Chuyên đề Đào tạo theo nhu cầu xã hội: Những định hướng và giải pháp

Qua bài phân tích trên chúng ta thấy rõ việc đào tạo theo nhu cầu là rất cần thiết khi mà hình thức đào tạo trước đây đã bộc lộ rõ những yếu điểm của mình - một nền giáo dục nặng về lý thuyết xem nhẹ thực tế dẫn đến hậu quả là phần lớn sinh viên sau khi tốt nghiệp k hông tìm được việc làm nếu có thì đa phần là trái ngành trái nghề và phổ biến là sau khi nhận được việc làm những con người đó đều phải đào tạo lại từ 3 đến 6 tháng thậm trí là hơn một năm mới có thể đảm đương công việc được tuyển dụng. Những hậu quả này sẽ còn lớn hơn nhiều lần khi mà chúng ta vẫn tiếp tục đi theo con đường cũ đặc biệt khi nước ta đã là thành viên chính thức gia nhập WTO. Khi dó nước ta sẽ đón nhận rất nhiều cơ hội mới và những thách thức mới từ môi trường bên trong và bên ngoài, rất nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ đầu tư tại Việt Nam, nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao là rất lớn. Để có thể nắm bắt được cơ hội này thì hình thức đào tạo theo nhu cầu tỏ ra hơn hẳn. Nó giúp tạo ra những con người không chỉ giỏi về lí luận mà còn có chuyên môn sâu trong lĩnh vực mà họ theo học. Song để chuyển hướng từ đào tạo theo cái mình có sang đào tạo theo nhu cầu xã hội không phải là chuyện một sớm một chiều. Nó đòi hỏi phải có những cái bắt tay chặt chẽ của 3 nhà – nhà trường, doanh nghiệp, Nhà nước - để có được những thông tin chính xác, được tiếp cận nhanh chóng với các công nghệ mớI của thị trường. Ngoài ra còn cần có cả một hệ thống các cơ quan dự báo nhu cầu để nhanh chóng nắm bắt những đòi hỏi của xã hội. Bên cạnh đó sự đổi mới trong nếp nghĩ, cách thức học tập và làm việc của thầy và trò cũng rất quan trọng. Nó góp phần không nhỏ vào thành công của đào tạo theo nhu cầu xã hội.

doc69 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1684 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đào tạo theo nhu cầu xã hội: Những định hướng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiến thức và kỹ năng cần thiết để làm việc đúng theo trình độ của văn bằng được cấp. Đã vậy, kiến thức đó lại chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội, của các doanh nghiệp. Song nguyên nhân dẫn đến tình trạng này cũng một phần do chi phí đầu tư cho cơ sở vật trang và trang thiết bị còn quá hạn hẹp. Thêm vào đó nền giáo dục của nước ta còn thực hiện trên quy mô đại trà cũng còn khá nặng nề. Riêng ở Việt Nam, trong nhiều năm, do nhận thức “đào tạo để hình thành con người toàn diện”, nên thường có xu hướng đào tạo đại trà cho nhiều học sinh. Lượng kiến thức và kỹ năng cũng được cung cấp cho học sinh theo hướng mở rộng ra nhiều lĩnh vực ngày càng chiếm ưu thế hơn so với đào tạo chuyên sâu các kiến thức, kỹ năng thuộc chuyên ngành hẹp. Chính vì thế, trong các cơ sở đào tạo hiện nay, việc cá biệt hóa đào tạo trong các trường học nếu có được thực hiện cũng luôn được gắn với việc đào tạo chung trên diện rộng, có vị trí thứ yếu hơn so với đào tạo đại trà theo kiểu “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Điều này làm cho sinh viên khi ra trường có thể làm việc trong nhiều ngành nghề khác với ngành nghề được coi là chuyên ngành của mình, nhưng hầu hết đều chỉ phát huy tác dụng sau khi đã được bổ túc nghiệp vụ, tập huấn thêm về các kỹ năng, kiến thức chuyên ngành đặc trưng. Theo Bộ Giáo dục Đào tạo, khảo sát về việc làm của sinh viên (năm 2006) sau khi tốt nghiệp các chương trình đào tạo cho thấy chỉ 50% sinh viên có việc làm khi tốt nghiệp, trong đó chỉ 30% là làm đúng ngành nghề đào tạo. Điều này cho thấy một thực trạng khá phổ biến hiện nay là đào tạo không đáp ứng nhu cầu xã hội, sinh viên ra trường không đáp ứng các yêu cầu cơ bản của nghề nghiệp ở trình độ tương ứng từ đó gây lãng phí lớn cho bản thân người học, nhà trường và xã hội. Như vậy phương thức giáo dục cũ thực sự tồn tại quá nhiều những khiếm khuyết lớn cần được sửa đổi nhanh chóng để lao động của ta không còn là lỗi lo cho các doanh nghiệp khi mùa tuyển dụng đến. Hệ quả của một nền giáo dục chạy theo nhu cầu thị trường và thiếu những tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trước khi lựa chọn ngành nghề đó là một nền giáo dục với những sinh viên ra trường còn rất mơ hồ về ngành nghề minh học, còn nhiều băn khoăn về những kỹ năng cần có cho ngành nghề đó. Điều này khiến cho đội ngũ lao động tương lai tuy dồi dào song chất lượng không đáp ứng được nhu cầu xã hội, cung cầu lao động thiếu cần bằng. Cụ thể: Thứ nhất: Nguồn nhân lực sau đào tạo tuy có dồi dào song chất lượng còn cách xa so với nhu cầu của các doanh nghiệp Sinh viên của chúng ta mặc dù phải học rất nhiều thứ nhưng ít được thực hành nên khi đi làm “đụng” đến công việc đều phải học lại cái lẽ ra phải được chuẩn bị từ trong trường ĐH. Nghĩa là, khi hỏi vấn đề gì thì tất cả đều trả lời rất chuẩn bằng những… khái niệm và định nghĩa có sẵn trong giáo trình. Và chỉ dừng lại ở mức đó. Thêm nữa là họ rất rụt rè khi phải phát biểu, trình bày kế hoạch. Thêm nữa là khi đi thi tuyển trong túi hồ sơ của ai cũng có 2-3 chứng chỉ về trình độ vi tính và bằng C tiếng Anh nhưng sau khi kiểm tra thì số “tạm tuyển” chỉ đạt chưa tới 10%! Còn về các kỹ năng như soạn thảo văn bản, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức không gian làm việc, kỹ năng viết báo cáo, kỹ năng đàm phán và thuyết phục… thì lại rất kém và chỉ có mỗi cái tạm được là sức khỏe tốt. Còn riêng khoản “sinh ngữ” thì càng có nhiều điều để nói. Ngay như ông giám đốc Công ty Saigontourist cũng phải than vãn có tới 70% số sinh viên tốt nghiệp khoa ngoại ngữ… chỉ được cái giỏi nói tiếng Việt. Theo kết quả một cuộc điều tra của Trung tâm Khảo thí và Đánh giá chất lượng đào tạo thuộc ĐHQG TPHCM thì - mặt bằng trình độ sinh viên bắt đầu năm thứ 3 chỉ mới đạt trong khoảng 360 - 370 điểm TOEFL hoặc 3,5 điểm IELTS - đây là số điểm ở trình độ rất thấp so với thế giới. Và ở mức “sơ khởi” này, sinh viên chưa thể tham gia vào các cuộc trao đổi ý kiến mà chỉ tiếp nhận thông tin đơn giản. Đây là nguồn nhân lực có được từ các trường ĐH, CĐ, TCCN; còn ở tầm lao động giản đơn tình thế không có gì là khả quan. Ví dụ như: Đầu năm 2007, các KCN – KCX thành phố cần tuyển 10.000 lao động phổ thông cho các ngành dệt may, cơ khí và lắp ráp điện tử với mức lương khởi điểm ở mức 1 triệu đồng/người/tháng, song tìm đỏ mắt cũng mới kiếm ra 20% số lao động đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Với chất lượng như vậy, nguồn nhân lực Việt Nam khó có sức “bơi” được tới con tàu “WTO”. Không chỉ có trong lĩnh vực kinh tế, thương mại các trường mới chú trọng chạy theo số lượng mà hầu hết ở tất cả các ngành nghề lĩnh vực nào đang “nóng” các trường đều liệt vào