ mối quan hệ giữa vùng đệm và khu bảo tồn thiên nhiên bằng các giải pháp xây dựng Qui chế hoạt động và nguyên tắc phối hợp giữa vùng đệm với khu bảo tồn thiên nhiên. Qui định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia quản lý vùng đệm, đặc biệt đối với cộng đồng các dân tộc trên mỗi địa phương có khu bảo tồn thiên nhiên. Xây dựng kế hoạch dài hạn về đầu tư cho vùng đệm. - Xây dựng các qui ước về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học của cộng đồng dân cư thôn bản; xây dựng mô hình phát triển kinh tế hộ gia đình bền vững trong vùng đệm. - Tăng cường công tác bảo tồn chuyển vị các loài động, thực vật hoang dã đang bị đe doạ bằng các giải pháp xây dựng các Vườn thực vật, củng cố và phát triển các Trung tâm cứu hộ động vật hoang dã; - Xây dựng và ban hành văn bản pháp qui về nguyên tắc hợp tác và xác định trách nhiệm trong hoạt động du lịch sinh thái ở các khu bảo tồn thiên nhiên; thống nhất cơ chế chia xẻ lợi ích thu được từ du lịch và qui định tái đầu tư cho công tác quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học ở các khu bảo tồn thiên nhiên. - Bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách và xây dựng các mô hình phát triển vùng đệm. Xây dựng và ứng dụng rộng rãi việc thực hiện các dự án trình diễn về sử dụng các sản phẩm ngoài gỗ và trồng cây thuốc, các mô hình trồng cây làm củi phân tán và tập trung. - Hạn chế việc khai thác củi làm nhiên liệu và đảm bảo sử dụng bền vững lâm sản ngoài gỗ; ngăn chặn nạn săn bắn, tàng trữ và buôn bán sinh vật biển và động, thực vật hoang dã trái phép; kiểm soát các loài động, thực vật nhập nội. - Ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm, giảm thiểu tác động môi trường đối với đất ngập nước và các hệ sinh thái biển do phát triển kinh tế gây ra; nâng cao năng lực kiểm soát lửa rừng và phòng cháy chữa cháy rừng; giảm lấn chiếm đất lâm nghiệp. - Phát hiện những điều bất cập trong công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học để tìm ra các giải pháp hữu hiệu trên cơ sở phân tích, lựa chọn ý kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lý, các nhà bảo tồn và cộng đồng dân cư tại địa phương. 4.2.3. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao kiến thức và kỹ năng về bảo tồn. - Xây dựng chương trình và đưa vào kế hoạch quản lý các nghiên cứu về tài nguyên đa dạng sinh học, về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các vấn đề kinh tế - xã hội liên quan đến các khu bảo tồn thiên nhiên. - Tổ chức các lớp đào tạo và tập huấn về: điều tra và giám sát đa dạng sinh học trong các khu bảo tồn thiên nhiên; tập huấn kỹ năng xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu, kỹ năng thu thập, xử lý và bảo quản mẫu động, thực vật; nâng cao kỹ năng quản lý các hệ sinh thái trên cơ sở sử dụng kỹ thuật hiện đại và sử dụng thiết bị hiện trường phục vụ cho việc quản lý xây dựng và phát triển các khu bảo tồn thiên nhiên... - Tổ chức các lớp học và bồi dưỡng về Hệ thống thông tin địa lý (GIS), xây dựng các báo cáo và sử dụng phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu cho các cán bộ quản lý cấp tỉnh và vùng về công tác bảo tồn thiên nhiên. - Xây dựng và tổ chức các chương trình giáo dục và đào tạo để đáp ứng những nhu cầu khác nhau của những người liên quan trực tiếp đến công tác bảo tồn thiên nhiên và những người làm công tác tổ chức, quản lí cán bộ và hoạch định chính sách về quản lý và bảo tồn thiên nhiên. - Đào tạo các nhà khoa học và kỹ thuật viên về xây dựng các chương trình cơ sở dữ liệu (dài hạn) và về chiến lược tìm kiếm thông tin trên mạng thông tin quốc tế (Internet) (ngắn