LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ LÚA GẠO TRÊN THẾ GIỚI 3
I. ĐỊA VỊ CỦA LÚA GẠO TRONG NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI 3
1.1. Địa vị của lương thực nói chung 3
1.2. Lúa gạo trong cơ cấu lương thực thế giới 4
1.3. Địa vị kinh tế của lúa gạo trong khu vực Châu Á 4
II. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ LÚA GẠO TRÊN THẾ GIỚI 5
2.1. Tình hình sản xuất lúa 5
2.2. Tình hình tiêu thụ gạo toàn cầu 5
CHƯƠNG II 8
SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU LÚA GẠO CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 1989 - 2000 8
I. SẢN XUẤT LÚA Ở VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ 8
II. SẢN XUẤT LÚA GẠO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1989 - 2000 10
Schwarz criterion 13
III. SẢN XUẤT LÚA THEO VÙNG VÀ MÙA VỤ 15
3.1. Sản xuất lúa theo vùng 15
3.2. Vùng ĐBSCL 17
3.3. Vùng Đồng bằng sông Hồng 17
3.4. Vùng Trung du miền núi phía Bắc 18
3.5.Vùng khu Bốn cũ 18
3.6. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ 18
3.7. Vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên 18
IV. SẢN XUẤT LÚA THEO MÙA VỤ 19
V. XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1989 - 2000 20
5.1. đánh giá khái quát chung 20
5.2. Đánh giá mô hình: 21
VI. XUẤT KHẨU GẠO QUA CÁC THỜI KỲ 25
6.1. xuất khẩu gạo giai đoạn 1989 - 1993: 25
6.2. Giai đoạn từ 1994 đến nay: Phân tổ đầu mối cho các tỉnh vùng lúa 26
VII. Chất lượng và thị trường gạo xuất khẩu 26
7.1. Chất lượng gạo xuất khẩu 26
CHƯƠNG III 28
ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHO SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU LÚA GẠO Ở NƯỚC TA 28
I. NHỮNG TỒN TẠI VÀ THÁCH THỨC TRONG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU GẠO 28
1.1. Công nghệ sau thu hoạch: 28
1.2. Thị trường 28
. 1.3. Về tổ chức 29
1.4. Sản xuất và giá cả 29
II. CÁC GIẢI PHÁP CHO VIỆC SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM 30
2.1.Nâng cao chất lúa trong khâu canh tác và thu hoạch 30
2.2.Giải pháp vĩ mô đối với nông dân 32
2.3. Giải pháp marketing trong xuất khẩu gạo 33
KẾT LUẬN 34
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2217 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá về sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam trong giai đoạn 1989 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g một hệ thống dựa vào sở hữu công cộng: kế hoạch tập trung được nhà nước bao cấp mạnh , phân phối đồng đều có chú ý tới lợi ích vật chất, nông nghiệp tập thể. Các yếu tố của thị trường như tiền tệ, hàng hoá, lãi, lương..dùng để đo hiệu quả của các hoạt động kinh tế chứ không có ý nghĩa thực tế. Hệ thống kinh tế này đã tạo ra một sự tăng trưởng nhưng đã bộc lộ nhược điểm trong việc sử dụng các nguồn nhân lực, tài nguyên tự nhiên và tài chính. Do có chiến tranh trong những năm đó nên những nhược điểm này đã bị che lấp, nhưng khi chiến tranh kết thúc chúng đã biểu hiện rõ ràng. Việc mở rộng hệ thống này ở miềm Nam đã tạo ra một thời kỳ khủng hoảng vào cuối những năm 70.
Vào cuối những năm 1970 đã bắt đầu có những ý đồ về cải cách để tăng hiệu quả của sản xuất như ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Trọng tâm được đặt vào việc tổ chức đào tạo bổ túc để nâng cao khả năng quản lý kinh tế cho cán bộ *vien chức. Vào cuối những năm 70 hệ thống này được coi là quan liêu, bao cấp và người ta đã có ý đồ cải cách nó bằng cách dựa vào sáng kiến từ cơ sở, bằng việc cải tiến hệ thống kế hoạch từ cơ sở và bằng việc áp dụng chế độ khoán với nông dân trong nông nghiệp. Việc tự do hoá bắt đầu vào những năm 80 và đã kéo theo những cải cách mở ra ở tất cả các lĩnh vực của đất nước. Trong nông nghiệp, việc cải tiến đã mở ra sớm hơn vì ở đó khu vực công cộng rất nhỏ và đã quay trở lại nền nông nghiệp gia đình. Vào cuối những năm 70 nhiều hợp tác xã đã bí mật thực hiện chế độ khoán. Năm 1981 chỉ thị 100 đã hợp pháp hoá sự sáng tạo này của nông dân. Thắng lợi do áp dụng chỉ thị 100 đã khiến cho nông dân tăng sức ép để được tự do hoá mạnh hơn nữa. Ở nhiều HTX, trước sự quản lý kém cỏi, các ban quản trị không còn khả năng đảm bảo được các dịch vụ theo hợp đồng mà họ đã ký. Do đó, một số hợp tác xã đã thực hiện việc khoán trắng : cho nông dân thuê đất và để họ tự do đầu tư và giảm sản lượng phải trả. Ở những hợp tác xã thực hiện biện pháp này sản lượng thóc tăng nhanh. Tình hình này đã dẫn đến Nghị quyết 10 năm 1988 xác định hộ nông dân là một đơn vị sản xuất tự chủ. Tuy nhiên với chính sách mới này các hợp tác xã vẫn còn nắm ruộng đất. Khắp nơi xảy ra tranh chấp về đất đai nhất là ở miền Nam nông dân đòi lại ruộng đất. Để giải quyết tình trạng này thì đạo luật mới về ruộng đất đã ra đời năm 1993, đạo luật mới cho nông dân quyền sử dụng ruộng đất lâu dài với quyền được chuyển nhượng, cho thuê, được thừa kế, nghĩa là được sở hữu với mức độ hạn chế.
Hàng loạt những cải cách này đã đem đến cho nông nghiệp Việt Nam những thay đổi to lớn, từ chỗ vẫn phải nhập khẩu gạo hàng năm Việt Nam đã tiến lên thành nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 2 trên thế giới. Hiện nay nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế đất nước , vai trò của nông nghiệp ngày càng nhỏ nhưng nó vẫn là lĩnh vực sản xuất vô cùng quan trọng đối với đất nước, điều đó được thể hiện qua một số chỉ tiêu được nêu trong bảng sau:
GDP( Tỷ đồng )
Lao động
Năm
Nông nghiệp
Cả nước
Tỷ trọng
Nông nghiệp
Cả nước
Tỷ trọng
1997
65883
313623
21.01
35139.00
45050.00
78.00
1998
76170
361016
21.10
35124.00
46859.00
74.96
1999
83335
399942
20.84
34987.00
47251.00
74.04
2000
88409
444139
19.91
34215.00
48932.00
69.92
Để đánh giá được toàn bộ hoạt động của sản xuất nông nghiệp là một vấn đề rất rộng lớn và phức tạp vì vậy mà trong chuyên đề này em chỉ đánh giá về tình hình sản suất lúa gạo giai đoạn 1989 đến nay. Chủ yếu tập trung đánh giá, phân tích và dự báo việc sản xuất lúa gạo theo từng vùng (cơ bản là ĐBSH và ĐBSCL), phần xuất khẩu đánh giá cho toàn quốc. Từ đánh giá đó ta sẽ rút ra một số kết luận đồng thời nêu một số giải pháp cho việc sản lúa -gaọ ở nước ta cho giai đoạn tới.