danh sách cần mở rộng quy mô càng lớn càng tốt. Điều này đã khiến cho sinh viên sau khi ra trường rất khó xin được công việc theo đúng chuyên ngành của mình, trong nước đã khó thì vươn ra nước ngoài còn khó hơn. Như trong một kỳ thi sát hạch CNTT của Hội đồng Sát hạch CNTT của các nước Châu Á ITPEC được tổ chức tại 7 nước Nhật Bản, Malaysia, Mông Cổ, Myanmar, Thái Lan, Philipins và Việt Nam mới đây cho thấy, cùng với độ khó của đề thi, tỷ lệ đạt của sinh viên các trường dạy nghề CNTT của Nhật Bản có thể đạt đến 70-80%, còn sinh viên các trường dạy nghề của Việt Nam chỉ có tỷ lệ đạt dưới mức 3%. Nguyên nhân của tình trạng trên là độ vênh còn quá lớn giữa hệ thống đào tạo và nhu cầu của ngành. Có thể thống kê một loạt những bất cập trong đào tạo, giáo dục CNTT hiện nay như: Phương thức, chương trình đào tạo chậm đổi mới, không phù hợp với yêu cầu, đặc thù ngành CNTT; Đào tạo chính quy có mức xã hội hoá thấp, không khai thông được nguồn lực đầu tư từ xã hội và tạo được động lực thúc đẩy sự đổi mới trong đào tạo... Tuy nhiên đây không phải là những bất cập chỉ có trong đào tạo CNTT mà nó là bất cập chung của nền giáo dục nước ta hiện nay. Thứ hai: Mất cân bằng trong cung cầu lao động Sự mất cân bằng này thể hiện rõ qua các con số: Cầu lao động năm 2007 tăng 7.097 điểm (tăng 67% so với năm trước đó). Trong khi đó, cung lao động chỉ tăng 22% so với năm 2006. Sự tăng mạnh về cung này là do sự phát triển kinh tế vượt bậc, Việt Nam tham gia vào WTO, đầu tư nước ngoài cả gián tiếp và trực tiếp tăng nhanh chóng... song chúng ta lại chưa có sự chuẩn bị trước về cung lao động thể hiện hệ thống giáo dục và đào tạo chưa kịp bắt nhịp với sự phát triển về kinh tế, các doanh nghiệp chưa có sự chuẩn bị về nhân lực khi đất nước gia nhập WTO, chỉ sau khi gia nhập mới thấy được tầm quan trọng của nguồn nhân lực nên mới tìm những biện pháp giải quyết vấn đề lao động trước mắt chứ chưa thực sự có những biện pháp mang tính lâu dài. Đây là nguyên nhân khiến cho cung về lao động không theo kịp cầu. Sự mất cân bằng về cung cầu lao động còn thể hiện ở trong cụ thể từng ngành nghề. Hiện nay đang có xu thế phát triển mạnh các ngành nghề như kế toán, ngân hàng, chứng khoán nên người học đổ xô đi học nếu không học đại học, cao đẳng thì học trung cấp cũng được hoặc chỉ cần vài ba tháng với các trung tâm là có ngay một chứng chỉ theo đúng chuyên ngành nay. Song người học không thể hiểu rằng chỉ với lượng kiến thức có được trong vài tháng đó không thể đủ để có thể làm ngay được công việc này. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho rất nhiều sinh viên ra trường mỗi năm mà không thể tìm được công việc đúng chuyên ngành mặc dù nhu cầu xã hội là rất cần. Trong khi đó những chuyên ngành như may mặc, da giày, đồ gỗ, chế biến thuỷ sản rất cần nhiều người thì lại không được người học quan tâm do học sinh có tâm lý học xong ngành này phải làm việc ở gần rừng và biển nên ngại. Hàng năm rất nhiều công ty chế biến gổ xuất khẩu, thủy sản xuất khẩu… ở ngay tại TPHCM, Hà Nội đã rao tuyển nhiều lần với số lượng lớn, nhưng vẫn không đủ, đến nổi họ phải “đặt hàng” nhà trường đào tạo theo địa chỉ cho họ, họ sẵn sàng trả chi phí cao…nhưng thiếu vẫn hoàn thiếu. Đây chính là một nghịch lý cần được điều chỉnh kịp thời để không xảy ra hiện tượng thiếu lao động trong ngành này xong lại thừa ở ngành khác. 3. Nguyên nhân của những tồn tại trên Nguyên nhân khiến cho nhân lực chất lượng thấp, không gắn với nhu cầu của các ngành kinh tế khá phổ biến do: Sự lạc hậu về nhận thức trong quản lý GD và ĐT trong khi nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị trường; Hệ thống đào tạo nguồn nhân lực phân tán, quản lý không đồng bộ, không có đầu mối chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo, cơ chế quản lý bao cấp, cồng kềnh, chậm đổi mới; Không có công cụ để đánh giá và kiểm soát chất lượng đào tạo; Không có cơ chế chế tài, xử lý đào tạo chất lượng kém và khuyến khích chất lượng cao; Sự thiếu quan tâm đúng mức của các bộ, ngành và địa phương khi quy hoạch và lập kế hoạch phát triển ngành kinh tế xã hội của địa phương; Chi phí cho đào tạo quá thấp, không đảm bảo chất lượng như mong muốn...Cụ thể là: 3.1. Từ phía nhà trường và người học Thứ nhất: Cơ sở đào tạo Các nhà doanh nghiệp than thở trang thiết bị dạy học ở một số trường, một số phòng thí nghiệm vừa thiếu, vừa lạc hậu so với trình độ hiện tại. Họ nói: “Hàng ngày chúng tôi phải đọc hàng chục tờ báo, tạp chí tiếng Việt và tiếng nước ngoài, phải truy cập Internet để thu thập thông tin về tiến bộ kỹ thuật, những phát minh, sáng chế mới v.v... phải tổng hợp, phân tích các dữ liệu, chọn lọc để ứng dụng vào công việc. Thế nhưng, ở nhiều trường, chúng tôi thấy có ngành sinh viên thực hành trên thiết bị được sản xuất cách đây 30 - 40 năm. Còn các loại dụng cụ, vật liệu dùng cho nghiên cứu, thực nghiệm cũng đều là những loại mà các nước tiên tiến đã bỏ từ lâu... Tài liệu nghiên cứu, tham khảo thì được biên dịch từ sách báo thế giới cũng từ nhiều năm trước, thiếu cập nhật, thông tin đã lỗi thời. Một số giáo trình, giáo án được soạn thảo và sử dụng từ nhiều năm, trong khi tiến bộ về khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý biến đổi rất nhanh lại không được cập nhật, hiệu chỉnh, bổ sung hàng năm, thậm chí có loại cần phải nhanh hơn nữa. Đó là chưa kể, do kinh phí eo hẹp, ở nhiều trường, các thầy cô ít có điều kiện ra nước ngoài tham quan, trao đổi học tập để nắm những thông tin khoa học hiện đại”. Với những cơ sở vật chất giảng dạy như vậy đã làm cho người học ít được tiếp cận với thành tựu khoa học mới nên khi đi làm tiếp cận với các công nghệ mới họ luôn gặp nhiều khó khăn. Để việc cải tạo, mua trang thiết bị học và dạy mới, các trường phải có một nguồn lực tài chính rất dồi dào trong khi đó kinh phí do nhà nước cấp lại rất hạn chế, các khoản thu từ học phí còn quá ít nên các trướng có xu hướng đào tạo những ngành nghề với chi phí thấp, ít phải đầu tư máy móc, thiết bị, phòng thí nghiệm, nhà xưởng như Kinh tế, Kế toán, , Tin học văn phòng, Ngoại ngữ… chiếm 40 đến 50% quy mô đào tạo toàn quốc. Còn những ngành kĩ thuật và công nghiệp đòi hỏi đầu tư với chi phí lớn về thiết bị, nhà xưởng như khoa học vật liệu, kĩ thuật cơ khí, kĩ thuật điện, kĩ thuật khai thác mỏ, dầu khí … ít được mở thêm. Điều này làm giảm khả năng tìm việc làm của sinh viên sau khi ra trường, hạn chế khả năng sáng nghiệp, tăng tỷ lệ thất nghiệp do không đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Như vậy các trường mới chỉ tập trung đào tạo những gì mình có chứ chưa đào tạo theo nhu cầu Thứ hai: Nội dung chương trình đào tạo hiện nay còn nặng về lý thuyết ít thực hành thậm chí không có vì không đủ điều kiện, chưa dựa