Chiến lược tự doanh mang tính chủ động: Danh mục đầu tư có liên quan đến nhiều yếu tố tạo lập thị trường. Việc áp dụng chiến lược này, các nhà quản lý kỳ vọng vào sự phát triển về giá trị tương lai hoặc sự phát triển đột biến để lựa chọn ngành, lĩnh vực và các chứng khoán cụ thể. Điều này đòi hỏi phải sử dụng các công cụ phân tích để có thể phát huy tính chủ động, không ngừng chuyển hóa cơ cấu tài sản và đổi mới chứng khoán.
Ngược lại chiến lược tự doanh mang tính thụ động. Đó là thiết lập danh mục đầu tư theo kết cấu chỉ số mà thực chất là sao chép lại một cách thụ động mức lợi nhuận của toàn thị trường mà không kỳ vọng vào loại hình chứng khoán và lĩnh vực kinh tế cụ thể nào. Kết quả phụ thuộc vào diễn biến khách quan của thị trường.
Áp dụng chiến lược tự doanh mang tính hỗn hợp trên cơ sở phối hợp cả 2 chiến lược trên là việc phát huy mang tính chủ động trong việc phân bổ tài sản. Thường xuyên thay đổi cơ cấu chứng khoán trong danh mục tự doanh sao cho đạt hiệu quả nhất. Việc phân bổ tài sản phải dựa trên mục tiêu và chiến lược xác định. Quản lý danh mục đầu tư phải linh hoạt và chủ động.
119 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1558 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội (SHS), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p một số tiêu chí chọn lựa CP căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuân bao gồm :
- Dựa vào thực hiện thu nhập quan trọng hơn thu nhập dự kiến ;
- Lựa chọn những công ty có tốc độ tăng trưởng thu nhập ít nhất 25% ở quý gần nhất
- Lựa chọn công ty có sự gia tăng về tốc độ tăng trưởng thu nhập ở 3 hay 4 quý gần nhất
- Lựa chọn công ty có thu nhập hàng năm tăng trưởng ít nhất 25% so với mỗi năm của 3 năm trước.
›Chỉ tiêu doanh thu :
- Lượng hàng bán là chỉ tiêu quan trọng nhất để đo lường một công ty có sức mạnh hay không và là nhân tố chính của tăng trưởng . Khi chọn lựa cổ phiếu tốt hãy tìm công ty có tốc độ bán hàng mạnh để làm tiền đề cho tăng trưởng thu nhập .
- Một số biểu hiện có thể xem xét khi một công ty gia tăng lượng hàng bán như nhiều khách hàng hơn, khách hàng tăng lượng mua, công ty giới thiệu sản phẩm mới hoặc thâm nhập vào thị trường mới, công ty cải thiện sản phẩm cũ.
-Tiêu chí để xác định công ty có tăng trưởng bán hàng tốt nếu 3 quý gần nhất có sự tăng lượng hàng bán lớn hơn hoặc bằng 25% so với quý gần nhất trước đó .
Cần xem xét kỹ chỉ tiêu doanh thu vì đôi khi lượng hàng bán vẫn ẩn chứa những vấn đề . công ty có thể quá phụ thuộc vào một số khách hàng, phụ thuộc quá nhiều vào một số mặt hàng hay quá phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu .
Cũng cần lưu ý đến việc công ty thêm vào lượng hàng bán được mà thực tế nó chưa xảy ra, hay các đơn đặt hàng mà không được chuyển đi hay chưa thu được tiền bán đã được hạch toán làm gia tăng lượng hàng bán.
›Chỉ tiêu lợi nhuận / Doanh thu :
› Lợi nhuận đánh giá tỷ lệ chuyển doanh thu thành thu nhập . Trên quan điểm của nhà đầu tư, nên tìm những công ty có sự tăng về tỷ lệ lợi nhuận / doanh thu. Con số này càng lớn thì công ty có sự tốt lên về quản lý và có sự tốt lên trong các hoạt động.
Lợi nhuận có thể là đầu mối chủ yếu tìm cổ phiếu để mua và nên so sánh chỉ số này giữa các công ty có ngành nghề tương đồng . Tiêu chí để xác định cho chỉ tiêu này là lợi nhuận trước thuế ít nhất đạt 18% doanh thu. Yêu cầu lợi nhuận sau thuế luôn đạt 10% trở lên.
Tuy nhiên, cũng cần phải xét cả những chỉ tiêu cơ bản khác như tăng truởng thu nhập . Mức tăng về lợi nhuận sẽ ít đi nếu doanh thu giảm , ngoại trừ có sự thay đổi về chiến lược của công ty ( giả sử như khi cắt giảm những dây chuyền sản xuất không hiệu quả )
Ngoải ra một số phương pháp khác mà công ty tham khảo
Các phương pháp lựa chọn cổ phiếu theo số liệu tài chính:
Phương pháp 1 :
- Chỉ số P/E < Hệ số tăng thu nhập bình quân 3 năm
- Ba năm liền có lãi liên tục
- Giá giao dịch hiện tại < Giá cao nhất 52 tuần
Phương pháp 2 :
- Chỉ số P/E < ½ Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận năm hiện tại
- Doanh thu , Thu nhập tăng dần đều
Phương pháp 3 :
- Hệ số tăng trưởng doanh thu , lợi nhuận tăng gấp đôi hệ số tăng giá chỉ số bình quân thị trường ( VN Index , HASTC Index )
- Hệ số nợ thấp hơn so với hệ số nợ bình quân ngành
- Giá bắt đầu vào kỳ bullish .
Phương pháp 4 :
- Chỉ số P/E < Tỷ lệ tăng trưởng EPS ( ước tính )
- Lợi nhuận các quý tăng dần .
- Doanh thu tăng dần .
Phương pháp 5 :
- Chỉ số P/E < Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận năm hiện tại
- Chỉ số sức mạnh tương đối giá ( RS ) ở mức < 20
- Tỷ lệ nợ / Tài sản < 50%
4.THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN CỦA SHS.
Trong năm 2008 thị trường chứng khoán Việt Nam đã phải chịu sự ảnh hưởng khá mạnh mẽ từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.Các mã chứng khoán liên tục rớt giá một cách mạnh mẽ kéo theo sự sụt giảm nghiêm trọng về khối lượng giao dịch trên thị trường.Trong thời điểm này TTCK dường như chỉ hoạt động cầm chừng.Để có được lợi nhuận trong giai đoạn này thì các công ty chứng khoán phải có những chiến lược đúng đắn và SHS đã làm được điều này nó thể hiện ở chỗ là lợi nhuận 6 tháng đầu năm 2008 của SHS đạt trên 16 tỷ đồng.Nhìn lại những số liệu ở bảng trên ta có thể thấy ở những thời điểm khác nhau cuảt thị trường thì SHS đã điều chỉnh mức đầu tư của minh rất phù hợp như: Trong quý I thị trường sa sút mạnhh mẽ các mã chứng khoán giảm giá trầm trọng SHS đã đầu tư một lượng vốn nhỏ lẻ vào các mã chứng khoán có tốc độ giảm nhỏ nhất để có thể giảm thiểu nếu như có rủi ro xảy ra.
