Nguồn nhân lực hiện có ở Phú Thọ còn chưa đáp ứng được những yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn sản xuất và đời sống. Trong bối cảnh có những thời cơn thuận lợi và những khó khăn thách thừc đan xen, cùng tác động lên nền kinh tế xã hội. Phú Thọ phải bứt phá vượt lên theo bước đi riêng cuả mình bằng chiến lược tận dụng nhân công. Muốn vậy việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một nội dung, một tiền đề cơ bản để nâng cao hiêụ quả sử dụng. Những vẫn đề bức xúc nhất của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện nay là mở rộng quy mô đào tạo trên cơ sở đa dạng các nguồn vốn điều chỉnh cơ cấu đào tạo, phát triển đổi mới nội dung chương trình đào tạo, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực theo hướng CNH-HĐH, đào tạo và xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và chuyên gia giỏi hướng tới mục tiêu cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của thị trường .
Để đạt được mục tiêu tạo ra một lực lượng lao động có trình độ học vấn cao có kỹ năng nghề nghiệp đủ khả năng đáp ứng được thay đổi nhanh chóng và đa dạng của thị trường lao động Việt Nam khi nền kinh tế tăng trưởng và đa dạng hoá, Phú Thọ phải thực hiện đồng bộ và có hiệu quả hệ thống các giải pháp .
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cơ cấu kinh tế của tỉnh Phú Thọ đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ các thành phần kinh tế phát triển, khu công nghiệp mới được hình thành, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nhiều ngành nghề mới, công nghệ mới và lĩnh vực mới xuất hiện. Thực tế đó đòi hỏi nguồn nhân lực phải được phát triển đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng lao động. Công tác dạy nghề phải được đẩy mạnh và tăng cường nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động là yêú tố góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH của tỉnh Phú Thọ
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Mai Quốc Chánh và các cô chú Sở lao động Thương binh Xã hội tỉnh Phú Thọ đã giúp đỡ nhiệt tình để em có thể hoàn thành bài viết này. Tuy nhiên do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên bài viết chắc chắn còn nhiều sai sót vì vâỵ em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô, các cô chú để em có thể học hỏi nâng cao kiến thức cho bản thân.
82 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1251 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đào tạo nghề cho người lao động ở tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y và học.
Tóm lại, do ngân sách dành cho đào tạo nghề thấp nên một số trường, trung tâm đào tạo nghề không có khả năng chuyển đổi trang thiết bị cho ngành học hoặc có đầu tư chuyển đổi thì rất chậm chạp và không đáng kể. Vì vậy, thực hiện mục tiêu đào tạo gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến chất lượng và quy mô đào tạo, gây trở ngại cho sự phát triển của ngành.
2.4. Nội dung - chương trình đào tạo
Trong thời gian qua, các trường đã tập trung cải tiến, đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo nhằm đáp ứng được phần nào sự thay đổi phát triển của các ngành kinh tế.
- Do nhu cầu của người học, của nền kinh tế các trường và các trung tâm GDTX đã liên kết để đào tạo các lớp trung học, nghề với các hình thức chuyên tu, tại chức ... các ngành nghề đào tạo chủ yếu là: kinh tế, ngoại ngữ, tin học, trồng trọt, chăn nuôi, thú ý, hoá chất, giấy, công nghiệp thực phẩm, xây dựng, cơ khí, may mặc...
- Các trường đào tạo trung học nghề năm học 1998-1999 có 1.300 học sinh đang theo học, đây là bậc đào tạo mới trong hệ thống giáo dục quốc dân vừa dạy văn hoá vừa học nghề. Bậc học này cần được tuyên truyền sâu rộng đẻ thu hút được nhiều người học, phân luồng đào tạo và giảm gánh nặng cho PTTH.
- Dạy nghề ngắn hạn đã phát triển về số lượng: Trung tâm DVVL (sở LĐ-TBXH), trung tâm DVVL (quân khu II). Các cơ sở dạy nghề như: Cục quản lý xe máy, tỉnh đoàn thanh niên... bước đầu có sự đầu tư về đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất phương thức đào tạo nên đã thu hút được nhiều người theo học.
- Một số cơ sở vật chất đã kết hợp để đào tạo nghề như: công ty may xuất khẩu, công ty giầy da, công ty sứ Thanh hà... Nhiều người học xong đã ký hợp đồng lao động với công ty. Đây là mô hình đào tạo nghề kết hợp với sử dụng đang được các ngành khuyến khích mở rộng. Song hoạt động đào tạo ở các công ty trên đều xuất phát từ nhu cầu thiếu lao động nên thời gian đào tạo kết hợp với kết cấu nội dung chương trình đào tạo còn bất hợp lý, do đó mới chỉ hình thành được một số kỹ năng lao động cần thiết cho sản xuất nên hiệu quả lao động thấp.
Kế hoạch đào tạo đã hợp lý giữa lý thuyết và thực hành. Kết cấu chương trình có sự liên kết chặt chẽ giữa các bậc đào tạo nghề và giữa các môn học. Tuy nhiên điều kiện dạy và học như: giáo trình, thiết bị, thói quen nghề nghiệp và kinh nghiệm còn hạn chế nên kết quả còn thấp. Hầu hết các cơ sở dạy nghề chưa chủ động biên soạn được nội dung chương trình và giáo trình đào tạo. Do không đủ đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn và sư phạm cần thiết nên các cơ sở dạy nghề chủ yếu sử dụng chương trình đào tạo của các trường khác có sự điều chỉnh, cải tiến cho phù hợp với mục tiêu đối tượng và thời gian đào tạo. Giáo trình và các tài liệu tham khảo phục vụ cho dạy và học còn thiếu.
Mục tiêu, nội dung, chương trình, hình thức, phương thức và phương pháp đào tạo chậm đổi mới. Trong những năm gần đây, ngành đào tạo đã có những nỗ lực lớn nhằm đổi mới các nội dung đó. Bước đầu đã thu được những kết quả nhất định song còn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu đặt ra.
2.5. Sử dụng lao động sau đào tạo
Đối với các học viên học nghề thì những người được học nghề ngắn hạn và những người được bồi dưỡng phổ cập nghề (chủ yếu là bà con nông dân, lao động thuần nông) hầu hết thường làm đúng theo ngành nghề đào tạo. Họ góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương, nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi, họ còn có thể tự tạo việc làm với những nghề đã được đào tạo ở các cơ sở dạy nghề. Nhưng đối với lực lượng công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ được đào tạo dài hạn thì sau khi kết thúc khoá đào tạo nghề, họ không dễ dàng tìm được chỗ làm việc thích hợp. Theo báo cáo (chưa đầy đủ) của Sở công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, nông lâm nghiệp, thương mại, y tế và 25 doanh nghiệp của Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh: số lao động được đào tạo ra đang làm việc tại các doanh nghiệp nhà nước đúng ngành nghề đào tạo chiếm 81,5%, còn lại 18,5% làm việc không đúng ngành nghề đào tạo (trong đó: đại học, cao đẳng chiếm 4,6%, trung học chuyên nghiệp và tương đương chiếm 7,6%; công nhân kỹ thuật và tương đương chiếm 6,2%). Số lao động đào tạo ra phân bổ không tương ứng giữa các vùng trong tỉnh, lao động qua đào tạo tập trung chủ yếu ở thành phố, thị xã, khu công nghiệp tập trung; nông nghiệp nông thôn và các khu vực miền núi chỉ chiếm khoảng 6%. Số lao động đào tạo ra vào các cơ quan nhà nước và tự tìm được việc làm chiếm khoảng 60%, còn 40% là không tìm được việc làm (số liệu điều tra lao động việc làm của Ban chỉ đạo Trung ương trên địa bàn tỉnh năm 1998).
