Chuyên đề Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS - SV tại cơ quan BHXH Việt Nam

Sau 10 năm thực hiện, được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, của các Bộ, Ban, Ngành hữu quan và của UBND các cấp, sự phối hợp của Sở Y tế các tỉnh, thành phố, các cơ sở KCB, các tổ chức đoàn thể, các cơ quan truyền thông từ Trung ương đến địa phương và sự cố gắng của các cán bộ nhân viên trong ngành BHXH, việc thực hiện chính sách BHYT HS - SV đã đạt được những kết quả quan trọng, đáng khích lệ tạo cơ sở cho sự phát triển và mở rộng BHYT HS - SV để tiến tới BHYT toàn dân trong những năm tới. Số lượng học sinh – sinh viên tham gia liên tục tăng, quyền lợi của học sinh tham gia BHYT được đảm bảo và ngày càng mở rộng. Quỹ BHYT HS - SV luôn ổn định đảm bảo chi trả cho việc chăm sóc sức khoẻ cho học sinh. Giảm dần sự bao cấp của Nhà nước chuyển sang hình thức Nhà nước và nhân dân cùng chi trả. Nguồn thu từ BHYT HS - SV đã hỗ trợ một phần chi phí cho các cơ sở KCB, đặc biệt là YTHĐ tạo điều kiện cho việc củng cố và nâng cao chất lượng dịch vụ. Để thực hiện thắng lợi BHYT HS - SV nói chung từng bước tiến tới BHYT toàn dân thì các cấp các ngành phải chuẩn bị cho mình các giải pháp thiết thực để đẩy nhanh sự phát triển của BHYT HS – SV. Trên đây em đã đưa ra một số giải pháp cụ thể cho từng cơ quan có liên quan nhằm từng bước chăm lo sức khoẻ toàn diện cho học sinh. Em tin tưởng rằng với sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan hữu quan cùng với sự nỗ lực của hệ thống BHXH và cơ sở KCB thì công tác BHYT HS - SV nói riêng và BHYT nói chung ngày càng phát triển sớm thực hiện thành công nghị quyết Trung ương là tiến tới BHYT toàn dân.

doc90 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1329 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS - SV tại cơ quan BHXH Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Hơn nữa, số học sinh tham gia ở các khu vực này đông chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số học sinh – sinh viên tham gia của cả nước, cụ thể số thu của các năm có sự biến động như sau: Năm học 1998 – 1999 số thu tăng 10.970 triệu đồng tương ứng tăng 22,9% so với năm học 1997 – 1998. Năm học 1999 – 2000 số thu tăng 2.111 triệu đồng tương ứng tăng 3,6% so với năm học 1998 – 1999. Năm học 2000 – 2001 số thu tăng 5.293 triệu đồng tương ứng tăng 8,7% so với năm học 1999 – 2000. Năm học 2001 – 2002 số thu tăng 23.650 triệu đồng tương ứng tăng 35,7% so với năm học 2000 – 2001. Năm học 2002 – 2003 số thu tăng 24.855 triệu đồng tương ứng tăng 27,6% so với năm học 2001 – 2002. Năm học 2003 – 2004 số thu tăng 55.939 triệu đồng tương ứng tăng 48,7% so với năm học 2002 – 2003. Do BHYT hoạt động theo nguyên tắc tự cân đối thu chi nên tổng thu tăng là điều kiện tốt để duy trì các khoản chi đảm bảo quyền lợi cho người tham gia. BHYT hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nên thu để chi là một nét điển hình riêng biệt của BHXH, đây cũng thể hiện tính nhân văn và nhân đạo sâu sắc mà bảo hiểm thương mại không thể có, chính vì vậy chỉ có Nhà nước mới đứng ra tổ chức được. Tuy nhiên so với số thu của bảo hiểm học sinh tại các công ty bảo hiểm thương mại thì số thu của BHYT HS - SV quả là rất thấp. Bảng 10: So sánh số thu BHYT HS - SV và số thu bảo hiểm học sinh Năm học Số thu BHYT HS - SV Số thu bảo hiểm học sinh (triệu đồng) (triệuđồng) 1999 – 2000 61.044 132.096 2000 – 2001 66.337 180.000 2001 – 2002 89.987 200.000 2002 – 2003 114.842 230.000 2003 – 2004 170.781 270.000 ( Nguồn: Ban tự nguyện – BHXH Việt Nam và chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ 2003 – 2010 của Bộ Tài chính) Qua bảng so sánh trên ta có thể thấy số thu của bảo hiểm học sinh tại các công ty bảo hiểm thương mại luôn cao hơn số thu của BHYT HS – SV. Năm học 1999 – 2000 số thu của bảo hiểm học sinh cao gấp 2,16 lần so với BHYT HS – SV. Năm học 2000 – 2001 số thu của bảo hiểm học sinh cao gấp 2,71 lần so với BHYT HS – SV. Năm học 2001 – 2002 số thu của bảo hiểm học sinh cao gấp 2,22 lần so với BHYT HS – SV. Năm học 2002 – 2003 số thu của bảo hiểm học sinh cao gấp 2,00 lần so với BHYT HS – SV. Năm học 2003 – 2004 số thu của bảo hiểm học sinh cao gấp 1,58 lần so với BHYT HS – SV. Sở dĩ số thu của bảo hiểm học sinh cao hơn là do số học sinh tham gia bảo hiểm tại công ty bảo hiểm thương mại luôn cao hơn BHYT HS - SV và mức phí của các công ty này cũng khá cao. Bảng11: Phí bảo hiểm học sinh Đơn vị: đồng Năm 1999 2000 2001 2002 2003 Phí bảo hiểm 131.295 132.096 180.000 200.000 230.000 (Nguồn: chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ 2003 – 2010 của Bộ Tài chính) So với mức đóng của BHYT HS - SV chỉ từ 25.000 – 70.000 thì mức phí của bảo hiểm học sinh quả là rất lớn, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tham gia. 3.2. Tình hình chi BHYT HS – SV. BHYT HS - SV là chính sách xã hội với mục đích là chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ học sinh – sinh viên, là loại hình BHYT tự nguyện nên quỹ đựơc hạch toán riêng và tự cân đối thu chi. Vì vậy việc sử dụng quỹ có hiệu quả là việc làm rất khó trong khi chi phí y tế đều có xu hướng tăng cao. Để đánh giá việc chi của quỹ BHYT HS - SV chúng ta xem xét qua các bảng số liệu sau để biết thêm tình hình chi qua các năm ra sao: Bảng 12: Tình hình chi BHYT HS – SV Năm học Chi YTHĐ (triệu đồng) Cả 5% hoa hồng Chi KCB ( triệu đồng) Tổng chi (Triệu đồng) 1998 – 1999 20.626 35.360 55.986 1999 – 2000 21.365 36.626 57.991 2000 – 2001 23.218 39.802 63.020 2001 – 2002 30.457 51.927 82.384 2002 – 2003 33.800 67.898 101.698 2003 – 2004 37.082 116.644 153.726 ( Nguồn: Phòng Kế hoạch tổng hợp – Ban tự nguyện - BHXH Việt Nam ) Qua bảng số liệu trên ta thấy tổng chi qua các năm đều tăng một phần là do chi phí y tế tăng nhanh và do việc Nhà nước chú ý nâng cao chất lượng ở tất cả các tuyến đặc biệt là tuyến cơ sở. Năm 1998 – 1999 tổng chi KCB cho đối tượng học sinh - sinh viên là 35.360 triệu đồng trong đó chi cho YTHĐ là 20.626 triệu đồng chiếm phần lớn trong tổng số chi của quỹ. Trong các năm học sau quỹ để lại nhà trường phục vụ cho YTHĐ tăng lên theo từng năm góp phần chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho học sinh tốt hơn. Đặc biệt năm học 2002 – 2003 chi cho công tác YTHĐ chiếm một nửa số chi của cả năm. Điều đó cho thấy không phải chỉ các em tham gia BHYT HS - SV mới được hưởng lợi ích từ công tác YTHĐ, hơn nữa nếu làm tốt công tác này thì sẽ hạn chế được các khoản chi cho KCB vì các em được KCB tại trường nên sớm phát hiện ra bệnh đề kịp thời ngăn ngừa và chữa trị. Cụ thể: Năm học 1999 – 2000 tổng chi tăng 2.005 triệu đồng