Bảng: Danh mục đầu tư năm 2008
TT
CHỈ TIÊU
QUÝ I
QUÝ II
QUÝ III
QUÝ IV
MĐT(triệu)
TL
MĐT(triệu)
TL
MĐT(triệu)
TL
MĐT(triệu)
TL
1
PVC
7,430
0.743
3,210
0.107
2
CII
2,570
0.257
3,640
0.049
3
SJS
15,011
0.111
1,309
0.044
4
SSI
12,255
0.091
5
VCB
14,000
0.104
7,000
0.093
6
ACB
14,500
0.107
900
0.030
7
STB
7,600
0.253
8
IAT
2,000
0.015
5,000
0.067
9
NTL
6,155
0.046
5,005
0.067
10
TC6
4,030
0.054
11
NBC
14,000
0.104
4,760
0.159
12
PVD
15,000
0.111
13
PVS
9,520
0.317
14
VNM
10,000
0.074
2,300
0.031
15
SABECO
12,600
0.093
16
PPC
12,045
0.089
4,725
0.063
17
VSH
7,434
0.055
2,701
0.090
4,744
0.063
18
TBC
9,860
0.131
19
PHR
15,443
0.206
20
HOAMAI
13,253
0.177
TỔNG
10,000
1.000
135,000
1.000
30,000
1.000
75,000
1.000
(Nguồn: phòng phân tích công ty chứng khoán SHS)
Nhưng bước sang quý II với đội ngũ cán bộ đồng đều SHS đã đón đầu được những đợt sóng mới từ thị trường bằng việc gia tăng vốn đầu tư cho các hoạt đông tự doanh vì lúc này thị trường đã có những dấu hiệu khả quan hơn dẫn tới có những cơ hội lớn xuất hiện sẽ dem lại lợi nhuận cho công ty trong hiện tại và cả tương lai.Nên SHS đã đầu tư vào các mã chứng khoán có chất lượng cao hơn và với số lượng lớn hơn như VCB,ACB,SSI,.. với bước đi táo bạo này của mình thì chỉ riêng quý II năm 2008 này thôi đã đem lại cho SHS mức lợi nhuận là trên 14 tỷ đồng để góp phần vào mức lợi nhuận trên 16 tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm của SHS
Sang quý III tình hình kinh tế thề giới chưa có những sự thay đổi rõ rệt nếu không muốn nối là mức độ trầm trọng có thể tăng vì các chính sách của các nước vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn điển hình như nền kinh tế của MỸ thành ra kéo theo sự mất ổn định trên thị trường chứng khoán thế giới nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng.Từ những nhận định đó SHS đã đề ra chủ trương là nếu thị trường có biểu hiện xấu đi thì có thể SHS sẽ bán để chốt lãi và để hạn chế rủi ro điều này thể hiện mức sụt giảm mạnh về mức độ giải ngân chỉ có 30 tỷ so với 135 tỷ đồng vào quý II.Tuy vậy nhưng do đó chỉ là những nhận định chưa rõ ràng cho lăm nên SHS vẫn tham gia vào lĩnh vực tự doanh bằng việc là SHS chỉ mua hay bán những mã chứng khoán có độ thanh khoản cao giá thấp và với số lượng vừa phải,ngoài ra để giảm thiểu rủi ro trong trường hợp này thì SHS đã chọn giải pháp là mua số lượng ít của nhiều loại chứng khoán.
So với các quý khác thì quý IV có vể như dễ thở hơn vì thị trường không nóng quá và cũng không lạnh quá điều này có thể khẳng định rằng thị trường lúc này rất tiềm năng.Do các chính sách của các nước nhằm ổn định nền kinh tế đã dần có hiệu lực,các dấu hiệu tích cực thể hiện sự khả quan của các nền kinh tế trong tương lai gần là khá rõ ràng đã thúc đẩy TTCK quay trở lại đúng con đường mà nó phải đi.Mặc dù TTCK có nhiều tiềm năng trong tương lai nhưng mức độ rủi ro cũng rất lớn khi đó SHS đã chọn giải pháp là hạn chế mức độ giải ngân ở mức vừa phải là 75 tỷ để chờ đợi những thay đổi tích cực hơn nữa từ thị trường.Những mã chứng khoán mà SHS đã mua vào giai đoạn này là những mã được đánh giá ở mức độ trung bình tức là mức độ sinh lời chỉ ở mức trung bình nhưng đổi lại thì mức độ rủi ro lại khá thấp có lẽ đây là sự chuẩn bị để chờ đợi sự thay đổi của thị trường trong năm 2009.
Từ những đánh giá trên ta có thể thấy rằng để có mức lợi nhuận như vậy ngay trong năm đầu tiên hoạt động và ngay trong thời kì thị trường đang xuống dốc như vậy thì SHS đã nghiên cứu kĩ các thời cơ của mình,những lợi thế của mình để có những bước đi phù hợp hơn với sự phát triển của thị trường trong hiện tại.
5. KẾT QUẢ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN THÔNG QUA NGHIỆP VỤ TỰ DOANH
Là một công ty được thành lập sau sự hình thành thị trường chứng khoán việt nam khá lâu,mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về kinh nghiệm thị trường nhưng với sự hậu thuẫn của các cổ đông sáng lập thì SHS đã đạt được những bước thành công ban đầu như vẫn đạt được lợi nhuận cao trong khi thị trường đang ở tình trạng suy giảm trầm trọng với lợi nhuận đạt 37,2 tỷ đồng trong năm đầu tiên.Với tổng số vốn đầu tư là gần 450 tỷ đồng vào đầu năm 2008 SHS đã thể hiện là một công ty có chiến lược đầu tư hợp lý, có tầm nhìn xa về tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam .
Bảng : Số liệu về tình hình thực hiện vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán trong năm 2008
Chỉ tiêu
Cổ phiếu niêm yết
Cổ phiếu chưa niêm yết
Trái phiếu
Quý I
10 tỷ
0
Quý II
100 tỷ
35 tỷ
100 tỷ
Quý III
20 tỷ
10 tỷ
Quý IV
45tỷ
30 tỷ
Từ bảng ta có thể thấy rằng với từng bước biến động của thị trường thì SHS đã có những quyết định đúng đắn vể số vốn đầu tư của mình dành cho các danh mục đầu tư như trong giai đoạn Quý I cổ phiếu Việt Nam đã mất đi bình quân gần 1 nửa giá trị.Chỉ số chứng khoán Việt Nam, VN-Index, đóng cửa phiên cuối cùng của Tháng 3, kết thúc quý 1, ở mức 516,85 điểm, giảm đến 410,17 điểm so với đầu năm.Tính bình quân thì giá trị cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã mất 44,25%, một con số mà ít người ngờ tới.Tình hình này trái ngược hẳn với diễn biến của thị trường cùng thời điểm này năm ngoái. Quý 1 năm 2007 lại chứng kiến sự tăng vọt của giá cổ phiếu với việc chỉ số VN-Index tăng 319,56 điểm, tức 42,5%.Trong quý 1 này, chỉ có đúng cổ phiếu BT6 tăng giá nhẹ với mức tăng 2,5%, còn tất cả các cổ phiếu đều giảm giá và đa số giảm rất mạnh, kể cả các cổ phiếu chào sàn.Khi đó SHS đã đánh giá thị trường là rất xấu và không giải ngân hay nếu có thi cũng chỉ giải ngân cầm chừng và chỉ nhằm vào các loại cổ phiếu của các công ty mạnh,Lúc này mảng tự doanh của SHS nói riêng và hầu hết các công ty chứng khoán khác đều đóng băng và chờ những diễn biến tiếp theo của thị trường
Bước sang quý hai thị trường có những chuyển biến tích cực hơn.Mặc dù từ giữa tháng 4 tới 30-6-2008 thị trường chứng khoán việt nam có giám đi đáng kể.VN-index giảm từ 552,05 điểm xuống còn 399.40 điểm mất 152,65 điểm trong 2,5 tháng 38%.Tuy nhiên khi tổng cục thống kê công bố các chỉ số chính 6 tháng đầu năm 2008,theo đó chỉ số (CPI) đã giảm từ 3,91% trong tháng 5 xuống còn 2,14% trong tháng 6.Sự sụt giảm CPI trong tháng 6 đem tới hi vọng lạm phát sẽ được kiềm chế và nến kinh tế Việt Nam trong 6 tháng cuối năm 2008 sẽ khả quan hơn.Bên cạnh đó 6 tháng đầu năm 2008 GDP đã tăng 6,5 % so với 6 tháng đầu năm 2007.Đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài tăng kỷ lục 31,6 tỷ usd.thâm hụt cán cân thương mại đã được giảm và được kỳ vọng tiếp tục giảm trong thời gian tiếp theo.Thị trường chứng khoán Việt Nam có những chuyển biến tích cực sau khi những chỉ tiêu này được công bố bằng chứng là chỉ số VN-index tăng từ 409,61 điểm lên 4868,53 điểm.Thị trường có những cơ hội lớn do đó ta có thể thấy trong bảng số liệu vốn đầu tư của SHS được giải ngân rất mạnh từ mức giải ngân cầm chừng cho tới mứchay dường như không giải ngân cho tới mức độ giải ngân đạt 70 tỷ dành cho cổ phiếu và 100 tỷ dành cho trái phiếu.Riêng phần vốn dành cho trái phiếu đã đem về cho SHS số tiền lãi là 16 tỷ