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nàylà do:
- Trình độ học viên sau khi kết thúc khoá đào tạo nghề chưa đáp ứng được yêu cầu từ phía các doanh nghiệp có nhu cầu về lao động.
- Sự mất cân đối giữa lượng học viên được đào tạo so với nhu cầu thực tế của thị trường. Xảy ra sự mất cân đói này là do:
+ Thông tin về thị trường lao động không thông suốt với thực tế để các cơ sở dạy nghề có hể điều chỉnh được lượng học viên đầu vào.
+ Có sự chồng chéo giữa các ngành nghề đào tạo gây ra sự dư thừa lao động ở một số ngành nghề.
+ Thị trường lao động có sự biến động trong khoảng thời gian mà học viên nhu cầu lao động về một ngành nghề đào tạo tại thời điểm học viên bắt đầu học nghề khác với nhu cầu tại thời điểm học viên kết thúc khoá học và bắt đầu đi tìm việc làm.
- Đào tạo nghề chưa gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, với chiến lược kinh tế vùng, chưa gắn với sản xuất và thị trường sức lao động.
- Việc mở rộng tràn lan các loại hình đào tạo cũng là một nguyên nhân gây ra tình trạng trên. Các trường, các ngành học... mở rộng hoặc thu hút chỉ tiêu tuyển sinh tuỳ ý, theo thị hiếu của người học dẫn tới tình trạng có những chuyên ngành khác đã thiếu lại càng thiêú.
- Các chính sách, biện pháp khuyến khích theo học những ngành học, khối ngành học mà xã hội cần nhưng bản thân đối tượng không muốn theo học chưa hiệu quả.
- Việc mở rộng tràn lan các loại hình đào tạo
Một số chế độ, chính sách đã ban hành đến nay có những điểm không còn phù hợp hoặc thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể nên chưa khuyến khích cán bộ công nhân viên trong các cơ sở sản xuất cũng như trong các cơ quan nhà nước, trong các tầng lớp xã hội cũng như các cơ sở, tổ chức trong học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật hoặc tự trang bị cho mình một nghề nào đó.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do công tác đào tạo nghề còn chưa được quan tâm thoả đáng, từ trước năm 1998 mảng đào tạo nghề còn thuộc hệ thống giáo dục - đào tạo, chịu sự quản lý của Bộ Giáo dục - đào tạo và nó chưa được nhận thứuc đúng mức về tầm quan trọng và cần thiết phải phát triển như một chiến lược trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực. Quản lý nhà nước về đào tạo nghề ở tỉnh Phú Thọ do Sở Giáo dục - đào tạo quản lý chỉ có 2 chuyên viên thuộc phòng Giáo dục chuyên nghiệp theo dõi và chỉ đạo, các nội dung quản lý nhà nước không được thực hiện đầy đủ, hiệu lực quản lý giảm.
Tuy nhiên, sau khi mảng đào tạo nghề được tách ra và nó trực thuộc Bộ Lao động - thưong binh - xã hội, công tác đào tạo nghề được quan tâm hơn, các chính sách về đào tạo nghề đang dần được hình thành tiến tới hoàn thiện, góp phần phát triển công tác đào tạo nghề.
III. NHẬN XÉT CHUNG VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TỈNH PHÚ THỌ
Thực hiện đường lối đổi mới , cơ cấu kinh tế của tỉnh Phú Thọ đã có sự chuyển dịch quan trọng: các thành phần kinh tế phát triển. Nhiều ngành nghề mới, công nghệ mới và lĩnh vực mới đã xuất hiện. Thực tế đó đòi hỏi nguồn nhân lực phải phát triển để đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng của sản xuất.
Cùng với những kết quả về sự nghiệp giáo dục - đào tạo, công tác đào tạo nghề cho người lao động đã đạt được những kết quả bước đầu:
- Bình quân hàng năm đã đào tạo được khoảng 7 ngàn người có trình độ nghề nhất định phục vụ cho các ngành, các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất. Trong đó, trường hợp dạy nghề chính quy đào tạo khoảng 4.000 người; các cơ sở dạy nghề đào tạo kèm cặp bên cạnh xí nghiệp, các tổ chức đoàn thể đào tạo khoảng 2.700 người; các cơ sở dạy nghề tư nhân, các làng nghề... đào tạo khoảng 300 người giúp người lao động tự tạo được việc làm, nhiều người trở thành thợ bậc cao, công nhân lành nghề.
- Đang hình thành một hệ thống cơ sở đào tạo và dạy nghề đa sở hữu phù hợp với cơ chế mới. Đã thực hiện được đa dạng hoá các hình thức dạy nghề.
- Tuy còn rất nhiều khó khăn nhưng Phú Thọ đã cố gắng sắp xếp và tăng cường cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, nội dung đào tạo. Vì vậy, công tác đào tạo đã có sự chuyển hướng theo nhu cầu thực tế của sản xuất và thị trường lao động.
- Cơ cấu đào tạo đang dần chuyển dịch theo hướng hợp lý hơn phục vụ kịp thời việc xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh theo Nghị quyết TW3 khoá VIII.
Tuy nhiên trước yêu cầu đổi mới của nền kinh tế, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH của tỉnh, công tác đào tạo nghề cho người lao động còn tồn tại một số vấn đề:
- Quản lý Nhà nước về công tác đào tạo nghề cho người lao động còn hạn chế: lao động đào tạo chưa có sự thống nhất giữa cơ quan đào tạo với đơn vị sử dụng dẫn đến mất cân đối giưã cung và cầu (thừa về các ngành thương mại, kế toán nhưng lại thiếu ngành điện tử, tin học, kỹ thuật sản xuất).
- Chưa có chiến lược dài hạn, đồng bộ cho công tác đào tạo nguồn nhân lực. Đào tạo chưa toàn diện, chưa phù hợp với nhu cầu sử dụng. Quy mô, hệ thống đào tạo còn phân tán, nhỏ bé, hiệu quả thấp. Chất lượng đào tạo chưa cao, năng lực thực hành yếu, tỷ lệ công nhân kỹ thuật bậc cao còn thấp. Sử dụng lao động sau đào tạo mới đạt khoảng 60%. Chưa có chính sách nhất quán trong việc sử dụng và đào tạo nguồn nhân lực.
- Các cơ sở đào tạo, dạy nghề yếu kém cả về số lượng và chất lượng: các trang thiết bị thiếu thốn, lạc hậu, cũ kỹ, phân bố chưa hợp lý, có nơi có ngành còn quá ít, thậm chí không có nhất là vùng núi, vùng sâu, xa, khu vực nông thôn. Các cơ sở dạy nghề ngắn hạn của một số ngành chỉ đủ năng lực đào tạo nghề trình độ thấp (mang tính chất phổ cập nghề). Đội ngũ giáo viên dạy nghề chuyên nghiệp bị phân tán và giảm dần, trình độ không được nâng cao để đáp ứng với sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
- Quản lý sử dụng đào tạo chưa tốt nhất là việc định hướng cho cán bộ sau đào tạo về nông thôn chưa được chú trọng.
- Tuy bước đầu đã đa số sở hữu hình thức dạy nghề nhưng chưa huy động được các nguồn lực, đào tạo và dạy nghề chưa được xã hội hoá, hoạt động dạy nghề vẫn dựa vào ngân sách nhà nước là chủ yếu.
- Hệ thống chính sách đối với lĩnh vực đào tạo nghề còn thiếu hoặc chưa có, từ năm 1996 sau khi Bộ Luật lao động ra đời mới có chính sách đề cập đến vấn đề học nghề theo quy định của Bộ luật lao động. Song điều này chưa đủ mạnh để thúc đẩy và khuyến khích người dạy và học.