tương ứng tăng 3,58% trong đó chi cho YTHĐ tăng 739 triệu đồng và chi cho KCB tăng 1.266 triệu đồng cùng tăng tương ứng là 3,58% so với năm học 1998 – 1999. Năm học 2000 – 2001 tổng chi tăng 5.029 triệu đồng trong đó chi cho YTHĐ là 1.853 triệu đồng và chi cho KCB tăng 3.176 triệu đồng cùng tăng tương ứng là 8,67% so với năm học 1999 – 2000. Năm học 2001 – 2002 tổng chi tăng mạnh là 19.364 triệu đồng tương ứng tăng 30,73% trong đó chi cho YTHĐ tăng 7.239 triệu đồng tương ứng tăng 31,18% và chi cho KCB tăng 12.125 triệu đồng tương ứng tăng 30,46% so với năm học 2000 – 2001. Năm học 2002 – 2003 tổng chi tăng 19.314 triệu đồng tương ứng tăng 23,44% trong đó chi cho YTHĐ tăng 3.343 triệu đồng tương ứng tăng 10,98% và chi cho KCB tăng 15.971 triệu đồng tương ứng tăng 30,76% so với năm học 2001 – 2002. Năm học 2003 – 2004 tổng chi tăng đột biến 52.028 triệu đồng tương ứng tăng 51,16% trong đó chi cho YTHĐ chỉ tăng 3.282 triệu đồng tương ứng tăng 9,71% còn phần lớn là chi cho KCB tăng 48.746 triệu đồng tương ứng tăng 71,79% so với năm học 2002 – 2003. Điều này cũng phù hợp với thực tế bởi lẽ đây là năm chi phí y tế có biến động lớn đặc biệt là việc tăng giá các loại thuốc do Bộ Y tế quản lý không nghiêm. Từ năm học trước giá thuốc và chi phí y tế khác đã tăng cao làm cho nhiều địa phương bị bội chi do phần chi tăng đột biến trong khi mức phí đóng điều chỉnh chưa tăng kịp so với mức tăng của chi phí. Tuy nhiên công tác y tế trường học vẫn đảm bảo ổn định, nhờ kinh phí để lại nhà trường từ số thu BHYT mà công tác YTHĐ ở nhiều nơi được khôi phục. Tại các trường học có nguồn kinh phí từ BHYT , học sinh được thực hiện các nội dung chăm sóc sức khoẻ ban đầu, chi muc thuốc, các dụng cụ y tế thông thường, trả lương và các khoản phụ cấp khác cho cán bộ YTHĐ. Đây chính là điểm ưu việt khác biệt mang tính xã hội riêng có của BHYT so với các sản phẩm bảo hiểm học sinh của các công ty Bảo hiểm thương mại như Bảo Việt, PJICO, Bảo Minh …Tại trường học các em được khám sức khoẻ định kỳ, nhiều em được phát hiện bệnh kịp thời và được thông báo tới gia đình để có hướng điều trị. Theo một cuộc điều tra nghiên cứu 23.833 học sinh ở Hà Nội, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Thái Bình và Hoà Bình về các bệnh thường gặp ở học sinh - sinh viên là: nhiễm ký sinh trùng đường ruột ( 78,9%), bệnh tiêu hoá ( 47,6%), bệnh thiếu máu ( 21,5%), bệnh về mắt và phần phụ của mắt (18,5%), bệnh hô hấp (15,25%) …Nhưng cho đến nay hầu hết học sinh mắc các bệnh này đã giảm đáng kể vì đã được phòng tránh được thông qua chương trình YTHĐ. Bảng 13: Chi tiết chi phí KCB cho học sinh – sinh viên trong 5 năm 1998 - 2003 Năm học KCB nội trú ( số lượt) KCB ngoại trú ( số lượt) Chi KCB ( triệu đồng) 1998 – 1999 232.630 1.213.000 35.360 1999 – 2000 179.160 450.204 36.626 2000 – 2001 146.972 352.400 39.802 2001 – 2002 195.097 525.189 51.927 2002 – 2003 230.546 892.843 67.898 2003 – 2004 285.769 1.305.432 116.644 ( Nguồn: Ban tự nguyện – BHXH Việt Nam ) Cùng với sự tăng lên về số lượng học sinh tham gia BHYT thì số tiền chi cho KCB cả nội trú và ngoại trú đều tăng lên đáng kể. Năm 1998 – 1999 do bổ sung thêm quyền lợi chi trả điều trị ngoại trú nên số lượt em đi KCB ngoại trú tăng lên đột biến và có số lượt người đi KCB cao nhất trong các năm qua. Hàng năm có hàng trăm nghìn lượt học sinh được chăm sóc sức khoẻ, KCB ngoại trú và điều trị nội trú. Do ảnh hưởng bởi số học sinh tham gia năm 1998 – 1999, 1999 – 2000 nên số lượt em đi KCB cũng giảm so các năm trước đó. Năm học 1999 – 2000 số lượt điều trị nội trú giảm 53.470 lượt tương ứng giảm 23%, số lượt điều trị ngoại trú giảm 762.796 lượt tương ứng giảm 62,8% so với năm 1998 – 1999. Năm học 2000 – 2001 số lượt điều trị nội trú giảm 32.188 lượt tương ứng giảm 18%, số lượt KCB ngoại trú giảm 97.804 lượt tương ứng giảm 21,7% so với năm học 1999 – 2000. Năm học 2001 – 2002 số lượt KCB nội trú tăng 48.125 lượt tương ứng tăng 32,7%, số lượt KCB ngoại trú tăng 172.789 lượt tương ứng tăng 49,03% so với năm học 2000 – 2001. Năm học 2002 – 2003 số lượt KCB nội trú tăng 35.449 lượt tương ứng tăng 18,17%, số lượt KCB ngoại trú tăng 367.654 lượt tương ứng tăng 70% so với năm học 2001 – 2002. Năm học 2003 – 2004 số lượt KCB nội trú tăng 55.223 lượt tương ứng tăng 23,95% còn KCB ngoại trú tăng 412.589 lượt tương ứng tăng 46,21% đã làm cho tổng chi KCB tăng 48.746 triệu đồng tương ứng tăng 71,76% so với năm học 2002 – 2003. III. Đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động BHYT HS - SV tại BHXH Việt Nam. Sau 10 năm thực hiện BHYT tự nguyện ( 1994 – 2004) cho đối tượng học sinh – sinh viên Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã gặt hái được những kết quả khả quan đáng mừng. Số lượng học sinh tham gia BHYT nhìn chung tăng dần qua từng năm. Năm học 2003 – 2004 có số học sinh tham gia là 5.078.730 em cao nhất trong 10 năm qua. Cho đến nay tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đã thực hiện BHYT HS - SV trong đó các địa phương có số học sinh tham gia đông là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thái Bình, Nghệ An …Các địa phương có tỷ lệ học sinh tham gia cao so với tổng số học sinh trên địa bàn là Huế ( 67%), Thái Bình ( 66%), Đà Nẵng ( 63%). Hàng năm có hàng trăm nghìn lượt em đi KCB ngoại trú và điều trị nội trú. Cụ thể: Bảng 14: Bình quân số lượt KCB của học sinh – sinh viên Năm học Số lượt KCB nội trú bình quân (lượt/ h.s) Số lượt KCB ngoại trú bình quân (lượt/h.s) Chi phí KCB bình quân (triệu đồng/h.s) 1998 – 1999 0,068 0.357 0.010 1999 – 2000 0,061 0.152 0.012 2000 – 2001 0,047 0.114 0.013 2001 – 2002 0,046 0.125 0.012 2002 – 2003 0,047 0.182 0.014 (Nguồn: Tính từ bảng 9 và bảng 11) Từ năm 1999 – 2000 BHYT HS - SV thực hiện theo Thông tư 40/1998 thì bình quân số lượt học sinh được đi KCB cả nội trú và ngoại trú đều ổn định. Trung bình cứ 21 em học sinh – sinh viên tham gia BHYT HS - SV thì có 1 em đi KCB và điều trị nội trú, trung bình cứ 8 em tham gia có 1 em điều trị ngoại trú. Như vậy số học sinh tiếp cận với các dịch vụ y tế là khá nhiều. Quyền lợi của học sinh được đảm bảo, nhiều trường hợp KCB theo yêu cầ riêng cũng được thanh toán chi phí theo tuyến chuyên môn kỹ thuật phù hợp với qui định của Bộ Y tế. Chất lượng KCB ngày càng được nâng cao, nhiều thuốc đắt tiền và trang thiết bị hiện đại cũng được đưa vào để chuẩn đoán và điều trị cho học sinh – sinh viên. Số tiền KCB bình quân một em học sinh dao động từ 10.000 – 15.000 đồng/năm/học sinh phù hợp với mức đóng hiện hành. Tuy nhiên, nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy chi phí KCB bình quân đang có xu hướng tăng