Thị trường chứng khoán trong quý 3 được khởi điểm bằng chuỗi lên điểm liên tục tới cuối tháng8 chỉ số VN-Index đã quay lại mức 550 điểm như hồi đầu quý 2,cộng hưởng với kết quả kinh doanh tốt của các doanh nghiệp niêm yết và các dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế vĩ mô.Song thị trường trong tháng 9 lại sụt giảm mạnh trở lại do thời gian này có nhiều biến cố lớn từ khủng hoảng thị trường tài chính thế giới,đặc biệt là nền kinh tế Mỹ,thị trường chứng khoán thế giới sụt giảm nghiêm trọng.Tuy không chịu ảnh hưởng mạnh và trực tiếp từ cuộc khủng hoảng này nhưng tâm lý nhà đầu tư bi ảnh hưởng khá lớn khiến cho thị trường chứng khoán Việt Nam không nằm ngoài xu thế chung đó.Riêng trong quý 3 UBCK đã phải điều chỉnh biên độ từ 2% lên 3% rồi 5%.Việc tăng biên độ giao dịch dương như đã đem lại sức sống cho thị trường,thu hút một lượng lớn các nhà đầu cơ ngăn hạn,khiến thị trường xuất hiện nhiều sóng biên độ lớn hơn,tính thanh khoản của thị trường đã cải thiện rõ rệt.Tông khối lượng giao dịch quý 3 dạt gần 1,8 ty cổ phiếu tương đương với 44,8 nghìn tỷ đồng.Ta đã thấy cả khối lượng giao dịch và giá trị của quý 3 đầu gấp 3 lần quý 2,tuy vậy thì lượng trái phiếu lại giảm mạnh 821 tỷ đồng ,trong khi quý 2 đạt hơn 6.700 tỷ đồng.Mặc dù tinh hình thị trường quý 3 có khả quan hơn nhưng do cuộc khủng hoảng tài chính thế giới nên đã làm cho thị trường dần xấu đi do tâm lý các nhà đầu tư đã bán tháo để chốt lãi và SHS cũng vậy cơ cấu vốn đã chuyển từ 70 tỷ xuống còn 40 tỷ cho đầu tư cổ phiếu và không đầu tư thêm trái phiếu
Thị trường chứng khoán trong quý 4/2008 chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu và diễn biến theo chiều hướng bất lợi, chỉ số VN index và Hastc index sụt giảm mạnh so với thời điểm cuối quý 3/2008 (chỉ số VNIndex giảm 141,08 điểm tương ứng mức giảm 30,8% và Hastc Index giảm 43,38 điểm tương ứng mức giảm 29,2%), điều đó có những tác động và ảnh hưởng rất lớn đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính.Nhưng theo đánh giá của một số chuyên gia thì thị trường lúc này rất tiềm năng nhưng phải tội là có qua nhiều rủi ro nênn nêu co đầu tư hay giải ngân cần phải nghiênn cứu kỹ để có thể chớp thời cơ.SHS đã vận dụng điều đó để đầu tư nên cơ cấu giải ngân đã được thay đổi đó là dành cho cổ phiếu niêm yết là 10 tỷ và cổ phiếu chưa niêm yết là 30 tỷ,đây có lẽ là biện pháp đón đầu thị trường chờ đợi những chuyển biến tích cực của thị trường trong năm 2009
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH TẠI SHS
1.KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Kết Quả Hoạt Động Kinh Doanh Của Công Ty năm 2008:
MỘT SỐ CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH NĂM 2008 CỦA SHS
Chỉ Tiêu Đến 31/12/2008
1.Tài Sản 442.461.606.000
Trong đó:
Tiền(không bao gồm tiền gửi
giao dịch chứng khoán của NĐT) 270.405.508.000
Ủy thác đầu tư ngắn hạn 20.000.000.000
Chứng khoán tự doanh 39.549.969.000
Trong đó:
+Cổ phiếu niêm yết 16.946.520.000
+Cổ phiếu chưa niêm yết 22.603.449.000
Giao dịch chứng khoán kỳ hạn 86.210.000.000
2.Nguồn vốn 442.461.606.000
Trong đó:
Vốn chủ sở hữu 422.263.546.000
Phải trả thuế 10.772.038.000
3.Kết quả kinh doanh
Tổng thu nhập 97.510.477.000
Tổng chi phí 60.043.643.000
Lợi nhuận trước thuế(đã trích
dự phòng chứng khoán niêm yết 4,3 tỷ đồng) 37.466.834.000
Để chuẩn bị cho niêm yết trong năm 2009,SHS đã ký hợp đồng kiểm toán với công ty kiểm toán từ đầu năm 2008.Dự kiến,trước ngày 20/1/2009 thì SHS sẽ có báo cáo tài chính của năm 2008 đã được kiểm toán.Tính tới thời điểm xác định mức lợi nhuận thì một số chi tiêu mà SHS đạt được là rất tốt với lợi nguận trước thuế đạt 37,5 tỷ đồng.Mặc dù lợi nhuận vẫn chưa đạt tới mức kỳ vọng nhưng với diễn biến ngày càng phức tạp của tình hình tài chính trong nước và quốc tế,kết quả này đã giúp cho SHS giảm thiểu sức ép đang đè năng lên nhiều công ty khác cũng như tạo một nền tảng vững mạnh cho kế hoạch phát triển năm 2009.
2. TỒN TẠI:
Hoạt động tự doanh chứng khoán của SHS có một số hạn chê sau :
Thứ nhất: Trong khi đó tổng vốn đầu tư đấy lại phân chia nhỏ lẻ cho các cán bộ tự doanh dưới dạng hạn mức (nghĩa là mỗi cán bộ tự doanh được lắm giữ một lượng tiền nhất định để đầu tư, thường thì khoảng 5-10 tỷ đồng trên một người). Việc phân chia quá nhỏ cho các cán bộ tự doanh sẽ hạn chế đầu tư của mỗi người. Vì mỗi cán bộ tự doanh đều có khả năng và trình độ khác nhau. Có những cán bộ tự doanh có thể cần một lượng vốn lớn hơn để đầu tư sẽ đem lại lợi nhuận cao hơn, trong khi đó có những cán bộ cũng với lượng vốn đầu tư như thế đem lại lợi nhuận thấp hơn. Do đó SHS chưa linh hoạt đối với những cán bộ tự doanh đầu tư tốt mà cung cấp lượng vốn đầu tư cao hơn.
Thứ hai: Do hoạt động đầu tư bị phân tán nên rất khó cho bộ phận kiểm tra, giám sát của công ty.
Thứ ba: Trong hoạt động tự doanh, SHS đã thực hiện đầu tư trên cả thị trường niêm yết và chưa niêm yết đối với cả cổ phiếu phiếu và trái phiếu. Tuy nhiên, hiện nay các hoạt động trên hai thị trường của công ty chỉ mới dừng lại ở mục tiêu chính là kinh doanh và đầu tư chứng khoán để hưởng chênh lệch giá, cổ tức và trái tức. Các hoạt động đầu tư khác như hoạt động tạo lập thị trường, đầu cơ, đầu tư xuống giá…hiện nay công ty vẫn chưa triển khai. Đó là một trong những hạn chế gây khó khăn cho sự phát triển của hoạt động tự doanh ở SHS.
Thứ tư: Thông thường hoạt động tự doanh của các CTCK chiếm tới 70-80% doanh thu của toàn công ty. Với SHS, hoạt động tự doanh trung bình các năm đóng góp gần 65% tổng doanh thu của toàn công ty nhưng vẫn chưa hẳn là lớn so với các CTCK khác,mặc dù biết rằng năm 2008 thị trường đang vật lộn với nhiều khó khăn và thách thức lớn và ghây không ít khó khăn với các công ty chứng khoán
Thứ sáu: Phân tích kĩ thuật được tiến hành bởi 1 cán bộ tự doanh và điều này dẫn đến việc mua bán trên thị trường chứng khoán thường mang tính chủ quan của cán bộ. Và dễ dàng xảy ra sai xót nếu có những biến động bất ngờ từ phía thị trường.
Thứ bảy: Phân tích cơ bản chưa đầy đủ thông tin vì thông thường thông qua báo cáo tài chính của công ty niêm yết thường không phản ánh đầy đủ tình hình hoạt động kinh doanh của công ty mà có khi họ chỉ cung cấp các thông tin tốt còn các thông tin không tốt thì họ không đưa ra.
