Từ việc nhận thấy rõ tầm quan trọng của nguồn vốn như vậy, ta có thể đề xuất các giải pháp thu hút vốn như sau:
a) Đẩy mạnh huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán
Hiện tại, ngành công nghiệp Dệt-may sau khi được tổ chức lại và hoạt động theo hướng tập đoàn,các doanh nghiệp thuộc Vinatex đã hoàn thành cổ phần hoá, thì có thể phát hành cổ phiếu để huy động vốn qua thị trường chứng khoán Việt Nam, hoặc một số thị trường chứng khoán quốc tế.Và trên thực tế đã có 5 công ty thuộc ngành dệt may đang niệm yếu trên thị trường chứng khoán, trong đó có 3 công ty niêm yết chứng khoán trên Sở GDCK Hồ Chí Minh và 2 công ty đăng ký giao dịch trên TTGDCK Hà Nội.Ngoại trừ CTCP SX_KD XNK Bình Thạnh thì 4 công ty còn lại bao gồm CTCP Dệt may Thành Công;CTCP SX_TM may Sài Gòn, CTCP May Phú Thịnh –Nhà Bè;CTCP Đầu tư và Thương mại TNG đều mới thực hiện niêm yết chứng khoán trong năm 2006 và 2007. Trong năm 2007, các doanh nghiệp đều có mức tăng trưởng lợi nhuận sau thuế ở mức cao so với năm 2006, cụ thể TCM tăng gấp 5 lần, TNG tăng gấp 3 lần. Có thể nhận thấy những tác động tích cực từ việc niêm yết trên thị trường chứng khoán, nhưng số lượng doanh nghiệp niêm yết vẫn còn hạn chế. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh hoạt động này nhưng cũng cần lưu ý về thời điểm và đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp để góp phần nâng cao hiệu quả của việc huy động vốn qua kênh này.
b) Tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Đối với nguồn vốn nước ngoài,chúng ta cần có những biện pháp gọi vốn đầu tư thích hợp như chủ động xây dựng danh mục các dự án đầu tư trực tiếp ở các vùng, khu vực trọng điểm để có thể thu hút được được sự quan tâm các dự án đầu tư của các nước, các tổ chức tài chính quốc tế hoặc chủ động tham gia tích cực vào các hoạt động của cộng đồng quốc tế và khu vực, nhằm tăng cường cơ hội thu hút đầu tư. Bên cạnh đó, cần có có các hình thức đặc biệt trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài như việc giảm thuế đất, giảm các phí và lệ phí bất hợp lý tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay từ đó thu hút đầu tư vào các lĩnh vực cần khuyến khích như nhuộm, hoàn tất, sản xuất sợi hóa học, Việc này cần có sự kết hợp của ngành và chính phủ.
Làm như vậy, một phần ngành sẽ có vốn và có nhà đầu tư phát triển các lĩnh vực trọng điểm nhưng cũng đồng thời buộc các doanh nghiệp dệt may trong nước sẽ phải hoạt động có hiệu quả hơn và điều đó cũng góp phần đẩy nhanh quá trình đa sử hữu trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
c) Đa dạng hóa cơ cấu sở hữu và tạo sự liên kết vốn giữa các thành phần kinh tế.
Có thể thấy rằng hiện nay số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may đã có cả các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia sản xuất kinh doanh song đứng trước sức ép cạnh tranh và sự đào thải trong cơ chế thị trường nhiều cơ sở đã phải thu hẹp sản xuất hoặc giải thể.Nhưng nhìn chung với sự đa dang về hình thức sở hữu đã đáp ứng phần nào nhu cầu phong phú của tầng lớp nhân nhân về nhu cầu sử dụng sản phẩm dệt may.
93 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1611 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iới.
Những thị trường xuất khẩu hàng dệt may chính của Việt Nam vừa qua là thị tường EU và Nhật Bản và Mỹ. Các nhà sản xuất Việt Nam dường như ít chú trọng đến khía cạnh” thị trường/hiệu năng’-một khía cạnh quan trọng trong ngành sử dụng nhiều lao động theo đính hướng của khách hàng. Hầu hết các doanh nghiệp may Việt Nam đều trong tình trạng bị động về thị trường,thiếu tính chủ động trong việc tìm kiếm thị trường,tìm kiếm khách mới và kém hiểu biết về mạng lưới thị trường hàng dệt may quốc tế.