II. SẢN XUẤT LÚA GẠO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1989 - 2000
Để thấy được đầy đủ hơn tình hình sản xuất lúa gạo của Việt Nam, chúng ta hãy nhìn vào bảng dưới đây, nó sẽ khắc hoạ những nét tổng thể về sản suất lúa của cả nước từ năm 1989 đến nay:
Bảng 2: Tình hình sản xuất lúa của cả nước từ năm 1989 - 2000
Năm
Lương thực (nghìntấn)
Lươngthực (nghìntấn)
Tốc độ tăng(%)
SL thóc
(nghìntấn)
Tốc độ tăng (%)
Gạo bq
(kg/người)
1990
21627.0
21627.0
0.5
19225.2
1.2
290.3
1991
21989.5
21989.5
1.7
19621.9
2.1
289.6
1992
24214.6
24214.6
10.1
21590.3
10.0
311.1
1993
25501.7
25501.7
5.3
22836.6
5.8
321.5
1994
26198.5
26198.5
2.7
23528.3
3.0
324.5
1995
27554.4
27554.4
5.2
24963.7
6.1
337.5
1996
29217.0
29217.0
4.7
26396.7
5.7
355.0
1997
29736.4
29736.4
3.1
27532.9
4.3
368.5
1998
30786.2
30786.2
3.5
29145.5
5.9
386.3
1999
33253.6
33253.6
3.3
31393.8
7.7
409.9
2000
34693.5
34693.5
3.2
32554.0
3.7
419.0
Suốt 12 năm qua (1980-2000), sản lượng lúa có xu hướng tăng nhanh và ổn định. Mức tăng sản lượng lúa thời kỳ này lớn hơn so với mức tăng sản lượng lương thực. Riêng năm 1992 sản lượng lúa tăng so với năm trước là 10%, là năm đạt mức tăng trưởng lớn nhất trong giai đoạn này. Về con số tuyệt đối thì năm 1989-1992 sản lượng lúa mỗi năm tăng đạt xấp xỉ 2 triệu tấn. Các năm tiếp theo (1993-2000), sản lượng lúa vẫn tiếp tục tăng ổn định với mức gần 1.5 triệu tấn/năm và tới năm 1999 đã thực sự lập kỷ lục với mức tăng trên 2.2 triệu tấn do năm đó cả nước được mùa lớn. Như vậy, trong suốt thời kỳ 1989-2000, tốc độ tăng trung bình hàng năm về sản lượng lúa đạt 5.5%. Mức tăng trưởng này vượt xa tất cả các thời kỳ trước trong lịch sử trồng lúa Việt Nam. Chưa bao giờ sản lượng lúa lại tăng mạnh, tăng liên tục và kéo dài như giai đoạn vừa qua. Với sự tăng nhanh chóng về sản lượng đó đã giúp cho nước ta tự túc được lương thực và trở thành nước xuất khẩu gạo lớn mặc dù dân số mỗi năm tăng gần 2%.
Khách quan mà nói, sản lượng lúa những năm này tăng mạnh không phải do thiên thời địa lợi mà do đổi mới cơ chế, thay đổi phương thức sản xuất vì thiên tai vẫn xảy ra không ít những năm này.Việc đổi mới chính sách và thay đổi cơ chế sản xuất dẫn đến người nông dân mở rộng diện tích trồng lúa làm sản lượng tăng hay là do năng suất tăng làm sản lượng tăng, để trả lời câu hỏi này ta ước lượng mô hình sau: với 4 biến là :sản lượng, diện tích lúa, năng suất, diện tích đất canh tác
Dependent Variable SANLUONG
Method: Least Squares
Date: 01/14/02 Time: 00:25
Sample: 1 14
Included observations: 14
Variable
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
DTCANHTAC
-2.999212
2.567797
-1.168010
0.2699
DTLUA
3.742833
0.628638
5.953877
0.0001
NANGSUAT
521.3960
94.66091
5.508039
0.0003
C
-11657.71
10605.41
-1.099222
0.2974
R-squared
0.997633
Mean dependent var
23562.84
Adjusted R-squared
0.996923
S.D. dependent var
5358.574
S.E. of regression
297.2275
Akaike info criterion
14.46183
Sum squared resid
883442.0
Schwarz criterion
14.64442
Log likelihood
-97.23280
F-statistic
1405.120
Durbin-Watson stat
1.852036
Prob(F-statistic)
0.000000
* Lưu ý: diện tích đất canh tác ở đây là quỹ đất đai dành cho trồng lúa khác với diện tích lúa. Diện tích này không tích bằng tổng diện tích của các vụ lúa trồng trong một năm như diện tích lúa, vì vậy mà diện tích này giảm nhưng diện tích lúa vẫn có thể tăng do thân canh tăng vụ.
Để xem mô hình có sai sót gì không ta xem nó có xảy ra trường hợp đa cộng tuyến , tự tương quan, U có phân phối chuẩn hay không và phương sai có thay đổi không. Ngoài ra đây là một chuỗi thời gian ta kiểm định xem nó có phải là chuỗi dừng không.
Trước hết ta thấy với n=14 và k=3 biến độc lập và giá trị tính toán của thống kê d=1.85. Giả sử ta muốn kiểm định hai phía. Từ phụ lục bảng D ta thấy dl=0.605 và du=1.551, 4- du =2.449 như vậy du <d<4 - du ta kết luận không có tương quan dương hoặc âm. Còn để xem phương sai có thay đổi hay không ta sử dụng kiểm định White, ta có mô hình sau với E là phần dư :
White Heteroskedasticity Test:
F-statistic
1.058029
Probability
0.518965
Obs*R-squared
9.858681
Probability
0.362047
Test Equation:
Dependent Variable: RESID^2
Method: Least Squares
Sample: 1 14
Included observations: 14
Variable
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
C
44468409
3.07E+08
0.144829
0.8919
DTCANHTAC
-23288.36
150014.1
-0.155241
0.8842
DTCANHTAC^2
3.183105
18.68759
0.170333
0.8730
DTCANHTAC*DTLUA
3.918477
9.640931
0.406442
0.7052
DTCANHTAC*NANGSUAT
-566.1622
1748.772
-0.323748
0.7623
DTLUA
-14596.34
41061.42
-0.355476
0.7402
DTLUA^2
0.052439
1.257979
0.041685
0.9687
DTLUA*NANGSUAT
98.72375
241.6203
0.408591
0.7038
NANGSUAT
2024240.
6677700.
0.303134
0.7769
NANGSUAT^2
-16912.30
39999.56
-0.422812
0.6942
R-squared
0.704192
Mean dependent var
63103.00
Adjusted R-squared
0.038622
S.D. dependent var
66109.96
S.E. of regression
64820.72
Akaike info criterion
25.17245
Sum squared resid
1.68E+10
Schwarz criterion
25.62892
Log likelihood
-166.2071
F-statistic
1.058029
Durbin-Watson stat
2.363951
Prob(F-statistic)
0.518965
Dựa vào mô hình có n=14. R=0.704, nR2=6.94 giá trị * 2 0.05(9)=18.3 như vậy trong mô hình này phương sai của sai số không thay đổi.
Ta có mô hình hồi qui phụ , hồi qui biến DTCANHTAC với biến DTLUA và biến NANGSUAT như sau:
Dependent Variable: DTCANHTAC
Method: Least Squares
Date: 01/15/02 Time: 05:14
Sample(adjusted): 1987:1 1993:2
Included observations: 14 after adjusting endpoints
Variable
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
DTLUA
-0.121969
0.064002
-1.905724
0.0831
NANGSUAT
-18.90781
9.541758
-1.981586
0.0731
C
4109.924
123.1258
33.37987
0.0000
R-squared
0.964241
Mean dependent var
2637.036
Adjusted R-squared
0.957740
S.D. dependent var
169.7716
S.E. of regression
34.90053
Akaike info criterion
10.13029
Sum squared resid
13398.52
Schwarz criterion
10.26723
Log likelihood
-67.91203
F-statistic
148.3081
Durbin-Watson stat
2.136596
Prob(F-statistic)
0.000000
Ta tính được Fi=3.15 giá trị F 0.05(2,11)=3.98 như vậy Fi< F 0.05(2,11) có nghĩa là không có đa cộng tuyến giữa các biến giải thích trong mô hình ban đầu.
Một giả thiết nữa của OLS đó là U phải phân phối chuẩn. Để kiểm định giả thiết này ta dựa vào lược đồ sau:
Nhìn vào lược đồ ta có JB=1.21, P-value=0.54 nếu như ta lấy mức tin cậy là 5% thì chấp nhận giả thiết U phân phối chuẩn.
Dựa vào những kiểm định trên thì ta thấy tất cả các giả thiết của OLS đều được thoả mãn. Như vậy mô hình này có thể chấp nhận được. Nhưng mà đây là những số liệu được lấy theo chuỗi thời gian, trong đó thì năng suất và diện tích lúa cũng như sản lượng đều có xu thế tăng vậy kết quả có thể là giả tạo không, để trả lời câu hỏi này ta kiểm định sự đồng liên kết trong mô hình, nếu mô hình là đồng liên kết thì không có hồi qui giả tạo. Để trả lời câu hỏi này ta sẽ kiểm định xem phần dư thu được có là chuỗi dừng không.
Dùng lược đồ tự tương quan để kiểm định thì ta có kết quả như trên.
Dựa vào lược đồ tương quan với khoảng tin cậy 95% thì tất cả các hệ số tương quan đều bằng không, kết luận là phần dư của mô hình này là một chuỗi dừng. Vì vậy mà đồng liên kết do đó không có hòi qui giả tạo.