Thứ tám : Hoạt động tự doanh của SHS gặp một vài khó khăn vì đội ngũ cán bộ tự doanh quá ít, trong khi thị trường có hơn mấy trăm công ty niêm yết và hàng nghìn công ty chưa niêm yết. Do đó với số lượng như thế này thì không đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường. Hơn nữa các cán bộ tự doanh này mới chỉ sử dụng kinh nghiệm, cũng chưa được đào tạo thường xuyên. Do đó là một hạn chế lớn cho SHS.
3. NGUYÊN NHÂN
*Nguyên nhân chủ quan
Quy trình tự doanh của công ty còn nhiều bất cập
Theo quy trình tự doanh của công ty thì hiện nay các cán bộ tự doanh sẽ toàn quyền đưa ra các quyết định đầu tư trong hạn mức của mình và có trách nhiệm báo cáo hàng ngày các giao dịch phát sinh. Trong các trường hợp, các cán bộ tự doanh đưa ra các phương án tự doanh vượt hạn mức cho phép sẽ phải trình bày trước Hội đồng đầu tư, và chỉ khi Hội đồng đầu tư thông qua thì phương án đó mới được thực hiện.
Ngoài ra, khi đưa ra các phương án đầu tư đều phải được thông qua Hội đồng đầu tư phê chuẩn và đồng ý nên có thể làm chậm và mất cơ hội đầu tư, đồng thời không nêu rõ vai trò của Hội đồng đầu tư đối ngoài các phương án vượt mức ủy thác. Trong khi đó trách nhiệm của Giám đốc lại quá lớn, thủ tục báo cáo còn phức tạp, rườm rà. Ngoài ra việc phân chia hạn mức sẽ gây khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát danh muc đầu tư chung của toàn công ty.
Nguồn nhân lực chưa mạnh
Nhân lực là yếu tố tác động đến hầu hết mọi nghiệp vụ hoạt động của CTCK. Mọi hoạt động của CTCK đều cần đến những cán bộ vừa có trình độ về chuyên môn, vừa có sự nhạy bén trong nghề nghiệp và là những người có đạo đức nghề nghiệp.Nhưng cán bộ đầu tư ở SHS còn tương đối ít với sự phát triển ngày càng mạnh của TTCK Việt Nam trong tương lai thì chắc chắn SHS sẽ gặp khó khăn về mặt nhân sự trong hoạt động tự doanh bởi lẽ dù người cán bộ tự doanh có khả năng đến đâu chăng nữa thì sức người cũng có hạn, họ chỉ có thể đảm nhận được một lượng công việc nhất định mà thôi.
Công tác phân tích còn thiếu xót và chưa đầy đủ.
Phân tích cơ bản của công ty vẫn chưa đầy đủ và chính xác phản ánh đúng tình hình hoạt động kinh doanh của công ty đang niêm yết. Bởi vì phần lớn luồng thông tin được tổng hợp từ các báo cáo hàng quý của công ty niêm yết.Do hạn chế khi tiếp cận được với thông tin nội bộ của công ty niêm yết.
* Nguyên nhân khách quan
Môi trường pháp lý
Luật chứng khoán đã được áp dụng năm 2006 và chính thức có hiệu lực vào đầu năm 2007.Tới quý 4 năm 2007 thì ồ ạt nhiều công ty chứng khoán thành lập cũng hoạt động trong nghiệp vụ tự doanh do đó góp phần cạnh tranh gay gắt đối với SHS.
Thị trường chứng khoán Việt Nam không ổn định.
Thị trường chứng khoán trong thời gian qua đặc biệt trong năm 2007 và cuối năm 2008 chứng kiến sự rủi ro và sự bất ổn định nghiêm trọng, do đó hoạt động tự doanh của SHS cũng bị ảnh hưởng và không tránh khỏi những sai xót trong quá trình đầu tư.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN THÔNG QUA NGHIỆP VỤ TỰ DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN SÀI GÒN HÀ NỘI
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
II. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRUỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN SHS.
1. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN TTCK VIỆT NAM .
Mục tiêu phát triển của TTCK Việt Nam trong thời gian tới là:
- Tập trung đẩy mạnh phát triển thị trường cả về quy mô và chất lượng hoạt động để TTCK thật sự đóng vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, phấn đấu đưa tổng giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu niêm yết đạt khoảng 40-50% GDP vào cuối năm 2015.
- Gắn việc phát triển TTCK với thúc đẩy chuyển đổi, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và chuyển doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần.
- Mở rộng phạm vi hoạt động của TTCK có tổ chức, từng bước thu hẹp TTCK tự do nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, các giải pháp trước mắt cũng như lâu dài cần tập trung vào một số nội dung sau:
Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý, thể chế và chính sách: Đẩy mạnh triển khai thực thi Luật Chứng khoán thông qua việc ban hành các văn bản hướng dẫn; xây dựng các văn bản về quản lý phát hành riêng lẻ của công ty đại chúng. Nghiên cứu hoàn chỉnh các chính sách về thuế, phí và lệ phí áp dụng đối với các đối tượng tham gia TTCK. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Bộ Tài chính và NHNN trong việc trao đổi, cung cấp thông tin và giám sát, kiểm soát các rủi ro trên thị trường tiền tệ và TTCK.
Thứ hai, tăng cường số lượng và chất lượng cung- cầu trên TTCK
Về cung chứng khoán: Đẩy nhanh việc thực hiện kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 2006-2010 theo Quyết định 1729/QĐ-TTg ngày 29/12/2006 của Thủ tướng Chính phủ, gắn chào bán cổ phiếu lần đầu của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa với niêm yết trên TTCK theo lộ trình thích hợp. Đẩy mạnh việc huy động vốn thông qua đấu thầu, bảo lãnh phát hành trái phiếu (đặc biệt là trái phiếu đô thị, trái phiếu đầu tư, trái phiếu công trình) và đưa vào giao dịch trên TTCK. Thực hiện bán giảm bớt phần vốn nhà nước trong các doanh nghiệp đã cổ phần hoá mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối.
Về cầu chứng khoán: Xây dựng cơ sở nhà đầu tư, trong đó có nhà đầu tư tổ chức làm nòng cốt đảm bảo tính ổn định cho TTCK; khuyến khích tham gia của các định chế đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư...) vào TTCK. Xây dựng và công bố lộ trình hội nhập để nhà đầu tư nước ngoài chủ động tham gia TTCK phù hợp với luật pháp Việt Nam và các cam kết WTO.
Thứ ba, tái cấu trúc TTCK: Xây dựng Đề án chuyển đổi các TTGDCK Hà Nội, TTLKCK sang mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn theo quy định của Luật Chứng khoán. Đẩy nhanh tiến độ nâng cấp hệ thống giao dịch để có thể tổ chức giao dịch từ xa đối với Sở GDCK và TTGDCK. Triển khai xây dựng thị trường trái phiếu chuyên biệt tại TTGDCK Hà Nội. Triển khai xây dựng hệ thống giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm yết theo hướng thị trường OTC tại TTGDCK Hà Nội.
Thứ tư, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức trung gian: Nâng cao năng lực của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ theo tiêu chí mới (quy mô vốn; quản trị công ty; nhân lực; công nghệ; mạng lưới dịch vụ) để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn phát triển mới.
Thứ năm, nâng cao năng lực giám sát thị trường: Hoàn thiện bộ máy tổ chức, hoạt động của UBCKNN theo qui định của Luật Chứng khoán, Quyết định 63/2007/QĐ-TTg ngày 10/5/2007 về tổ chức bộ máy của UBCKNN và đặc biệt là năng lực giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi. Tăng cường giám sát hoạt động của các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán; hoạt động giao dịch chứng khoán; thực hiện chế độ công bố thông tin trên TTCK; nâng cao tính minh bạch của thị truờng chứng khoán.
Thứ sáu, công tác công bố thông tin và tuyên truyền: Tiếp tục thực hiện công tác tuyên truyền, phổ cập kiến thức về TTCK đặc biệt là các doanh nghiệp, công chúng đầu tư. Thực hiện cải cách toàn diện hệ thống đào tạo về nội dung giáo trình, giảng viên, chế độ thi cử, sát hạch.