Những yếu kếm về phát triển thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đã không cho phép phát huy tốt nhất lợi thế của Việt Nam. Chẳng hạn, việc thông qua các khách hàng trung gian làm cho danh tiếng của các nhà sản xuất không được khuếch trương,khả năng đáp ứng khách hàng chậm chạp, không xây dựng được hệ thống phân phối chuyên nghiệp trân các thị trường xuất khẩu..Tất cả những điều đó chỉ mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam giá trị tăng thấp ở những mặt hàng phổ thông…Điều đó đồng nghĩa với hiệu quả sử dụng lao động thâp,lợi thế so sánh không được phát huy tốt nhất.
Vì vậy,lựa chọn thị trường,theo nghĩa chủ động xây dựng và phát triển thị trường là yếu tố cực kỳ quan trọng để phát huy tốt lợi thế so sáng,nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới. Trong quan điểm này cần chú trọng đến một số trọng điểm chính, như:
Một là,Việt nam cần tiến tới giảm bớt sự phụ thuộc vào các trung gian nước ngoài (như Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông) trong hoạt động xuất khẩu sang thị trường EU.Đây là trọng điểm mang tính chiến lược. Bởi vì, phải thấy rằng, việc hình thành và tăng cường các mối quan hệ quốc tế không phải việc có thể thực hiện trong một sớm, một chiều. Nó thường được phát triển từ những giao dịch nhỏ và trong thời gian dài.Đồng thời, các trung gian cũng đóng vai trò hết sức quan trọng về nguồn thị trường, tài chính, kỹ thuật.
Hai là, cần ưu tiên tăng cường khả năng thâm nhập vào thị trường Mỹ.Bởi vì,đây không chỉ là thị trường lớn nhất thế giới, mà còn là thị trường tự do, yêu cầu thỏa mãn nhiều hạng mục chất lượng, chủng loại hàng hóa. Điều đó giúp cho các nhà xuất khẩu tìm được chỗ đứng thích hợp trên thị trường.
Ba là, cần nỗ lực phát triển thị trường Nga và nước Đông Âu, cũng như khai thác các thị trường mới như Châu Phi theo phương thức giao dịch FOB.Bởi vì, đây là những thị trường đã từng được xuất khẩu theo phương thức FOB, lực lượng người Việt Nam khá đông đảo, điều kiện đi lại thuận lợi, tương đối am hiểu thị trường và khách hàng,..
3.2.2.2 Lựa chọn sản phẩm và cơ cấu sản phẩm xuất khẩu để phát huy lợi thế so sánh,nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm trên thị trường thế giới
Về lý thuyết,các nhà sản xuất thường muốn chuyên môn hóa vào sản phẩm một loại sản phẩm nào đó để đạt được lợi thế về quy mô. Tuy nhiên, tính đa dạng của nhu cầu tiêu dùng nói chung và đối với các sản phẩm dệt may nói riêng đã cho phép các nhà sản xuất mới, các quy mô nhỏ hơn ( thường ở các nước phát triển) tham gia vào thị trường quốc tế, mà không e ngại về khả năng cạnh tranh trước các nhà sản xuất có bề dày phát triển và với quy mô sản xuất lớn hơn. Nói cách khác, chính tính đa dạng của nhu cầu tiêu dùng, đặc biệt với các sản phẩm dệt may đã dành lại cơ hội cho các nhà sản xuất đi sau tham gia vào thương mại quốc tế. Tất nhiên, việc khai thác cơ hội này của các nhà sản xuất lại phụ thuộc chủ yếu vào khả năng lựa chọn sản phẩm hay một cơ cấu sản phẩm đưa ra thị trường quốc tế.
Hiện nay,các sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt nam mới chỉ tập trung ở một số ít sản phẩm như áo Jacket, quần âu, sơ mi và váy. Hơn nữa, các sản phẩm này mới chỉ được sản xuất tuân theo tiêu chuẩn mà chưa có nhiều cải tiến về mẫu mã, kiểu dáng thích hợp. Đồng thời, hầu hết các nhà sản xuất Việt Nam quá phụ thuộc vào đơn hàng của các khách hàng trung gian dẫn đến tình trạng năng lực phát triển sản phẩm yếu kém do thiếu sự hiểu biết về nhu cầu của khách hàng. Cuối cùng, các nhà kinh doanh Việt Nam thiếu thông tin thị trường, thông tin thời trang,..Cần phải thấy rằng, yếu tố quyết định trong hoạt động xuất khẩu đó là tính hiệu năng trong nước, có nghĩa là, để thâm nhập vào thị trường cần đáp ứng yêu cầu về giá cả và chất lượng. Nếu sản phẩm không phù hợp với yêu cầu thị trường sẽ không có khả năng xâm nhập thị trường. Vì vậy, lựa chọn sản phẩm và cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, theo nghĩa tự phát triển sản phẩm phù hợp về yêu cầu của thị trường xuất khẩu là cơ sở quan trọng để tham gia thị trường, qua đó phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức mạnh cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất khẩu Việt Nam trong những năm tiếp theo. Nếu phát triển sản phẩm tốt, các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ trở thành các nhà xuất khẩu theo phương thức FOB hay phương thức sẵn sang bán/nhờ thu, mà còn qua đó lựa chọn được sản phẩm hay cơ cấu sản phẩm xuất khẩu phù hợp với yêu cầu của từng thị trường và đảm bảo được hiệu quả. Theo quan điểm này cần chú trọng đến các mặt:
Một là,tăng cường nghiên cứu xu hướng thị trường và khách hàng cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trên cơ sở hỗ trợ của Nhà nước thông qua các tổ chức xúc tiến xuất khẩu
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ phát triển sản phẩm và các phương tiện cho thiết kế sản phẩm.Đồng thời các công ty phải am hiểu về biểu số do, danh mục phân loại và các số liệu kỹ thuật để phát triển sản phẩm.