lên. Do không hạn chế trần tối đa chi phí điều trị nên có nhiều em được cơ quan BHXH chi trả hàng chục triệu đồng, những em không may tử vong đều được trả trợ cấp theo đúng qui định và được cán bộ BHXH mang đến tận nhà. Bảng 15: Hiệu quả sử dụng quỹ BHYT HS - SV Năm học Số học sinh tham gia( người) Số thu Tổng chi Tổng chi/ thu ( triệuđồng) (Triệu đồng) ( %) 1998 – 1999 3.396.400 58.933 55.986 95,0 1999 – 2000 2.955.160 61.044 57.991 95,0 2000 – 2001 3.101.123 66.337 63.02 95,0 2001 – 2002 4.201.514 89.987 82.384 91,6 2002 – 2003 4.910.640 114.842 101.698 88,5 2003 – 2004 5.078.730 170.781 153.726 90,01 (Nguồn: Tính từ bảng 9 và 10) Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy tỷ lệ tổng chi/ thu của quỹ BHYT HS - SV đều đạt ở mức cao càng chứng tỏ mục đích BHYT HS - SV hoạt động không vì mục đích kinh doanh. Số tiền thu được đều để phục vụ cho mục đích chăm sóc sức khoẻ cho học sinh – sinh viên. Điều đó khẳng định quyền lợi của học sinh rất được đảm bảo, tuy nhiên có thể thấy mức thu còn thấp trong khi chi phí y tế ngày càng tăng cao và không phải địa phương nào cũng cân đối được quỹ. Số tiền kết dư cuối năm của nhiều địa phương đã được chuyển sang mua thẻ cho học sinh nghèo năm sau, nhờ đó nhiều em có hoàn cảnh gia đình khó khăn đã được tham gia vào BHYT HS – SV giúp cho các em yên tâm học tập. Có thể nói mạng lưới y tế trường học đã được khôi phục và xây dựng mới trên kinh phí để lại nhà trường. Hàng năm số tiền để lại nhà trường là rất lớn chiếm hơn 1/3 số thu khẳng định một điều là Nhà nước ta quan tâm đến công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho học sinh – sinh viên hơn các đối tượng khác. Các trường có YTHĐ hoạt động đều thực hiện tốt việc chăm sóc sức khoẻ cho các em, phòng tránh kịp thời các bệnh về mắt, răng miệng, cong vẹo cột sống …hoặc tối thiểu các em cũng được uống nước sạch, học tập trong môi trường sạch đẹp. Tại nhiều trường hoạt động YTHĐ rất có hiệu quả đã gây được thiện cảm nhất định đối với học sinh và phụ huynh nhờ đó mà số lượng học sinh tham gia BHYT ngày một tăng. * Những khó khăn, tồn tại trong khi thực hiện BHYT HS - SV tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Mặc dù vậy, bên cạnh những kết quả đã đạt được không phải là không có những khó khăn, hạn chế, những mặt còn tồn tại trong quá trình thực hiện. Sau 10 năm thực hiện, BHYT HS - SV mới chỉ đạt được kết quả hết sức khiêm tốn là do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Có thể nói có các nguyên nhân khách quan chủ yếu sau: Một là, nền kinh tế mới chuỷên đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường nên phụ huynh học sinh phải đóng góp nhiều khoản , nhiều gia đình không đủ khả năng tham gia. Những năm gần đây, kinh tế có phát triển khá song thu nhập bình quân đầu người con thấp. Do đầu tư không đều nên kinh tế giữa các địa phương còn có nhiều khoảng cách, chỉ các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội …khu vực tập trung nhiều dân cư như các thành phố, thị xã của tỉnh trực thuộc Trung ương mới có điều kiện tham gia. Mặc dù đã đưa ra mức phí riêng cho khu vực thành thị và nông thôn nhưng chưa sát thực tế bởi lẽ mức đóng của khu vực nông thôn không thấp hơn nhiều so với khu vực thành thị trong khi thu nhập của người dân ở hai khu vực này có sự khác biệt khá lớn. Chính vì vậy chưa thu hút được đông đảo học sinh ở nông thôn tham gia. Hai là, việc tổ chức thực hiện chưa được tốt. BHYT HS - SV được triển khai sau 2 năm thực hiện BHYT cho đối tượng bắt buộc nên chưa có nhiều kinh nghiệm. Một số chủ trương đưa ra nhưng chưa thực hiện được một cách hoàn chỉnh. Các văn bản hướng dẫn còn thiếu sự đồng bộ, số lượng các văn bản còn nhiều đôi khi bị chồng chéo gây khó khăn cho cả người tham gia và người tổ chức thực hiện. Cán bộ làm công tác BHYT chưa thực sự mặn mà với việc thu hút đối tượng tham gia bởi họ chỉ ăn lương Nhà nước và phụ cấp còn thấp. Ba là, sự tiếp đón học sinh – sinh viên đến KCB chưa thực sự tốt. Cũng như các đối tượng có thẻ BHYT khác, học sinh – sinh viên bị đối xử không công bằng do một số cán bộ y tế gây ra. Điều này đã để lại thành kiến không tốt cho phụ huynh học sinh cũng như chính các em học sinh. Cha mẹ học sinh thường phàn nàn nhiều về những tồn tại trong công tác KCB cả về chất lượng điều trị cũng như tinh thần tái độ phục vụ đối với con em mình, đây là lý do thường gặp khi họ từ chối tham gia. Nếu như người lớn thấy bực mình, không hài lòng về thái độ phục vụ của nhân viên y tế thì học sinh còn cảm thấy sợ vì các em còn bị quát mắng do nhỏ tuổi. Trên thực tế qua khảo sát thấy đúng là có tình trạng trên song không phải là phổ biến. Thậm chí có người mới chỉ nghe nói nhưng đã trở nên có thành kiến. Vì vậy một số ít nhân viên y tế không làm theo đúng đạo đức nghề nghiệp đã gây cản trở trong việc vận động mọi người tham gia. Bốn là, một số địa phương vẫn thường xuyên bị bội chi trong một thời gian dài. Lý do chính là các địa phương này có tỷ lệ tham gia thấp nên đã tự ý mở rộng quyền lợi để thu hút đối tượng tham gia. Nhiều nơi không quản lý chặt và làm không tốt công tác thống kê nên đến cuối năm vẫn không tổng kết được tiến độ thực hiện kế hoạch mà Bảo hiểm xã hội Việt Nam giao để kịp thời báo cáo lên trên. Do vậy cơ quan quản lý không nắm bắt được tình hình thực tế thực hiện kịp thời để đưa ra phương án giải quyết cũng như định hướng hoạt động cho năm tiếp theo. Năm là, phần trăm trích lại từ số thu BHYT ( 35%) sử dụng chưa có hiệu quả. Việc hình thành mạng lưới y tế trường học nhìn chung còn châm và còn nhiều vướng mắc, không ít trường chưa tổ chức được phòng y tế, chưa có cán bộ y tế trường học vì vậy còn lúng túng trong quản lý và sử dụng phần kinh phí trích lại. Nguyên nhân chính là do số học sinh – sinh viên của trường tham gia ít cho nên phần trích lại chưa đủ kinh phí để tổ chức YTHĐ. Hà Nội là thành phố thực hiện BHYT HS - SV tương đối tốt. Năm học 2002 – 2003, số tiền trích lại cho YTHĐ là 3.535 triệu đồng, với 657 trường tham gia BHYT thì tính bình quân một trường chỉ được trích lại là 5,4 triệu đông/năm. Riêng tiền trả cho cán bộ y tế với mức tối thiểu là 300.000đồng/tháng thì một năm nhà trường phải trả 3,6 triệu/ năm. Như vậy chỉ còn lại 1,8 triệu đồng/năm dành cho công tác chăm sóc sức khoẻ cho học sinh – sinh viên. có những trường học sinh tham gia ít nên số tiền để lại chỉ vài trăm ngàn đồng. Với chi phí y tế như hiện nay thì số tiền đó không thể làm gì ngoài việc mua thuốc rẻ tiền thông thường, trang thiết bị y tế thô sơ như bông, băng …Với số tiền trả hàng tháng ít ỏi cho cán bộ y tế thì không mấy toàn tâm toàn ý với YTHĐ. Đa số là ký hợp đồng ngắn hạn