trên kết quả khảo sát thị trường lao động, chưa phân tích nhu cầu đào tạo và tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp. Chương trình đào tạo trong các trường ĐH của chúng ta hiện nay không khác mấy so với nội dung, chương trình của mấy chục năm trước. Điểm khác biệt căn bản chỉ ở chỗ đã có bổ sung, điều chỉnh chút ít chứ chưa phải là chương trình được xây dựng để thích hợp với những đòi hỏi của tình hình phát triển hiện nay. Bên cạnh đó thì việc xây dựng chương trình đào tạo, đánh giá chương trình đào tạo với sự tham gia của các nhà tuyển dụng và doanh nghiệp chưa được phổ biến nhân rộng. Nhiều cơ sở đào tạo vẫn thực hiện chương trình cũ thiếu gắn kết với nhu cầu xã hội. Ngoài ra các trường mới thành lập, các ngành mới mở chỉ là sao chép chương trình đào tạo của một số cơ sở nào đó đã có sẵn, ít khi được xây dựng thích ứng với đặc điểm của trường, của ngành, của địa phương và trên cơ sở khảo sát phân tích nhu cầu lao động. Thêm vào đó thời gian giành cho các môn chuyên ngành còn quá ít dẫn đến tình trạng sinh viên sau khi ra trường cái gì cũng biết nhưng chẳng có gì là sâu sắc cả. Ví dụ như ngành Công nghệ thông tin Trường ĐH Công nghiệp TPHCM, thời gian đào tạo đã bị mất phân nửa cho những môn học không liên quan đến chuyên ngành nên sinh viên không được đào tạo sâu, chỉ được học những kiến thức nền tảng. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu khiến cho nhiều sinh viên trong nước chọn giải pháp đi du học nước ngoài. Mặc dù chi phí học ở nước ngoài đắt gấp nhiều lần so với học trong nước song đối với họ học đó sẽ có môi trường học tập tốt và cơ hội nghề nghiệp sẽ cao hơn. Thứ ba: Đội ngũ giảng viên, giáo viên Cho đến nay tiêu chuẩn về giảng viên, giáo viên chưa được xây dựng thành tiêu chuẩn quốc gia. Việc tuyển chọn, phân loại và đáng giá giảng viên giáo viên trong các cơ sở đào tạo mới chỉ dựa trên quy định của Luật giáo dục về khung trình độ, chưa có tiêu chuẩn năng lực cụ thể cho việc lựa chọn, đánh giá, trả lương cho giảng viên, giáo viên. Tình hình đội ngũ giáo viên trong các cơ sở giáo dục trung học chuyên nghiệp (THCN), CÐ và ÐH những năm gần đây chưa đáp ứng sự gia tăng về quy mô  người học. Tỷ lệ sinh viên CÐ, ÐH trên một giảng viên 27,15 sinh viên/giảng viên, cá biệt có ngành đào tạo số sinh viên trên một giảng viên lên đến hơn 40.  Số lượng giáo viên các trường TCCN trong năm học 2007-2008 là 14 nghìn người, bảo đảm tỷ lệ 20 học sinh/giáo viên. Thực tế cũng cho thấy, đội ngũ giảng viên còn nhiều hạn chế về năng lực chuyên môn, kỹ năng thực hành và khả năng sử dụng tiếng Anh. 3.2. Từ phía Nhà nước Thứ nhất: Trong nhiều năm qua, Nhà nước chưa có cơ quan dự báo cấp quốc gia về nhu cầu xã hội, chưa có mạng lưới các cơ quan thu thập thông tin, phân tích, đánh giá và dự báo nhu cầu xã hội về số lượng lao động, cơ cấu trình độ, ngành nghề đạo tạo từ các Bộ ngành Trung ương đến các địa phương. Dự báo nhu cầu xã hội phải được tiến hành ở từng đại phương, từ dưới lên trên và cho từng bộ ngành. Cơ quan dự báo nhu cầu xã hội phải thường xuyên cung cấp số liệu làm cơ sở cho các trường lập kế hoạch đào tạo và điều chỉnh chiến lược phát triển cho từng giai đoạn Thứ hai: Sự chồng chéo của các cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục đã làm cản trở sự chủ động của cơ sở đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội do quán tính của nền hành chính quan liêu để lại. Như cầu đào tạo của doanh nghiệp xuất hiện và không ngừng thay đổi, nhưng sự đáp ứng của các cơ sở đào tạo, đặc biệt là các cơ sở công lập với các nhu cầu đó rất chậm chạp do phải mất thời gian thực hiện các thủ tục rườm rà. Thứ ba: Sự bất cập về cơ cầu hệ thống giáo dục, về thời gian đào tạo giữa cao đẳng và TCCN, về khung trình độ như cao đẳng và cao đẳng nghề nghiệp, TCCN và trung cấp nghề, các loại trường lớp, học viện, văn bằng chứng chỉ… tạo nên sự chồng chéo, trùng lặp trong đào tạo là một trong những nguyên nhân của viậc thièu gắn kết giữa đào tạo và nhu cầu xã hội, gắn kết giữa đào tạo ban đầu và đào tạo thường xuyên, đào tạo nâng cao và đào tạo chuyên sâu. Thứ tư: Việc tổ chức đánh giá chương trình đào tạo với sự tham gia của doanh nghiệp, cựu sinh viên, hội nghề nghiệp … không được thực hiện thường xuyên để điều chỉnh chương trình. Hội đồng trường với chức năng nhiệm vụ được quy định trong Luật Giáo dục và Quyết định 153/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về việc ban hành “Điều lệ trường Đại học” có tầm quan trọng để giúp nhà trường hoạch định chính sách đào tạo gắn với nhu cầu xã hội, nhưng vẫn chưa được sự hưởng ứng của các trường. Hiện nay mới chỉ có 3 trường là Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Thái Nguyên, Đại học Giao thong Vận tải đã thành lập hội đồng trường. Hai trường là trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. HCM và trường Đại học Xây Dựng đang trong giai đoạn thẩm định hồ sơ đăng ký. Thứ năm: Các loại hình như trung tâm hướng nghiệp, trung tâm trợ giúp và theo dõi việc làm, trung tâm quan hệ doanh nghiệp, trung tâm huấn luyện và bồi dưỡng giáo viên được thành lập nhằm phát triển năng lực chuyên môn tiếp cận với nhu cầu xã hội đang được nhiều trường thực hiện. Tuy nhiên đa số các trường chưa xây dựng được chiến lược và chưa tạo lập mối quan hệ với doanh nghiệp trong trao đổi thông tin, nắm bắt nhu cầu đào tạo về số lượng theo trình độ đào tạo. Thứ sáu: Kinh phí đầu tư cho giáo dục còn quá ít Mặc dù hàng năm ngân sách cấp cho giáo dục có tăng lên (chiếm khoảng 15 – 16% ngân sách nhà nước) nhưng nó vẫn còn là rất nhỏ so với nhu cầu của ngành giáo dục nhất là khi khoa học ngày càng phát triển, trang thiết bị cho học và dạy của giáo viên, học sinh ngày càng hiện đại. Theo số liệu mới đây nhất thì ngân sách đầu tư cho hệ thống giáo dục quốc dân được phân bổ như sau: 4,5% cho mầm non, 27% cho GD Tiểu học, 23,5% cho THCS, 11% cho THPT, 20 % cho CĐ-TCCN, còn lại chi tiêu cho GDĐH chỉ chiếm khoảng 16%. Nhìn vào định mức có thể thấy riêng hai bậc Tiểu học và THCS đã chiếm hơn 50% tổng ngân sách chi cho giáo dục, và nếu chúng ta nâng mức chi cho GD mầm non lên 15% hoặc nâng mức chi cho GDĐH lên 20% thì rõ ràng không còn tiền để chi cho các mục tiêu khác. Do đó bài toán chi phí cho giáo dục chỉ được giải quyết khi chúng ta có chính sách đầu tư hợp lý và phát huy có hiệu quả nguồn lực cấp cho mỗi cấp bậc giáo dục. Bên cạnh những mặt hạn chế kể trên thì thực tế của nước ta còn tồn tại khá nhiều những hạn chế khác xuất phát từ nhiều khía cạnh làm cho việc đào tạo theo nhu cầu xã hội của nước ta gặp nhiều khó khăn như: kinh phí cấp cho đào tạo còn hạn chế; số người ra khỏi thị trường lao động thấp hơn nhiều lần số người tham gia vào thị trường lao động, số