Nhận xét: Nhìn vào mô hình ban đầu ta thấy với mức ý nghĩa 5% thì chỉ có hệ số của biến NANGSUAT, DTLUA là có ý nghĩa. Điều này cũng phù hợp với thực tế bởi trong những năm qua quỹ đất dành cho trồng lúa liên tục giảm do quá trình tăng dân số và đô thị hoá vì vậy mà diện tích canh tác không phải là yêú tố quyết định đến việc tăng sản lượng lúa của nước ta. Như vậy mô hình có dạng:
SANLUONG = 3.743DTLUA + 521.39NANGSUAT+C
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi thì khi năng suất tăng lên một tấn làm cho sản lượng lúa cả nước tăng gần 521.39 nghìn tấn, cũng với điều kiện như vậy thì khi diện tích lúa tăng lên 1000 ha làm cho sản lượng lúa tăng lên 3.7 nghìn tấn. Năng suất lúa tăng trong những năm qua do việc nước ta đưa nhiều giống mới vào sản xuất cộng với những chính sách mới hợp lòng dân đã giải phóng sức lao động trong dân và làm cho người nông dân gắn bó hơn với ruộng đất. Tính chung cả giai đoạn 1989-2000 năng suất tăng 32%, mặc dù vậy nước ta vẫn là nước có năng suất lúa trung bình thấp so với các nước trên thế giới. Hiện nay, tiềm năng sản xuất lúa của nước ta còn rất lớn: đất đai (độ phì nhiêu phù hợp), thuỷ lợi, phân bón..Việt Nam có điều kiện để gia tăng hơn nữa năng suất lúa. Ngoài năng suất thì diện tích lúa cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến việc tăng sản lượng lúa ở nước ta. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế vì trong những năm qua mức độ thâm canh cây lúa đã tăng đáng kể. Nhiều vùng trước đây chỉ trồng 1 vụ một năm nay do làm tốt công tác thuỷ lợi đã có thể trồng 2 vụ một năm thậm chí là 3 vụ. Điều này làm cho diện tích lúa trong những năm qua tăng liên tục mặc dù quỹ đất đai dành để trồng lúa giảm. Xu hướng tăng diện tích lúa cũng diễn ra liên tục và đều đặn. Từ năm 1989-1996 diện tích lúa tăng từ 5.9 triệu ha lên 7.02 triệu ha tăng 20%. Năm1991, diện tích đạt mức tăng lớn nhất trên 4.6%, tương ứng là 275000 ha. Trên thực tế, diện tích lúa tăng chủ yếu dựa vào hướng thâm canh tăng vụ đặc biệt là vụ hè thu, diện tích lúa trong thời kỳ 1989-2000 đã từ mức 5.8 triệu ha lên gần 7.7 triệu ha, tăng gần 30% trung bình mỗi năm tăng 2.6%. Trong xu hướng đó, diện tích hè thu tăng mạnh nhất, vụ đông xuân thứ hai còn diện tích lúa mùa lại có xu hướng giảm do xu hướng chuyển dịch cơ cấu mạnh ở ĐBSCL trong thời gian gieo cấy vụ mùa.
III. SẢN XUẤT LÚA THEO VÙNG VÀ MÙA VỤ
3.1. Sản xuất lúa theo vùng
Sản xuất nông nghiệp của nước ta trải dài trên 7 vùng sinh thái từ Bắc xuống Nam:
- Vùng Trung du miền núi phía Bắc
- Vùng Đồng bằng sông Hồng
- Vùng khu bốn cũ
- Vùng duyên hải Nam Trung Bộ
- Vùng Tây Nguyên
- Vùng Đông Nam Bộ
- Vùng ĐBSCL
Để tiện cho việc đánh giá việc sản xuất lúa phân theo vùng chúng ta có ba bảng sau:
Bảng 3: Diện tích lúa phân theo vùng sản xuất
Đơn vị 1000 ha
1996
1997
1998
1999
2000
Tỷ trọng (vùng/nước)
Cả nước
7003.8
7099.7
7362.7
7653.3
7655.1
Miền Bắc
2508.5
2553.4
2548.0
2548.7
2593.8
33.9
Đồng bằng sông Hồng
1170.4
1197.0
1203.1
1202.7
1212.6
15.8
Đông Bắc
519.5
531.5
538.8
535.2
549.7
7.2
Tây Bắc
134.3
132.9
128.6
132.9
136.8
1.8
Bắc Trung Bộ
684.3
692.0
677.5
677.9
694.7
9.1
Duyên Hải Nam Trung Bộ
433.2
429.7
424.6
434.8
422.6
5.5
Tây Nguyên
156.1
170.0
164.7
166.0
175.9
2.3
Đông Nam Bộ
463.3
466.0
464.8
518.8
526.7
6.9
Đồng bằng sông Cửu Long
3442.7
3480.6
3760.6
3985.0
3936.1
51.4
Bảng 4: Sản lượng lúa phân theo vùng sản xuất
Đơn vị: 1000 tấn
Vùng
Năm
Đồng bằng sông Hồng
Trung du miền núi phía Bắc
Duyên hải Nam Trung Bộ
Khu Bốn cũ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
ĐBSCL
1991
3.38.3
1584
1749.2
1635.2
431.7
832.6
10350.9
1992
41.1.6
2013.5
1583.1
1770
429.7
744.5
10947.9
1993
4843.3
2299.8
1472.1
1829.9
443.4
881.9
11066.4
1994
4121.3
2207.8
1787.9
1914.1
448.7
928.3
12121
1995
4623.1
2253.8
1749.4
2103.4
429.5
935.4
12831.7
1996
5236.2
3216.5
2167.6
2474.5
713.4
1719.9
13990.8
1997
5638.1
2057.4
1579.9
2495.5
485.6
1417.4
13850
1998
5974.4
2098.7
1564.5
2316.3
436.6
1431.4
15318.6
1999
6383.4
2283.5
1703.7
2634.6
512.4
1581.5
16924.7
2000
6598.4
2487.9
1683.4
2822.3
580.3
1691.5
16693.8
Bảng 5 : Năng suất lúa phân theo vùng
Đơn vị: tạ/ha
1996
1997
1998
1999
2000
Cả nước
37.71752
38.76769
39.58534
41.02047
42.5259
Miền Bắc
37.01056
39.91149
40.79435
44.34378
45.89791
Đồng bằng sông Hồng
45.49983
47.10192
49.69994
53.07558
54.38562
Đông Bắc
30.94129
32.20696
32.78396
35.71188
38.05712
Tây Bắc
23.52197
26.00451
25.83981
28.00602
28.94006
Bắc Trung Bộ
29.74573
36.06214
34.18893
38.87004
40.62617
Miền Nam
38.11203
38.12529
38.94552
39.36116
40.79782
Duyên Hải Nam Trung Bộ
36.16805
36.76751
36.84644
39.18353
39.83436
Tây Nguyên
27.37348
28.56471
26.5088
30.86747
32.99034
Đông Nam Bộ
28.48262
30.41631
30.79604
30.48381
32.11506
Đồng bằng sông Cửu Long
40.13943
39.79199
40.73446
40.89009
42.41203
3.2. Vùng ĐBSCL
Vùng ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất của nước ta, diện tích và sản lượng lúa lớn gấp trên dưới ba lần diện tích và sản lượng lúa đồng bằng sông Hồng. Vùng này có ưu thế về sản xuất và xuất khẩu gạo. Năm 1996 vùng ĐBSCL chiếm 51.4% về sản lượng và 47.2% về diện tích lúa cả nước, năm 2000 vùng này chiếm 51.3% về sản lượng và 51.4% về diện tích cả nước.Năm 2000, dân số vùng ĐBSCL có 16.4 triệu dân, chiếm 21.1% dân số toàn quốc.
Từ năm 1989 đến năm 2000, sản lượng lúa vùng này đã tăng từ 8.9 triệu tấn lên 16.7 triệu tấn, tăng 87.6%. Riêng mức tăng về con số tuyệt đối của ĐBSCL từ 1989-2000 đạt gần 7.8 triệu tấn, gấp trên 4 lần so với mức tăng của Đồng bằng sông Hồng. Kể từ năm 1999, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã có 7 trong 12 tỉnh đạt sản lượng thóc trên 1 triệu tấn. Trong chiến lược phát triển lâu dài, vùng này có ưu thế đặc biệt trong việc gia tăng sản xuất, đảm bảo bền vững an ninh lương thực quốc gia và ổn định xuất khẩu gạo. Trong nhiều năm qua và cả trong tương lai, nói đến xuất khẩu gạo trước tiên phải nói đến vùng ĐBSCL.
3.3. Vùng Đồng bằng sông Hồng
Vùng Đồng bằng sông Hồng là vựa lúa lớn thứ hai của đất nước, Đồng bằng sông Hồng nằm ở hạ lưu sông Hồng và sông Thái Bình có tổng diện tích tự nhiên 1390735 ha, trong đó đất nông nghiệp 828068 ha chiếm 59.4% tổng diện tích. Đất lúa có 613094 ha chiếm 74% đất nông nghiệp, năm 2000 chiếm 20.3% sản lượng và 15.8% diện tích lúa cả nước. Như vậy, hai vựa lúa Đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL chiếm gần 72% tổng sản lượng toàn quốc, năm vùng còn lại chỉ chiếm trên 28%.