Ba là,tăng cường khuyến mại sản phẩm trên các thị trường xuất khẩu.Hoạt động khuếch trương của các doanh nghiệp Việt Nam như, giới thiệu về công ty,về sản phẩm, tham gia hội chợ, khuyến mại sản phẩm,..hiện còn yếu và cần được cải thiện đề có thể cạnh tranh được trên thị trường quốc tế.
3.2.2.3 Tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp dệt may để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu
Mặc dù, ngành dệt may Việt Nam hiện nay vẫn duy trì được tăng trưởng ổn định nhờ năng lực cạnh tranh bởi chi phí sản xuất thấp, nhưng những hạn chế phát triển đang bộc lộ ngày càng nhiều hơn và rõ nét hơn.Chẳng hạn, các doanh nghiệp Nhà nước quá thừa công nhân,thiếu sự hiểu biết về sự thị trường quốc tế,máy móc thiết bị trong các doanh nghiệp thường lạc hậu, các doanh nghiệp tư nhân khó khăn trong việc thuê mặt hàng sản xuất, tìm kiếm nguồn tài chính, hạn chế về kỹ thuật chuyên môn, trình độ quản lý…Tất cả những điều đó làm hạn chế khả năng nâng cao năng suất,chất lượng và hạ thấp chi phí.Vì vậy, để duy trì và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu hàng dệt may cần sớm giải quyết những vấn đề hạn chế, yếu kém trên đây. Việc giải quyết các vấn đề này vừa thuộc bản thân doanh nghiệp, vừa cần có sự hỗ trợ, tháo gỡ chung của Nhà nước.
Thông qua Nhà nước và thể chế trung gian, một mặt, chính sách phát triển tạo điều kiện để doanh nghiệp dệt may chủ động tăng qui mô thông qua tích lũy của bản thân và các biện pháp huy động vốn, mặt khác cần hình thành các mối liên kết tự nguyện theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường.Các liên kết này hình thành không bằng các quyết định hành chính của Nhà nước mà phải xuất phát từ lợi ích của các doanh nghiệp tham gia liên kết.Nhà nước và chính sách nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo lập khung khổ, thể chế để hình thành các mối liên kết đó.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy mô hình doanh nghiệp công ty cổ phần có nhiều ưu điểm cho trường hợp này. Về phía Nhà nước và các thể chế trung gian, cần hỗ trợ mạnh mẽ trong vay tín dụng ngân hàng thương mại quốc doanh.Xây dựng chính sách phù hợp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dệt may tăng sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam. Lợi thế so sánh của sản phẩm hiện nay (làm giá trị gia tăng của sản phẩm tăng lên, trực tiếp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp) phụ thuộc rất lớn vào việc nâng cao tính độc đáo; hàm lượng tư bản và tri thức trong sản phẩm; cải tiến mẫu mã, bao bì và dịch vụ hậu mãi của sản phẩm,.. cho phù hợp với các đối tượng người tiêu dung. Có như vậy mới làm giá trị gia tăng của sản phẩm tăng lên, trực tiếp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.Ở đây có vai trò của Nhà nước và các tổ chức trung gian trong hỗ trợ thông tin, phát triển dịch vụ sản xuất, tiếp thị, hậu mãi, đặc biệt trên thị trường quốc tế; trong đào tạo, nghiên cứu và triển khai công nghệ trên phạm vi lớn.