việc làm mới được tạo ra còn hạn chế làm cho số lượng lớn sinh viên sau khi tốt nghiệp không có khả năng tìm kiếm việc làm ( trong tổng số 90% sinh viên ra trường chỉ có 50% sinh viên có việc làm, trong đó chỉ có 30% làm đúng ngành nghề đào tạo); sự gia tăng số học sinh, sinh viên cao hơn nhiều lần số việc làm mới, các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo chưa đảm bảo, các trường đào tạo theo số lượng cũng là nguyên nhân làm chậm quá trình đào tạo theo nhu cầu. Trên đây là những thành tựu và những hạn chế mà nền giáo dục nước ta đã đạt được trong bước đầu thực hiện đào tạo theo nhu cầu. Qua đây chúng ta cũng thấy rõ những thành tựu đạt được còn ít song những những hạn chế còn quá nhiều và hầu hết đều là những hạn chế mà chúng ta đã mắt phải trong phương thức giáo dục trước đây. Vì vậy trong thời gian tới Đảng và Nhà nước ta nói chung và Bộ giáo dục và Đào tạo nói riêng cần có những tác động mạnh mẽ hơn nữa để nhanh chóng chuyển hướng nền giáo dục nước ta theo nhu cầu xã hội. Chương III GIẢI PHÁP CHO ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở NƯỚC TA 1. Giải pháp Bộ trưởng Nguyện thiện Nhân đã từng khẳng định việc chuyển từ đào tạo dựa vào khả năng sẵn có của mình sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội là chuyển biến quan trọng nhất, cơ bản và bức bách trong giai đoạn hiện nay. Điều này tương tự như chuyển đổi từ kinh tế tập trung kế hoạch hoá trước kia sang nền kinh tế thị trường. Và để đảm bảo mục tiêu đến năm 2008 nước ta bước vào đào tạo theo nhu cầu thị trường thì ngay từ bây giờ chúng ta phải ý thức rõ chúng ta cần đào tạo những gì, đào tạo cho ai, đào tạo nhằm mục đích gì và phải đào tạo như thế nào. Hay nói cách khác là ngay từ bây giờ chúng ta phải tìm ra những giải pháp cụ thể nhất, chi tiết nhất để nhanh chóng xoá bỏ những yếu kém trong giáo dục hiện nay, đưa nền giáo dục đi theo mục tiêu phục vụ của xã hội, của nền kinh tế. Bộ trưởng Bộ giáo dục Nguyễn Thiện Nhân cũng đã nêu ra 9 tiêu chí nhằm đạt chuẩn trong quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội và doanh nghiệp. Trước hết, phải xác định chuẩn kỹ năng, năng lực của người tốt nghiệp; xác định chuẩn đầu vào của học sinh, sinh viên; tiêu chuẩn của chương trình đào tạo; đổi mới phương pháp giảng dạy trong đó có phương pháp đánh giá trình độ của nhà quản lý và các thầy cô giáo; giảng viên phải có trình độ chuyên môn cao; cán bộ quản lý phải có năng lực toàn diện; điều kiện cơ sở vật chất của trường đảm bảo đủ thiết bị dạy và học, phòng thí nghiệm…; năng lực tài chính đảm bảo chi phí đào tạo để người dạy và học yên tâm; phải tổ chức quản lý qui trình đào tạo, phân cấp hoặc theo tiêu chuẩn ISO Để cụ thể hoá các tiêu chí trên, trong hội thảo quốc gia “Đào tạo theo nhu cầu xã hội” nhằm tìm ra sự đồng bộ giữa nhà trường với thị trường lao động do Bộ Giáo dục Đào tạo tổ chức tại TP.HCM, các đại biểu đã nêu ra một loạt các giải pháp sau: a) Hình thành ban điều hành để triển khai đào tạo theo nhu cầu Thành phần ban điều hành gồm: Đại diện của Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ Lao động – Thương binh xã hội, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Bưu chính viễn thông, Bộ Công nghiệp, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam ... Ban điều hành xây dựng kế hoạch cấp quốc gia; tập hợp các nhu cầu từ cơ sở, doanh nghiệp, thị trường lao động; đồng thời phối hợp đánh giá năng lực của các trường, đánh giá chuẩn nghề nghiệp, giáo viên để từ đó thông báo cho các đơn vị có nhu cầu đào tạo biết đặt hang hoặc giao kế hoạch đối với nhu cầu đào tạo của cả nước. b) Thành lập cơ quan dự báo nhu cầu xã hội Cơ quan dự báo nhu cầu cần phải được thành lập từ Trung ương đến địa phương tạo gia một mạng lưới quốc gia do một trung tâm quốc gia điều phối các hoạt động. Cơ quan này có nhiệm vụ dự báo các nhu cầu ngắn hạn (1-2 năm), trung hạn (3-5 năm), dài hạn (trên 5 năm). Hệ thống cơ quan dự báo này được chia làm 2 cấp là cấp quốc gia và cấp địa phương. Trên cơ sở nguyên tắc hình thành mạng lưới dự báo nhu cầu đào tạo, các trung tâm dự báo địa phương cung cấp thông tin lên mạng quốc gia để cơ quan dự báo quốc gia xử lí và điều phối chung. ở cấp tỉnh, trung tâm dự báo này có thể trực thuộc một trong các sở ngành Giáo dục Đào tạo, Lao động – Thương binh xã hội. Các hiệp hội hiệp hội nghề nghiệp cùng các cơ quan bộ, ngành, địa phương dự báo nhu cầu xã hội, định kỳ thông báo nhu cầu theo từng loại ngành nghề và trình độ đào tạo. Đây là thông tin quan trọng cho các cơ sở đào tạo lập kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Các trường được chủ động đào tạo những chuyên ngành mới nếu xã hộI có nhu cầu nhưng phải cung cấp những thông tin cần thiết cho Bộ Giáo dục Đào tạo để đăng kí ngành học mới như: mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình, dự báo nhu cầu của người học, thông tin thị trường lao động có liên quan đến ngành nghề mới và các điều kiện đảm bảo chất lượng. Để cơ quan dự báo nhu cầu xã hội hoạt động tốt cần phải thiết lập tam giác hợp tác: Nhà nước – Doanh nghiệp – Cơ sở đào tạo. Nhà nước ở đây là các bộ, ngành Trung ương và địa phương, doanh nghiệp bao gồm cả các hiện hộI và các cơ sở đào tạo thường xuyên trao đổI thông tin. c) Tăng cường cơ chế hợp tác, phối hợp giữa nhà nước, doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo Hợp tác, phối hợp ở đây là sự hợp tác giữa các bộ, các tổng công ty, giữa Bộ Giáo dục Đào tạo với phòng Công nghệ thông tin Việt Nam , Bưu chính viễn thông … hợp tác tại các địa phương, hợp tác giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp hoặc giữa các cơ sở đào tạo với nhau. Trên cơ sở đó tận dụng lợi thế của mỗi bên về con người, cơ sở vật chất để cùng nhau phát triển. Cụ thể: - Nhà nước có vai trò xây dựng chính sách hiệu quả; xây dựng khung luật pháp và loại bỏ những qui định không phù hợp với nền kinh tế thị trường, phát triển tiêu chuẩn chất lượng, đánh giá kỹ năng và công nhận kỹ năng, cung cấp thông tin cần thiết gắn với các tín hiệu thị trường lao động, đánh giá nhu cầu đào tạo ở phạm vi quốc gia, phạm vi ngành và điều chỉnh chính sách để đáp ứng nhu cầu thị trường, hoàn thiện thị trường việc làm đảm bảo vận hành hệ thống đào tạo hiệu quả để đạt tiêu chuẩn chất lượng, phát triển năng lực xây dựng chương trình đào tạo, đào tạo giáo viên và cán bộ quản lý... - Doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc sẵn sàng cung cấp thông tin về nhu cầu (chất lượng và số lượng) nhân lực, nghiên cứu chuyển giao công nghệ của mình, tạo điểu kiện hỗ trợ nhà trường về cơ sở thực tập, bồi dưỡng giáo viên, chia sẻ chi phí, đào tạo nhân lực tại chỗ, thử nghiệm sản phẩm nghiên cứu, phối hợp phát triển mẫu mã sản