Trong những năm qua, sản lượng lúa vùng Đồng bằng sông Hồng từ mức 3.7 triệu tấn năm 1989 lên mức gần 6.6 triệu tấn năm 2000, tăng 78.4%. Độ phì nhiêu đất đai của 2 vùng tương đương nhau nhưng năng suất lúa của Đồng bằng sông Hồng cao hơn so với ĐBSCL ,
3.4. Vùng Trung du miền núi phía Bắc
Tuy đất đai tự nhiên rộng nhưng diện tích lúa thời gian qua không tăng nhiều và chỉ đạt mức 675.000 ha năm 1995 và 687.000 ha năm 2000. Vùng này có rất ít những cánh đồng phẳng rộng như hai vùng châu thổ trên, độ phì nhiêu thấp, năng suất thấp, nước tưới tiêu phụ thuộc vào thiên nhiên. Tuy nhiên, đây cũng là vùng lúa lớn thứ ba của nước ta, chiếm 9.4% sản lượng và gần 12% diện tích lúa cả nước. Từ năm 1989 đến năm 2000, sản lượng lúa tăng từ 1.79 triệu tấn lên 2.29 triệu tấn, tăng 27.8%. Sản lượng lúa vùng này góp phần vào việc gia tăng chung của cả nước.
3.5.Vùng khu Bốn cũ
Vùng khu Bốn cũ được xếp là vùng lúa lớn thứ tư, chiếm 8.7% sản lượng và 9.1% diện tích lúa toàn quốc. Nét nổi bật là sản lượng những năm gần đây tăng tương đối đều, năng suất lúa cũng giữ được mức cao hơn vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Sản lượng lúa từ mức 1.56 triệu tấn năm 1989 đã tăng lên 2.1 triệu tấn năm 1995, tăng 13.5% và năm 2000 là 2.822 triệu tấn.
3.6. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ
Hiện chiếm 5.5% diện tích và 5.2% sản lượng lúa cả nước nhưng lại là vùng đứng ba về năng suất sau vùng ĐBSCL và Đồng bằng sông Hồng. Năng suất năm 2000 đạt 39.8 tạ/ha so với 55.3 tạ/ha ở ĐBSCL.
3.7. Vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên
Chiếm 9.2% và 7% sản lượng lương thực cả nước. Cả hai vùng này có diện tích lúa không đáng kể, Hơn nữa năng suất thấp nên gặp nhiều khó khăn trong việc gia tăng sản lượng lúa. Vùng này có tiềm năng phát triển cây công nghiệp như cà phê, cao su, tơ tằm..
IV. SẢN XUẤT LÚA THEO MÙA VỤ
Để đánh giá việc sản xuất lúa theo mùa vụ ta nhìn vào bảng sau:
Bảng 6 : Cơ cấu diện tích lúa theo thời vụ 1995 - 2000
Đơn vị: 1000 ha
Trong đó
Năm
Tổng số
Đông xuân
Tỷ trọng
Hè thu
Tỷ trọng
Mùa
Tỷ trọng
1990
6042.8
2073.6
34.3
1215.7
20.1
2753.5
45.6
1995
6765.6
2421.3
35.8
1742.4
25.8
2601.9
38.5
2000
7654.9
3012.0
35.8
2292.5
20.1
2350.4
45.6
2000/1990
(lần)
1.5
1.9
0.9
Trong nhịp điệu tăng khá nhanh của của sản xuất lương thực có sự đóng góp của yếu tố thay đổi cơ cấu mùa vụ. Nếu so sánh năm1990 với năm 2000 thì diện tích lúa hè thu tăng nhanh nhất, tăng 1.9 lần sau đó đến vụ đông xuân, tăng 1.5 lần nhưng ngược lại vụ mùa lại giảm 0.9 lần. Năm 2000, vụ hè thu chiếm 20.1% diện tích, đông xuân chiếm 35.8% và mùa chiếm 45.6 %.
Cần chú ý rằng , trước đây vụ hè thu mới chỉ là vụ làm thí điểm, đưa xen vào giữa hai vụ lúa chính với mức diện tích không đáng kể. Nhưng hiện nay, vụ lúa hè thu ngắn ngày đã nhanh chóng trở thành vụ lúa chủ yếu số 1 ở hầu hết các tỉnh phía Nam và vẫn đạt năng suất cao 39-41 tạ/ha. Vụ đông xuân chiếm vị trí thứ hai. Vụ mùa trước đây là vụ chính nhưng nay nó trở thành thứ yếu do năng suất kém. Sự thay đổi sâu sắc về cơ cấu mùa vụ là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho diện tích và sản lượng tăng vững chắc trong suốt những năm qua, đồng thời đóng vai trò quyết định để tăng tổng sản lượng trong cả nước.
Thành tựu của chuyển đổi cơ cấu là kết quả nghiên cứu bền bỉ và sáng tạo của các nhà khoa học, là kết quả lao động một nắng hai sương của hàng triệu nông dân trong điều kiện lao động và đất đai nông nghiệp được giải phóng do chính sách đổi mới mang lại.
Sản xất lúa của nước ta đạt được những thành tựu như trên trong những năm qua là nhờ có:
Thứ nhất: sự nỗ lực của hàng triệu nông dân trong điều kiện đổi mới được Đảng khởi xướng từ nghị quyết 10. Toàn bộ ruộng đất và sức lao động được giải phóng cộng với những chính sách cởi mở đã tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất tăng nhanh. Người nông dân thực sự làm chủ trên tất cả các khâu của quá trình sản xuất - tiêu thụ đảm bảo tiết kiệm và có hiệu quả nhất .
Thứ hai: do biết ứng dụng những tiến bộ về khoa học - kỹ thuật trong sinh học, thuỷ lợi, phân bón.., đặc biệt trong việc áp dụng những thành tựu về sinh học như việc áp dụng những giống lúa năng suất cao vào sản xuất, làm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu mùa vụ, đẩy mạnh thâm canh, tăng nhanh sản lượng.
V. XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1989 - 2000
5.1. đánh giá khái quát chung
Kể từ năm 1989, Việt Nam từ một nước nông nghiệp thiếu đói phải nhập khẩu gạo thường xuyên đến năm 1997 đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới chỉ sau Thái Lan. Trong 12 năm qua (1989-2000), xuất khẩu gạo của Việt Nam ước đạt 30.2 triệu tấn.
Cần nói rõ , số liệu trên chưa kể phần xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới Campuchia và biên giới Tây Nam sang Lào, biên giới phía Bắc sang Trung Quốc. Ta có thể đánh giá con số trên qua một vài khía cạnh sau:
Bảng 7: Số lượng và kim ngạch gạo xuất khẩu của nước ta (1989 - 2000)
Năm
Số lượng(triệu tấn)
Kim ngạnh ( tr.USD)
lượng
% thay đổi
k.ngạch
% thay đổi
1990
1.6
13.95
310.4
-3.35
1991
1.3
-36.9
243.49
-22.46
1992
1.9
88.32
418.4
78.43
1993
1.7
-11.2
360.9
-13.26
1994
2
14.76
449.5
-23.86
1995
1.99
0.25
546.8
21.64
1996
3
52.92
868.27
58.79
1997
3,75
17.6
899
3.55
1998
3.73
4.34
1024.7
13.98
1999
4.55
21.98
1035.1
1.1
2000
3.476
-23.6
667
-35.56
Về thị phần xuất khẩu gạo: trung bình trong những năm qua, thị phần xuất khẩu gạo của Việt nam chiếm gần 13% tổng xuất khẩu gạo của thế giới. Năm 1997, chiếm 18.8% tổng xuất gạo thế giới. Về tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, riêng gạo xuất khẩu trong những năm qua chiếm trung bình 11- 12% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nếu xét cả quá trình từ năm 1989 đến nay, kim ngạch xuất khẩu gạo vẫn đứng vị trí thứ hai chỉ sau dầu thô.
Nếu so với vốn tích luỹ từ việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài chúng ta thấy đến năm 1999 tổng số vốn đăng ký đạt 35.5 tỷ USD nhưng thực tế đưa vào hoạt động mới chỉ có 15.1 tỷ USD bằng 42.5% vốn đăng ký. Có được số vốn đó, chúng ta đã phải cố gắng rất nhiều trong 12 năm kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài (1987). Trong khi đó xuất khẩu gạo trong 12 năm qua cũng đem về cho đất nước 7.7 tỷ USD.
Tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu gạo trong thời gian qua lớn hơn so với tốc độ tăng trưởng của sản xuất lúa trong nước, xuất khẩu tăng trung bình là 16.5%/năm về số lượng (gấp 3 lần sản xuất) và 21.7%/năm về giá trị (gấp 4 lần sản xuất). Nhưng qua những số liệu trên cho ta thấy kim ngạch nước ta tăng trưởng không đều. Kim ngạch phụ thuộc vào lượng xuất khẩu và giá xuất khẩu. Ta muốn xem xét xem lượng xuất khẩu của nước ta có phụ thuộc vào giá xuất khẩu và các yếu tố khác hay không . Kiểm định mô hình với 4 biến là: LXKVN, GIAXKVN, SXGTG và SXVN. Ta có kết quả sau:
Dependent Variable: LXKVN
Method: Least Squares
Date: 01/15/02 Time: 18:14
Sample: 1 12
Included observations: 12
Variable
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
GIAXKVN
-0.003695
0.003393
-1.089074
0.3078
SXGTG
-0.064976
0.017522
3.708224
0.0060
SXVN
0.243305
0.122656
-1.983641
0.0826
C
-26.34006
6.258767
-4.208507
0.0030
R-squared
0.949679
Mean dependent var
2.532417
Adjusted R-squared
0.930809
S.D. dependent var
1.079611
S.E. of regression
0.283982
Akaike info criterion
0.581392
Sum squared resid
0.645168
Schwarz criterion
0.743028
Log likelihood
0.511648
F-statistic
50.32690
Durbin-Watson stat
2.118946
Prob(F-statistic)
0.000015
5.2. Đánh giá mô hình:
Nhìn vào mô hình ta thấy d=2.11, với n=12 và k=3 thì du=1.579 và dl=0.861. Vậy ta có
du <d< 4 - du , mô hình này không có hiện tượng tự tương quan.
Dùng kiểm định White để kiểm định xem mô hình có hiện tượng phương sai của sai số thay đổi không. Ta có kết quả mô hình White như sau:
White Heteroskedasticity Test:
F-statistic
0.446621
Probability
0.837532
Obs*R-squared
8.013018
Probability
0.532835
Test Equation:
Dependent Variable: RESID^2
Method: Least Squares
Date: 01/16/02 Time: 18:57
Sample: 1 12
Included observations: 12
Variable
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
C
295.3782
693.8820
0.425689
0.7118
GIAXKVN
0.548548
0.715481
0.766683
0.5234
GIAXKVN^2
-1.52E-05
8.03E-05
-0.188819
0.8677
GIAXKVN*SXGTG
-0.001459
0.001937
-0.753467
0.5298
GIAXKVN*SXVN
0.010705
0.014743
0.726132
0.5432
SXGTG
-1.969965
3.955700
-0.498007
0.6678
SXGTG^2
0.003148
0.005675
0.554816
0.6348
SXGTG*SXVN
-0.047353
0.082514
-0.573874
0.6240
SXVN
15.00511
28.61464
0.524386
0.6523
SXVN^2
0.175266
0.297414
0.589301
0.6154
R-squared
0.667751
Mean dependent var
0.053764
Adjusted R-squared
-0.827367
S.D. dependent var
0.083297
S.E. of regression
0.112601
Akaikeinfo riterion
-1.655020
Sum squared resid
0.025358
Schwarz criterion
-1.250931
Log likelihood
19.93012
F-statistic
0.446621
Durbin-Watson stat
3.540604
Prob(F-statistic)
0.837532
Dựa vào mô hình có n=12. R2=0.678, nR2=8.136 giá trị 0.05(9)=18.3 như vậy trong mô hình này phương sai của sai số không thay đổi.
Xem xét hiện tượng đa cộng tuyến ta dùng hồi qui phụ. Ta ước lượng biến giải thích GIAXKVN qua các biến giải thích còn lại cho ta kết quả
Dependent Variable: GIAXKVN
Method: Least Squares
Date: 01/16/02 Time: 19:04
Sample: 1 12
Included observations: 12
Variable
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
SXVN
-17.62283
10.52298
-1.674700
0.1283
SXGTG
2.769724
1.453148
1.906016
0.0890
C
-858.4282
544.3295
-1.577038
0.1492
R-squared
0.360159
Mean dependent var
228.6000
Adjusted R-squared
0.217972
S.D. dependent var
31.55267
S.E. of regression
27.90277
Akaike info criterion
9.707647
Sum squared resid
7007.082
Schwarz criterion
9.828874
Log likelihood
-55.24588
F-statistic
2.532992
Durbin-Watson stat
1.589958
Prob(F-statistic)
0.134068
Dựa vào mô hình hồi qui phụ trên ta có : Fi=4.2. F0.05(1,10)= 4.36 vậy
Fi <F0.05(1,10) mô hình không có đa cộng tuyến.
Kiểm định đồng liên kết bằng lược đồ tương quan cho phần dư e1 thu được từ mô hình ban đầu cho ta kết quả sau:
Dựa vào lược đồ tương quan với khoảng tin cậy 95% thì tất cả các hệ số tương quan đều bằng không, kết luận là phần dư của mô hình này là một chuỗi dừng. Vì vậy mà đồng liên kết do đó không có hồi qui giả tạo.
Để kiểm định xem việc chỉ định mô hình đúng hay chưa ta dùng kiểm định sai phân Plosser - Schwert - White.Việc kiểm định này nhằm đánh giá xem việc đưa các biến vào mô hình ban đầu có đúng không, kiểm định áp dụng cho chuỗi thời gian. Ta có kết quả như sau:
Dependent Variable: LXKVN
Method: Least Squares
Date: 01/31/02 Time: 01:31
Sample: 1 12
Included observations: 12
Variable
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
SXVN
-0.211729
0.161618
-1.310060
0.2315
Z1
0.012305
0.081481
0.151012
0.8842
SXGTG
0.057934
0.029450
1.967161
0.0899
TD
-0.000811
0.003557
-0.228044
0.8261
C
-23.83185
12.26888
-1.942463
0.0932
R-squared
0.944379
Mean dependent var
2.532417
Adjusted R-squared
0.912596
S.D. dependent var
1.079611
S.E. of regression
0.319178
Akaike info criterion
0.848201
Sum squared resid
0.713122
Schwarz criterion
1.050246
Log likelihood
-0.089207
F-statistic
29.71307
Durbin-Watson stat
2.301998
Prob(F-statistic)
0.000175
Nhìn vào mô hình với mức ý nghĩa 10% ta thấy Pvalue của hai biến Z1, Z2 đều bằng không, như vậy ta chấp nhận giả thiết là mô hình chỉ định đúng.
Với mức ý nghĩa 10% thì ta thấy giá xuất khẩu không ảnh hưởng tới lượng xuất khẩu của nước ta vậy nếu như ta định giảm lượng xuất khẩu để nâng giá lên nhằm tăng kim ngạch cưú vãn tình trạng kim ngạch giảm mạnh do giá giảm như năm 2001 sẽ là một biện pháp không có hiệu quả. Điều đó cho ta thấy việc xuất khẩu được nhiều về mặt lượng chưa hẳn là tín hiệu vui, xuất khẩu với giá cao đem lại nhiều lợi ích hơn, để tăng giá thì biện pháp giảm lượng như ta chứng minh ở trên rất ít tác dụng vậy chỉ còn cách nâng cao giá trị của hạt gạo bằng việc trồng các giống lúa đặc sản. Hiện nay nhà nước đã có qui hoạch vùng lúa chất lượng cao.
Nếu ta xét về mặt lý thuyết thì việc giảm lượng gạo xuất khẩu ngay là không thể được bởi vì do hệ thống dự trữ, bảo quản của nước ta còn rất yếu kém nên không thể mua gạo của nông dân khi giá xuất khẩu giảm. Còn nếu các công ty xuất khẩu gạo mà mua lượng hạn chế nhằm nâng giá xuất khẩu thì dẫn đến giá gạo trong nước giảm mạnh do người dân đặc biệt là người nông dân ĐBSCL buộc phải bán gạo đi để trang trải chi phí cuộc sống hàng ngày bởi vì lúa gạo là nguồn thu lớn đối với họ và họ không có khả năng tự dự trữ do điều kiện thời tiết (lũ lụt) và điều kiện kinh tế. Điều đó làm cho đời sống của người nông dân sẽ trở lên vô cùng khó khăn và gây lên hậu quả lớn cho xã hội.