Quá trình đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh Phú Thọ cũng nằm trong bối cảnh chung của cả nước. Đúng như Hội nghị BCH TW 2 khoá VIII đã đánh giá: "Giáo dục chuyên nghiệp, nhất là đào tạo công nhân kỹ thuật có lúc suy giảm, mất cân đối lớn về cơ cấu, trình độ trong đội ngũ lao động ở nhiều ngành sản xuất. Quy mô đào tạo hiện nay quá nhỏ bé, trình độ thiết bị lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu CNH-HĐH".
Phần ba
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ Ở TỈNH PHÚ THỌ
I. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG CHUNG, MỤC TIÊU CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ
1. Một số quan điểm chủ đạo:
1.1. Nâng cao vai trò đào tạo nghề.
- Phải thực sự coi đào tạo nghề là một nhiệm vụ trọng tâm trong việc phát triển nguồn nhân lực, đồng thời coi đào tạo nghề cũng là nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Đào tạo nghề phải được tăng nhanh cả về quy mô, chất lượng, hiệu quả và tạo ra cơ cấu lao động hợp lý hơn cho thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển đào tạo nghề phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn, gắn với nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, vùng dân cư, với từng địa phương, gắn với thị trường sức lao động theo quan hệ cung cầu.
- Nhà nước thống nhất quản lý về mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo nghề, quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống trường và trung tâm dạy nghề, cấp phát bằng, chứng chỉ, định hướng và hướng dẫn đối với các cơ sở dạy nghề quy mô nhỏ.
1.2. Xã hội hoá đào tạo nghề.
- Thực hiện xã hội hoá đào tạo nghề nhằm thu hút mọi nguồn nhân lực trong và ngoài tỉnh cho các hoạt động đào tạo nghề. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người lao động có cơ hội học nghề, tìm kiếm việc làm. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo, loại hình trường lớp. Người học nghề và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng góp theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
- Bên cạnh việc thực hiện công bằng xã hội trong đào tạo nghề, đáp ứng yêu cầu đào tạo cho đông đảo người lao động, cần đầu tư có trọng điểm để tạo nên một bộ phận đào tạo nghề chất lượng cao làm chuẩn mực và đẻ đào tạo tđội ngũ công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ có khả năng tham gia cạnh tranh trong thị trường lao động trong nước.
- Song song với việc đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động công nghiệp và dịch vụ, phải coi trọng và tăng cường lãnh đạo nghề cho lao động nông thôn mà chủ yếu là đào tạo ngắn hạn các nghề trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt thuỷ sản, sơ chế, chế biến và bảo quản nông, lâm, ngư nghiệp và các nghề truyền thống.
1.3. Đào tạo gắn với sử dụng.
Đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho người lao động chưa có việc làm, tạo việc làm mới cho những người lao động mất việc làm trong quá trình sắp xếp lại lao động và cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
1.4. Tăng cường ngân sách cho đào tạo nghề.
Nhà nước và địa phương các cấp tăng ngân sách đầu tư cho đào tạo nghề đồng thời có chính sách, cơ chế hợp lý, đẩy mạnh xã hội hoá để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Nguồn ngân sách Nhà nước tập trung đầu tư cho các cơ sở đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn.
2. Phương hướng :
- Phối hợp chặt chẽ và tranh thủ sự giúp đỡ của các trường trung học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề của Trung ương, các cơ sở dạy nghề trong cả nước và trên địa bàn tỉnh nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ của tỉnh. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để người lao động có kiến thức, có trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trước mắt cũng như lâu dài.
- Tiếp tục xây dựng mạng lưới cơ sở dạy nghề đa sở hữu, xã hội hoá công tác dạy nghề, truyền nghề gắn việc dạy nghề làm nòng cốt để xây dựng và khôi phục các làng nghề truyền thống, hướng dẫn cho người lao động ứng dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất, trước hết là trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, kinh tế trang trại phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá nông thôn.
- Đào tạo nguồn nhân lực phải gắn với phát triển kinh tế xã hội và phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh.
- Thực hiện phương châm không chỉ đào tạo nghề ở trong các trường chuyên nghiệp, các cơ sở dạy nghề mà phải đào tạo trong suốt quá trình lao động. Ngoài việc học giỏi lý thuyết , học viên phải giỏi thực hành và vận dụng vào điều kiện thực tiễn của đời sống kinh tế xã hội. Không những hiểu biết thành thạo một nghề mà người lao động còn biết nhiều nghề, am hiểu những kiến thức khác như: luật pháp, ngoại ngữ, tin học.....
3. Mục tiêu đào tạo nghề :
Đào tạo phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề đảm bảo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của tỉnh. Do đó phải mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo dạy nghề. Phải hết sức coi trọng và bồi dưỡng lực lượng lao động giỏi, có trình độ kỹ năng nghề nghiệp tạo sản phẩm có chất lượng cao, đủ sức quản lý và vận hành nền kinh tế, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà quy hoạch tổng thể đến năm 2010 của tỉnh đề ra.
3.1 Mục tiêu tổng quát :
- Tạo môi trường thuận lợi để người lao động có cơ hội lựa chọn ngành nghề, phát huy được năng lực sở trường của người lao động. Đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ theo tinh thần Nghị quyết 05/NQ-TW của Ban thường vụ tỉnh uỷ về đào tạo phát triển nguồn nhân lực đến năm 2010.
- Công tác đào tạo dạy nghề phải tạo ra đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nói chung, đặc biệt là ở nông thôn và đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hoá của tỉnh. Cung cấp ngày càng nhiều lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, tin học, quản lý cho lĩnh vực hợp tác quốc tế về lao động, cho các công ty liên doanh, cho các khu công nghiệp tập trung. Nâng dần cơ cấu số lượng, chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh đến năm 2010 tiến tới cơ cấu : 1 đại học - 4 trung học - 10 công nhân kỹ thuật và đạt tiêu chuẩn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật của tỉnh từ 35 - 38% so với tổng nguồn lao động.
3.2 Mục tiêu cụ thể từng giai đoạn :
Trong giai đoạn 1997 - 2000 song song với việc đào tạo đáp ứng nhu cầu lao động cho các ngành đồng thời chú trọng đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật cho nông lâm nghiệp. Trong giai đoạn này đã đào tạo mới 25 ngành lao động, bình quân mỗi năm khoảng 8 ngàn người (dạy nghề chính quy 4 ngàn) . Đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 16% năm 1997 lên 20% năm 2000.
Chỉ tiêu
Năm 2000
Giai đoạn 2001 - 2005
Giai đoạn 2006 - 2010
1. Lao động trong độ tuổi có khả năng lao động
629,2
705,6
748,5
Trong đó : Có CMKT
132,5
193,5
272
Chia ra :
- ĐH,CĐ,Trên ĐH
18,5
20
21
- THCN và tương đương
34,5
45
62
- CNKT và tương đương
79,0
128,5
188
2. Tỷ trọng lao động có CMKT so với nguồn lao động (%)
20
27
35
3. Tỷ trọng lao động đã qua đào tạo nghề so với nguồn lao động (%)
12
17,5
23,5
Trong giai đoạn 2001 - 2005 đào tạo mới là 49,5 ngàn người (trong đó dạy nghề chính quy khoảng 26 ngàn người), bình quân mỗi năm đào tạo nghề cho khoảng 10 ngàn lao động.
Trong giai đoạn 2006 - 2010 đào tạo mới là 59,5 ngàn lao động (trong đó đào tạo chính quy khoảng 29 ngàn người) , bình quân mỗi năm đào tạo nghề cho khoảng 11,9 ngàn lao động.