Thứ bảy, chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán: Phối hợp với các thị trường trong khu vực và quốc tế thúc đẩy việc chào bán và niêm yết cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam trên TTCK nước ngoài. Thực hiện các giải pháp tăng cường hiệu quả của các tổ chức kinh doanh chứng khoán đảm bảo thực hiện cam kết WTO.
(Nguồn : Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 10/2007)
2. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG THỜI GIAN TỚI.
Năm 2009 thực sự vẫn là một năm đầy thách thức cho các Doanh Nghiệp nói chung và các Công Ty Chứng Khoán nói riêng.SHS đã xây dựng những bước đi cụ thể nhằm vượt qua giai đoạn đầy thách thức này.trong năm 2009,SHS vẫn tiếp tục chính sách đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực,tìm kiếm và tuyển dụng người tài cho mảng kinh doanh chủ lực như mô giới,phân tích và đầu tư.Thực hiện chiến lược đầu tư dài hạn,với nguồn vốn tiền mặt hiện có,SHS có thể giải ngân khoảng 100 tỷ đồng cho cổ phiếu,50 tỷ đồng cho đầu tư góp vốn cho các dự án,150 tỷ đồng cho các công cụ nợ.Tiếp tục triển khai hệ thống mạng lưới theo hệ thống mạng lưới của SHB,của hai tập đoàn TKV và VRG…
SHS duy trì mục tiêu phát triển thành tập đoàn tài chính hàng đầu Việt nam, hoạt động theo mô hình Ngân hàng đầu tư . Để thực hiện được mục tiêu này, SHS đã xây dựng và đang thực hiện các chiến lược phát triển cụ thể bao gồm:
Định hướng hoạt động tự doanh.
Trong thời gian tới SHS tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tự doanh thông qua các kế hoạch cụ thể như sau:
Vốn đầu tư thực hiện: Bằng 45% đến 65% vốn điều lệ của Công ty.
Phân chia vốn đầu tư:
* Giai đoạn: 2008 – 2009:
45% Vốn đầu tư vào cổ phiếu niêm yết trên thị trường.
65% vốn đầu tư vào cổ phiếu chưa niêm yết thông qua phương thức đấu giá do CPH hoặc phát hành thêm; hoặc mua qua các đợt phân phối riêng lẻ.
* Giai đoạn: 2009 – 2010:
Tỷ lệ phân bổ vốn sẽ là 50 – 50
Lý do trong giai đoạn này công ty quyết định phân bổ vốn theo tỷ lệ 50% vào thị trường niêm yết, 50% vào thị trường chưa niêm yết là vì các công ty trên thị trường chưa niêm yết thực hiện lộ trình niêm yết trong giai đoạn này. Do đó khi SHS đã đạt được mức lợi nhuận kỳ vọng trên thị trường thì bán bớt số cổ phần đó đi để hiện thực hóa lợi nhuận và tập trung vốn cho thị trường chưa niêm yết.
* Quan điểm và định hướng đầu tư
- Chỉ đầu tư vào các doanh nghiệp có tỷ lệ ROE cao hơn so với trung bình ngành và thị trường;
- Chỉ đầu tư ở mức giá hợp lý, dù đó là doanh nghiệp rất hấp dẫn;
- Không quá đa dạng hóa danh mục;
- Chỉ chấp nhận mức độ rủi ro ở mức độ trung bình.
- Ưu tiên hoạt động đầu tư thông qua đấu giá khi CPH doanh nghiệp hoặc phát hành thêm;
- Ưu tiên cho danh mục đầu tư dài hạn;
- Chỉ đầu tư vào các doanh nghiệp tốt thuộc nhóm ngành đang tăng trưởng hoặc có lợi thế;
Trong thời gian tới khi SHS lớn mạnh và đủ tiềm lực tài chính thì thực hiện mua bán lại các công ty nhỏ, làm ăn tốt, có tiềm năng phát triển lớn trong tương lai.
* Yêu cầu về hiệu quả đối với hoạt động đầu tư cổ phiếu
Xây dựng được một danh mục đầu tư chuẩn và hợp lý tương ứng với mức vốn đầu tư và tình hình thị trường
Mức lợi nhuận trên vốn đầu tư đạt mức 22% trở lên
* Yêu cầu về nhân sự cho bộ phận đầu tư cổ phiếu
Có kế hoạch đào tạo cho đội ngũ tự doanh hàng năm để nâng cao trình độ, cập nhật những kiến thức, phần mềm mới nhất để phục vụ cho hoạt động tự doanh.
Số lượng nhân viên tự doanh sẽ được điều chỉnh cho phù hợp trong từng thời kỳ nhưng nhất thiết phải xây dựng được bộ máy ổn định bao gồm Trưởng phòng và các chuyên viên chính cho từng mảng công việc và bộ máy này được xây dựng cho chiến lược dài hạn và có kế hoạch tuyển dụng và đào tạo chuyên sâu theo yêu cầu công việc được giao.
Có đội ngũ nhân viên tự doanh có trình độ và kinh nghiệm, được đào tạo bài bản và chuyên sâu về kiến thức đầu tư chứng khoán đặc biệt là kiến thức về Tài chính và Quản trị Tài chính doanh nghiệp, kiến thức và kinh nghiệm về xác định giá trị tài sản.
Chiến lược tổ chức: xây dựng các bộ phận tư vấn doanh nghiệp, tư vấn đầu tư, môi giới chứng khoán mạnh và độc lập trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc “bức tường lửa” giữa các bộ phận. Ngoài ra SHS tiếp tục mở rộng thêm mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch nhằm cung cấp thêm nhiều địa điểm giao dịch tiện lợi cho khách hàng.
Chiến lược phát triển sản phẩm, dịch vụ: Các dịch vụ thu xếp vốn, bảo lãnh phát hành cho doanh nghiệp, quản lý tài sản và tư vấn đầu tư cho các tổ chức và cá nhân là các dịch vụ đang và sẽ được tập trung nguồn lực phát triển trong giai đoạn sắp tới bên cạnh các dịch vụ truyền thống như Môi giới chứng khoán.
Chiến lược khách hàng: SHS phát triển khách hàng theo hướng chọn lựa và giới hạn số lượng khách hàng nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ tốt nhất cho cả doanh nghiệp và nhà đầu tư. SHS sẽ tập trung cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp trong một số lĩnh vực giới hạn bao gồm năng lượng, giao thông vận tải, viễn thông và vật liệu xây dựng, chế biến xuất khẩu thủy sản, bất động sản.... SHS chủ trương xây dựng mạng lưới khách hàng ổn định là các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân SHS tiêu chí đầu tư rõ ràng, dài hạn
Chiến lược đầu tư: SHS chủ trương lựa chọn các doanh nghiệp ổn định, phát triển bền vững, không đầu tư chạy theo các xu thế ngắn hạn của thị trường. Cùng với các đối tác và khách hàng, SHS sẽ tập trung nguồn lực để có thể đầu tư đủ lớn, trực tiếp tham gia giám sát và hỗ trợ doanh nghiệp nhằm tạo dựng giá trị gia tăng và tối đa hóa lợi nhuận cho công ty cũng như nhà đầu tư.
Chiến lược nhân sự: SHS xác định việc phát triển nguồn lực là yếu tố cơ bản đảm bảo sự thành công cho công ty trong tương lai. SHS phát triển chiến lược nhân sự năng động nhằm thu hút được những cá nhân xuất sắc tham gia và gắn bó lâu dài với công ty. Nội dung cơ bản của chiến lược nhân sự bao gồm việc tuyển dụng đa kênh nhằm tìm kiếm những cá nhân có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt, trọng dụng và mạnh dạn phân quyền cho các cá nhân được tuyển dụng và duy trì chính sách đãi ngộ thích hợp nhằm khuyến khích và giữ chân các cán bộ có năng lực. SHS luôn đánh giá cao khả năng hợp tác của các thành viên trong công ty tạo sức mạnh cho toàn công ty.. Đây là một trong các chiến lược nhân sự căn bản để giữ cho SHS luôn là một khối đoàn kết, hiệu quả.