Cũng với mức ý nghĩa 10% ta thấy cả hai biến còn lại trong mô hình đều có ý nghĩa. Vậy mô hình có dạng:
LUONGXK = - 0.0649SXGTG + 0.24 SXVN +C
Trong mô hình này với các điều kiện khác không đổi thì sản xuất gạo trên thế giới tăng lên 1 triệu tấn thì lượng xuất khẩu gạo nước ta sẽ giảm đi 0.064 triệu tấn và nếu sản xuất trong nước tăng 1 triệu tấn xuất khẩu gạo nước ta sẽ tăng thêm 0,24 triệu tấn điều này cho thấy phần sản lượng gia tăng không chỉ cung cấp cho tiêu dùng trong nước tăng thêm do tăng dân số mà còn thừa ra cho xuất khẩu. Hệ số này sẽ ngày càng lớn do dân số trong nước tăng ngày càng chậm lại, vì vậy nếu như sản lượng tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo thì áp lực lên việc xuất khẩu gạo sẽ rất lớn. Điều này chưa chắc đem lại lợi ích do cần phải xuất khẩu để giải toả lượng gạo dư thừa trong nước ngày càng nhiều, chúng ta có thể phải chấp nhận bán với giá thấp gây lên thiệt hại không đáng có. Điều đó cho thấy trong giai đoạn hiện nay ở nước ta việc phát triển sản xuất nhằm tăng sản lượng lúa gạo không hẳn là một chính sách tốt.
VI. XUẤT KHẨU GẠO QUA CÁC THỜI KỲ
6.1. xuất khẩu gạo giai đoạn 1989 - 1993:
Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là tình trạng xuất khẩu không ổn định qua các năm. Về số lượng, có hai năm giảm mạnh (năm 1991 giảm 36.4% và năm1992 giảm 11.2%). Về kim ngạch, ngoài hai năm giảm như trên thì vào năm 1990 kim ngạch cũng giảm 3% do giá giảm từ 314 USD/tấn năm xuống còn 278 USD/tấn.
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này do lương thực đầu người còn thất, mặc dù sản lượng thóc vẫn tăng nhưng mà do số dân tăng nhanh nên không cải thiện được tình hình. Ngoài đặc điểm trên giai đoạn này còn có những đặc điểm sau:
Một là, do mới bước vào thị trường xuất khẩu cho nên các doanh nghiệp Việt Nam còn hết sức bỡ ngỡ do vậy mà xuất khẩu gạo của nước ta chủ yếu là phải qua trung gian dẫn đến giá gạo thấp hơn giá gạo quốc tế từ 50 USD / tấn đến 70 USD/tấn.
Hai là, cơ chế xuất khẩu gạo mới bắt đầu hình thành. Đến tháng 12-1989 Hiệp hội xuất khẩu lương thực Việt Nam mới ra đời.
6.2. Giai đoạn từ 1994 đến nay: Phân tổ đầu mối cho các tỉnh vùng lúa
Đặc điểm của giai đoạn này là lượng xuất khẩu hàng năm lớn hơn và tăng trưởng liên tục, năm sau đều đạt hơn năm trước, lượng gạo xuất khẩu liên tiếp vượt qua các ngưỡng 2 triệu tấn, 3 triệu tấn và tiếp tục vượt ngưỡng 4 triệu tấn. Nguyên nhân chính là do sản xuất tăng mạnh, vượt qua mức tăng dân số. Bên cạnh đó còn do:
- Việc điều hành có nền nếp hơn do đã có được kimh nghiệm từ những năm trước.
- Nhà nước can thiệp trực tiếp vào họat động kinh doanh xuất khẩu gạo nhằm thực hiện nguyên tắc ưu tiên hàng đầu cho mục tiêu an ninh lương thực quốc gia.
Chính phủ phân bổ hạn ngạch cho các tỉnh vùng lúa, uỷ nhiệm cho các tỉnh điều hành và quản lý nhằm đảm bảo cơ chế xuất khẩu gạo linh hoạt hơn. Do vậy xuất khẩu gạo tăng nhanh về số lượng và kim ngạch, đồng thời hiệu quả xuất khẩu gạo cũng được nâng cao.
VII. Chất lượng và thị trường gạo xuất khẩu
7.1. Chất lượng gạo xuất khẩu
Trong mậu dịch gạo quốc tế, cũng giống như những mặt hàng khác, chất lượng gạo gắn liền với hiệu quả xuất khẩu và cũng là công cụ cạnh tranh hàng đầu hiện nay, đặc biệt là khi xuất khẩu sang các nước phát triển. Chất lượng gạo bao gồm nhiều tiêu thức khác nhau như hình dáng và kích cỡ hạt gạo, mùi vị, màu sắc, tỷ lệ tấm.. Trong số những tiêu thức này tỷ lệ tấm có ý nghĩa hết sức quan trọng . Bảng duới đây cho thấy rõ tình hình chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam:
%tấm
Năm
5% tấm
10% tấm
15% tấm
20% tấm
25% tấm
35-40% tấm
1989
0.3
2.3
5
92.4
1990
3.3
13.1
5.9
2
20.2
55.5
1991
6.0
30.3
3
8
26.4
26.6
1992
18.5
20.8
13
1.2
15.4
31.1
1993
25.7
25.6
13.3
8.2
14.7
12.5
1994
42.3
23.6
4.1
8.5
6.7
14.8
1995
30.6
22.3
13.9
11.6
16.5
5.2
1996
30.6
17.7
5.5
6.2
21.8
18.3
1997
27.4
16.2
7.1
1.2
35.9
12.22
1998
26.9
26.2
13.9
0.4
30.8
1.8
Xét theo tỷ lệ tấm, chất lượng gạo xuất khẩu gạo của Việt Nam nói chung tăng rõ rệt. Năm 1989 loại gạo 5% tấm gần như không có, chỉ chiếm 0.33% tổng lượng gạo xuất khẩu, tới năm 1994 đã chiếm 42.3% tổng lượng gạo xuất khẩu của nước ta. Cả hai cấp loại gạo tốt ( tỷ lệ 5% và 10% tấm) chiếm 0.3% tổng lượng gạo xuất khẩu gạo của năm 1989 đã lên tới 65.9% năm 1994. Ngược lại, cấp loại gạo xấu, tỷ lệ tấm cao( 35% và 45%) năm 1989 chiếm tới 92.4% tổng lượng gạo xuất khẩu đã giảm xuống 5.2% năm 1995 và 1.8% năm 1998.
Tuy nhiên, cùng với những tiến bộ chung đó, chất lượng gạo theo tỷ lệ tấm của nước ta cũng còn nhiều điều bất cập đáng chú ý. Nổi bật nhất là cấp gạo tốt, tỷ lệ 5% tấm có xu hướng tụt lùi rõ rệt từ năm 1995 đến nay, từ chỗ chiếm 42.3% tổng lượng gạo xuất khẩu xuống còn 26.6% năm 1998. Những năm 1995 - 1996 giá gạo tăng mạnh nhiều nước nghèo giảm hẳn nhu cầu loại gạo tốt và tăng cường mua các cấp gạo trung bình ( 20% - 25%) nên tỷ lệ gạo tốt trong tổng xuất khẩu của nước ta chưa nhiều là chiến lược hợp lý. Nhưng những năm tiếp theo từ năm 1997 đến nay, giá gạo thế giới có xu hướng giảm, tỷ lệ gạo tốt trong tổng xuất khẩu của nước ta vẫn chưa tăng mạnh
Ngoài tỷ lệ tấm, gạo xuất khẩu Việt Nam những năm qua còn có những tiến bộ về các tiêu thức khác như tỷ lệ hạt hẩm, tỷ lệ hạt đỏ và sọc đỏ, tỷ lệ hạt bạc bụng, hạt thóc lẫn, tạp chất..Hình dáng, kích cỡ, mùi vị tự nhiên của gạo xuất khẩu có sự cải thiện trong những năm gần đây.
CHƯƠNG III
ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHO SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU LÚA GẠO Ở NƯỚC TA
I. NHỮNG TỒN TẠI VÀ THÁCH THỨC TRONG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU GẠO
1.1. Công nghệ sau thu hoạch:
Hiện nay toàn bộ hệ thống sau thu hoạch của Việt Nam chưa được tổ chức đồng bộ do chưa được đầu tư đúng mức trong khi công nghệ sau thu hoạch lại đóng một vai trò quan trọng nhằm khắc phục những tổn thất không đáng có. Thực tế trong sản xuất lúa, hệ thống sau thu hoạch bao gồm một loạt các khâu như gặt, đập, phơi, xấy, đóng gói, kiểm tra..
Theo điều tra tỷ lệ tổn thất bình quân sau thu hoạch lúa của Việt Nam diễn ra cụ thể ở các khâu như sau:
- Khâu thu hoạch : 1.3 - 1.7%
- Khâu vận chuyển 1.2 - 1.5%
- Khâu đập 1.4 - 1.8%
- Khâu phơi 1.8 - 2.1%
- Khâu bảo quản 3 .2 - 3.9%
- Khâu xay xát chế biến 4.1 - 5%
- Tổng số 13 - 16%
Như vậy là tổn thất lớn nhất là ở 3 khâu cuối chiếm tới 68 -70% tổng số tổn thất, trong khi đó các nước tiên tiến thường chiếm 3.9 - 5.6%. Trên thực tế, khi giảm được 30% tổn thất sau thu hoạch , chúng ta có thể tận thu thêm được một lượng thóc đáng kể, tới 850.000 tấn và tương đương với 135.000 ha canh tác lúa.