Để đạt được mục tiêu như trên, đòi hỏi tỉnh Phú Thọ phải có sự cố gắng, nỗ lực rất lớn trong công tác đào tạo nghề. Do đó, Phú Thọ phải có những chính sách, những giải pháp đúng đắn ngay từ bây giờ.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ Ở TỈNH PHÚ THỌ
Để thực hiện chiến lược đào tạo vào từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân kỹ thuật, chúng ta phải giải quyết nhiều vấn đề có tính chiến lược đối với các cơ sở đào tạo nghề của tỉnh. Tuy nhiên, trong những năm trước mắt tỉnh cần tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu sau:
1. Cần nhanh chóng sắp xếp, bố trí các cơ sở đào tạo nghề.
Để làm được việc này, trước hết cần tiến hành khẩn trương một số công việc:
- Rà soát lại điều kiện và khả năng của từng trường (kể cả công lập và dân lập) trên tất cả các phương tiện, trong đó đặc biệt chú trọng đến các vấn để:
+ Mặt bằng của nhà trường
+ Hệ thống phòng học và các thiết bị phục vụ cho giảng dạy và nghiên cứu.
+ Hệ thống các cơ sở làm việc của cán bộ giáo viên.
+ Số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên.
+ Hệ thống thư viện, thông tin tư liệu
+ Hệ thống giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy, nghiên cứu học tập của giáo viên và học sinh...
Từ sự phân tích đó tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của từng trường, từng cơ sở đào tạo nghề để có hướng xử lý cho phù hợp.
- Thông qua việc điều tra xã hội học đối với số học viên đã tốt nghiệp ra trường cũng như đối với các cơ quan, đơn vị sử dụng số họcviên do các trường đào tạo ra để đánh giá một cách thực chất chất lượng đào tạo của các trường trong thời gian vừa qua. Trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch sắp xếp, bố trí lại các trường và trung tâm đào tạo phù hợp với yêu cầu của tỉnh.
Việc bố trí, sắp xếp lại hệ thống các trường rất phức tạp, bởi lẽ nó đụng chạm đến nhiều vấn đề lớn như:
+ Đất đai để xây dựng trường sở.
+ Tài chính để xây dựng trường, mua sắm máy móc thiết bị phục vụ cho việc dạy và học.
+ Việc làm của cán bộ, giáo viên, vị trí của mỗi con người trong các trường và thu nhập của họ.
Do đó, không thể tiến hành sắp xếp một cách ồ ạt bằng các mệnh lệnh hành chính đơn thuần, mà phải có sự lựa chọn, làm thử để rút kinh nghiệm, làm từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Do điều kiện, ngân sách, vì vậy trước mắt không nên thành lập quá nhiều trường, chỉ thành lập thêm những trường khi có nhu cầu ở các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp,... Điều quan trọng hơn là củng cố, tăng cường nâng cấp cho các trường để mở rộng quy mô, hoạt động hết công suất, nâng cao chất lượng. Cụ thể như sau:
- Hình thành các trường trọng điểm: Đây là hệ thống xương sống của ngành nhằm mục đích đào tạo kỹ thuật viên và CNKT lành nghề yêu cầu phát triển của tỉnh. Các trường này sẽ giữ vai trò nòng cốt của hệ thống các trường công lập bên cạnh việc đa dạng hoá các loại hình đào tạo nghề nghiệp khác. Để khai thác các điều kiện hiện có, tỉnh nên giao cho các trường trọng điểm nhiệm vụ dạy nghề, bồi dưỡng, tập huấn chuyển giao kỹ thuật như sau:
+ Trường dạy nghề Phú Thọ. Đây là trường trọng điểm đào tạo đa ngành với quy mô thường xuyên từ 600 - 800 học sinh/năm. Trường cung cấp công nhân kỹ thuật có chất lượng cao đạt chuẩn quốc gia để phục vụ nhu cầu khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm các ngành kinh tế, kỹ thuật có thế mạnh của tỉnh.
+ Trường trung học Nông lâm: Là trường trọng điểm thực hiện chương trình đào tạo nông dân, cần được nâng cao trình độ giáo viên, đổi mới nội dung công ty, nhất là phương pháp tổ chức đào tạo để phù hợp với lao động của nông dân.
+ Trường trung học kinh tế: Nghiên cứu để đào tạo một số nghề thương mại, dịch vụ; dịch vụ ăn uống, quản lý nhà hàng, khách sạn, nhân viên du lịch... Hàng năm trường tuyển sinh từ 80 - 100 học sinh vào học nghề chính quy, tổ chức dạy nghề ngắn hạn, bồi dưỡng nhân viên nghiệp vụ kỹ thuật, nâng dạy nghề hơn 300 lượt người.
+ Trường Trung học y tế: Củng cố và mở rộng nhóm nghề kỹ thuật viên y, dược phục vụ chế biến dược phẩm, dược liệu, sản xuất thuốc y học cổ truyền đáp ứng yêu cầu lao động kỹ thuật y tế cho hệ thống chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
- Xây dựng một số cơ sở dạy nghề lưu động đáp ứng nhu cầu học tập nghề nghiệp của các vùng sâu, vùng xa và vùng núi cao đảm bảo sự công bằng và bình đẳng tạo cơ hội cho mọi người có mong muốn học tập nghề.
2. Xây dựng đội ngũ giáo viên đào tạo nghề:
Giáo viên là nhân tố quyết định đến chất lượng đào tạo, việc xây dựng đội ngũ giáo viên dạy nghề là quá trình liên tục, phải được tiến hành thường xuyên.
2.1. Đáp ứng yêu cầu về số lượng giáo viên.
Phải có kế hoạch dự báo nhu cầu giáo viên ở từng huyện, từng vùng.. để tỉnh có định hướng trước nhu cầu tuyển sinh ở từng trường, từng môn cũng như có sự cân đối ở tầm vĩ mô bảo đảm đủ số lượng giáo viên trước từng năm học. Đa dạng hoá hình thức đào tạo - bồi dưỡng giáo viên một cách có hiệu quả, kết hợp hợp lý giữa đào tạo chính quy và đào tạo tại chức.
Cần phải có chỉ tiêu đào tạo đội ngũ giáo viên theo địa chỉ (ngành, vùng, huyện) dựa trên quy hoạch tổng thể của sự phát triển giáo dục theo từng giai đoạn.
Kết hợp giải pháp cơ bản lâu dài với giải pháp tình thế, nhất thời (ký hợp đồng với những giáo viên nghỉ hưu có trình độ chuyên môn cao, có tâm huyết nghề nghiệp tiếp tục giảng dạy...). Có chính sách , chế độ bổ nhiệm và phân phối đồng bộ sao cho đội ngũ giáo viên có thể hoàn thành được nhiệm vụ dạy học đúng với chuyên môn đào tạo của mình.
Tiến hành đánh giá phân loại đội ngũ giáo viên, giảm số cán bộ hành chính để tăng thêm cán bộ giảng dạy có trình độ và đảm bảo cơ cấu, chủng loại đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề trong hiện tại và tương lai.
2.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
Đòi hỏi cần quan tâm đồng bộ từ tuyển chọn - đào tạo trong các trường sư phạm - đẩy mạnh công tác bồi dưỡng giáo viên thường xuyên trong các trường đào tạo. Giáo viên dạy nghề phải có trình độ chuyên môn, thành thạo về thực hành để có thể dạy lý thuyết kết hợp với thực hành. Bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho giáo viên là nhiệm vụ thường xuyên, có như thế việc dạy nghề mới đảm bảo chất lượng.
Về công nghệ mới, hướng bồi dưỡng công nghệ mới cho giáo viên tập trung vào những công nghệ đã và sẽ áp dụng vào địa phương, trang thiết bị hiện đại, vật liệu mới trong các ngành công nghiệp. Các trường, cơ sở dạy nghề cần chủ động phối hợp với các cơ sở sản xuất để đào tạo, mở các lớp bồi dưỡng về công nghệ mới cho các giáo viên dạy nghề.
Về ngoại ngữ: ngoại ngữ là một yêu cầu xã hội trong thời kỳ mở cửa, mục tiêu trong năm năm tới phải phấn đấu 100% giáo viên dạy nghề biết ngoại ngữ trong đó 40% trình độ B, 5 - 10% thành thạo đẻ giao tiếp được.