phẩm, đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp cần xem việc đầu tư cho đào tạo là đầu tư phát triển và xem nguồn nhân lực là tài sản của doanh nghiệp. - Về phía nhà trường cần chủ động nắm bắt nhu cầu về lao động, bám sát hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, dự báo về sự phát triển của ngành nghề để xây dựng chương trình đào tạo phù hợp, cùng nhau thảo luận để đưa ra giải pháp đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của các doanh nghiệp để sao cho nguồn nhân lực không bị láng phí. Sự liên kết chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp sẽ hạn chế tình trạng đào tạo xa rời với thực tiễn sản xuất, sinh viên được đào tạo đáp ứng được yêu cầu của xã hội và doanh nghiệp mà doanh nghiệp không phải tốn thêm chi phí đào tạo lại. Việc hợp tác này không chỉ giới hạn trong nước mà còn mở rộng liên kết các trường đạ học, các viện nghiên cứu ở nước ngoài thực hiện các hợp đồng đào tạo và nghiên cứu d) Xây dựng các danh mục nghề, các tiêu chuẩn nghề nghiệp và tư vấn hướng nghiệp Xây dựng danh mục nghề là việc quan trọng để đảm bảo công tác thống kê, dự báo nhu cầu nhân lực theo một tiêu chuẩn chung tránh việc 2 nghề giống nhau nhưng có tên khác nhau. Danh mục nghề cần được phân loại theo tiêu chuẩn quốc tế, có mô tả nghề nghiệp, những ngành kinh tế sử dụng và cơ sở đào tạo ra nghề đó. Bên cạnh xây dựng danh mục nghề cần xây dựng tiêu chuẩn nghề nghiệp của người lao động. Việc xây dụng tiêu chuẩn nghề nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với giáo dục nghề nghiệp, cao đẳng và một số lớn các ngành nghề trong giáo dục đại học. Để gắn đào tạo theo nhu cầu , tiêu chuẩn đào tạo phải bám sát vào tiêu chuẩn nghề. Việc đổi mới mục tiêu và nội dung đào tạo phải căn cứ vào yêu cầu tại nơi làm việc trong hiện tại và trong tương lai. Tư vấn hướng nghiệp được coi là cầu lối giữa giáo dục với việc làm; góp phần phân luồng cho THCS và THPT đi theo các con đường học vấn khác nhau nhưng vẫn có thể thành công trong cuộc đời, thúc đẩy sự di chuyển của người lao động trên thị trường trong và ngoài nước, giúp nhận thức vai trò cá nhân trong thế giới việc làm, cải thiện năng lực, nâng cao thái độ đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng việc làm, ý thức tôn trọng pháp luật. Các trường đại học và TCCN cấn thành lập các trung tâm dịch vụ, giới thiệu việc làm và có liên hệ chặt chẽ với cơ quan dự báo cấp địa phương và cấp quốc gia. e) Tăng thu cho trường bằng cách tăng học phí Việc cho phép các trường ĐH và CĐ, THCN tăng học phí được coi là một giải pháp tốt để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Khi tăng học phí có thể dẫn đến tình trạng một bộ phận không nhỏ học sinh không tham gia học tập do không có điều kiện về mặt tài chính đo vậy khi thực hiện tăng học phí sẽ có hai chương trình đi kèm là: Chương trình giảm học phí cho những đối tượng nhất định, con em gia đình khó khăn nhưng đạt tiêu chuẩn vào học đại học sẽ có học bổng khuyến khích. Hình thành chương trình cho vay để học đại học. Hướng mà chúng ta đã làm lâu nay là duy trì học phí thấp thì các trường sẽ không có tiền để nâng cấp cơ sở nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo. Mà nếu đóng học phí cao từ nguồn gia đình thì không thể đóng nổi nên với khu vực đại học thì vay để học (thông qua quỹ tín dụng sinh viên) là một giải pháp tốt nhắm đảm bảo cho các em đủ trình độ về chuyên môn, có đạo đức thì đều có thể học. Học bằng thu nhập của gia đình mình với mức học phí được miễn giảm hoặc vay để học. Cụ thể như ở Nghệ An, có một trường cao đẳng kỹ thuật của tỉnh phối hợp với Hàn Quốc, học sinh chỉ đóng có 100.000 đồng học phí/ tháng, còn tỉnh bù thêm cho mỗi học sinh 400.000 đồng/ tháng nhưng đào tạo em nào ra trường, các doanh nghiệp nhận hết ngay. Chất lượng đầu ra rất tốt, như vậy rõ ràng duy trì học phí với mức học phí 100.000 đồng như hiện nay thì không thể có chất lượng chuẩn được. Do đó phải tiến tới chấm dứt việc đào tạo không đáp ứng được yêu cầu của xã hội. f) Phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý Sinh viên tốt nghiệp đại học là sản phẩm của các trường đại học. Muốn có sản phẩm tốt thì trước tiên những người tạo ra sản phẩm đó phải có “trình độ sản xuất” đạt chuẩn. Nhưng theo đánh giá của Vụ ĐH và sau ĐH, trong năm học vừa qua, số giảng viên trình độ thạc sĩ, tiến sĩ tăng 11,9%, nhưng tổng số giảng viên lại tăng thêm hơn 3.500 người chủ yếu chỉ có trình độ đại học, như vậy tỉ lệ giảng viên đạt chuẩn dạy đại học lại giảm xuống. Do đó, lẽ ra Bộ GD-ĐT phải “nói không với giảng viên đại học không đạt chuẩn” trước khi “nói không với sinh viên tốt nghiệp đại học không đạt chuẩn và không đáp ứng nhu cầu xã hội”. Quản lý giáo dục trong các cơ sở đào tạo có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình đào tạo gắn với nhu cầu xã hội. Với một đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý năng động hoạt động trong thị trường, trong doanh nghiệp, nhanh chóng nắm bắt nhu cầu thị trường là điều kiện để nhà trường phát triển lám tốt chức năng đào tạo nhân lực cho nhà nước, và ngược lại nếu đội ngũ giảng viên, giáo viên không được đào tạo một cách chuyên nghiệp, thiếu cập nhập trí thức mới thì không thể tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Bộ giáo dục đào tạo cần phối hợp với các bộ liên quan xây dựng tiêu chuẩn nghề nghiệp giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý làm cơ sở cho việc đào tạo, tuyển dụng, bổ nhiệm trong nhà trường. Các cơ sở đào tạo phải tạo điều kiện cho giáo viên, giảng viên tích cực thâm nhập thực tế, tìm hiểu nhu cầu doanh nghiệp, tạo mối liên lạc thường xuyên với doanh nghiệp. Khuyến khích các cơ sở đào tạo mời chuyên gia trong nước và quốc tế có trình độ, kinh nghiệm thực tiễn và năng lực nghiên cứu tham gia bồi dưỡng giáo viên, giảng viên và hướng dẫn nghiên cứu khoa học. Ngoài những giải pháp cơ bản trên, còn có những giải pháp sau giúp hỗ trợ cho những giải pháp trên thực hiện một cách có hiện quả: 1. Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề. Huy động công ty trong và ngoài nước hình thành đại học chất lượng cao. Tăng cường sự liên kết trong và ngoài nước 2. Triển khai các dự án quốc gia đào tạo theo nhu cầu xã hội: chương trình tiên tiến, xây dựng các trung tâm dạy nghề, các trường dạy nghề. Phối hợp các khu công nghiệp cao để triẻn khai kế hoạch hang năm và dài hạn. 3. Kiểm tra, đánh giá và kiểm định năng lực nghề nghiệp đào tạo theo nhu cầu xã hội. Phối hợp với VCCI tiến hành điều tra doanh nghiệp Chương trình đào tạo, phương pháp dạy và học là khâu then chốt trong việc đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học. Ðổi mới cơ bản chương trình đào tạo, phương pháp dạy và học, tăng cường năng lực đội ngũ giảng viên, đổi mới phương thức tổ chức và quản lý đào tạo, v.v có tác dụng nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội và nhu cầu doanh nghiệp. Trong số những giải pháp nêu trên theo em điều qua trọng hàng đầu để có thể thực hiện thành công đào tạo theo nhu cầu xã hội là trước hết phải xác định rõ: xu hướng phát triển tương lai ra sao?, người lao động mà doanh nghiệp, nhà nước,xã hội mong muốn phạt đạt những tiêu chuẩn nào?, rồi từ đó mới có hướng điều chỉnh cụ thể trong nội dung, phương pháp dạy và học tại các trường. Song để đảm bảo mục tiêu giai đoạn 2008 – 2010 hoàn thành cơ bản công tác này thì những giải pháp hỗ trợ là điều không thể thiếu. Trong số các giải pháp nêu trên, theo cá nhân tôi giải pháp tăng cường cơ chế hợp tác, phối hợp giữa nhà nước, doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo là giải pháp cơ bản và cần được quan tâm trước mắt bởi lẽ người sử dụng sản phẩm của giáo dục không ai khác chính là các doanh nghiệp, và để doanh nghiệp và nhà trường xích lại gần nhau cần có các chính sách khuyến khích cũng như hỗ trợ từ phía nhà nước. Song tôi cũng không khẳng định chỉ với duy nhất giải pháp này sẽ giúp nước ta chuyển đổi thành công nền giáo dục trước đây sang nền giáo dục mới - đào tạo theo nhu cầu xã hội. Không có một vấn đề nào mà chỉ cần một nhân tố lại có thể giải quyết triệt được được vấn đề một cách nhanh chóng và hiệu quả, song nó luôn có một giải pháp cơ bản và một hệ thống các giải pháp hỗ trợ cho nó để giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng và hiệu quả. Sở dĩ tôi cho rằng giải pháp tăng cường cơ chế hợp tác, phối hợp giữa nhà nước, doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo là giải pháp cơ bản và cần được quan tâm trước mắt bởi lẽ trong những năm trước đây với hình thức giáo dục nặng về lý thuyết, xa rời thực tế: thể hiện các trường - không chỉ các trường đại học, cao đẳng mà cả các trường dạy nghề - chỉ quan tâm đến đào tạo những gì mình có, nâng cấp tên gọi các trường nhưng chưa có giải pháp nâng cao trình độ đội ngũ giáo dục, chỉ quan tâm đến báo cáo số lượng lao động được đào tạo, bất kể ngắn hay dài hạn; chương trình đào tạo chưa dựa trên kết quả khảo sát thị trường lao động, chưa phân tích nhu cầu đào tạo và tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp; chưa chú trọng đến ý kiến của các nhà tuyển dụng và doanh nghiệp; chưa tính đến việc những đối tượng được đào tạo có đáp ứng được đòi hỏi của công việc hay không, cả về số lượng và chất lượng. Dẫn đến tình trạng các cơ sở đào tạo nhìn chung không nắm được nhu cầu về số lượng cũng như yêu cầu công việc đối với người lao động trong từng ngành nghề của các doanh nghiệp ra sao. Kết quả là chỉ một số lượng ít sinh viên ra trường có đủ các kỹ năng cần thiết để tham gia vào thị trường lao động mà không cần thiết phải đào tạo thêm còn hầu hết phải đạo tạo lại mới có thể đảm nhận được công việc. Nhiều doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng vốn rất lớn, khá tốn kém, để tái đào tạo người lao động. Và nhiều DN không đủ khả năng để đáp ứng yêu cầu vốn này.  Chính sự chú trọng vào đào tạo lý thuyết mà không có sự tham vấn với các ngành kinh tế là nguyên nhân khiến cho nhiều sinh viên ra trường phải đào tạo lại hoặc đào tạo bổ sung bởi các nhà sử dụng lao động...Điều này khiển cho nhiều doanh nghiệp quay lưng lại các trường bằng cách chọn giải pháp tự mở các cơ sở đào tạo lao động nhằm đáp ứng cho chính nhu cầu của doanh nghiệp. Tuy với giải pháp này, nhiều doanh nghiệp cho rằng chi phí bỏ ra là khá lớn so với tuyển dụng song đối với họ đây không chỉ tạo ra lao động theo đúng nhu cầu mà không cần phải tốn công đào tạo lại mà còn tiết kiệm được khoản chi phí cho tuyển dụng mà kết quả lại không như mong muốn. Do đó nếu như nhà trường không nhanh chóng tự khẳng định mình thông qua chất lượng sinh viên thì các trường rất khó có được sự hợp tác từ phía doanh nghiệp. Đồng thời muốn họ hợp tác thì các trường phải năng động hơn, tiếp xúc, có chính sách phù hợp để doanh nghiệp tham gia vào đào tạo. Các trường phải có bộ phận nghiên cứu về nhu cầu xã hội và giới thiệu chương trình đào tạo với các doanh nghiệp. Thêm một điều nữa các trường cũng cần nhận thấy những lợi ích có được khi liên kết với các doanh nghiệp đó là sinh viên các trường sẽ được tiếp nhận với công nghệ hiện đại cái mà cái trường khó có thể đầu tư được do chi phí quá lớn, ngoài ra nhiều trường còn nhận được nhiều khoản kinh phí lớn do các doanh nghiệp đặt các trường đào tạo một lượng lớn lao động cho họ. Phần kinh phí này giúp các trường nâng cấp cơ sở hạ tầng, sửa đổi giáo trình cho phù với hợp với yêu cầu. Như vậy nhà trường rất cần doanh nghiệp chung tay trong việc đào tạo để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Song các doanh nghiệp cũng rất cần nhà trường trong việc giúp họ có được nguồn lao động lớn, dồi dào cho nhu cầu dài hạn. Với những doanh nghiệp có nhu cầu lao động mỗi năm hoảng vài trăn người hay những khu công nghiệp có nhu cầu vài nghìn lao động một năm ở mọi trình độ thì giải pháp tự xây dựng cơ sở đào tạo là không thể thực hiện được bởi chi phí quá lớn bao gồm xây dựng trường lớp, sắm sửa trang thiết bị, hay thuê địa điểm giáo viên. Khi đó việc tuyển dụng, tiếp nhận sinh viên ra trường vẫn được coi là hiệu quả và kinh tế hơn nhiều. Hiện nay, nhu cầu về nhân lực hàng năm của Hà Nội rất lớn. Trong năm 2007, khảo sát 8,5% số doanh nghiệp cho thấy số lao động tuyển mới là hơn 30.000 người. Ở lĩnh vực tài chính - ngân hàng, số tuyển dụng năm 2007 của Hà Nội tăng gần 200% so với năm 2006. Đối với lĩnh vực du lịch, hầu hết các doanh nghiệp lớn ở Hà Nội không năm nào tuyển đủ chỉ tiêu nhân sự, nhất là các vị trí cao cấp. Theo Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Tài, thành phố cũng đang thiếu trầm trọng nguồn lao động có trình độ chuyên môn ở hầu hết các ngành, do chỉ có 50% lao động mới qua đào tạo. "Đây là một thách thức của thành phố trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển dịch vụ, thương mại, tài chính-ngân hàng, công nghệ thông tin và công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, nông nghiệp chất lượng cao. Kết quả đánh giá các chỉ số nhân lực của Công ty Tư vấn Navigos, quý 2/2007 cho thấy nhu cầu nhân lực kế toán, tài chính ngân hàng của ngành ngân hàng tăng trên 1.300 người, tăng 383%. Xét về tốc độ gia tăng của thị trường, nguồn nhân lực của ngành ngân hàng chiếm tỉ lệ tăng 57%, tiếp theo là kế toán, tài chính (42%)... Với lĩnh vực chứng khoán, hiện cả nước có 74 công ty chứng khoán đang hoạt động và còn nhiều công ty sắp ra đời, các công ty này cần khoảng 1.500 nhân viên, trong khi khả năng cung cấp mới chỉ có trên 300 nhân viên môi giới có chứng chỉ hành nghề. Còn theo báo cáo của Bộ Tài chính, dự kiến đến năm 2010, nhu cầu nguồn nhân lực của các lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, kiểm toán và thẩm định giá khoảng 13.500 người.Trong đó, lĩnh vực chứng khoán là 5.000 người (tốc độ tăng trên 500% so với hiện nay), lĩnh vực bảo hiểm là 3.000 người (tăng khoảng 18%), lĩnh vực kiểm toán là 5.000 người (tăng khoảng 103%), lĩnh vực thẩm định giá là 500 người (tăng khoảng 20%). Theo ông Đặng Đức Dũng, Phó Chủ tịch Hội Doanh nghiệp trẻ Hà Nội, với lộ trình phấn đấu hình thành thêm khoảng 500.