hạn), về xây dựng trang Web và đưa lên mạng; tuyển dụng cán bộ làm việc ở hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên theo đúng yêu cầu về trình độ chuyên môn. - Xây dựng các chương trình tham quan học tập ở trong và ngoài nước cho các cán bộ khu bảo tồn thiên nhiên để trao đổi kinh nghiệm và thông tin. - Khuyến khích thực hiện các dự án nghiên cứu tập trung kể cả trong các khu bảo tồn thiên nhiên bao gồm các lĩnh vực đánh giá phục vụ cho quá trình xây dựng chính sách của Chính phủ. - Tổ chức đánh giá các khu vực có thể tiến hành trồng rừng hoặc tái sinh rừng trong khu bảo tồn thiên nhiên và xác định loài cây bản địa phù hợp cho từng vùng. - Nâng cao kỹ năng xây dựng các dự án phát triển vùng đệm và các khu vực khác gần các khu bảo tồn thiên nhiên về sử dụng tài nguyên một các bền vững và các dự án phục hồi rừng trong khu bảo tồn thiên nhiên. 4.2.4. Đẩy mạnh công tác Thông tin - Giáo dục - Truyền thông và thu hút cộng đồng tham gia vào công tác bảo tồn đa dạng sinh học: - Xây dựng các chương trình về Thông tin - Giáo dục - Truyền thông để tiến hành nâng cao nhận thức về đa dạng sinh học và khu bảo tồn thiên nhiên cho các cộng đồng dân cư sống ở vùng lõi và vùng đệm của các khu bảo tồn thiên nhiên, các nhà quản lý khu bảo tồn thiên nhiên, chính quyền và các nhà hoạch định chính sách ở các cấp. - Đào tạo cán bộ truyền thông về bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ các khu bảo tồn thiên nhiên và xem họ là lực lượng nòng cốt được giao nhiệm vụ nâng cao nhận thức về bảo tồn đa dạng sinh học ở cấp cơ sở. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng thực hiện công tác truyền thông về bảo tồn đa dạng sinh học và quản lý khu bảo tồn thiên nhiên cho cán bộ quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên.  - Tổ chức phổ cập kiến thức về bảo tồn đa dạng sinh học và quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên cho cán bộ chủ chốt của các xã có khu bảo tồn thiên nhiên và vùng đệm. - Phát triển công tác truyền thông về các khu bảo tồn thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học đến cộng đồng dân cư để nâng cao nhận thức và năng lực quản lý cho cộng đồng. - Thu hút các tổ chức như: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam... và cộng đồng dân cư các địa phương vào công tác lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động nâng cao nhận thức. - Đưa kiến thức liên quan đến đa dạng sinh học và khu bảo tồn thiên nhiên vào các giáo trình ở cấp tiểu học, trung học và đại học, nhất là ở các trường sư phạm và trường nội trú ở các tỉnh miền núi. - Khuyến khích các tổ chức phi chính phủ chủ động thực hiện các công việc chuyển giao kiến thức, nghiên cứu, đào tạo và hỗ trợ việc quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên và phát triển vùng đệm, nhất là hoạt động nông lâm nghiệp. 4.2.5. Tăng cường hợp tác quốc tế: - Thực hiện kế hoạch hành động đa dạng sinh học đã ban hành và Chiến lược quản lý hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam để tăng thêm những đóng góp thiết thực và cụ thể của nước ta vào việc thực hiện Công ước quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học. - Rà soát lại danh mục đề xuất các khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước và đề xuất thêm các khu mới để đưa vào danh sách các khu Ramsar nhằm thu hút sự quan tâm của cộng đồng trong và ngoài nước. - Thúc đẩy bảo vệ bền vững đất ngập nước và duy trì các khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước (cả các khu to và nhỏ) khỏi khô cạn hoặc được sử dụng vào những mục đích khác, làm suy giảm đa dạng sinh