Về tin học: Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin được sử dụng ngày càng rộng rãi trong giáo dục đào tạo, tin học sẽ được đào tạo chính khoá trong các trường để người công nhân có thể sử dụng thành thạo nó như là một phương tiện sản xuất. Muốn vậy, bồi dưỡng tin học cho giáo viên phải đi trước một bước.
Tăng cường bồi dưỡng phấn đấu từ nay đến năm 2005 có 80% giáo viên đạt trình độ chuẩn; 30% có tay nghề bậc 6/7 - 7/7 hoặc tươngđương đối với giáo viên thực hành, 100% giáo viên dạy nghề được phổ cập tin học trong đó 15 - 20% có khả năng sử dụng tin học vào bài giảng và quản lý. Các hình thức bồi dưỡng giáo viên bao gồm:
- Bồi dưỡng dài hạn: thời gian kéo dài trên 1 năm, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Bồi dưỡng ngắn hạn: là hình thức phổ biến, bồi dưỡng phương pháp sư phạm công nghệ mới, ngoại ngữ, tin học.v.v... thường được tổ chức tại cơ sở hoặc trong các đợt bồi dưỡng hè.
- Bồi dưỡng qua hội thảo, hội giảng: Hội giảng được tổ chức thường xuyên hàng năm để giáo viên được thể hiện năng lực sư phạm, kỹ năng giảng dạy, học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp. Hội thảo nhằm bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ theo chuyên đề như phương pháp giảng dạy, phương pháp giáo dục quản lý học sinh...
Ngoài ra còn có hình thức như tự bồi dưỡng, tham quan và thực tập cả trong và ngoài nước.
Để có thể xây dựng được đội ngũ giáo viên dạy nghề đáp ứng đủ yêu cầu về số lượng, bảo đảm chất lượng đòi hỏi Nhà nước phải đưa ra những chính sách, chế độ đãi ngộ thoả đáng nhằm phát huy tiềm năng và nhiệt huyết của đội ngũ này.
2.3. Đổi mới hệ thống chính sách đối với đội ngũ giáo viên dạy nghề.
Đội ngũ giáo viên, cho dù ở bậc học nào, họ là người đại diện cho trí tuệ của dân tộc. Do đó, về nguyên tắc họ phải được xã hội trân trọng. Sự trân trọng ở đây không phải chỉ trên phương diện tinh thần là được xã hội tôn vinh mà còn phải được trân trọng trong phân phối và thụ hưởng các quyền lợi vật chất, trước mắt là chế độ tiền lương.
Hệ thống tiền lương của chúng ta hiện nay còn nhiều bất cập. tiền lương của chúng ta không đủ nuôi sống bản thân người giáo viên chứ chưa nói gì đến chuyện nuôi sống gia đình họ. hệ thống tiền lương củachúng ta đã làm cho đội ngũ cán bộ không toàn tâm, toàn ý với công việc mà họ gánh vác. Song nó lại là cơ sở đẻ ra nhiều tiêu cực trong xã hội. Trong tình hình chung đó, đội ngũ giáo viên là những người có mức thu nhập thấp và có cuộc sống đạm bạc nhất trong hệ thống viên chức Nhà nước. Chính vì thế mà các hiện tượng tiêu cực cũng đã xâm nhập và phát triển khá mạnh mẽ trong hệ thống giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng.
- Tiền lương chưa khuyến khích người ta làm việc theo khả năng và cũng chưa khuyến khích người tài giỏi
Cơ cấu lao động của nước ta hiện nay đang có sự bất hợp lý nghiêm trọng. Để có được cơ cấu lao động hợp lý trước hết phải có chiến lược giáo dục và đào tạo đúng, tức là một bộ phận lớn học sinh khi tốt nghiệp THCS phải chuyển sang học nghề, để đến khoảng tuổi 18 họ thực sự có một nghề vững chắc, có thể tự kiếm sống đẻ nuôi mình và gia đình trong tương lai. Chỉ những em học khá giỏi mới được chuyển sang học THPT, sau đó chuyển lên đại học, trung học hoặc học nghề.
Phải có hệ thống lương phù hợp, tức là phải xếp mức lương khởi điểm cao cho công nhân kỹ thuật, tức là tiền lương này bảo đảm cho người công nhân kỹ thuật cũng có mức lương đủ nuôi sống mình và gia đình.
- Nên xem xét lại hệ số lương của ngành giáo dục. Cần có một hệ thống thống nhất do giáo dục - đào tạo. Sau đó, tuỳ tính chất của từng cấp học, tuỳ điều kiện của từng vùng (thành phố, nông thôn, trung du, miền núi...) để có một mức phụ cấp riêng. Mức phụ cấp này là phần mềm, chỉ được hưởng khi đang làm việc tại đó, khi chuyển đi nơi khác sẽ được hưởng mức phụ cấp đã quy định tại nơi đến. Như vậy sẽ công bằng và hợp lý hơn.
* Chính sách bồi dưỡng đối với đội ngũ giáo viên
Để có được những sinh viên giỏi, tất yếu phải có đội ngũ giáo viên giỏi. Người giáo viên không những phải giỏi về chuyên môn mà còn phải giỏi về tin học, về ngoại ngữ và phải là người có tư cách đạo đức tốt, thực sự là tấm gương cho học sinh noi theo. Muốn có được những người thày như vậy, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân mỗi giáo viên, Nhà nước cũng cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng thoả đáng.
Trong chính sách và chế độ hiện hành của Nhà nước không có một khoản đầu tư nào dành cho việc bồi dưỡng thực tế cho giáo viên đào tạo nghề. Đây là điều bất hợp lý, đề nghị Nhà nước nghiên cứu sớm có giải pháp khắc phục. Hàng năm, trong kinh phí cấp cho các trường phải có một khoản dành cho việc bồi dưỡng kiến thức thực tế cho giáo viên.
Đương nhiên, các trường cũng cần phải xem xét lại quy mô đào tạo hiện nay. Vì lương của giáo viên quá thấp, ngoài tiền lương ra, người giáo viên không biết làm gì thêm để kiếm tiền nuôi gia đình và bản thân, trước thực trạng đó, để tăng thu nhập cho giáo viên, buộc các trường phải tăng quy mô đào tạo, nhiều nơi mở quá khả năng của mình (về giảng đường, về giáo viên, về giáo trình và tài liệu).
Để có thu nhập, giải quyết nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, không ít giáo viên đã phải giảng liên tục 3 ca trong mỗi ngày. Giáo viên không còn thời gian đi thực tế, đọc tài liệu tham khảo và nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn.
Rõ ràng nếu Nhà nước không sớm giải quyết một cách căn bản chế độ đãi ngộ với giáo viên nói chung, giáo viên đào tạo nghề nói riêng, các trường không tính toán kỹ quy mô đào tạo của mình cứ chạy theo số lượng như hiện nay, thì sự xuống cấp về chất lượng đào tạo là điều khó tránh khỏi.
+ Có chính sách cung cấp thông tin cho đội ngũ giáo viên đào tạo nghề.
Các giáo viên đào tạo nghề ngoài việc truyền thụ cho người học những kiến thức về chuyên môn còn phải bồi dưỡng cho người học những hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lê nin, các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước... Chính vì thế giáo viên đào tạo nghề cũng rất cần được cung cấp thông tin. Đáng tiếc là từ lâu nay Nhà nước chưa có chính sách cung cấp thông tin cho đội ngũ giáo viên đào tạo nghề. Các bản tin tham khảo nội bộ, các thông tư, nghị định của Chính phủ, công báo... các cán bộ đoàn thể các cơ sở thì được cung cấp rất đầy đủ trong khi hàng loạt giáo viên nói chung, giáo viên đào tạo nghề nói riêng không hề được cung cấp. Đây cũng là điều bất hợp lý, cần có sự sửa đổi.