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đến năm 2010 cùng với đầu tư nước ngoài tăng đột biến như năm qua... sẽ tiếp tục tạo ra sức ép về nguồn nhân lực trên thị trường, trở thành một thách thức mới cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Thêm một nguyên nhân nữa khiến cho doanh nghiệp cần đến nhà trường đó là khi họ tiến hành đào tạo lao động ở mức độ cao và hoàn chỉnh kỹ năng và tốn khá nhiều chi phí cho công tác này. Song khi đào tạo xong thì một bộ phận không nhỏ người lao động đã chuyên sang làm ở các doanh nghiệp khác có thu nhập cao hơn. Do đó, các doanh nghiệp không bao giờ đầu tư ở mức tối ưu, họ có xu hướng đầu tư vào các kỹ năng nào không chuyển giao được, ít đầu tư vào những kỹ năng và nghiên cứu cơ bản.  Như vậy lượng lao động mà các doanh nghiệp cần trong các ngành nghề đều tăng cao trong những năm tới và theo đó chất lượng lao động cũng tăng theo. Để chuẩn bị tốt đội ngũ lao động cho mình các doanh nghiệp cần chủ động kiên kết với các trường thông qua việc đặt hàng với các trường, tham gia cùng với cơ sở đào tạo trong quá trình xây dựng tiêu chuẩn, kỹ năng nghề, thiết kế chương trình và tham gia giảng dạy, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Nhà trường dạy lý thuyết, doanh nghiệp đào tạo kỹ năng nghề. Các doanh nghiệp có thể hỗ trợ nhà trường gián tiếp bằng cách nhận sinh viên thực tập, có những phản hồi về chất lượng đào tạo để nhà trường có những điều chỉnh tốt hơn cho chương trình. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể cung cấp những thông tin về nhu cầu lao động trên thị trường để các trường cùng nắm và có hướng đào tạo đúng với nhu cầu. Qua những phân tích trên cho thấy để đào tạo được một đội ngũ nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội thì nhà trường rất cần doanh nghiệp và doanh nghiệp cũng rất cần nhà trường. Để hai bên có thể gặp nhau và kiên kết với nhau một cách hiệu quả nhất cần có vai trò của trung gian và đó chính là Nhà nước. Vai trò trung gian gồm có nhiều khía cạnh: - Thứ nhất là về công tác dự báo. Từng doanh nghiệp không thể dự báo được nhu cầu nhân lực của ngành mình và cũng không thể đưa thông tin đó cho các trường ĐH. Và từng trường ĐH cũng không thể dự báo được. Do đó, Nhà nước phải làm việc dự báo nhu cầu nhân lực và đem thông tin chuyển giao cho các trường ĐH. Nếu có rồi, các trường ĐH, CĐ, TCCN mới đào tạo được đúng nhu cầu. Đó là trách nhiệm của Nhà nước. - Thứ hai là tạo điều kiện để 2 bên gặp gỡ nhau. Hiện nay, không có cơ hội để các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo gặp nhau trên diện rộng, có thể trao đổi sâu về từng ngành nghề. Vừa qua, trong năm 2007-2008, Nhà nước đã tổ chức 7 hội thảo về đào tạo nhân lực theo nhu cầu xã hội, đặc biệt là cho 4 ngành: CNTT truyền thông, Đóng tàu, Tài chính ngân hàng và Du lịch. Tại đây, những trường đào tạo quan trọng nhất cả nước về từng lĩnh vực này và các doanh nghiệp tiêu biểu nhất cả nước về từng lĩnh vực này đã ngồi lại để trao đổi và đánh giá nhu cầu sắp tới ra sao và làm thế nào để đáp ứng nhu cầu đó. - Thứ ba là trong quá trình triển khai, các trường cũng cần hỗ trợ có thể theo hai hướng: về tài chính để nhà trường đầu tư thêm về trang thiết bị dạy và học hoặc hỗ trự thông qua việc tiếp nhận sinh viên kiến tập, thực tập. Hay một số trường muốn nâng cấp cơ sở vật chất trang thiết bị cần vốn vay ưu đãi thì Nhà nước cần có chương trình đó. Hoặc là sinh viên muốn được học chương trình có chi phí cao thì Nhà nước phải hỗ trợ để các em có khả năng học được. Như vậy, vai trò của Nhà nước là sử dụng sức mạnh tài chính để phối hợp. - Cuối cùng là, các trường ĐH, các doanh nghiệp đóng ở nhiều địa phương, như vậy để kết nối được việc này không chỉ hoạt động của Chính phủ ở cấp Trung ương mà phải cả ở cấp địa phương. Như vậy Nhà nước thông qua các công cụ tác động của mình bao gồm các chủ trương, chính sách, Nhà nước đã trở thành cầu nối cho nhà trường và doanh nghiệp xích lại gần nhau. Nhà nước đã thành lập cơ quan dự báo nhu cầu nhân lực; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, tham gia cùng với cơ sở đào tạo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực như miễn thuế đã khiến cho mối quan hệ của ba nhà trở thành một vòng tròn phép kín, bổ xung hỗ trợ cho nhau làm cho quá trình đào tạo theo nhu cầu nhanh chóng và hiệu quả. Có thể nói giải pháp này đã bao hàm các giải pháp còn lại, và để thức hiện giải pháp này thành công đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của các giải pháp như đã nói ở phần trên hay nói chính xác đó là cần có sự phối hợp đồng bộ của ba nhà: Nhà nước, doanh nghiệp và nhà trường. Nhà nước xây dựng chính sách hiệu quả, doanh nghiệp sẵn sàng cung cấp thông tin về nhu cầu (chất lượng và số lượng) nhân lực,nhà trường xây dựng chương trình đào tạo phù hợp. Dưới đây tôi xin nêu ra một số kinh nghiệm của các nước trong việc xây dựng và duy trì mối quan hệ giữa ba nhà. Các nước này đều coi đây là một trong các nguyên tắc quan trong giúp thực hiện thành công việc đào tạo theo nhu cầu xã hội. Chính phủ, doanh nghiệp và các trường ĐH ở Singapore hàng năm đều phải ngồi lại với nhau để bàn bạc xem nhu cầu nhân lực của đất nước trong thời gian tới là gì, từng lĩnh vực, từng ngành cần bao nhiều SV tốt nghiệp mỗi năm. Tất cả những con số này đều được đưa ra dựa trên nhu cầu xã hội chứ không phải khả năng đáp ứng của các trường. Hàng năm, Bộ GD, Bộ Nguồn Nhân lực phối hợp với Bộ Thương mại và Công nghiệp tiến hành khảo sát về chất lượng và yêu cầu của nhân lực trên thị trường lao động. Kết quả khảo sát sẽ được gửi về từng trường và các trường sẽ tiến hành thảo luận, nghiên cứu để điều chỉnh chương trình học phù hợp với yêu cầu thay đổi hàng năm. Các trường ĐH cũng có mối quan hệ rất chặt chẽ với công ty, doanh nghiệp bên ngoài. Các doanh nghiệp này đóng góp một phần vốn vào xây dựng chương trình học cho các trường. Còn trường trường ĐH danh tiếng của Pháp - Ecole Polytechnique thì thường xuyên đầu tư cho quan hệ với các doanh nghiệp, trong lĩnh vực nghiên cứu. Tất cả các giáo viên của trường là những nhà nghiên cứu. Các