Chiến lược công nghệ: SHS hiện đã chọn nhà thầu có kinh nghiệm để phát triển hệ thống công nghệ thông tin đồng bộ theo chuẩn quốc tế, đảm bảo cung cấp các công cụ hữu hiệu cho các hoạt động giao dịch – bao gồm giao dịch trực tuyến, phần mềm quản lý tài sản, quản lý rủi ro, v.v…
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN THÔNG QUA NGHIỆP VỤ TỰ DOANH TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN SHS.
1. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỰ DOANH TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN SHS.
1.1 HOÀN THIỆN QUY TRÌNH TỰ DOANH.
Hoạt động tự doanh đã đóng góp rất lớn vào doanh thu của SHS trong mấy năm gần đây. Do đó việc hoàn thiện quy trình tự doanh sẽ giúp cho hoạt động này trở nên tối ưu và chuyên nghiệp hơn do đó cần chú ý những điểm sau:
- Quy định rõ công việc của từng cán bộ tự doanh trong đó có sự phân công cán bộ tự doanh chuyên phụ trách về thị trường niêm yết, đăng ký giao dịch và cán bộ chuyên phụ trách về thị trường chưa niêm yết. Khi đó sẽ tiến hành phân công cán bộ tự doanh quản lý danh mục đầu tư theo ngành trên cả 2 loại thị trường. Mối cán bộ tự doanh sẽ chịu trách nhiệm tập trung quản lý đầu tư trên một số ngành nhất định thay vì đầu tư dàn trải như hiện nay.
- Mặt khác, hàng tháng, quý Hội đồng đầu tư cần thẩm định các kết quả phân tích ngành của bộ phận phân tích, sau đó kết hợp với chiến lược phát triển của Công ty để tham mưu cho Ban lãnh đạo công ty những phương án đầu tư trung và dài hạn thích hợp. Bên cạnh đó, Hội đồng đầu tư cũng nên thường xuyên kết hợp với Giám đốc công ty thẩm định các kết quả đầu tư của phòng tự doanh nói chung và của từng cán bộ tự doanh. Như thế sẽ giảm bớy được gánh nặng cho Giám đốc công ty và Hội đồng đầu tư sẽ nâng cao được vai trò của mình.
Bước 1: Phân tích thị trường và các yếu tố vĩ mô.
Bước này là bước phân tích tình hình kinh tế, môi trường chính trị, luật pháp, quan điểm của chính phủ về thị trường chứng khoán như việc chính phủ khuyến khích hay hạn chế sự phát triển của thị trường chứng khoán. Để qua đó giúp công ty kết hợp xác định mục tiêu đầu tư.
Bước 2: Xác định mục tiêu đầu tư.
Trong bước này ngoài xác định mục tiêu đầu tư theo quan điểm chủ quan của công ty thì cần kết hợp xem xét mục tiêu này có phù hợp với chính sách của chính phủ về sự phát triển của thị trường chứng khoán hay không, có phù hợp với xu thế của thị trường hay không.
Bước 3: Phân tích ngành và từ đó lựa chọn ngành tiềm năng.
Sau khi xác định mục tiêu đầu tư. Bước 3 là bước xem xét ngành nào mà có khả năng đầu tư mà thỏa mãn được mục tiêu đầu tư. Thường thì mục tiêu đầu tư là tối đa hóa lợi nhuận. Do đó công ty phải phân tích được ngành có tốc độ tăng trưởng tốt ( trên 30%/ năm), có khả năng sinh lời cao. Sau đó là lựa chọn cổ phiếu trong ngành này.
Bước 4: Phân bổ hạn mức ngành cho cán bộ tự doanh.
Trong bước này thì việc phân bổ theo mục tiêu chung mà công ty đề ra, đó là phân bổ tỷ trọng lớn vốn đầu tư có tốc độ tăng trưởng cao.
Bước 5 : Cán bộ tự doanh thực hiện giao dịch.
Đây là bước cán bộ tự doanh trực tiếp giao dịch (trading) mua, bán chứng khoán trên thị trường niêm yết. Và cán bộ tự doanh phải sử dụng tài khoản của công ty chứng khoán và khách hàng ở đây lấy tên là tên công ty chứng khoán.
Bước 6 : Báo cáo kết quả định kỳ.
Thông thường thì hết một ngày, một tuần, một tháng, một quý… thì cán bộ tự doanh phải báo cáo tình hình danh mục đầu tư và kết quả đầu tư cho trưởng phòng tự doanh.
Bước 7: Trưởng phòng tự doanh đánh giá kết quả đầu tư của cán bộ tự doanh. Sau đó nhận xét, đề xuất phương án tốt cho cán bộ tự doanh. Sau đó trưởng phòng tự doanh phải gửi kết quả về tình hình đầu tư cho giám đốc.
1.2 NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ TỰ DOANH.
Hoạt động tự doanh có thành công hay không là phụ thuộc phần lớn vào yếu tố con người. Do vậy việc thu hút nhân tài đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển hoạt động tự doanh của công ty SHS. Vì vậy một số nội dung cấn thiết trong hoạt động nâng cao số lượng cũng như chất lượng của cán bộ tự doanh như sau:
Phối hợp với các trung tâm đào tạo như UBCKNN mở lớp huấn luyện nâng cao trình độ cho nhân viên công ty.
Cử cán bộ đi học các khóa đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn ở trong và ngoài nước.
Tăng cường chính sách khuyến khích lao động và phong trào nghiên cứu khoa học, khuyến khích ý tưởng sáng tạo của mỗi nhân viên để phục vụ cho hoạt động tự doanh và hoạt động của công ty nói chung.
Tuyển dụng thêm các cán bộ có khả năng trình độ và kinh nghiệm phù hợp với công việc của hoạt động tự doanh.
Tạo không khí làm việc chuyên nghiệp, thân thiện và thoải mái để các nhân viên cảm thấy công ty như một gia đình thứ hai của mình, có như vậy họ mới làm việc hết mình vì lợi ích và sự phát triển của công ty.
Linh hoạt động trong việc thuyên chuyển, điều động nhân viên phù hợp với khả năng của từng người để họ phát huy được thế mạnh của mình.
1.3 HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ PHÂN TÍCH.
Hoạt động nghiên cứu và phân tích chứng khoán là một hoạt động quan trọng trong công ty chứng khoán. Thông qua việc phân tích sẽ giúp tìm hiểu rõ được các doanh nghiệp mà SHS đã, đang và sẽ tiến hành đầu tư trong tương lai.
Vì vậy rất cần thiết phải thành lập một tiểu ban phân tích trực thuộc phòng tự doanh hoặc và có thể thành lập phong phân tích riêng của công ty. Nhiệm vụ chính của bộ phận phân tích là đưa ra các phân tích, dự báo nhằm tham mưu cho Ban lãnh đạo và tạo ra các cơ sở tham chiếu cho những phòng ban khác của công ty. Nội dung phân tích chính thường gồm những nội dung phân tích thị trường, phân tích ngành và phân tích công ty. Đây chính là phân tích cơ bản.
Phân tích thị trường: TTCK cũng chịu tác động của các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế thị trường như tổng sản phẩm quốc dân, tỷ giá, lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất thị trường, hệ thống pháp luật…Khi đã có được những phân tích tổng quan về thị trường, Hội đồng đầu tư sẽ xem xét lại để nhằm xác định được quy mô vốn đầu tư thích hợp vào cổ phiếu, trái phiếu. Công việc này đòi hỏi bộ phận phân tích phải thường xuyên theo dõi và cập nhật tình hình phát triển kinh tế của đất nước, các chính sách về tài chính tiền tệ, đặc biệt là các chính sách liên quan đến thị trường chứng khoán để tù đó đưa ra các nhận xét và dự đoán chính xác nhất.
Phân tích ngành: Phân tích ngành tác động rất lớn không chỉ đối với hoạt động tự doanh chứng khoán mà với hầu hết các hoạt động đầu tư tài chính. Thông qua đó để những người đầu tư xác định được tỷ suất lợi nhuận ngành, theo dõi sự tăng trưởng cũng như rủi ro mà các ngành gặp phải để từ đó đưa ra các phương án đầu tư vào ngành nào để thu được lợi nhuận cao hơn. Hiện nay các nhà đầu tư hay các CTCK chỉ có thể đưa ra các dự báo chung nhất về những khó khăn thách thức, những cơ hội và sự tăng trưởng của các ngành do số liệu còn chưa đầy đủ và thiếu chính xác. Kết quả phân tích ngành sẽ là cơ sở để Hội đồng đầu tư lựa chọn những ngành ưu tiên đầu tư phù hợp với chiến lược phát triển và mục tiêu hoạt động của công ty.