Như vậy quan điểm tăng cường sự hỗ trợ cho các doanh nghiệp, theo nghĩa vừa phải có những trợ giúp ban đầu, vừa phải tháo gỡ những vấn đề về cơ chế nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng, hạ thấp chi phí là hết sức cần thiết đề nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, sự trợ giúp cần được thực hiện một cách công khai, rõ ràng, có thời hạn cụ thể và không làm ảnh hưởng đến bất cư một hiệp định thương mại quốc tế nào mà Việt nam đang và sẽ tham gia.
3.3 Một số giải pháp đầu tư chủ yếu nhằm nâng cao năng lực năng lực cạnh tranh sản phẩm dệt may Việt Nam
Qua những phân tích và đánh giá thực trạng đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dệt Việt Nam, cùng với mục tiêu và quan điểm chủ đạo về nâng cao năng lực cạnh trang sản phẩm dệt may, đề tài xin đưa ra một số giải pháp đầu tư nhằm khắc phục những nguyên nhân ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may.
3.3.1. Giải pháp đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Cơ sở giải pháp: Nguồn nhân lực là một nhân tố quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng nhất, quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và ngành dệt may nói riêng.Theo những phân tích trong chương 2, có thể thấy giá trị gia tăng trong ngành dệt may Việt Nam thấp do giá nguyên phụ liệu thường chiếm khoảng 65% giá trị sản phẩm. Do đó,nếu không chú trọng đến đầu tư con người cũng như quản lý tốt lao động sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cụ thể là, đối với lao động dệt may, cần đặc biệt quan tâm đến các đối tượng sau:
- Khâu tiếp thị và bán hàng: Trước hết cần hiểu rằng tiếp thị không chỉ đơn thuần là việc chào mời khách hàng bằng những sản phẩm sẵn có mà còn phải xem bắt nguồn từ khâu thiết kế mẫu mốt mới.. Do đó cần ưu tiên đào tọa một lực lượng bán hàng đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, chuyên môn và được huấn luyện các kỹ năng nghiệp vụ, trang bị những kiến thức cần thiết về khách hàng, đối thủ cạnh tranh về đặc điểm sản phẩm, để trở thành lực lượng có khả năng thực hiện tốt công việc chào hàng khi tiếp xúc với khách. Ngoài ra để bắt kịp với trình độ phát triển thế giới, giảm bớt sự thua thiệt trong kinh doanh xuât khẩu, cần tập trung đầu tư mạnh mẽ cho đào tạo đội ngũ thiết kế thời trang cả về trình độ kiến thức và cơ sở vật chất cho thực nghiệm, bên cạnh đó khuyến khích các hoạt động giao lưu cả trong và ngoài nước để học hỏi và trao đổi kinh nghiệm.
- Đối với cán bộ quản lý các cấp, cả về kinh tế và kỹ thuật: Tổ chức các khóa đào tạo bồi dưỡng và sát hạch nghiệp vụ với các tiêu chuẩn theo chức danh quản lý và nghiệp vụ rõ ràng. Đối với cá nhân không đảm bảo yêu cầu, cần phải được đưa ra khỏi các vị trí quản lý, hoặc sa thải hoặc phân bố công việc phù hợp. Các doanh nghiệp cũng nên thường xuyên giao lưu, học hỏi các doanh nghiệp điển hình trong Ngành, các mô hình quản lý tốt của các liên doanh, kể cả các mô hình quản lý tốt ở nước ngoài.
- Đối với lực lượng nghiên cứu khoa học: Đầu tư các trang thiết bị máy móc và phương tiện thí nghiệm hiện đại, đủ khả năng thiết kế và hình thành các sản phẩm mới sẽ tạo môi trường cho đội ngũ nghiên cứu có điều kiện nghiên cứu và áp dụng kết quả nghiên cứu vào thực tế. Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả và chất lượng của các nghiên cứu thì các nghiên cứu nên gắn với nhu cầu như các đơn đặt hàng của doanh nghiệp hơn là vẫn tồn tại dưới hình thức nghiên cứu theo đề tài và kinh phí nhà nước. Đó là điều kiện phát triển của nền sản xuất hàng hóa và là mảnh đất tốt để những tài năng khoa học sáng tạo và hưởng thụ theo sự cống hiến của mình.
- Đối với công nhân : Việc cần làm ngay là nâng cao tay nghề của công nhân may để đáp ứng được những đòi ngày càng cao của thị trường.Ngoài việc đào tạo bồi dưỡng, cần có chính sách để giữ chân các thợ giỏi bằng chính sách lương, thưởng,... và lấy đó làm các hình mẫu nhân rộng thông qua các cuộc thi tay nghề giỏi.