giữa nhà trường và cán bộ y tế, thiếu cán bộ y tế có trình độ chuyên môn, chủ yếu là kiêm nhiệm. Thậm chí chưa có chế độ BHYT , BHXH cho cán bộ y tế vì vậy họ chỉ làm tạm thời trong thời gian ngắn, không khuyến khích cán bộ YTHĐ gắn bó với công việc dẫn đến tình trạng phục vụ chưa được tốt, nếu tìm được công việc tốt hơn họ sẽ chuyển đi ngay. Ban giám hiệu nhà trường hiểu rất rõ về vấn đề này nhưng do chưa có cơ chế cụ thể cho cán bộ y tế nên mỗi trường áp dụng phương thức trả lương riêng. Sáu là, công tác thông tin tuyên truyền còn nhiều hạn chế. Ngay cả số cán bộ YTHĐ được tuyên truyền về BHYT HS - SV còn thấp. BHYT HS - SV có đặc điểm là gắn liền với trường học nhưng công tác thông tin tuyên truyền lại xa rời với môi trường này. Đa số các trường không phổ biến trực tiếp nội dung, quyền lợi, tác dụng của BHYT tới học sinh – sinh viên mà thông qua buổi họp phụ huynh để thông báo. Một phần do thời gian có hạn, mỗi năm chỉ họp phụ huynh vài lần, phổ biến về BHYT chỉ hai lần vào đầu mỗi học kỳ. Hơn nữa ngay cả giáo viên cũng chưa nắm rõ về BHYT HS - SV nên chỉ thông báo tới phụ huynh mức đóng. Tiền học của học sinh – sinh viên cũng rất lớn nên khoản đóng góp về BHYT được coi như “ gánh nặng” nên phụ huynh không mấy thiết tha với khoản đóng góp tự nguyện này. Họ chỉ thấy không bắt buộc phải mua nên họ sẵn sàng gạt ra ngoài các khoản đóng học bắt buộc mà không nghĩ đến quyền lợi của con em mình khi tham gia BHYT. Chương III Một số kiến nghị nhằm phát triển BHYT HS - SV tại BHXH Việt Nam I.Quan điểm định hướng của Đảng và Nhà nước ta trong việc tổ chức thực hiện BHYT HS - SV từ nay đến 2010. 1. Quan điểm định hướng của Đảng và Nhà nước Đảng và Nhà nước ta đã nhận định rằng con người là nguồn tài nhuyên quý báu của đất nước. Một xã hội muốn phát triển phải cần đến những con người khoẻ mạnh, vì vậy cần phải đầu tư cho sức khoẻ của nhân dân. Đầu tư cho sức khoẻ là đầu tư cho sự phát triển của kinh tế xã hội. Học sinh – sinh viên đang học tập tại các loại hình trường học là thế hệ tương lai của đất nước, là người quyết định vận mệnh của đất nước nên chăm lo cho thế hệ trẻ này chính là chăm lo cho đất nước trong tương lai. Tại đại hội Đảng IX Đảng ta đã chỉ rõ: “ thực hiện đồng bộ các chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở. Xây dựng một số trung tâm y tế chuyên sâu. Đẩy mạnh sản xuất dược phẩm, bảo đảm các loại thuốc thiết yếu đến với mọi địa bàn dân cư. Thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khoẻ, đổi mới cơ chế chính sách viện phí, có chính sách trợ cấp và BHYT cho người nghèo, tiến tới BHYT toàn dân”. Như vậy tiến tới BHYT toàn dân là một trong những nhiẹm vụ chiến lược quan trọng mà toàn Đảng, toàn dân phải phấn đấu thực hiện. Tiến tới BHYT toàn dân là hoàn toàn phù hợp với bản chất nhân đạo và định hướng XHCN. đạt được mục tiêu này thì mọi người dân Việt Nam không phân biệt nghề nghiệp, giàu nghèo, già trẻ, giới tính, địa vị xã hội … đều được chăm sóc sức khoẻ. Đây là mục tiêu công bằng, bình đẳng mà XHCN hướng tới. Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta một lần nữa lại khẳng định con đường mà Đảng đã chọn là tiến lên CNXH, thực hiện công bằng, chăm lo đời sống cho nhân dân. Tuy nhiên, chăm sóc sức khoẻ nhân dân không phải chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước mà là trách nhiệm của mỗi cá nhân, gia đình, cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ban ngành. Quan điểm của Đảng là Nhà nước và nhân dân cùng làm, thông qua chính sách thu một phần viện phí, Nhà nước hỗ trợ một phần chi phí y tế. Bởi lẽ không một quốc gia nào có thể một mình chăm sóc sức khỏe nhân dân vì ngân sách luôn luôn eo hẹp với các khoản cần chi tiêu của Chính phủ. Muốn thực hiện tốt quan điểm, định hướng của Đảng thì cần thiết phải có sự chỉ đạo phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành và sự chỉ đạo thống nhất từ trên xuống. Hiện nay, cả nước mới chỉ có 21% dân số có thẻ BHYT cho nên mở rộng đối tượng tham gia là định hướng của Đảng để tiến tới BHYT toàn dân, đặc biệt là đối tượng học sinh – sinh viên. Đẩy mạnh công tác YTHĐ được xác định là phương thức thực hiện có hiệu quả nhất và kinh tế nhất. Định hướng chung cho công tác YTHĐ là tiếp tục đảm bảo tài chính cho hoạt động của hệ thống này. Phấn đấu nâng cao cả về số lượng và chất lượng y tế trường học dể chăm lo sức khoẻ cho các em ngay tại trường học. 2.Phương hướng chung và dự kiến kế hoạch từ nay đến 2010. Căn cứ vào kết quả đã đạt được và quan điểm của Đảng, Nhà nước về BHYT tự nguyện nói chung và BHYT HS - SV nói riêng, trong những năm tới cần tập trung vào một số vấn đề để tiến tới BHYT toàn dân theo đúng dự kiến. Một là, khẩn trương tổ chức thực hiện Thông tư liên tịch số 77/2003/TTLT – BTC – BYT ngày 07/8/2003 về BHYT tự nguyện. Tiếp tục mở rộng các đối tượng tham gia và xem xét việc bổ sung đối tượng bắt buộc trình lên Chính phủ, nghiên cứu các phương thức thanh toán chi phí cho cơ sở KCB cho phù hợp. Hai là tiếp tục phối hợp chặt chẽ giữa ngành Giáo dục - Đào tạo, Bộ Y tế và BHXH Việt Nam Từ trung ương đến địa phương để thống nhất chương trình thực hiện. Đặc biệt là sự kết hợp giữa các ban ngành để công tác YTHĐ thực sự phát triển rộng khắp. Hệ thống trường học đảm bảo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chương trình BHYT . Năm 2003 – 2004 cả nước có trên 22 triệu học sinh – sinh viên, trong đó có trên 5 triệu học sinh – sinh viên đã tham gia BHYT . Với tốc độ tăng trưởng số lượng học sinh – sinh viên tham gia như mấy năm vừa qua thì từ nay đến 2010 BHXH Việt Nam dự báo mức tăng là 0,5 triệu học sinh một năm và đến năm 2010 có trên 8 triệu học sinh – sinh viên chiếm khoảng 40% học sinh – sinh viên có thẻ BHYT. Mặc dù hiện tại mức đóng góp của học sinh khá thấp nhưng quyền lợi hưởng khá toàn diện làm cho không ít địa phương thường xuyên xảy ra tình trạng bội chi. Nhưng nhìn chung trong những năm qua BHYT HS - SV trên cả nước vẫn cân đối được thu chi. Dự kiến trong những năm tiếp theo sẽ phải khắc phục tình trạng này bằng cách tăng số học sinh tham gia và tăng phí cho phù hợp với giá chung. Tiếp tục thực hiện các biện pháp để quỹ được cân đối góp phần thực hiện thắng lợi công tác BHYT HS – SV. Nhưng đến năm 2010 tiến tới BHYT toàn dân mà số học sinh tham gia chỉ chiếm 40% thì chưa đạt mục tiêu đề ra vì vậy cần phải có các giải pháp để thúc đẩy BHYT HS - SV phát triển nhanh hơn nữa. II. Một số kiến nghị đối với các bên có liên quan. 1.