Phân tích công ty: Đây là bước cuối cùng sau khi đã tiến hành phân tích thị trường và phân tích ngành để lựa chọn danh mục đầu tư trong tự doanh chứng khoán. Phân tích công ty giúp ta tìm ra những công ty tốt nhất trong các ngành có tiềm năng và tìm được những cổ phiếu của công ty đang bị đánh giá dưới giá trị. Việc phân tích công ty có thể rất khó bởi khả năng tiếp cận thông tin từ bên trong là rất khó. Do vậy công việc này đòi hỏi phòng phân tích phải tích cực, chủ động liên hệ trực tiếp với công ty phát hành chứng khóan, thông qua các mối quan hệ…làm sao có thể tiếp cận được nguồn thông tin từ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp để có cái nhìn chính xác nhật về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Định giá chứng khoán: Nhóm phân tích cơ bản này cũng làm thêm nhiệm vụ định giá cổ phiếu, để tính xem giá trị thực của cổ phiếu là bao nhiêu, cũng là một căn cứ quan trọng để tiến hành đầu tư. Vì phương pháp đầu tư của SHS ở đây vừa mang tính ngắn hạn và vừa mang tính dài hạn. Do đó việc định giá chứng khoán là rất quan trọng.
Đối với phân tích kĩ thuật cũng cần phải có một nhóm cán bộ nằm ngay trong phòng tự doanh bởi vì phân tích kĩ thuật cho biết mua chứng khoán thời điểm nào và bán chứng khoán thời điểm nào. Và đối với phân tích kĩ thuật cần chú ý các điểm sau:
+ Không nên chỉ sử dụng một đường giá chứng khoán để phân tích xu hướng giá. Vì nó không thể phản ánh được chính xác.
+ Nên kết hợp sử dụng các đường giá chứng khoán với các đường MACD, đường RSI, dải Bollinger. Bởi gì mỗi đường sẽ cho ta những kết quả khác nhau về xu hướng thị trường, mức độ biến động nhanh hay chậm của thị trường. Do đó nếu kết hợp được tất cả các đường này tốt thì sẽ nâng cao được hiệu quả đầu tư và thực hiện được đúng chiến lược mua đáy và bán đỉnh.
+ Trong phân tích kĩ thuật nên chú ý đến yếu tố tâm lý, hành vi của nhà đầu tư. Bởi vì thực tế đã chứng minh về tâm lý đầu tư của thị trường chứng khoán Việt Nam là hành vi đầu tư bầy đàn, cùng mua, cùng bán.
Như vậy kết hợp hai nhóm làm công tác phân tích cơ bản cổ phiếu, định giá cổ phiếu và phân tích kĩ thuật sẽ phục vụ trực tiếp cho cán bộ tự doanh. Các kết quả phân tích sẽ hỗ trợ cho các cán bộ tự doanh trong việc đưa ra quyết định đầu tư. Do vậy, khi có một quy trình phân tích chặt chẽ kết hợp với sự phân bổ dân sự một cách hợp lý sẽ tạo điều kiện để các cán bộ tự doanh hoàn thành tốt trách nhiệm của mình.
1.4.XÂY DỰNG DANH MỤC ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN PHÙ HỢP.
Danh mục đầu tư chứng khoán rất đa dạng. Tuy nhiên để một danh mục đầu tư cho tỷ suất lợi nhuận cao nhất thì phải xây dựng danh mục đầu tư phù hợp với diễn biến và xu thế thị trường. Các bước cụ thể như sau:
Bước 1: Xác định quan điểm đầu tư là chủ động hay thụ động. Khi bắt tay vào xây dựng danh mục đầu tư, điều quan trọng trước tiên là phải xác định là thuộc loại nào, chủ động hay thụ động. Đây là việc làm quan trọng quyết định đến cách thức đầu tư. Nếu là chủ động thì phải luôn luôn bỏ thời gian và công sức để quản lý danh mục đầu tư và ngược lại.
Bước 2: Quyết định cơ cấu danh mục đầu tư. Có những quan điểm rất khác nhau, có công ty thì thích đầu tư nhiều vào cổ phiếu, cũng có công ty thích đầu tư nhiều vào trái phiếu, có công ty thì đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu theo một tỷ lệ nhất định.
Bước 3: Đa dạng hóa danh mục đầu tư. Đa dạng hóa tổ chức phát hành.Nêu danh mục toàn trái phiếu chính phủ thì không phai đa dạng hóa để giảm rủi ro vì trái phiếu chính phủ rất it khi có rủi ro. Còn nếu mua trái phiếu công ty, trái phiếu địa phương, cổ phiêu thì phải đa dạng hóa chủ thể phát hành vì loại chứng khoán này luôn luôn tiềm tàng rủi ro nhất định.
1.5. ĐA DẠNG HOÁ DANH MỤC ĐẦU TƯ VÀ PHƯƠNG ÁN ĐẦU TƯ
Hoạt động đầu tư tự doanh chứng khoán là một hoạt động khá rủi ro do đó đòi hỏi cán bộ tự doanh phải biết đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình để hạn chế rủi ro chứng khoán.
Ví dụ như ngoài đầu tư vào cổ phiếu thì tích cực đầu tư vào trái phiếu, trái phiếu là một loại chứng khoán có mức rủi ro khá thấp, đặc biệt là trái phiếu chính phủ. Hiện nay thì mức lãi suất của trái phiếu chính phủ khá hấp dẫn.
Ngoài ra trong tương lai khi luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn đã hoàn thiện thì có thể đầu tư vào các công cụ phái sinh. Danh mục đầu tư vế sau: có thể còn bao gồm :
+ Phát hành quyền chọn mua
+ Mua quyền chọn bán trên cùng một chứng khoán trong danh mục.
+ Sử dụng quyền chọn chỉ số.
+ Sử dụng hợp đồng tương lai chỉ số.
Chiến lược tự doanh mang tính chủ động: Danh mục đầu tư có liên quan đến nhiều yếu tố tạo lập thị trường. Việc áp dụng chiến lược này, các nhà quản lý kỳ vọng vào sự phát triển về giá trị tương lai hoặc sự phát triển đột biến để lựa chọn ngành, lĩnh vực và các chứng khoán cụ thể. Điều này đòi hỏi phải sử dụng các công cụ phân tích để có thể phát huy tính chủ động, không ngừng chuyển hóa cơ cấu tài sản và đổi mới chứng khoán.
Ngược lại chiến lược tự doanh mang tính thụ động. Đó là thiết lập danh mục đầu tư theo kết cấu chỉ số mà thực chất là sao chép lại một cách thụ động mức lợi nhuận của toàn thị trường mà không kỳ vọng vào loại hình chứng khoán và lĩnh vực kinh tế cụ thể nào. Kết quả phụ thuộc vào diễn biến khách quan của thị trường.
Áp dụng chiến lược tự doanh mang tính hỗn hợp trên cơ sở phối hợp cả 2 chiến lược trên là việc phát huy mang tính chủ động trong việc phân bổ tài sản. Thường xuyên thay đổi cơ cấu chứng khoán trong danh mục tự doanh sao cho đạt hiệu quả nhất. Việc phân bổ tài sản phải dựa trên mục tiêu và chiến lược xác định. Quản lý danh mục đầu tư phải linh hoạt và chủ động.
1.6 TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC KIỂM TRA KIỂM SOÁT
Để đảm bảo các quy chế, quy trình đầu tư được tuân thủ đúng đắn và đầy đủ, Công ty cần có kế hoạch tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với nghiệp vụ này. Việc kiểm tra tập chung vào các công việc sau:
- Kiểm soát các khâu và phát hiện ra những hiện tượng bất thường trước, trong và sau quá trình thực hiện nghiệp vụ: kiểm tra các chứng khoán từ, hồ sơ, rà soát tính hợp pháp, hợp lệ của nghiệp vụ…
- Thành viên ban kiểm tra, kiểm soát phải Là người có kinh nghiệm, nắm rõ tường tận quy chế, quy trình đầu tư, có óc quan sát tinh tế…
1.7.MỞ RỘNG NGUỒN VỐN CHO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ THEO NGHIỆP VỤ TỰ DOANH
Hiện tại nguồn vốn SHS dành cho hoạt động động đầu tư còn nhỏ so với quy mô vốn hoá của thị trường do vậy trước mắt để mở rộng nguồn vốn đầu tư cho hoạt động động này SHS có thể kết chuyển một phần nguồn vốn đầu tư trái phiếu.