* Chính sách khen thưởng
Khen thưởng là hình thức ghi nhận công lao của người lao động từ đó động viên họ tích cực trong lao động, công tác, học tập. Việc tặng huy chương vì sự nghiệp giáo dục thực chất cũng là nhằm mục đích đó. Tuy nhiên, để nhận được huy chương này, nam giới phải có 30 năm, nữ giới phải có 25 năm làm việc trong nghề. Do điều kiện lịch sử để lại, những người có số năm như quy định đa phần đã về hưu hoặc sắp về hưu, vì thế tác dụng động viên còn hạn chế.
3. Phát triển, đổi mới nội dung và hình thức đào tạo.
Đồi mới quy trình, nội dung phương pháp đào tạo theo hướng mềm hoá, đa dạng hoá chương trình, tạo điều kiện cho lưu thông, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động đa dạng và tạo cơ hội học tập cho thanh niên. Sử dụng các phương pháp tiên tiến trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhưmg vẫn đảm bảo tính truyền thống, kế thừa, phát triển trên một nền học vấn rộng. Loại bỏ những nội dung không thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng đảm bảo kiến thức cơ bản, cập nhật với tiến bộ khoa học công nghệ, tăng năng lực hành nghề, năng lực tự học phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế.
Nội dung, chương trình, kế hoạch giảng dạy đối với đào tạo nghề dài hạn được thống nhất quản lý và biên soạn của Tổng cục dạy nghề (Bộ lao động - Thương binh -Xã hội)
Về phương thức đào tạo cần kết hợp và phân công giữa nhà trường với cơ sở sản xuất. Nhà trường đào tạo cho người công nhân có một cái “nền” về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, có tác phông công nghiệp, kỹ thuật lao động, biết cách ứng xử trong sản xuất. Còn ở cơ sở sản xuất hướng dẫn về vận hành, quy trình, quy phạm, kỹ thuật, tiêu chuẩn sản phẩm...
Nhà nước, các trường và cơ sở đào tạo nghề cần tập trung xây dựng một số chương trình đào tạo theo hướng:
- Phần cơ bản cho tất cả các ngành, nghề
- Một số nghề phổ biến cần có nội dung chuẩn.
- Phần cơ sở (chủ yếu là phần cứng) cho một số ngành, nghề phổ biến và những ngành nghề múi nhọn đã tiếp cận với công nghệ hiện đại, tiên tiến đáp ứng nhu cầu phát triển của tỉnh. Theo đó xây dựng các chuẩn đánh giá.
- Phần chuyên môn, thích ứng cho các cơ sở sử dụng nhân lực đảm bảo hoặc căn cứ vào các hợp đồng đào tạo.
- Cần xây dựng một trung tâm xây dựng chương trình (bộ phận đủ mạnh để xây dựng nội dung chương trình, sách giáo khoa cho đào tạo nghề nghiệp ).
- Phương pháp đào tạo phải gắn với sản xuất. Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng phương pháp dạy nghề theo môđun đào tạo ngắn hạn và thí điểm cho một số nghề dài hạn.
- Cần đặc biệt chú ý tới hình thức đào tạo lại đội ngũ lao động trong khi đang tiến hành sắp xếp lại các doanh nghiệp hiện nay.
Từ nay đến năm 2010 đào tạo nghề phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng theo 2 hướng:
- Đào tạo nghề dài hạn
Đào tạo dài hạn (bao gồm cả đào tạo mới và đào tạo lại) để có đội ngũ công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ lành nghề đủ khả năng tiếp cận và sử dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Tập trung đầu tư các điều kiện cho dạy nghề để năm 2005 đạt chuẩn quốc gia về chất lượng đào tạo nghề.
Hình thức đào tạo này chủ yếu tập trung tại các trường dạy nghề, lớp dạy nghề bên cạnh doanh nghiệp.
- Đào tạo và đa dạng hoá đào tạo nghề bằng nhiều hình thức: Tổ chức theo lớp, dạy kèm cặp trong doanh nghiệp, truyền nghề.. để rèn luyện kỹ năng hành nghề; tập huấn chuyển giao công nghệ và truyền lại cho người học nghề những công nghệ mới, những bí quyết nghề nghiệp. Nâng dần chất lượng dạy nghề ngắn hạn để có khả năng hành nghề sau khi đào tạo.
Đào tạo ngắn hạn phải bám sát các nhu cầu hiện tại của xã hội. Thời gian qua loại hình dạy nghề ngắn hạn đã có những đóng góp nhất định trong quá trình giải quyết việc làm và đảm bảo cuộc sống cho người lao động với những đối tượng thật đa dạng: học sinh phổ thông, thôi bỏ học; bộ đội xuất ngũ, lao động hợp tác quốc tế trở về; một số người thuộc diện tệ nạn xã hội đã hoàn lương...
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công tác dạy nghề cho nông dân và nông thôn cũng là một mảng quan trọng. Chưa bao giờ nông dân cần khoa học kỹ thuật và nâng cao trình độ mọi mặt như bây giờ. Việc không ngừng bồi dưỡng kỹ thuật và công nghệ sinh học mới sẽ góp phần tạo ra những chuyển biến về nông lâm nghiệp của tỉnh nhà. Đối với đào tạo nghề ở nông nghiệp, nông thôn thì có thể tạo dựng được những trung tâm huấn luyện và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp ngay tại địa phương bằng nhiều nguồn vốn khác nhau. Cách dạy cách học ở đây không giống với các trường dạy nghề tập trung ở thành phố. Do đó không nhất thiết phải đầu tư tốn kém, xây dựng nhà cửa to đẹp, mua phương tiện đi lại đắt tiền, thậm chí có thể lấy ngay một trang trại, một điển hình sản xuất giỏi làm điểm đầu tư thêm để biến thành cơ sở dạy nghề cho nông dân quanh vùng. Nếu làm được thì đây có thể là một trong những biện pháp tháo gỡ khó khăn về vốn đầu tư xây dựng hàng nghìn cơ sở dạy nghề cho nông dân ở khắp các vùng, các địa phương.
Dưới một khía cạnh khác, dạy nghề ngắn hạn còn có vai trò nâng cao chất lượng nguồn lao động và tao đà để đưa người lao động vào những chương trình bổ túc nghè, đặt họ lên những bậc thợ ngày một cao hơn. Tuy nhiên xét về mặt lâu dài việc đào tạo nghề cho người lao động không chỉ đáp ứng nhu cầu trước mắt của nền sản xuất và đời sống mà còn cần có sự chuẩn bị cho tương lai lâu dài, dựa trên những dự báo có cơ sở khoa học.
4. Tăng cường nguồn lực về tài chính
Việc nâng cao chất lượng đào tạo nói chung, đào tạo nghề nói riêng phụ thuộc vào nhiều nhân tố như:
- Trình độ của đội ngũ giáo viên
- Các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc giảng dạy, nghiên cứu và học tập.
- Khả năng và trình độ của người học
- Cơ cấu nội dung chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy.v.v...
Trong tình hình của Phú Thọ, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật giữ vị trí hết sức quan trọng. Để cho các trường đào tạo nghề có được cơ sở vật chất kỹ thuật tương xứng với nhu cầu phát triển đòi hỏi Phú Thọ phải nâng mức đầu tư cho các trường đào tạo nghề hơn nữa. Chỉ có nâng mức đầu tư thì các trường mới có điều kiện đổi mới chương trình, trang thiết bị và xây dựng thêm các sở vật chất kỹ thuật cần thiết phục vụ cho việc giảng dạy và học tập, đặc biệt là hệ thống giảng đường, chỗ làm việc cho giáo viên, hệ thống thư viện, thiết bị thực hành.