Việc tiếp nữa đó là cần quan tâm cải tiện điều kiện làm việc của người lao động, để cùng với kỹ năng sẽ tăng năng suất lao động rút ngắn khoảng cách và dần dần theo kịp năng suất lao động trong lĩnh vực dệt may của các nước trong khu vực. Lao động dệt may là loại lao động nặng nhọc bởi môi trường lao động bị ô nhiễm do bụi, nóng ồn… làm cho nhiều loại bệnh nghề nghiệp xuất hiện, trong khi đó lao động nữ lại chiếm đa số với thu nhập chưa cao không tương sức với sức lao động hao phí là một trong nguyên nhân dẫn đến cuộc đình công và mâu thuẫn giữa công nhân và chủ xí nghiệp.Theo đó, ngành cần kiến nghị với cấp trên và các cơ quan liên quan để bổ sung các chế độ đãi ngộ thích hợp với lao động của Ngành, đặc biệt là lao động nữ: Các chế độ tiền lương, bồi dưỡng độc hại, ca 2, thai sản hưu trí…
Tóm lại ,việc đầu tư cho con người phải được tiến hành đồng bộ ở tất cả các khâu mới tạo được hiệu quả tổng hợp cuối cùng, đó là hình thành nên một đội ngũ lao động có tay nghề đáp ứng với từng khâu quá trình sản xuất phân phối sản phẩm, góp phần gắn kết giải quyết các mâu thuẫn trong quan hệ lao động.
3.3.2. Giải pháp đầu tư nâng cao năng lực công nghệ và thiết bị:
Đầu tư nâng cao năng lực công nghệ và thiết bị là cũng là một biện pháp quan trọng trong các biện pháp về đầu tư, nhằm tăng khả năng cạnh tranh của hàng Dệt-May Việt Nam. Tuy nhiên, đầu tư để nâng cao năng lực công nghệ và thiết bị trong ngành Dệt-May cần đi theo một số định hướng cơ bản sau:
Thứ nhất: Chuyên môn hóa cao ở từng doanh nghiệp và đa dạng hóa ở quy mô toàn Ngành:
Cơ sở giải pháp: Để có thể xác định và hình thành nên một số sản phẩm mũi nhọn theo mục tiêu đề ra trong kỳ kế hoạch 5 năm thì ngay bây giờ ở qui mô Ngành đó là dựa trên cơ sở thế mạnh của từng doanh nghiệp để xác định cơ cấu mặt hàng, từ đó có một lộ trình đầu tư thích hợp.
Chuyên môn hóa cao là định hướng quan trọng cho mỗi doanh nghiệp trong quá trình đầu tư. Tuy nhiên, việc chuyên môn hóa theo nhu cầu của thị trường và sự phân công sản xuất của ngành không thể tránh khỏi trường hợp một số doanh nghiệp sẽ có chung sản phẩm mũi nhọn, điều này vô hình chung nếu không giải quyết tốt sẽ tạo sự dư thừa hoặc cạnh tranh không cần thiết. Trong trường hợp đó, cần sử dụng các lợi thế về quy mô để tạo sự liên kết và tận dụng về năng lực công nghệ , thiết bị của những doanh nghiệp gần nhau.
Cụ thể , để thực hiện được những phương châm này, từng doanh nghiệp dệt may sau khi xác định được sản phẩm mũi nhọn của mình dựa trên phân tích đánh giá lợi thế và năng lực của doanh nghiệp sẽ tập trung đầu tư cho các khâu yếu trong dây chuyền sản xuất của mình ,đặc biệt ở các khâu ảnh hưởng mang tính quyết định đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Tập đoàn sẽ phải có kế hoạch trợ giúp các chương trình đầu tư này khi doanh nghiệp gặp khó khăn- đây cũng là việc làm cần thiết trong thời điểm kinh tế rơi vào giai đoạn suy thoái như hiện nay.
Bên cạnh hình thức chuyên môn hóa , đa dạng hóa ở quy mô ngành sẽ là cơ sở để ngành đầu tư sản xuất theo nhiều tầng công nghệ.
Cụ thể, đối với các khâu kéo sợi, nhuộm hoàn tất là các khâu quan trọng trong dây chuyền sản xuất, ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm, cần phải đi thẳng vào công nghệ hiện đại và tổ chức sản xuất ở quy mô công nghiệp. Các khâu còn lại như dệt và may sản phẩm có thể tiến hành đồng thời theo phương thức sản xuất tập trung hoặc phân tán, vừa sử dụng nhiều trình độ công nghệ khác nhau như thủ công hoặc bán cơ khi, cơ khí và tự động hóa, tùy theo từng mặt hàng và đối tượng phục vụ.