Vì khi thị trường tăng trưởng thì việc đầu tư vào trái phiếu sẽ không hiệu quả bằng việc đầu tư vào cổ phiếu. Đầu tư vào cổ phiếu cho một tỷ suất lợi nhuận cao hơn rất nhiều.
Ngoài những nguồn vốn hiện tại, SHS có thể mở rộng nguồn vốn đầu tư qua các kênh khác trên thị trường tài chính, đặc biệt phương án niêm yết cổ phiếu ở thị trường chứng khoán của nước ngoài như thị trường chứng khoán LonDon, thị trường chứng khoán của Mỹ…
1.8 HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH.
Xây dựng quy trình quản lý rủi ro như sau:
Bước 1: Nhận dạng rủi ro.
Đây là bước đầu tiên nhằm tìm hiểu cặn kẽ về bản chất của rủi ro. Cách đơn giản và trực tiếp nhất là liệt kê từng nhân tố và các biến cố có thể gây ra rủi ro.
Cách làm rõ bản chất của rủi ro là:
- Thứ nhất: Nhận dạng những tác nhân kinh tế có thể gây ra rủi ro, ví dụ yếu tố lãi suất, lạm phát, tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế…
- Thứ hai: Tìm hiểu xem chiều hướng có thể gây ra rủi ro, ví dụ như Ngân hàng Trung ương tăng lãi suất sẽ tác động đến giá chứng khoán.
- Thứ ba: Kiểm tra lại xem biểu hiện rủi ro đang phân tích có phụ thuộc vào biến cố nào khác hay không, như công ty có biểu hiện rủi ro trong trường hợp không được tín nhiệm của khách hàng…
Bước 2: Ước tính, định lượng rủi ro.
Bước này sẽ đo lường mức độ phản ứng của công ty đối với các nguồn gốc rủi ro đã xác định ở trên. Cụ thể, dùng một phương pháp giả định nếu có nhân tố rủi ro thì công ty được và mất gì.
Bước 3: Đánh giá tác động của rủi ro.
Để đánh giá rủi ro người ta thường làm bài toán chi phí và lợi tức. Đôi khi, việc quản lý rủi ro tiêu tốn nhiều nguồn lực của công ty như tiền bạc và thời gian, do đó cần phải cân nhắc xem liệu việc quản lý rủi ro như vậy có thực sự đem lại lợi ích lớn hơn chi phí bỏ ra để thực hiện nó hay không.
Bước 4: Đánh giá năng lực của người thực hiện chương trình bảo hiểm rủi ro.
Bước 5: Lựa chọn công cụ và quản lý rủi ro thích hợp.
Đây là bước mấu chốt cuối cùng trong việc xây dựng chiến lược quản lý rủi ro. Trong bước này nhà quản lý phải chọn một giải pháp cụ thể. Chẳng hạn, đối với các công cụ trên thị trường hối đoái, người ta có thể sử dụng hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn…làm công cụ chống rủi ro.Cụ thể quản lý rủi ro của công ty SHS cần phải thực hiện đối với danh mục đầu tư của mình như sau:
Các tín hiệu bán chứng khoán nhằm quản lý rủi ro:
+ Bán chứng khoán ngay khi có tín hiệu không tốt về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính xấu đi của tổ chức phát hành.
+ Nghiên cứu bán cổ phiếu khi có tốc độ tăng lợi nhuận của công ty đó chậm lại.
+ Thị phần của công ty đó giảm 2 năm liên tiếp.
+ Công ty đó không nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới.
+ Bán khi có dấu hiệu của thị trường giảm giá.
+ Bán chứng khoán khi thị trường thay đổi xu hướng với khối lượng giao dịch tăng và các cổ phiếu hàng đầu giảm giá vơi khối lượng giao dịch lớn.
2.KIẾN NGHỊ VỚI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN SHS VỀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN THÔNG QUA NGHIỆP VỤ TỰ DOANH.
Thứ nhất: Nên kết hợp chặt chẽ giữa bộ phận tư vấn đầu tư ( chuyên nghiên cứu phân tích cơ bản về công ty niêm yết, công ty chưa niêm yết ) với phòng tự doanh để đưa ra danh mục đầu tư tối ưu để đạt được hiệu quả cao nhất.
Thứ hai: Hoạt động phân tích chứng khoán cần được đẩy mạnh nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa. Do thị trường chứng khoán phát triển nên rất nhiều tổ chức chuyên nghiệp nên cạnh tranh đối với công ty chứng khoán. Do đó công ty phải chuẩn bị vững chắc cho sự cạnh tranh trong tương lai.
Thứ ba : Công ty nên đầu tư cho hoạt động tự doanh hơn nữa, bổ sung vốn, tăng cường cán bộ giỏi và đặc biệt tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh có thể phát triển nhanh và vững chắc nhất
KẾT LUẬN
Sau 8 năm hoạt động TTCK Việt Nam đã có những bước tăng trưởng mạnh cả về quy mô và chất lượng tính tới năm 2007 có 202 công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán (GDCK) TP Hồ Chí Minh và trên trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội, với tổng mức vốn hóa thị trường đạt trên 310.000 tỷ đồng chiếm khoảng 30%GDP . TTCK Việt Nam hình thành trên cơ sở mô hình đã được Đảng và chính phủ thông qua .Đồng thời chính phủ đã ban hành chiến lược phát triển TTCK Việt Nam tới năm 2010.
Hoạt động tự doanh của SHS diễn ra cùng với sự hình thành và phát triển của công ty.Trải qua một năm thăng trầm của thị trường thì hoạt động của tự doanh của SHS vẫn đạt được những thành công nhất định như SHS là một trong những công ty công bố có mức lợi nhuận trước thuế là hơn 37 tỷ đồng trong đó hoạt động tự doanh đóng góp trên 60 %.
Để đạt được những thành quả trên thì bộ phận tự doanh của công ty đã không ngừng nỗ lực trong công tác đầu tư chứng khoán.Mặc dù vậy do còn là một công ty còn non trẻ các quy trình chưa có sự đồng bộ nhất định,số lượng cán bộ tự doanh còn khá ít mà khối lượng công việc thì rất nhiều nên mỗi cán bộ phải chịu một trách nhiệm khá lớn về quản lý danh mục đầu tư của mình và haotj động đầu tư lại phải tiến hành một cách liên tục,do vậy mà hiệu quả đầu tư không cao nên hiệu suất sinh lời tù danh mục đầu tư mới chỉ đạt từ 12%- 17%.trong khi đó nếu đầu tư theo danh mục từ 2 -4 chứng khoán thì có thể cho tỷ suất lợi nhuận từ 35% - 40% trong vòng một năm.
Để nâng cao hiệu quả đầu tư thì trong thời gian tới SHS cần chú trọng hơn việc đầu tư vào số lượng cũng như chất lượng cán bộ tự doanh. Nhanh chóng xây dựng quy trình tự doanh hoàn chỉnh hơn,nâng cao chất lượng phân tích chứng khoán.
Đề tài này đưa ra những cách nhìn bao quát hơn về thị trường chứng khoán.Ngoài ra qua việc phân tích thực trạng của SHS đề tài đã đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những vấn đề bất cập ở công ty để công ty ngày càng phát triển hơn uy tín hơn và có thể cạnh tranh với các công ty chứng khoán khác ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS Đào Lê Minh(2002),Giáo trình Những vấn đề cơ bản về Chứng khoán và thị trường chứng khoán, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
ThS Lê Thị Mai Linh(2003),Giáo trình Phân tích và đầu tư chứng khoán, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luật chứng khoán 2006
Báo cáo kết quả kinh doanh của SHS
Tài liệu phòng tự doanh SHS
Lê Văn Thủy, Cẩm nang người tư vấn kinh doanh và đầu tư chứng khoán ở Việt Nam, NXB Tài chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21709.doc