1.2. Thị trường
Trước hết ở thị trường trong nước do nhà nước chưa kiểm soát được việc buôn bán lúa gạo cho nên hoạt động của các tư thương thường diễn ra tình trạng tranh mua tranh bán, đầu cơ thao túng thị trường giá cả. Trong khi đó nông dân cần đầu ra tin cậy để đảm bảo tiêu thụ sản phẩm ổn định sau khi thu hoạch với mức giá thoả đáng cho quyền lợi của mình.
Ở khâu xuất khẩu, chúng ta vẫn chưa thiết lập được hệ thống thị trường ổn định với mạng lưới khách hàng tin cậy. Cho đến nay, phương thức xuất khẩu qua trung gian vẫn còn khá lớn, mặc dù chúng ta đã có nhiều cố gắng để tăng cường xuất khẩu trực tiếp. Đặc biệt việc xuất khẩu qua trung gian vào các nước châu Phi vẫn còn diễn ra khá phổ biến.
Việc nguyên cứu thị trường gạo cần phải được tăng cường hơn nữa . Nhiều năm qua, các nguồn tài liệu về thị trường gạo thế giới phục vụ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, cũng như phục vụ cho công tác quản lý xuất khẩu và công tác quản lý nguyên cứu nhìn chung còn ít ỏi. Do nguyên cứu thị trường hạn chế cho nên chưa có được những thông tin cần và đủ nên chưa chớp được thời cơ và chưa ứng xử kịp những diễn biến của thị trường.
. 1.3. Về tổ chức
Một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay là hệ thống lưu thông phân phối lúa gạo đảm bảo tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Từ năm 1995, Nhà nước chủ trương tự do hoá lưu thông phân phối, qui tụ các đầu mối xuất khẩu và mở rộng quyền tự chủ cho tư nhân mua bán lúa gạo phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu gạo vẫn tập trung chủ yếu vào những doanh nghiệp nhà nước có có đủ sức cạnh tranh và uy tín trên thị trường quốc tế. Các cơ sở kho tàng xay xát, chế biến gạo vừu thiếu lại vừa thừa. Các tư thương và các doanh nghiệp nhà nước chưa có sự phối hợp hài hoà trong khâu mua bán từ người sản xuất đến người tiêu dùng trong nước và các nhà xuất khẩu.
Vấn đề thứ hai đó là việc không thể kiểm soát được việc xuất khẩu lậu thông qua việc buôn bán gạo ở biên giới sang Trung Quốc , Campuchia và Lào. Để có thể kiểm soát được hoạt động xuất khẩu lậu, trước hết phải có sự nghiêm khắc, cứng rắn của pháp luật đối với các đơn vị trốn thuế, đồng thời phải nâng cao vai trò của hải quan và các lực lượng hữu trách khác.
1.4. Sản xuất và giá cả
Trong sản xuất kỹ thuật canh tác của người nông dân còn rất lạc hậu, người nông dân nước ta dùng rất nhiều phân hoá học, thuốc trù sâu, diệt cỏ để chăm sóc cây lúa . Điều này làm cho chất lượng lúa gạo của nước ta thấp và gây lên tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng ở nông thôn. Do một thời gian dài chỉ tập trung vào việc nâng cao sản lượng cho nên nhiều giống lúa đặc sản có hương thơm độc đáo, giá trị rất cao không được chú trọng đúng mức vì vậy chất lượng của các loại gạo đặc sản này đã giảm sút nhiều. Mà hiện nay gạo đặc sản đang được coi là lợi thế lớn để nâng cao giá trị hạt gạo trong tiêu dùng nội địa cũng như xuất khẩu.
Sản xuất lúa gạo thế giới liên tục tăng trưởng trong những năm gần đây, đến năm 1999 mức sản lượng của toàn thế giới đã đạt được 607 triệu tấn thóc. Tình hình sản xuất tăng nhanh trước hết là do tác động mạnh mẽ của khoa học - công nghệ.
Trong khi cung cấp lúa gạo mở rộng thì mức tăng dân số ở các nước đang phát triển chậm lại rõ rệt. Rốt cuộc, số người tăng thêm hàng năm trên thế giới từ mức 91 triệu người năm 1998 đã giảm chỉ còn 82 triệu người năm 2000. Như vậy cung cấp lúa gạo không những tiến kịp cầu mà còn phát triển theo xu hướng bất lợi cho nhà xuất khẩu. Giá gạo giảm làm hai đợt lớn:
Đợt một: từ năm 1982 - 1986 giá giảm từ 483 USD/tấn xuống còn 110USD/tấn, giảm 56.5%
Đợt hai : từ năm 1997 đến năm 2001, từ giá cao nhất 352 USD/tấn đến giá thấp nhất 352 USD/tấn, như vậy mức giảm là 173 USD/ tấn, tỷ lệ giảm là 49.1%.
II. CÁC GIẢI PHÁP CHO VIỆC SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM
2.1.Nâng cao chất lúa trong khâu canh tác và thu hoạch
2.1.1 Giải pháp sinh học
Trong sản xuất lúa gạo những năm gần đây chúng ta đã đưa vào nhiều giống lúa mới đem lại hiệu quả tốt. Tuy nhiên để đảm bảo hiệu quả hơn trong những năm tới, cần hoàn thiện một số vấn đề sau:
Một là: ưu tiên tuyển chọn những giống lúa đạt chất lượng cao, chú trọng đến những giống lúa đặc sản của các địa phương.
Hai là: hình thành hệ thống nhân giống lúa thích hợp, đảm bảo tốt giống thuần, khắc phục tình trạng giống lai tạp xuống cấp.
Ba là: rút ngắn thời gian nguyên cứu, thực nghiệm đến áp dụng đại trà, đẩy mạnh hoạt động khuyến nông.
2.1.2. Giải pháp về phân bón
Lượng phân bón hoá học dùng ở nước ta đã đạt trên 4 triệu tấn/năm. Trong đó đạm urê khoảng 1.8 triệu tấn, chiếm 45%. Giải pháp phân bón những những năm tới cần chú trọng;
Thứ nhất: sử dụng kết hợp phân bón vô cơ với phân bón hữu cơ nông nghiệp nhằm đảm bảo đúng yêu cầu kỹ thuật chăm sóc, duy trì độ phì nhiêu cho đất đai đồng thời tận dụng được nguồn phân chuồng có sẵn do chăn nuôi
Thứ hai: thực hiện chuyển dịch tốt theo cơ cấu hợp lý giữa các loại phân vô cơ (N-P-K) với phân hữu cơ công nghiệp và phân vi sinh theo hướng tăng đần hai loại sau.
Thứ ba : cần chấn chỉnh hơn nữa cơ chế điều hành nhập khẩu phân bón nhằm đảm bảo nhập đúng số lượng, chất lượng.
2.1.3. Giải pháp phơi sấy thóc khâu thu hoạch
Hiện nay phơi sấy thóc vẫn dựa chủ yếu vào ánh nắng mặt trời. Phơi thóc tự nhiên có ưu điểm lớn là khai thác được nguồn tài nguyên sẵn có và đảm bảo chất lượng tốt khi xay xát. Do vậy để đảm nhu cầu phơi thóc nên "bê tông hoá" hay "gạch hoá" hệ thống sân phơi ở nông thôn vùng lúa. Đối với ĐBSCL do thu hoạch vào mùa mưa, độ ẩm cao cho nên phải sử dụng hệ thống máy sấy.
2.1.4. Nhóm giải pháp hiện đại hoá khâu chế biến - bảo quản gạo
Quy trình xay xát chế biến gạo là khâu có tỷ lệ tổn thất lớn nhất (4.5%) so với các khâu sau thu hoạch. Tổng công suát xay xát của nước ta đạt trên 13 triệu tấn/ năm nhưng chủ yếu là tiêu thụ nội địa, chế biến gạo xuất khẩu chỉ đạt trên 2.5 triệu tấn trong khi xuất khẩu đạt xấp xỉ 4 triệu tấn. Để nâng cao hiệu quả của khâu này ta cần chú ý tới những giải pháp sau:
Khai thác có hiệu quả các nhà máy xay xát quốc doanh có công suất lớn và công nghệ hiện đại như nhà máy xay xát Satake Sài Gòn.. Đầu tư nâng cấp những cơ sở quốc doanh còn lại cũng như những cơ sở tư nhân tốt nhất , xây mới những cơ sở khi cần thiết.Vươn tới chế biến sâu, chế biến tinh dưới dạng bao bì nhỏ, nhãn hiệu hấp dẫn.