Đối với Nhà nước. BHYT là một chính sách lớn của Nhà nước nên nó phải chịu sự điều tiết trực tiếp của Chính phủ. Nhà nước thực hiện điều tiết vĩ mô đối với chính sách này. Từ khi thựchiện BHYT ở Việt Nam đã tạo ra sự chuyển biến lớn từ cơ chế bao cấp toàn bộ sang cơ chế trả một phần hoặc toàn bộ viện phí. Với sự thay đổi lớn như vậy Nhà nước phải đứng ra hướng dẫn, tổ chức và thực hiện. Thứ nhất là Quốc hội, Chính phủ nên xem xét ban hành Luật BHXH (vì BHYT đã nằm trong BHXH ), tạo cơ sở pháp lý cho BHXH nói chung, cho BHYT nói riêng hoạt động có hiệu quả. Theo lời của ông Afsar Akal, một trong những thành viên của chương trình hợp tác giữa Việt Nam và tổ chức WHO “muốn thực hiện được BHYT toàn dân, Việt Nam phải có luật BHYT”. Hiện nay ở Việt Nam mới chỉ có Nghị định về BHYT, nhất thiết phải xây dựng được Luật BHYT, đồng thời Luật hành nghề cho các cơ sở KCB. Nếu có luật này thì nó sẽ làm cơ sở pháp lý cơ bản để tiến tới BHYT toàn dân, bởi vì chỉ có Luật BHYT thì chính quyền các cấp, các ban ngành có liên quan mới dựa vào đó để điều chỉnh các hoạt động của BHYT. Nhà nước nên mở rộng quyền cho cơ quan BHXH trong việc định phí cũng như phân loại các đối tượng tham gia. Ngoài biện pháp vĩ mô này Chính phủ cần có những biện pháp cụ thể khác để hỗ trợ, bổ sung cho luật. Hiện nay BHYT HS - SV đang chịu sự chi phối chồng chéo của nhiều văn bản pháp luật nên các địa phương gặp khó khăn trong việc thực hiện. Vì vậy giải pháp quan trọng hàng đầu đối với Nhà nước là phải có luật về BHXH chi tiết, rõ ràng. Nhà nước ta đang xây dựng dự thảo luật BHXH vì đây là điều kiện cần để tiến tới BHYT toàn dân. Cần phải xây dựng luật BHYT chi tiết, bám sát vào điều kiện khác biệt giữa các tỉnh, thành phố để áp dụng thống nhất theo luật đã đưa ra tránh tình trạng các tỉnh trình văn bản lên BHXH Việt Nam xin ý kiến chỉ đạo như hiện nay. Trước mắt cần khẩn trương tổ chức thực hiện nghiêm túc Thông tư 77/2003 nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc vì cho đến nay trên cả nước vẫn chưa thực hiện đồng bộ theo Thông tư này. Đây là văn bản pháp luật mới nhất điều chỉnh BHYT HS – SV, muốn thực hiện được luật BHYT trong thời gian tới thì phải thực hiện tốt các luật hiện tại. Thứ hai là Nhà nước cần xác định quyền lợi của người tham gia bằng gói dịch vụ y tế cơ bản do Chính phủ qui định. Gói dịch vụ này phải đảm bảo quyền lợi chung tối thiểu mà ai cũng có thể được hưởng, nếu ai có điều kiện về kinh tế thì tham gia thêm vào các tổ chức BHTM để được chi trả nhiều hơn. Làm như vậy vừa đáp ứng được nhu cầu chung của phụ huynh và học sinh vừa phát triển được hệ thống BHTM giải quyết hài hoà vấn đề cạnh tranh. Thư ba là, Nhà nước nên tăng cường đầu tư để mở rộng và củng cố mạng lưới cơ sở KCB. Đặc biệt là đầu tư cho khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa có đông dân cư thuộc diện nghèo và cận nghèo nhằm tạo điều kiện cho họ được bình đẳng tiếp cận với các dịch vụ KCB. Nhà nước cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng dịch vụ KCB của các cơ sở KCB. Nhà nước nên kêu gọi đầu tư trong nước cũng như ngoài nước vào khu vực này. Có những chính sách khuyến khích về vốn, lãi suất, mặt bằng, cơ sở hạ tầng khi đầu tư vào đây. Thứ tư là Nhà nước tạo việc làm để tăng thu nhập cho người dân. Đây là biện pháp quan trọng nhất vì thu nhập quốc dân bình quân đầu người là cơ sở quan trọng nhất để quyết định sự tham gia của người dân. Thu nhập cao thì người dân mới sẵn sàng tham gia chương trình BHYT cũng như các loại hình Bảo hiểm khác. Cha mẹ học sinh có thu nhập khá thì họ mới có điều kiện chăm lo cho con em mình và sẵn sàng tham gia BHYT cho các em. Theo bậc thang nhu cầu của con người thì nhu cầu về Bảo hiểm đứng sau những nhu cầu thiết yếu như ăn, ở, mặc, đi lại … Với thu nhập của mình người lao động lần lượt phân phối cho các nhu cầu thiết yếu ấy trước, nếu thu nhập còn thấp như hiện nay ở nước ta thì các nhu cầu đó còn chưa được đáp ứng đầy đủ thì họ chưa thể tích cực tham gia BHYT ngay. Hơn thế chỉ có bộ phận nhỏ dân cư là có thu nhập nhỉnh hơn nó phản ánh đúng tỷ lệ tham gia BHYT nói chung và BHYT HS - SV nói riêng như hiện nay. Tỷ lệ người lao động có việc làm còn thấp, trong khi tỷ lệ người ăn bám cao thì việc để dành một phần thu nhập hàng năm để tham gia BHYT là chưa thể. Để tham gia BHYT cho toàn bộ thành viên trong gia đình là rất khó khăn đối với họ. Giải quyết việc làm là một vấn đề khó đặt ra đối với bất kỳ một Chính phủ nào. Để giải quyết việc làm đòi hỏi phải thực hịên nhiều biện pháp đồng bộ kèm theo như: giảm tốc độ tăng dân số, thu hút đầu tư nước ngoài, cải cách thủ tục đầu tư, khuyến khích đầu tư vào các vùng có kinh tế khó khăn, ưu đãi về thuế, đất đai … Nhà nước nên tiếp tục khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân. Tạo điều kiện để người dân tự tạo việc làm cho mình trên chính quê hương mình, Nhà nước cho vay vốn với lãi suất thấp và quan trọng hơn là trang bị kiến thức để người dân sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ấy. Điều kiện kinh tế là yếu tố ảnh hưởng khá quan trọng đến BHYT HS - SV bởi lẽ các em chưa làm ra tiền để hỗ trợ cho cha mẹ trong khi cha mẹ các em còn phải chăm lo rất nhiều thứ cho các em. Thứ năm là việc Chính phủ nên nghiên cứu và mạnh dạn đưa đối tượng học sinh – sinh viên vào diện bắt buộc. Theo kinh nghiệm các nước đã đạt mục tiêu BHYT toàn dân thì đối tượng nào đủ điều kiện và thuận lợi thì đưa vào diện bắt buộc. Như phần trên đã nói, học sinh – sinh viên học tập và sinh hoạt tập trung tương tự như đối với người làm công ăn lương ( diện BHYT bắt buộc) nên rất thuận lợi cho công tác quản lý. Hơn nữa mức đóng BHYT của học sinh – sinh viên so với đối tượng bắt buộc là tương đối thấp nên nếu đưa học sinh vào diện bắt buộc cũng không gây khó khăn gì lớn cho các bậc cha mẹ. Quan trọng hơn nếu học sinh là đối tượng bắt buộc thì từ mức đóng thấp này sẽ gây dựng được quỹ lớn, từ đó % trên số thu để lại trường học lớn nên trường học nào cũng có phòng y tế, có nhân viên y tế. Nhà nước cũng cần đầu tư và kêu gọi các tổ chức quốc tế hỗ trợ cho chương trình YTHĐ để xây dựng y tế trường học vững mạnh. Chăm sóc bảo vệ sức khoẻ là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Nhà nước với vai trò là người điều hành, lãnh đạo, điều tiết các hoạt động vĩ mô cần có nhiều biện pháp liên quan đến nhiều lĩnh vực nhằm đẩy nhanh tiến trình thực hiện BHYT HS - SV dần tiến đến BHYT toàn dân. 2. Đối với cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Trước năm 2002, BHYT HS - SV là do Bảo hiểm Y tế Việt Nam trực tiếp chỉ đạo. Ngày 24/ 01/2002 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 20/2002/QĐ - TTg chuyển Bảo hiểm Y tế Việt Nam sang hệ thống BHXH do đó BHYT là một bộ phận của BHXH. Là cơ quan tổ chức và thực hiện BHYT HS – SV, có thể nói Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần có nhiều giải pháp nhất để BHYT HS - SV gắn liền với mỗi học sinh - sinh viên khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Việc làm đầu tiên đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam là việc nâng cao năng lực quản lý của hệ thống BHYT. Từ khi chuyển sang hệ thống BHXH, việc thực hiện BHYT còn nhiều vướng mắc. Về đội ngũ chuyên môn cần đào tạo bồi dưỡng cho những cán bộ chưa làm về BHYT bao giờ theo chương trình đào tạo mới, đào tạo lại, đào tạo nâng cao và đào tạo chuyên sâu. Trình độ của nhân viên khai thác cũng là vấn đề quan trọng. Tuy không được đánh giá quan trọng như bên BHTM nhưng những người làm công tác tuyên truyền, hướng dẫn làm thủ tục tham gia đối với nhà trường, giải thích chế độ của Nhà nước để khuyến khích mọi người tham gia phải có năng lực chuyên môn, có trình độ giao tiếp. Có như vậy mới giải quyết được những khó khăn còn tồn tại của BHYT nói chung và BHYT HS - SV nói riêng. Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần nghiên cứu để xây dựng đề án triển khai BHYT HS – SV, hợp tác quốc tế để học hỏi kinh nghiệm của các nước. Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý để đơn giản hoá quy trình làm việc. Nên chăng Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần có các phần mềm riêng biệt cho BHYT HS - SV thống nhất trên toàn quốc để dễ dàng cho việc quản lý hồ sơ, công tác thống kê và truy cập tìm tòi thông tin. Thứ hai là việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính đặc biệt là công tác phát hành thẻ. Thông thường Bảo hiểm xã hội Việt Nam hướng dẫn cho các cơ quan BHXH cấp dưới khai thác và phát hành thẻ khoảng hai tháng sau khi khai giảng năm học mới. Như vậy các em có nhu cầu tham gia sau không được tham gia do hết đợt. Bảo hiểm xã hội Việt Nam không nên đưa ra một khoảng thời gian nhất định như vậy mà nên có bộ phận sẵn sàng đáp ứng nhu cầu cho các em ví dụ như phòng tài chính kế toán của nhà trường. Phòng này có nhiệm vụ bổ sung các em tham gia sau khi đợt phát hành đã hết. Thứ ba là, nghiên cứu cùng với Bộ Tài chính, Bộ Y tế để điều chỉnh mức phí cho phù hợp, vừa đảm bảo cho công tác chi trả vừa đảm bảo được số đông học sinh đều có thể tham gia. Đây là một vấn đề khó bởi lẽ nước ta vẫn đang áp dụng mức đóng cách đây nhiều năm mà thực tế chi phí y tế thay đổi thường xuyên nhưng tâm lý người dân vẫn khó tiếp nhận sự thay đổi. Mức phí là vấn đề lớn nhất trong việc thực hiện vì hiện nay mức đóng hiện tại không đáp ứng được các nhu cầu chi trả gây khó khăn cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Tăng phí sẽ dễ dẫn đến việc giảm đối tượng tham gia nhưng nếu vẫn giữ nguyên thì tình trạng bội chi là không tránh khỏi và như vậy BHYT HS - SV sẽ thất bại. Khi mua một loại hàng hoá người ta thường cân nhắc mua hay không là ở giá cả cho dù chất lượng của nó như thế nào. Tâm lý người dân là ưa giá rẻ nhưng đòi hỏi chất lượng cũng phải khá. Vì vậy Bảo hiểm xã hội Việt Nam nên đưa ra mức đóng riêng cho các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh… Bảo hiểm xã hội Việt Nam nên kiến nghị với Nhà nước hỗ trợ một phần phí cho khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa … Thứ tư là, công tác thông tin tuyên truyền cần được chú trọng đặc biệt trong tình hình hiện nay khi kiến thức của người dân về bảo hiểm còn hạn chế. Hiện nay Bảo hiểm xã hội Việt Nam thường tuyên truyền về BHYT nói chung trên các phương tiện thông tin đại chúng như: truyền hình, tạp chí, báo, áp phích … mà ít có chương trình quảng cáo riêng cho BHYT HS – SV, có chăng chỉ là tranh cổ động trên tạp chí của BHXH. Bảo hiểm xã hội Việt Nam nên đa dạng hoá các kênh truyền thông riêng cho BHYT HS – SV. Cụ thể là: Tuyên truyền qua trường học. Có thể nói đây là môi trường thuận lợi nhất để tuyên truyền BHYT HS – SV tới học sinh – sinh viên. Bảo hiểm xã hội Việt Nam nên có quan hệ tốt với các trường học để họ thường xuyên chú ý quan tâm tới vấn đề BHYT cho đối tượng này. Hàng ngày các em dành phần lớn thời gian của mình để học tập và sinh hoạt tại trường nên làm tốt công tác thông tin tuyên truyền ở trường học thì bản thân các em sẽ nâng cao nhận thức của mình về BHYT . Nếu làm được như vậy thì không những các em sẽ tham gia tích cực hơn mà còn rèn luyện cho các em thói quen tham gia bảo hiểm, hình thành nhân cách tốt đẹp “ lá lành đùm lá rách”, biết chia sẻ rủi ro với người khác. Tham khảo kinh nghiệm các nước có tỷ lệ người tham gia BHYT đông ta thấy các tầng lớp dân cư đều có thói quen mua bảo hiểm như để phòng vệ cho chính mình, họ coi đó như là một khoản chi tiêu thiết yếu hàng ngày như ăn, mặc. Thói quen tốt đẹp đó không phải một chốc một lát họ có thói quen đó mà phải trải qua một thời gian hình thành rất dài, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Chính vì vậy làm cho thế hệ trẻ hiểu biết về BHYT không chỉ có ý nghĩa hiện tại mà còn hình thành cho các thế hệ người dân Việt Nam có ý thức hơn trong việc tham gia. Tại trường học Bảo hiểm xã hội Việt Nam nên chăng có các cách tuyên truyền sau: + tuyên truyền qua hội phụ huynh. Phụ huynh học sinh là người mang tính chất quyết định cho con em mình tham gia BHYT HS - SV hay không, đặc biệt đối với các em học sinh ở cấp học dưới. ở cấp tiểu học và THCS các em hầu như không hiểu được tác dụng và ý nghĩa của BHYT nên cha mẹ là người thay các em quyết định việc có tham gia hay không. Hàng năm Bảo hiểm xã hội Việt Nam nên có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan BHXH trực thuộc cho người xuống tận trường học để phổ biến và tuyên truyền tới phụ huynh học sinh về chính sách BHYT vào buổi họp phụ huynh đầu năm. Có thể kết hợp cùng các thầy cô giáo chủ nhiệm hoặc tập huấn cho chính các thầy cô giáo này để phối hợp thực hiện. BHXH cấp cơ sở cần có mối quan hệ tốt với các trường để nhà trường dành thời gian nhiều hơn trong buổi họp phụ huynh để tuyên truyền về BHYT cho học sinh. Trong buổi họp nhân viên bảo hiểm có thể giải thích thắc mắc về BHYT, hướng dẫn thủ tục và đặc biệt coi trọng việc tuyên truyền về ý nghĩa, tác dụng của BHYT HS - SV chăm sóc sức khoẻ cho con em họ, giúp họ khắc phục khó khăn về kinh tế. Đối với các cấp học khác tuy các em đã có nhận thức về BHYT hơn nhưng cũng không nên lơ là việc tuyên truyền tới cha mẹ các em. + tuyên truyền trực tiếp tới các em. Cách làm này nên áp dụng đối với cấp học từ THCS trở lên vì các em đã có tầm hiểu biết nhất định. Mục đích của việc tuyên truyền là cho các em thấy tác dụng của BHYT. Có thể tuyên truyền qua đài phát thanh của trường, qua buổi chào cờ đầu tuần, qua Đoàn thanh niên, tờ rơi, …, công tác này