học và các giá trị của chúng. - Phân công trách nhiệm, cung cấp nguồn lực và cơ sở vật chất cho công tác giám sát việc tuân thủ các Công ước RAMSAR, nhất là tại các khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước. - Đảm bảo đúng tiến độ và độ tin cậy của các báo cáo quốc gia được thực hiện ba năm một lần và tham dự đầy đủ các cuộc hội thảo của các nước thành viên và duy trì liên lạc với Ban thư ký Công ước Ramsar. - Thực thi luật pháp quốc gia về động, thực vật hoang dã và tiến hành các hội thảo đào tạo về Công ước buôn bán Quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (Công ước CITES) cho các cơ quan liên quan của Việt Nam. - Tăng cường năng lực thực hiện Công ước CITES của các cơ quan thẩm quyền CITES bằng cách nâng cao sự tiếp cận (ví dụ: dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt) các tài liệu của CITES và tham dự vào cuộc họp Hội nghị các nước thành viên của CITES. Hợp tác có hiệu quả trong việc thực hiện các hoạt động của Tổ chức giám sát buôn bán động thực vật (TRAFFIC). - Khuyến khích phối hợp thực thi Công ước CITES giữa Việt Nam và các nước láng giềng. Xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia để tăng cường kiểm soát buôn bán động, thực vật hoang dã bất hợp pháp và không bền vững. Xây dựng Chiến lược buôn bán động, thực vật hoang dã Khu vực nhằm đảm bảo nỗ lực hợp tác quốc tế giải quyết các vấn đề về buôn bán động thực vật hoang dã. III. KẾT LUẬN Nằm ở vùng Đông Nam châu Á với diện tích khoảng 330.541 km2, Việt Nam là một trong 16 nước có tính đa dạng sinh học cao trên thế giới . Đặc điểm về vị trí địa lý, khí hậu ... của Việt Nam đã góp phần tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái và các loài sinh vật. Về mặt địa sinh học, Việt Nam là giao điểm của các hệ động, thực vật thuộc vùng Ấn Độ - Miến Điện, Nam Trung Quốc và Inđo-Malaysia. Các đặc điểm trên đã tạo cho nơi đây trở thành một trong những khu vực có tính đa dạng sinh học cao của thế giới, với khoảng 10% số loài sinh vật, trong khi chỉ chiếm 1% diện tích đất liền của thế giới. Đa dạng sinh học có vai trò rất quan trọng đối với việc duy trì các chu trình tự nhiên và cân bằng sinh thái. Đó là cơ sở của sự sống còn và thịnh vượng của loài người và sự bền vững của thiên nhiên trên trái đất. Do đó, ngày nay bảo vệ đa dạng sinh học đang được quan tâm không chỉ ở phạm vi ở Việt Nam mà là mối quan tâm chung của toàn nhân loại. Bởi vì bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như hạn chế các tác động của sự thay đổi khí hậu. Hệ thống khu bảo tồn hiện nay đã và đang phát huy tác dụng trong việc bảo vệ tài nguyên đa dạng sinh học. Tuy nhiên để bảo tồn tốt hơn không những đòi hỏi từng quốc gia, từng địa phương phải đề xuất được các kế hoạch quản lý thích hợp, mà các nhà quản lý, chính sách cần có những hiểu biết sâu sắc về đa dạng sinh học, về các điều kiện kinh tế xã hội và văn hoá của từng khu vực cụ thể v.v. để có những quyết định chính xác và các chính sách phù hợp cho công tác bảo tồn. Mục tiêu của bảo tồn thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học là hướng tới sự thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu cuộc sống của con người về tất cả các mặt. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi có sự liên kết, hổ trợ giúp đỡ giữa các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học, các doanh nghiệp, cộng đồng v.v. nhằm làm cho quá trình phát triển không ảnh hưởng tới các hoạt động bảo tồn và hoạt động bảo tồn sẽ hổ trợ ngày càng tốt hơn cho quá trình phát triển.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBAI NHOM KTLN day du.doc