Tất nhiên, nguồn đầu tư này phải đa dạng. Phải được lấy từ nhiều nguồn khác nhau như ngân sách Nhà nước, các khoản đóng góp của người học, của người sử dụng lao động... Để thực hiện mục tiêu công tác dạy nghề trong những năm tới và quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề, dự báo như cầu về tài chính như sau:
Năm
Tổng số tiền đầu tư cho cơ sở dạy nghề
Chia ra
Tổng số
Thiết bị
Xây dựng cơ bản
Chi đào tạo
Đơn vị thành lập mới
Mở rộng quy mô của các trường hiện có
Tổng số
Thiết bị
Xây dựng cơ bản
Chi đào tạo
Tổng số
Thiết bị
Xây dựng cơ bản
Chi đào tạo
2000
9,7
2,2
3,3
4,2
5,0
1,7
3,3
0
4,7
0,5
0
4,2
2001-2005
86,5
40
16
30,5
48
30
10
8,0
38,5
10,0
6,0
22,5
2006-2010
109.5
56,0
16
37,5
18,0
6,0
6,0
6,0
91,5
50,0
10,0
31,5
( Nguồn: Phòng Đào tạo nghề-Sở Lao động- TB&XH Phú Thọ)
Huy động nguồn lực đào tạo nghề bao gồm:
Ngân sách Nhà nước quyết định số 50/1999/QĐ-TTg ngày 24/3/199 cảu Thủ tướng Chính phủ quy định tăng tỷ lệ Ngân hàng Nhà nước cho đào tạo nghề trong tổng Ngân sách cho Giáo dục và đào tạo lên 6,5% vào năm 1999 và 7,3% vào năm 2000. Để đạt được tỷ lệ trên, Ngân sách Phú Thọ chi cho đào tạo nghề năm 2000 từ 10 - 12 tỷ đồng (năm 1998 chi cho dạy nghề 60 triệu đồng và năm 1999 là 315 triệu đồng).
+ Vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản đối với cơ sở dạy nghề thành lậpmới và củng cố nâng cấp cơ sở dạy nghề hiện có hàng năm khoảng từ 2,0 đến 3,2 tỷ đồng.
+ Kinh phí thường xuyên thực hiện chỉ tiêu dạy nghề hàng năm khoảng 5,0 đén 5,5 tỷ đồng.
+ Vốn chương trình mục tiêu hàng năm khoảng 3,0 - 3,5 tỷ đồng.
Tranh thủ khai thác nguồn vốn chương trình mục tiêu thông qua các chương trình quốc gia về đào tạo nghề từ Ngân sách Trung ương để hỗ trợ cho hoạt động đào tạo nghề của địa phương.
Để đầu tư có hiệu quả, từ nay đến năm 2005 Ngân sách Nhà nước đầu tư có trọng điểm vào xây dựng mới trường dạy nghề Phú Thọ và củng cố nâng cấp phục vụ cho dạy nghề của trường Trung học nông lâm, trung học kinh tế Phú Thọ, Trung tâm dạy nghề huyện, thị trước mắt do các huyện thị tự cân đối.
- Các nguồn ực từ xã hội hoá đào tạo nghề.
+ Các khoản đóng góp của người học theo quy định của Nhà nước. Hàng năm huy động từ nguồn này khoảng 2 - 3 tỷ đồng.
+ Các khoản đóng góp bằng tiền và hiện vật của các tổ chức kinh tế cử người đi học.
+ Các khoản thu từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ ở các xưởng trường, thu hồi vật tư phế liệu tử sản phẩm thực tập.
+ Các khoản thu từ các dự án đầu tư của nước ngoài dưới mọi hình thức của Chính phủ và tổ chức phi chính phủ.
Đầu tư thoả đáng cho việc xây dựng hệ thống giáo trình đảm bảo tính khoa học và hiện đại. Để đào tạo những công nhân kỹ thuật có chất lượng cao chúng ta phải giải quyết nhiều vấn đề, song điều có tính chất mấu chốt là phải có một hệ thống giáo trình tốt, vừa đảm bảo tính khoa học, vừa săt hợp với điều kiện lại vừa mang tính hiện đại.
Hệ thống giáo trình dùng ở các trường đào tạo hiện nay đã được đổi mới khá nhiều, song vẫn chưa được hoàn chỉnh. Một số giáo trình có được cải tiến, đổi mới, song trên nhiều phương diện vẫn còn lạc hậu, chưa theo kịp được sự thay đổi của khoa học, kỹ thuật, máy móc thiết bị. Chính vì vậy, việc tập trung đầu tư để cho các trường đào tạo nghề xây dựng được một hệ thống giáo trình phù hợp với sự thay đổi của máy móc thiết bị, khoa học kỹ thuật là một đòi hỏi búc xức hiện hay.
Để sớm có được hệ thống thống giáo trình có chất lượng là cơ sở cho việc giảng dạy ở tất cả các trường, cơ sở đào tạo nghề, đề nghị Nhà nước nên có sự đầu tư thoả đáng để tập hợp các nhà khoa học, các chuyên gia của từng chuyên ngành để soạn ra giáo trình giảng dạy cho các chuyên ngành đó.
Tổng cộng các khoản thu từ Ngân sách và các khoản thu từ xã hội hoá là nguồn lực tài chính đảm bảo cho công tác dạy nghề của tỉnh Phú Thọ.
5. Giải pháp về chính sách quản lý Nhà nước.
5.1. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đào tạo và dạy nghề.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền đối với công tác đào tạo, dạy nghề. Phải coi công tác đào tạo nghề là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để có quy hoạch, kế hoạch phát triển, có biện pháp quản lý vầ các chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở đào tạo nghề của mọi thành phần kinh tế, huy động mọi nguồn lực thực hiện xã hội hoá công tác đào tạo, dạy nghề.
Đảm bảo sự liên thông giữa giáo dục phổ thông với các cơ sở đào tạo, dạy nghề; tăng cường việc hướng nghiệp cho học sinh cuối cấp phổ thông trung học, phổ thông cơ sở, động viên học sinh đi vào học nghề cho phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế xã hội của tỉnh, có lợi cho chính mình và xã hội.
Thành lập phòng đào tạo nghề thuộc Sở Lao động - TBXH để thống nhất quản lý Nhà nước trên địa bàn theo Nghị định 33/1998/NĐ-CP ngày 23/5/1998 của Chính Phủ. Ở các huyện, thành thị phải có người chuyên trách làm công tác đào tạo, dạy nghề nằm trong phòng LĐTBXH.
5.2. Về cơ chế chính sách.
UBND tỉnh rà soát, bổ xung và ban hành quy định chế độ đối với người học (tập trung, tại chức, trường của trung ương), chính sách thu hút nhân tài về tỉnh làm việc, chế độ thưởng học sinh tốt nghiệp loại xuất sắc (được phân công bố trí theo nguyện vọng công tác...). Chính sách khuyến khích những người đi học nâng cao. Điều tra nắm nguyện vọng, năng khiếu của các học sinh ở các trường phổ thông để gửi đi học ở các trường quốc gia và có chính sách thu hút các đối tượng này sau khi tốt nghiệp ra trường về tỉnh.
Để góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp (nông thôn) theo tinh thần Nghị quyết 5 của Bộ chính trị cần có một số chế độ chính sách khuyến khích, hỗ trợ đối với nông thôn, đối với các làng nghề để khôi phục và phát triển sản xuất và đối với phát triển tiểu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn.
Có biện pháp và chính sách khuyến khích người lao động được đào tạo về làm việc ở nông thôn, miền núi (vùng sâu, vùng xa).
Khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân mở các cơ sở dạy nghề ở các công ty, doanh nghiệp đào tạo công nhân đảm bảo yêu cầu của tiến bộ kỹ thuật và đổi mới công nghệ cụ thể từng doanh nghiệp. Vì đây là phương thức đào tạo rẻ, kinh tế và có nhiều tiềm năng.