Như vậy, đầu tư công nghệ theo kiểu nhiều tầng trước hết sẽ góp phần tiết kiệm vốn đầu tư và sau nữa sẽ là tiền đề quan trọng tạo sự liên kết về kinh tế - kỹ thuật giữa các doanh nghiệp với nhau, không tạo sự phân biệt doanh nghiệp trung ương hay địa phương, doanh nghiệp nhà nước hay thuộc thành phần kinh tế khác trên cùng lãnh thổ.
Ngoài ra, đầu tư như vậy sẽ huy động và tận dụng được mọi nguồn lực trong và ngoài nước với nhiều quy mô khác nhau cả về vốn và lao động, có khả năng nhanh chóng đáp ứng được các yêu cầu đa dạng và ngày càng cao cả về số lượng và chất lượng của thị trường trong nước, đồng thời có khả năng tiếp cận với thị trường nước ngoài để phát triển xuất khẩu.
Thứ hai, Đầu tư phát triển công nghệ một các hiệu quả để giảm bớt sự mất cân đối về năng lực sản xuất toàn Ngành và tăng cường sự liên kết giữa Dệt và May
Thông qua các phân tích ở chương 2, có thể nhận thấy kết quả của sự đầu tư phân tán, tự phát đã dẫn đến tình trạng mất cân đối nghiêm trọng ở nhiều khâu và nhiều năng lực sản xuất bị dư thừa. Bởi vậy, trong thời gian tới cần tiến hành theo hướng là kết hợp giữa đầu tư chiều sâu và đầu tư mở rộng, đầu tiên sẽ là chủ động đầu tư chiều sâu, từng bước giảm sự mất cân đối giữa các khâu, đặc biệt là 2 khâu sợi và dệt, tiếp theo sẽ tranh thủ các nguồn vốn nước ngoài để bổ sung cho đầu tư khi có điều kiện.
Cụ thể là:
- Đối với các loại công nghệ hiện đã có phổ biến ở Việt Nam: bao gồm các thiết bị như kéo sợi cọc nồi, dệt kiểu thoi ( dệt kiếm, dệt thổi khí, dệt phun nước, dệt thoi kẹp), dệt kim, nhuộm- in hoa- hoàn tất các loại vải may mắc thông dụng, cần tập trung vốn tín dụng đầu tư ưu đãi của nhà nước để cải tạo, nâng cấp, đổi mới và mở rộng các cơ sở sản xuất hiện có nhằm tăng sản lượng và cải thiện chất lượng sản phẩm. Trong đầu tư cần chú trọng cả nâng cấp cơ sở hạ tầng, đầu tư thiết bị phụ trợ, hệ thống kiểm tra đánh giá chất lượng sản phẩm, đào tạo con người, nghiên cứu tiếp nhận công nghệ chuyển giao, đổi mới phương pháp và tinh giảm cơ cấu điều hành, thậm chí thuê tư vấn nước ngoài trong điều hành sản xuất. Kết hợp đầu tư để tách thành các xí nghiệp vừa và nhỏ, theo nhóm thành phẩm hoặc bán thành phẩm có thể thương mai hóa được trên thị trường như sợi riêng, dệt riêng, hoàn tất riêng hoạc đối đa chỉ liên hợp hai khâu với nhau.
Do là khu vực công nghệ đã phổ biến ở Việt Nam nên đầu tư phải tiến hành đồng thời cho tất cả các ngành như : kéo sợi, dệt vải, dệt kim, in- nhuộm-hoàn tất. Mục tiêu đầu tư cho khu vực này nhằm giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm các loại vải đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
- Đối với các loại công nghệ hiện chưa có hoặc có rất ít ở Việt Nam ( công nghệ tạo ra các sản phẩm mới ) như kéo sợi roro,kéo sợi thổi khí, công nghệ sản xuất vải kỹ thuật, sản xuất phụ liệu may mặc… Với những loại công nghệ này cần khảo sát, nghiên cứu thị trường gấp và ra quyết định đầu tư nhanh, triển khai đầu tư khẩn trưởng để tạo ra sản phẩm mới. Đối với loại đầu tư này, cần ưu tiên đầu tư từ cuối dây chuyên ( thành phẩm ) ngược về đầu dây chuyên ( bán thành phẩm).Nên đầu tư thành các công ty độc lập hoặc ghép các công ty hiện có theo nhóm sản phẩm.