không chỉ dừng lại ở đầu năm học mà cần phải làm thường xuyên trong suốt năm vì nó còn có tác dụng đến cả những năm sau. Có thể ngay tại năm học đó các em chưa tham gia nhưng do kiến thức về BHYT được bổ sung nên các em mới hiểu hết được ý nghĩa của nó để các năm sau các em tích cực tham gia. Qua buổi tuyên truyền này nên đưa ra các ví dụ thực tế như: việc chi trả chi phí KCB cho em học sinh nào đó trong trường, việc nâng cao chất lượng của phòng y tế nhà trường ( mới mua sắm được trang thiết bị mới, chương trình phục vụ …). Thông qua chương trình hoạt động của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên để phát động các cuộc thi tìm hiểu về lợi ích,tính cộng đồng,tính nhân văn của việc tham gia BHYT nói chung và BHYT HS - SV nói riêng , phát động cuộc thi sáng tác tranh cổ động, bài văn, thơ về BHYT, BHYT HS - SV. BHXH cấp cơ sở có thể trích tiền tài trợ cho các chương trình này từ số tiền để lại trường học. Tuyên truyền qua đài truyền thanh, truyền hình. Đây là cách tuyên truyền quen thuộc và thường dùng nhất đối với mỗi sản phẩm mà các Công ty quen dùng để quảng cáo cho sản phẩm của mình. BHYT HS - SV cũng là một sản phẩm dịch vụ nên không có lý gì để không quảng cáo qua kênh truyền thông này. Các Công ty Bảo hiểm thương mại đã và đang tận dụng triệt để cách quảng cáo này để giới thiệu sản phẩm của họ đến khách hàng. Đối với BHYT, có thể thông qua kênh tuyên truyền này để phát các tin bài, phóng sự về những việc đã làm được như: biểu dương chương trình YTHĐ của nơi nào đó, nhờ có BHYT HS - SV mà gia đình các em mắc bệnh hiểm nghèo có điều kiện chữa bệnh cho các em…Vì BHYT HS - SV là một chính sách của Nhà nước ta nên việc tuyên truyền qua đài truyền hình, đài tiếng nói là hết sức thuận lợi vì chi phí bỏ ra so với các Công ty thương mại là nhỏ hơn. Chính vì vậy cần tận dụng triệt để kênh truyền thông này mà hiệu quả thu được lại rất lớn. Hiện nay hệ thống loa truyền thanh tại các xã, phường rất phong phú và gần gũi với nhân dân. Hầu hết các xã, phường tại các tỉnh, thành phố trong cả nước đều có hệ thống này. Nếu Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện việc tuyên truyền về BHYT nói chung và BHYT HS - SV nói riêng trên kênh này sẽ có hiệu quả thiết thực vì thời lượng phát sóng nhiều hơn và việc đăng bài cũng dễ dàng hơn. Thực tế cho thấy BHXH chưa chú ý đến nguồn thông tin phổ biến này vì vậy trong những năm tới Ban Tuyên truyền của Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần quan tâm đến kênh thông tin này hơn. Tuyên truyền qua kênh thông tin khác. Ngoài các kênh tuyên truyền trên thì có thể tuyên truyền qua pa nô, áp phích ( cần đặt tại những nơi thuận lợi để người đọc dễ nhìn thấy), qua tạp chí chuyên biệt như tạp chí BHXH, các tờ báo khác như báo địa phương, báo Trung ương, các tạp chí khác … Thứ năm là chăm lo hơn nữa đến công tác YTHĐ. Cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với ngành Giáo dục - Đào tạo, ngành Y tế để xây dựng kế hoạch hàng nưm về việc hình thành YTHĐ đối với các trường chưa tổ chức được phòng y tế trường học. Có kế hoạch tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ YTHĐ nhằm nâng cao khả năng chuyên môn cho đội ngũ này. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện Thông tư liên tịch Y tế – Giáo dục và Đào tạo số 03/2000/ TTLT – BYT – BDGĐT hướng dẫn thực hiện công tác y tế trường học. Bảo hiểm xã hội Việt Nam nên kiến nghị với Nhà nước về việc biên chế và chức danh của cán bộ YTHĐ giúp họ yên tâm công tác và gắn bó với việc làm của mình. Từ năm học 2003 – 2004, số tiền để lại nhà trường cho công tác y tế trường học được thực hiện theo Thông tư 77/2003. Như vậy phần kinh phí để lại cho nhà trường là 18% số thu BHYT HS – SV, tỷ lệ để lại cho nhà trường tuy giảm nhưng không hoàn toàn đồng nghĩa với việc giảm giá trị kinh phí tương ứng vì mức đóng góp của học sinh – sinh viên tăng so với Thông tư 40/1998. Điều này dễ gây hiểu lầm nên Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần có văn bản giải thích cho các cơ quan BHXH trực thuộc để giải thích lại với trường học. Đối với các trường đã xây dựng được chương trình YTHĐ thì số tiền để lại nên giao trực tiếp cho trường sau khi quyết toán để nộp lên cơ quan BHXH trực thuộc ( cơ quan BHXH huyện) để nhà trường chủ động trong công tác hoạt động của mình. Còn đối với những trường chưa có cán bộ y tế cũng như chưa xây dựng được chương trình YTHĐ thì cơ quan BHXH huyện có trách nhiệm phối hợp với các trường học để ký hợp đồng với cơ sở y tế thuận lợi về việc sử dụng kinh phí để thực hiện yêu cầu chăm sóc ban đầu cho học sinh – sinh viên. Thứ sáu là Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần kết hợp chặt chẽ với các cơ sở KCB. Vướng mắc chung trong việc triển khai BHYT là việc người dân phàn nàn về chất lượng KCB. Một trong những lý do của vấn đề còn tồn tại trên là việc cơ quan BHXH và các cơ sở KCB chưa phối hợp chặt chẽ với nhau. BHXH chỉ là nơi tổ chức thực hiện việc thu phí của người tham gia để thay mặt họ chi trả chi phí y tế cho họ còn người cung cấp dịch vụ KCB lại là các cơ sở y tế. Chính vì vậy chất lượng phục vụ của hai cơ quan này không mấy ràng buộc lẫn nhau. Do chưa có quan hệ chặt chẽ giữa cơ quan BHYT với cơ sở KCB nên đã gây ra tình trạng hiểu lầm “cơ quan BHYT chỉ biết thu tiền”. Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần kiến nghị với Nhà nước về tiêu chuẩn lựa chọn cơ sở KCB cho bệnh nhân có thẻ BHYT . Chất lượng phục vụ sẽ là căn cứ để người bệnh đánh giá về cơ sở KCB đó. Nhà nước, cơ quan BHXH chỉ là người điều hành, quản lý hoạt động BHYT còn cơ sở KCB là nơi KCB cho người dân. Nên chăng thiết lập mối quan hệ ràng buộc giữa cơ quan BHXH và cơ sở KCB, cơ sở KCB nào có chất lượng phục vụ người bệnh tốt hơn thì được cơ quan BHXH tiếp tục ký hợp đồng vào năm sau và được chuyển giao một phần tiền chi trả chi phí y tế ứng trước ngay từ đầu năm để cơ sở KCB có tiền đầu tư cho mình. Số tiền này có thể tính dựa trên chi phí mà cơ quan BHXH trả năm đó cộng với phần trăm dự kiến tăng thêm của năm sau. Nếu số lượng người tham gia BHYT đông thì số tiền này sẽ rất lớn nên các cơ sở được BHXH ký hợp đồng sẽ có tiền để mở rộng qui mô, đầu tư nâng cấp và mua mới trang thiết bị y tế từ đó nâng cao uy tín cho cơ sở mình. Điều này có lợi cho cả hai phía và cho toàn xã hội. 3.