Mở rộng quan hệ hợp tác dạy nghề để tiếp nhận công nghệ tiên tiến của khu vực và hội nhập thế giới, thực hiện tốt việc quản lý khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đối với công tác dạy nghề.
Thực hiện tốt phân luồng và liên thông trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền bằng mọi hình thức đi đôi với các biện pháp chỉ đạo để thực hiện tốt chủ trương phân luồng và liên thông trong hệ thống giáo dục quốc dân tạo ra cơ cấu lao động hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh tế trong giáo dục đào tạo, giảm áp lực đối với các trường THPT, THCN, cao đẳng và đại học.
Chính sách đối với các cơ sở dạy nghề.
- Chính sách ưu đãi thuế thu nhập đối với các cơ sở đào tạo nghề ngoài công lập.
- Ưu tiên quyền sử dụng đất để xây dựng cơ sở dạy nghề hoặc cho thuê đất, thuê nhà xưởng để mở cơ sở dạy nghề với giá ưu đãi.
- Các cơ sở dạy nghề được phép mua các trang thiết bị cũ, được thanh lý của các doanh nghiệp để làm thiết bị giảng dạy và thực hành.
Chính sách đối với người có bằng hoặc chứng chỉ nghề: Tỉnh có quy định ưu tiên người có bằng hoặc chứng chỉ nghề được vay vốn để tạo việc làm phát triển sản xuất theo thủ tục được duyệt. Các cơ sở sản xuất, ngoài sử dụng lao động có chính sách ưu tiên những người có bằng, chứng chỉ nghề vào làm việc.
Các ngành các cấp thường xuyên phối hợp tổ chức phong trào luyện tay nghề, thi thợ giỏi, tuỳ theo điều kiện có chế độ dãi ngộ, tôn vinh những người thợ giỏi, người “có bàn tay vàng”.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ:
1. Đề nghị Chính phủ ban hành Nghị định về việc quy định chi tiết thực hiện Bộ luật lao động và Luật giáo dục về dạy nghề. Hiện nay, dạy nghề đang chịu sự điều chỉnh của Nghị định 90/CP ngày 15/12/1995 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về học nghề và Nghị định số 90/CP ngày 24/11/1993 của Chính phủ quy định cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống văn bằng, chứng chỉ về giáo dục và đào tạo của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. ngày 11/12/1998 Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có lệnh công bố Luật giáo dục, vì vậy cần thiết phải có một Nghị định quy định cụ thể, chi tiết thực hiện Bộ luật lao động và Luật giáo dục về dạy nghề.
Nghị định sẽ quy định chi tiết các loại hình cơ sở dạy nghề, các điều kiện thành lập, thủ tục thành lập các loại hình cơ sở dạy nghề, trình độ chuẩn của giáo viên, trách nhiệm và quyền hạn của các cơ sở dạy nghề, các nguồn tài chính đầu tư cho cơ sở dạy nghề, cơ chế cấp phát và quản lý sử dụng Ngân sách Nhà nước cho đào tạo dạy nghề.
2. Đề nghị Bộ Lao động thương binh Xã hội ban hành các quyết định, Thông tư hướng dẫn Nghị định nói trên và Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục...
3. Ngân sách chi cho đào tạo nghề vốn đã thấp nhưng ở cấp tỉnh việc phân bổ tài chính để thực hiện chỉ tiêu dạy nghề còn gặp nhiều khó khăn. Đề nghị Bộ Lao động - TBXH có thông báo phê duyệt chỉ tiêu đào tạo nghề hàng năm sớm hơn (năm 1999 đến cuối tháng 3 Bộ mới thông báo trong khi ở tỉnh đầu tháng 1 đã có quyết định giao chỉ tiêu đào tạo nghề) và có cơ chế kiểm tra giám sát việc phân bổ thực hiện nguồn lực tài chính cho dạy nghề.
4. Tổ chức bộ máy công tác quản lý về đào tạo nghề ở cấp huyện thị hiện nay còn đang rất khó khăn. Các phòng Tổ chức LĐXH chỉ có 1 người kiêm nhiệm làm công tác này. Mặt khác trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập với yêu cầu nhiệm vụ hiện nay. Đề nghị Ban tổ chức chính quyền có chỉ tiêu biên chế chính thức làm công tác quản lý, theo dõi đào tạo nghề ở cấp huyện, thị xã.
5. Đầu tư cho dạy nghề đúng với yêu cầu và nhiệm vụ được giao:
Tại Quyết định số 50/1999/QĐ-TTg ngày 23/3/1999 của Thủ tướng chính phủ quy định tỷ lệ ngân sách Nhà nước cho đào tạo nghề trong tổng ngân sách cho giáo dục và đào tạo lên 6,5% vào năm 1999 và 7,3% vào năm 2000. Căn cứ theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ thì chỉ tiêu ngân sách địa phương không thể đáp ứng được; đề nghị trung ương quan tâm đầu tư cho dạy nghề địa phương thông qua các chương trình mục tiêu...
6. Đào tạo nghề ngắn hạn phát triển, số lượng đào tạo đã đáp ứng được nhu cầu học nghề trong nhân dân và thanh niên, tuy nhiên chương trình và kế hoạch đào tạo còn nhiều hạn chế về chuyên môn cũng như thời gian. Đề nghị Bộ có hướng dẫn riêng quy định về xây dựng mục tiêu chương trình dạy nghề ngắn hạn, đồng thời sưu tầm giới thiệu mãu một số nội dung chương trình của một số nhóm ngành nghề để các cơ sở dạy nghề tham khảo.
KÊT LUÂN
Nguồn nhân lực hiện có ở Phú Thọ còn chưa đáp ứng được những yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn sản xuất và đời sống. Trong bối cảnh có những thời cơn thuận lợi và những khó khăn thách thừc đan xen, cùng tác động lên nền kinh tế xã hội. Phú Thọ phải bứt phá vượt lên theo bước đi riêng cuả mình bằng chiến lược tận dụng nhân công. Muốn vậy việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một nội dung, một tiền đề cơ bản để nâng cao hiêụ quả sử dụng. Những vẫn đề bức xúc nhất của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện nay là mở rộng quy mô đào tạo trên cơ sở đa dạng các nguồn vốn điều chỉnh cơ cấu đào tạo, phát triển đổi mới nội dung chương trình đào tạo, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực theo hướng CNH-HĐH, đào tạo và xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và chuyên gia giỏi hướng tới mục tiêu cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của thị trường .
Để đạt được mục tiêu tạo ra một lực lượng lao động có trình độ học vấn cao có kỹ năng nghề nghiệp đủ khả năng đáp ứng được thay đổi nhanh chóng và đa dạng của thị trường lao động Việt Nam khi nền kinh tế tăng trưởng và đa dạng hoá, Phú Thọ phải thực hiện đồng bộ và có hiệu quả hệ thống các giải pháp .
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cơ cấu kinh tế của tỉnh Phú Thọ đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ các thành phần kinh tế phát triển, khu công nghiệp mới được hình thành, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nhiều ngành nghề mới, công nghệ mới và lĩnh vực mới xuất hiện. Thực tế đó đòi hỏi nguồn nhân lực phải được phát triển đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng lao động. Công tác dạy nghề phải được đẩy mạnh và tăng cường nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động là yêú tố góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH của tỉnh Phú Thọ
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Mai Quốc Chánh và các cô chú Sở lao động Thương binh Xã hội tỉnh Phú Thọ đã giúp đỡ nhiệt tình để em có thể hoàn thành bài viết này. Tuy nhiên do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên bài viết chắc chắn còn nhiều sai sót vì vâỵ em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô, các cô chú để em có thể học hỏi nâng cao kiến thức cho bản thân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0034.doc