Đối với thiết bị ngành may: nên tập trung đầu tư khâu thiết kế thời trang, khâu trải và cắt vải, đổi mới phương pháp, thay đổi và tinh giảm hệ thống điều hành.Các doanh nghiệp cần nghiên cứu điển hình từ các nước tiên tiến, lựa chọn công ty tư vấn, đào tạo và tiếp nhận phương pháp mới. Đối với các dự án đầu tư ngành may, ưu tiên việc sử dụng vốn tự có hoặc vốn trích từ khấu hao cơ bản cho tái đầu tư. Tổ chức tốt đội ngũ cán bộ, công nhân để tiếp thu tốt cho các công nghệ nhập, ổn định sản xuất, tiến tới làm chủ được công nghệ nhập để phát triển sản xuất. Có thể tự sản xuất một số phụ tùng thay thế để phát huy hết công suất của thiết bị và khả năng công nghệ để tạo ra sản phẩm có giá trị cao.
Đẩy mạnh các hoạt động, sáng kiến, sáng chế để tạo ra các giải pháp công nghệ, bí quyết sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng, tạo ra mặt hàng có giá trị cạnh tranh cao để nâng dần trình độ công nghệ sản xuất của toàn ngành, từng bước hòa nhập được vào công nghệ nhập và công nghệ nội sinh.
Thực hiện chuyển giao công nghệ với mọi thành phần kinh tế. Những doanh nghiệp lớn, có nhiều vốn có thể nhập thiết bị công nghệ cao để sản xuất hàng xuất khẩu, đồng lại chuyển giao lại các thiết bị, công nghệ hiện đại cho một số cơ sở nhỏ để củng cố, cải tiến nâng cao thành công công nghệ nội sinh. Có thể tiến hành điều chuyển tài sản trong nội bộ các doanh nghiệp thành viên của Tập đoàn Dệt-May Việt Nam sẽ làm giảm bớt sự mất cân đối về năng lực sản xuất của toàn Ngành và dư thừa năng lực sản xuất cục bộ ở từng doanh nghiệp, phù hợp với chủ trương chuyên môn hóa cao. Thậm chí, kể cả trong trường hợp, dù doanh nghiệp đã đầu tư thiết bị và công nghệ để sản xuất một chủng loại mặt hàng nào đó, nhưng trong quá trình sản xuất nhận thấy không hiệu quả so với các doanh nghiệp khác và việc khắc phục là khó có thể thực hiện được thì cũng nên chuyển giao cả thiết bị và công nghệ cho các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hơn. Lợi ích của cả ngành cần phải được đặt lên trên lợi ích cục bộ của từng địa phương, từng doanh nghiệp.
Thứ ba, Tạo môi trường tốt cho đầu tư và chuyển giao công nghệ:
Cơ sở giải pháp: Những năm qua, đầu tư hiện đại hóa công nghệ ngành Dệt May đã thu được một số kết quả quan trọng, song cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Một trong những hạn chế cơ bản đó là chưa hình thành một môi trường đầu tư và chuyển giao công nghệ phù hợp, thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
- Nguồn thông tin về công nghệ thiếu : Khi muốn đầu tư một công nghệ mới, các chủ đầu tư Việt Nam hãy còn dựa nhiều vào sự giới thiệu của các hãng nước ngoài vì sự yếu kém trong khả năng thu thập và xử lý thông tin nên chưa tìm kiếm được thông tin đúng,đủ, phù hợp để so sánh đối chiếu nhằm lựa chọn các công nghệ phù hợp với điều kiện của mình. Chính tình trạng nghèo nàn về thông tin đó đã dẫn đến không ít trường hợp một số thiết bị khi doanh nghiệp nhập về không sử dụng được do thiếu đồng bộ. Ngoài ra, những trường hợp phải mua đắt khoảng 10 đến 15% so với giá trị thực của thiết bị, công nghệ nhập vẫn diễn ra.
-Chưa có lộ trình phát triển khoa học- công nghệ đầy đủ: thiếu một chiến lược tổng thể và một lộ trình khoa học- công nghệ đầy đủ và phù hợp đã làm cho các doanh nghiệp lúng túng trước việc lựa chọn hướng đầu tư. Hầu hết các doanh nghiệp đầu tư đều do sức ép của thị trường chứ không phải theo một kế hoạch chủ động được xây dựng. Đó chính là lí do dẫn tới hiện tượng đầu tư tràn lan, làm dư thừa năng lực. Thêm nữa, cũng đã có hiện tượng một số doanh nghiệp nhập một số thiết bị và công nghệ quá hiện đại, vượt xa với trình độ khoa học – công nghệ hiện tại của ngành trong khi doanh nghiệp không có khả năng tiệp nhận công nghệ nên thiết bị mua về không phát huy được tác dụng.