Đối với Bộ Y tế. Là cơ quan trực tiếp cung cấp dịch vụ y tế cho học sinh - sinh viên, Bộ Y tế cũng cần phối hợp với cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam để giải quyết những khó khăn còn đang tồn tại. Bộ Y tế nên tham mưu cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Bộ Tài chính về mức đóng của BHYT HS – SV. Chỉ có Bộ Y tế mới nắm rõ nhất về chi phí y tế đối với người bệnh khi vào KCB. Bên cạnh đó tham mưu cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam cả gói dịch vụ y tế cơ bản mà học sinh được hưởng tương ứng với mức phí đó làm sao thoả mãn nhu cầu của cha mẹ học sinh đồng thời đủ chi phí trang trải khi học sinh được hưởng quyền lợi đó. Bộ Y tế nên quản lý giá thuốc bán trên thị trường chặt hơn nữa vì thực tế trong thời gian qua giá thuốc bị trôi nổi gây khó khăn không chỉ cho bệnh nhân mà còn làm cho việc cân đối quỹ BHYT gặp trở ngại. Bộ Y tế cần có những biện pháp tích cực như đăng ký giá thuốc bán tại các cửa hàng, tập trung đầu tư sản xuất thuốc nội. Nghiên cứu và sử dụng thuốc nội thay cho thuốc ngoại vì thuốc nội có chất lượng khá tốt mà giá thành lại rẻ, từ đó làm giảm chi phí KCB. Bộ Y tế cần có các buổi hội nghị nhằm củng cố và nâng cao y đức người thầy thuốc, làm giảm dần đến xoá bỏ tệ nạn đối xử không bằng giữa bệnh nhân trả viện phí và bệnh nhân KCB bằng thẻ BHYT . Xây dựng các chương trình về bệnh viện văn minh, nhân viên y tế nhiệt tình, thái độ tiếp đón niềm nở … có kiểm điểm, tổng kết hàng năm công tác phục vụ bệnh nhân tại các cơ sở y tế. Chỉ đạo thực hiện, kêu gọi đầu tư, bàn với Nhà nước việc nâng cao chất lượng KCB và mở rộng mạng lưới KCB đến từng địa giới hành chính nhỏ nhất. Cơ sở KCB địa phương cần phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong việc thuê đội ngũ y, bác sỹ thực hiện công tác YTHĐ sao cho đạt hiệu quả cao nhất. 4.Đối với nhà trường. Nhà trường chính là cơ sở chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho học sinh - sinh viên. Công tác YTHĐ có thực hiện tốt thì việc triển khai BHYT HS - SV mới thuận lợi. Ban giám hiệu nhà trường cần tổ chức thực hiện sử dụng phần kinh phí trích lại có hiệu quả thực sự có ích cho các em, cần quan tâm đến cơ sở hạ tầng, phòng học, góc y tế phù hợp với điều kiện của từng trường, tuỳ thuộc lứa tuổi và số lượng học sinh – sinh viên. Trang thiết bị và số thuốc phục vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu cũng cần được bổ sung thường xuyên. Một số trường ở vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ tham gia ít cũng cần phải có một số trang thiết bị cơ bản như: cân sức khoẻ, thuốc thông dụng, dụng cụ y tế như bông băng, kẹp … Nhà trường nên phối hợp với cơ sở y tế gần nhất để chuyển các em lên tuyến trên trong trường hợp vượt quá khả năng điều trị của cán bộ y tế học trường học. Kiến nghị với BHXH cơ sở, với chính quyền địa phương về việc biên chế cho cán bộ y tế trường học và cách giữ cán bộ có chuyên môn ở lại trường lâu dài. Nhà trường nên hướng cho học sinh - sinh viên tham gia BHYT trước khi tham gia BHTM vì mục tiêu của Đảng và Nhà nước đặt ra là an sinh xã hội, đảm bảo quyền lợi tối thiểu của mỗi công dân và vì chính mục tiêu tiến tới BHYT toàn dân. Nếu gia đình nào có điều kiện thì tham gia BHTM cho phù hợp với khả năng kinh tế của mình. 5.Đối với chính quyền các cấp UBND các tỉnh, thành phố cần có sự chỉ đạo sát sao các ngành, các cấp quan tâm đến BHYT HS - SV để có sự phối hợp đồng bộ và hiệu quả. BHYT HS - SV muốn thực hiện thành công không chỉ đạt được với sự cố gắng của cá nhân cơ quan nào mà là sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng của tất cả các cơ quan có liên quan. Đẩy mạnh sự tham gia của các cơ quan thông tấn, báo chí vào việc tuyên truyền chính sách BHYT HS – SV. ủng hộ nhà trường, cơ quan BHXH trong việc tăng số lượng học sinh tham gia, hàng năm trước mỗi kỳ học cần có công văn đôn đốc, hướng dẫn thực hiện xuống các trường để đạt được kết quả mà cơ quan BHXH giao. Trên đây là một số kiến nghị cụ thể của em đối với từng bộ phận có liên quan đến BHYT HS – SV. Em hy vọng những đề xuất này có ý nghĩa trong việc phát triển BHYT HS – SV. Phần kết luận Sau 10 năm thực hiện, được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, của các Bộ, Ban, Ngành hữu quan và của UBND các cấp, sự phối hợp của Sở Y tế các tỉnh, thành phố, các cơ sở KCB, các tổ chức đoàn thể, các cơ quan truyền thông từ Trung ương đến địa phương và sự cố gắng của các cán bộ nhân viên trong ngành BHXH, việc thực hiện chính sách BHYT HS - SV đã đạt được những kết quả quan trọng, đáng khích lệ tạo cơ sở cho sự phát triển và mở rộng BHYT HS - SV để tiến tới BHYT toàn dân trong những năm tới. Số lượng học sinh – sinh viên tham gia liên tục tăng, quyền lợi của học sinh tham gia BHYT được đảm bảo và ngày càng mở rộng. Quỹ BHYT HS - SV luôn ổn định đảm bảo chi trả cho việc chăm sóc sức khoẻ cho học sinh. Giảm dần sự bao cấp của Nhà nước chuyển sang hình thức Nhà nước và nhân dân cùng chi trả. Nguồn thu từ BHYT HS - SV đã hỗ trợ một phần chi phí cho các cơ sở KCB, đặc biệt là YTHĐ tạo điều kiện cho việc củng cố và nâng cao chất lượng dịch vụ. Để thực hiện thắng lợi BHYT HS - SV nói chung từng bước tiến tới BHYT toàn dân thì các cấp các ngành phải chuẩn bị cho mình các giải pháp thiết thực để đẩy nhanh sự phát triển của BHYT HS – SV. Trên đây em đã đưa ra một số giải pháp cụ thể cho từng cơ quan có liên quan nhằm từng bước chăm lo sức khoẻ toàn diện cho học sinh. Em tin tưởng rằng với sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan hữu quan cùng với sự nỗ lực của hệ thống BHXH và cơ sở KCB thì công tác BHYT HS - SV nói riêng và BHYT nói chung ngày càng phát triển sớm thực hiện thành công nghị quyết Trung ương là tiến tới BHYT toàn dân. Mục lục Tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế bảo hiểm – PGS. TS. Hồ Sĩ Sà chủ biên - Nhà xuất bản Thống Kê - 2000. Giáo trình Kinh tế bảo hiểm – TS. Nguyễn Văn Định chủ biên – Nhà xuất bản Thống Kê - 2004. Giáo trình Thống Kê bảo hiểm - PGS. TS. Hồ Sĩ Sà chủ biên - Nhà xuất bản Thống Kê - 2000. Tạp chí Bảo hiểm Y tế Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2002. Tạp chí Bảo hiểm xã hội từ năm 2003 đến năm 2005. Thông tư liên tịch số 40/1998/TTLT – BGD ĐT – BYT ngày 19/8/1998 về BHYT HS - SV Nghị định 58/CP ngày 13/8/1998 ban hành kèm theo điều lệ BHYT Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT - BYT – BGD ĐT ngày 01/03/2000 hướng dẫn thực hiện công tác y tế trường học. Thông tư liên tịch số 77/2003/TTLT – BTC – BYT ngày 07/8/2003 hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện. Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010 của Bộ Tài chính. Các báo cáo tổng kết nghiệp vụ BHYT HS - SV từ năm 1998 đến năm 2004 của Ban Tự nguyện – Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Niên giám thống kê từ năm 2001 đến năm 2004.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0092.doc
Tài liệu liên quan