SV không chỉ thụ động học những kỹ thuật mà mọi người đều đã biết và thừa nhận, mà phải tìm tòi, mày mò những gì chưa ai khám phá. Ngược lại, việc các doanh nghiệp giữ quan hệ thường xuyên với trường khiến chúng tôi luôn cập nhật và tìm cách đáp ứng những nhu cầu mà họ chưa được đáp ứng. Ngoài ra họ còn rất chú ý đến việc SV ra trường có việc làm như thế nào. Trường có quan hệ chặt chẽ với bộ phận nhân sự của các doanh nghiệp. Họ sẽ cho chúng tôi biết, SV của trường làm việc thế nào, yếu mặt nào, cần bổ sung kỹ năng gì. Từ đó, điều chỉnh chương trình đào tạo cho phù hợp hơn với nhu cầu của doanh nghiệp. Để làm được việc này, chúng tôi có bộ phận chuyên theo dõi SV ra trường. Họ cũng giữ liên lạc với SV cũ, nhiều người trong số họ nay là sếp doanh nghiệp. Chính họ sẽ nói với chúng tôi nên làm gì, tổ chức hệ thống đào tạo ra sao. Các trung tâm nghiên cứu ký hợp đồng với các doanh nghiệp. Các nhà nghiên cứu biết rõ nhu cầu về sáng chế, phát minh công nghệ của doanh nghiệp. Công việc của các nhà nghiên cứu còn giúp họ điều chỉnh chương trình giảng dạy, vì họ nắm được đâu là lĩnh vực doanh nghiệp cần.Những năm gần đây, họ còn có những chương trình hợp tác đặc biệt với doanh nghiệp: Các doanh nghiệp đưa ra những lời đề nghị ở 1 số lĩnh vực đặc thù và chúng tôi vừa nghiên cứu, vừa giảng dạy về những lĩnh vực ấy. Trên đây là ý kiến của cá nhân tôi, cũng như kinh nghiệm của một số nước trong việc lựa chọn giải pháp tối ưu cho vấn đề đào tạo theo nhu cầu mà tôi cho rằng là rất có ích cho quá trình giáo dục của nước ta. 2. Lộ trình thực hiện từ 2007 đến 2010 - Bộ GD&ĐT phối hợp với các bộ ngành trung ương, đánh giá hiện trạng nguồn nhân lực trong khuôn khổ và khả năng của từng bộ ngành; dự báo nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho các cơ quan doanh nghiệp trong các Bộ, ngành; phát triển tiêu chuẩn nghề nghiệp, xây dựng và đánh giá chương trình đào tạo trong các lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp và giáo dục ĐH; hỗ trợ công tác đào tạo và giới thiệu việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp. - Thành lập cơ quan Dự báo nhu cầu xã hội từ trung ương đến địa phương. Các địa phương có trách nhiệm thành lập mạng lưới hệ thống thông tin, giúp địa phương lập kế hoạch phát triển nguồn nhân lực cho từng giai đoạn. - Cơ sở đào tạo phối hợp với doanh nghiệp, xây dựng mối quan hệ đối tác trong việc xây dựng và kiểm định chương trình đào tạo, tổ chức giảng dạy và bồi dưỡng giáo viên. - Cơ sở đào tạo thành lập các trung tâm dịch vụ hoạt động theo cơ chế thị trường như một doanh nghiệp trong cơ sở đào tạo, giới thiệu việc làm và theo dõi sinh viên sau khi tốt nghiệp. KẾT LUẬN Qua bài phân tích trên chúng ta thấy rõ việc đào tạo theo nhu cầu là rất cần thiết khi mà hình thức đào tạo trước đây đã bộc lộ rõ những yếu điểm của mình - một nền giáo dục nặng về lý thuyết xem nhẹ thực tế dẫn đến hậu quả là phần lớn sinh viên sau khi tốt nghiệp k hông tìm được việc làm nếu có thì đa phần là trái ngành trái nghề và phổ biến là sau khi nhận được việc làm những con người đó đều phải đào tạo lại từ 3 đến 6 tháng thậm trí là hơn một năm mới có thể đảm đương công việc được tuyển dụng. Những hậu quả này sẽ còn lớn hơn nhiều lần khi mà chúng ta vẫn tiếp tục đi theo con đường cũ đặc biệt khi nước ta đã là thành viên chính thức gia nhập WTO. Khi dó nước ta sẽ đón nhận rất nhiều cơ hội mới và những thách thức mới từ môi trường bên trong và bên ngoài, rất nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ đầu tư tại Việt Nam, nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao là rất lớn. Để có thể nắm bắt được cơ hội này thì hình thức đào tạo theo nhu cầu tỏ ra hơn hẳn. Nó giúp tạo ra những con người không chỉ giỏi về lí luận mà còn có chuyên môn sâu trong lĩnh vực mà họ theo học. Song để chuyển hướng từ đào tạo theo cái mình có sang đào tạo theo nhu cầu xã hội không phải là chuyện một sớm một chiều. Nó đòi hỏi phải có những cái bắt tay chặt chẽ của 3 nhà – nhà trường, doanh nghiệp, Nhà nước - để có được những thông tin chính xác, được tiếp cận nhanh chóng với các công nghệ mớI của thị trường. Ngoài ra còn cần có cả một hệ thống các cơ quan dự báo nhu cầu để nhanh chóng nắm bắt những đòi hỏi của xã hội. Bên cạnh đó sự đổi mới trong nếp nghĩ, cách thức học tập và làm việc của thầy và trò cũng rất quan trọng. Nó góp phần không nhỏ vào thành công của đào tạo theo nhu cầu xã hội. Mặc dù đến giai đoạn này, nước ta mới chú trọng đến đào tạo theo nhu cầu là khá muộn trong khi các nước trên thế giới đã tiến hành ngay từ giai đoạn đầu của công cuộc xây dựng đất nước như: Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp … song sẽ không là quá muộn khi chúng ta tập trung mọi nguồn lực tâm trí ở mức độ cao nhất có thể để thực hiện thành công chiến lược này. Với những nỗ lực như hiện nay, chúng ta hoàn toàn có thể hi vọng rằng năm 2008 nước ta cơ bản triển khai đào tạo theo nhu cầu trên phạm vi cả nước và sẽ cho ra đời những sản phẩm tốt nhất, đáp ứng nhu cầu của xã hội ở mức cao nhất có thể. TÀI LIỆU THAM KHẢO I: Tạp chí và luận văn Báo Giáo dục và thời đại số 150 Tạp chí Khoa học giáo dục (2/2007) Tạp chí Khoa học giáo dục (3/2007) Hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại học tại Việt Nam – Hoàng Mạnh Dũng – Luận án tiến sỹ - 2002 Đầu tư ngân sách Nhà nước cho giáo dục đào tạo trong gian đoạn hiện nay ở Việt Nam – Bùi Thị Minh Ngọc – 2003 – Luận án thạc sỹ II: Sách Lê Thị Ái Lâm - Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo kinh nghiệm Đông Á, NXB Khoa học xã hội 2003 N.H Jean - Lao động việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới, NXB Thế giới 2001 Nguyễn Minh Dũng - Bồi dưỡng và đào tạo lại nguồn nhân lực trong điều kiện mới, NXB Hà Nội 1996 Phạm Thanh Nghị, Vũ Hoàng Ngân - Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam một số vấn đề và thực tiễn, NXB Khoa học xã hội 2004 PGS.TS Nguyễn Duy Dũng, TS. Trần Thị Nhung - Phát triển nguồn nhân lực trong các công ty Nhật Bản hiện nay, NXB Khoa học xã hội 2005 PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà, PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền – Giáo trình chính sách kinh tế - xã hội, NXB Khoa học và kỹ thuật 2006 Phan Trọng Báu – Giáo dục Việt Nam thời cận đại – NXB Khoa học xã hội – 1994 Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới. Chủ trương, thực hiện, đánh giá. NXB Chính trị quốc gia – 2002 Đầu tư ngân sách Nhà nước cho giáo dục đào tạo trong gian đoạn hiện nay ở Việt Nam – Bùi Thị Minh Ngọc – 2003 – Luận án thạc sỹ Về vấn đề giáo dục và đào tạo – Phạm Văn Đồng – NXB Chính trị quốc gia - 1999

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10563.doc
Tài liệu liên quan