Sau khâu chế biến khâu bảo quản gây tỷ lệ tổ thất lớn thứ hai, với mức 3.2 - 3.9%. Những giải pháp chủ yếu cho khâu này cần theo hướng sau:
- Áp dụng công nghệ và thiết bị bảo quản kín, chân không.
- Sản xuất và áp dụng một số sản phẩm vi sinh có tác dụng diệt côn trùng không gây độc hại và ô nhiễm môi trường.
- Sản xuất các thiết bị kho chứa chuyên dụng cỡ nhở tuỳ theo nhu cầu thực tế.
2.2.Giải pháp vĩ mô đối với nông dân
2.2.1. Chính sách tín dụng vốn sản xuất ưu đãi
Thực ra, việc tín dụng kịp thời đến với hộ nông dân không phải là gì mới song lại là điều nhức nhối nổi cộm hiện nay. Sắp tới giải pháp này cần chú trọng tới:
Thứ nhất : cải thiện các thủ tục cho vay của các ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng mới chỉ đáp ứng hơn 15% nhu cầu vay vốn của nông dân vùng lúa.
Thứ hai : mở rộng mạng lưới quỹ tín dụng nhân dân trên toàn địa bàn nông thôn nhằm tăng cường khả năng cung ứng vốn nhanh chóng
Thứ ba : tăng cường hình thức tín dụng thế chấp thông qua các hoạt động của các hội nông dân, hội phụ nữ trên toàn quốc.
Thứ Tư : đối với các vùng chuyên canh lúa xuất khẩu, cần cho vay theo từng dự án lớn và đồng bộ.
2.2.2. Hoàn thiện chính sách giao ruộng đất cho nông dân
Thời gian qua, chính sách này trực tiếp tạo ra động lực mới ở nông thôn, xác định đầy đủ nhất quyền làm chủ hộ nông dân về ruộng đất. Tuy nhiên trong quá trình chuyển khai vẫn còn nhiều vướng mắc. Vì vậy, chính sách này thời gian tới cần hoàn thiện dứt điểm những vấn đề sau:
- Hoàn thiện việc cấp giấp chứng nhận sử dụng đất cho các đối tượng.
- Cần khẩn trương thể chế hoá 5 quyền của người nông dân và những thủ tục cần thiết để thực hiện 5 quyền đối với người giao đất.
- Nhà nước cần phân cấp rõ ràng các quan hệ đất đai.
2.3. Giải pháp marketing trong xuất khẩu gạo
2.3.1. Giải pháp thích ứng với thị trường
Thị trường gạo thế giới biến động rất nhạy cảm với những thăng trầm về nhu cầu nhập khẩu và quan hệ cung cầu quốc tế. Do vậy, cần theo hướng kết hợp tập trung hoá và đa dạng hoá các doanh nghiệp xuất khẩu gạo về qui mô và loại hình doanh nghiệp, qui mô ngày một lớn để đủ sức đứng vững trong thương trường, loại hình nên mở rộng theo các thành phần kinh tế một cách thông thoáng để khai thác thế mạnh của từng thành phần đó.
2.3.2. Giải pháp mở rộng thị trường
Những năm tới chúng ta nên chú trọng tăng nhanh gạo đặc sản chất lượng cao nhằm mở rộng hơn nữa vào thị trường các nước phát triển Bắc Mỹ và Tây Âu, thị trường khó tính nhưng hiệu quả xuất khẩu cao.
Cũng để mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu gạo, nhất là phương thức xuất khẩu trực tiếp, chúng ta cần chú trọng hơn những cơ hội giao tiếp quốc tế với qui mô lớn như hội ngị Pháp ngữ, Hội nghị thượng đỉnh lương thực thế giới.
Một hướng nữa khá tích cực là tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại cấp nhà nước để hỗ trợ hơn nữa cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, tăng cường các hợp đồng chính phủ để mở rộng thị trường và xuất khẩu trực tiếp nhanh hơn nữa. các doanh nghiệp Việt Nam cần quan hệ chặt chẽ với các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài nhằm cập nhập nhanh những thông tin tìm kiếm khách hàng hay đối tác mới. Ngoài ra chúng ta cũng nên mở rộng thông tin qua việc đặt đại diện ở nước ngoài.
Khuyến khích gọi vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực trồng lúa xuất khẩu mà bấy lâu chúng ta chưa quan tâm tới, kết quả còn quá ít so với tiềm năng.
2.3.2. Qui hoạch vùng chuyên canh lúa gạo xuất khẩu
Qui hoạch vùng chuyên canh lúa gạo xuất khẩu là đòi hỏi khách quan đáp ứng nhanh chóng nhu câù của thị trường thế giới về số lượng và dặc biệt là chất lượng, chủng loại gạo và cấp loại gạo nào đó so với nhu cầu.
Qui hoạch vùng canh tác lúa gạo xuất khẩu là căn cứ để nhà nước phân công, phân cấp thị trường cho các doanh nghiệp gạo, đồng thời có hướng dẫn đầu tư đúng đắn và triển khai kịp thời các thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất.
Vùng lúa gạo chuyên canh được qui hoạch cụ thể cho riêng hai vùng đồng bằng lớn là Đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL.
Thứ nhất, đối với vùng ĐBSCL: cần tập trung chuyên canh các chủng loại lúa có chất lượng cao, khối lượng xuất khẩu lớn. Để nâng cao phẩm chất gạo xuất khẩu, phải tính toán đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng theo qui trình 7 khâu liên hoàn. Trong qui hoạch cần chú ý tới phương hướng tăng dần tỷ trọng xuất khẩu loại gạo chất lượng cao, kể cả gạo dặc sản như Nàng Hương, Chị Đào..
Thứ hai, đối với Đồng bằng sông Hồng : bên cạnh những hạn chế đáng kể về số lượng gạo xuất khẩu do đất chặt người đông, vùng này lại có ưu thế về chất đất, nguồn nước, thời tiết rất thuận lợi để phát triển các giống lúa đặc sản truyền thống nổi tiếng như Tám Thơm, Dự Hương..đây là những sản phẩm có thể chiếm lĩnh nhanh chóng các thị trường gạo thuộc Bắc Mỹ, EU, Nhật Bản với giá cao, hiệu quả xuất khẩu lớn. Về lâu dài, vùng này chỉ nên chiếm 10% lượng gạo xuất khẩu nhưng chủ yếu là gạo đặc sản. Việc qui hoạch theo các tiểu vùng là điều cần thiết bởi các giống lúa đặc sản chủ yếu chỉ thích hợp với từng tỉnh cụ thể.
KẾT LUẬN
Lợi thế của Việt Nam trong sản xuất, xuất khẩu gạo đã được thực tiễn chứng minh trong suốt hơn 12 năm liên tục vừa qua cả về mặt đảm bảo an ninh lương thực, cả về đẩy mạnh xuất khẩu là điều cả thế giới không thể phủ nhận được. Mặc dù đất nước đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nhưng trong một tương lai gần thì nông nghiệp trong đó sản xuất lúa gạo là chủ yếu vẫn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế đất nước, thu nhập từ cây lúa vẫn là một nguồn thu lớn của người nông dân đặc biệt là người nông dân ĐBSCL vì vậy phát triển nông nghiệp trong tương lai sẽ vẫn là một ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước.
Ngay từ năm 2001 này, Việt Nam có đủ điều kiện để sản xuất 35 triệu tấn lương thực, trên 32 triệu tấn thóc. Tuy nhiên trong bước đầu trưởng thành đó, Việt Nam mới đẩy mạnh chủ yếu về số lượng, trong khi chất lượng gạo xuất khẩu đang là mặt yếu kém cần được khắc phục.
Nhu cầu nhập khẩu gạo của thị trường thế giới dù có những biến động thăng trầm nhưng dù sao vẫn đang có xu hướng mở rộng. Thị trường gạo nhìn chung vẫn là thị trường ít rủi ro hơn so với nhiều thị trường nông sản khác trong xu hướng biến động giá hiện nay. Đó là những thuận lợi để Việt Nam có thể yên tâm phát triển xuất khẩu gạo, đồng thời đảm bảo ổn định sản phẩm đầu ra ở trong nước.
Trong nhiều năm tới đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn được chú trọng với vị trí là mặt hàng xuất khẩu chủ lực lớn, vẫn góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hương thơm của lúa gạo Việt nam vẫn sẽ lan toả rộng hơn trên thị trường thế giới..
Đánh giá về sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam trong giai đoạn 1989 đến nay (37 trang)
ĐÁNH GIÁ VỀ SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU LÚA GẠO CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1989 ĐẾN NAY
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC1789.DOC