- Chưa hình thành được một thị trường công nghệ thực sự sôi động.: Đây thực sự không phải là hạn chế của chỉ riêng ngành Dệt-May mà còn xuất hiện ở nhiều ngành kinh tế- kỹ thuật khác của nước ta. Những năm gần đây,ngành mới dần có các hội nghị triển lãm về công nghệ nhưng còn rất ít và chưa đủ tạo nên một thị trường sôi động cung cấp những thông tin về cập nhập công nghệ trên thế giới, hay các doanh nghiệp vẫn phải đi nhập khẩu các thiết bị mà ko biết rằng hoàn toàn có thể mua được trong nước.
Do vậy, từ những hạn chế cơ bản được chỉ ra ở trên, trong thời gian tới, để hoạt động đầu tư đúng hướng và có hiệu quả, cần nhanh chóng tạo lập một môi trường công nghệ thuận lợi, đầu tiên đó là xây dựng dựng lộ trình công nghệ của Ngành cho giai đoạn từ nay đến năm 2015 và tầm nhìn đến 2020, bên cạnh đó hoàn thiện hệ thống thông tin công nghệ và thúc đẩy thị trường công nghệ hoạt động mạnh mẽ hơn
Việc thực thi các giải pháp trên sẽ vừa tăng quyền chủ động cho chủ đầu tư, nhưng đồng thời cũng nâng cao trách nhiệm của người đi đàm phán, kiếm soát được công nghệ nhập và hạn chế được những tổn thất không đáng có hiện nay.
3.3.3.Giải pháp đầu tư tăng cường hoạt động quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm:
Cơ sở giải pháp: Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhất là sau năm 2005, khi hạn ngạch và các hàng rào phi thuế quan khác được bãi bỏ, thị phần của mỗi nước xuất khẩu phụ thuộc phần lớn vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Do đó đối với sản phẩm may mắc các biện pháp cạnh tranh “ phi giá cả” trước hết là cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, trong rất nhiều trường hợp trở thành yếu tố quyết định sức cạnh tranh của sản phẩm khi mà người tiêu dùng sử dụng chúng không phải chỉ đơn thuần vì mục đích sử dụng mà còn vì mục đích trang trí. Và khách hàng sẵn sàng trả giá cao khi lựa chọn được sản phẩm có chất lượng, kiểu cách, mẫu mã thỏa mãn nhu cầu. Theo đánh giá trong chương 2 thì hầu hết các doanh nghiệp may đã chú trọng đến công tác quản lý chất lượng, tuy nhiên hoạt động này lại không diễn ra đều khắp ở cả hai ngành Dệt và May, đó cũng lí do căn bản vẫn còn nhiều phán nàn khiếu nại của khách hàng về chất lượng sản phẩm.
Do đó, để tăng cường cho công tác quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm, cần quan tâm tới các lĩnh vực sau:
- Thứ nhất: Đầu tư hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn hóa
Có một bất cập hiện nay trong hệ thống tiêu chuẩn của Việt Nam hiện nay đó là tốn tại nhiều cấp tiêu chuẩn như cấp quốc gia (TCVN), cấp ngành và thậm chí ở cả cấp doanh nghiệp. Việc cùng lúc có nhiều tiêu chuẩn giá chất lượng đã làm thiếu tính thống nhất và đồng đều về chất lượng của các sản phẩm dệt may Việt Nam, mà không phải ai cũng có thể dễ dàng so sánh, đánh giá được và tất yếu người chịu thiệt thòi đầu tiên chính là người tiêu dùng.
Do đó giải pháp mà đề tài đưa ra đó là cần xóa bỏ sự tồn tại song song của nhiều bộ tiêu chuẩn chất lượng như hiện nay chỉ nên giữ lại tiêu chuẩn cấp quốc gia được nghiên cứu thống nhất từ các bộ tiêu chuẩn cấp ngành và doanh nghiệp và được phân cấp theo nhiều cấp chất lượng khác nhau với các tiêu chí rõ ràng theo từng cấp , sẽ được đánh theo thứ tự từ 1 đến 4 hoặc nhiều hơn.
Nếu làm như vậy, ngành sẽ tránh được hiện tượng cùng một loại sản phẩm, cùng một cấp chất lượng nhưng do các doanh nghiệp khác nhau sản xuất thì chất lượng thực tại khác nhau. Bên cạnh đó, việc thống nhất quản lý chất lượng theo một bộ tiêu chuẩn (có nhiều cấp) sẽ giúp cho việc quản lý Ngành sẽ đơn giản và thuận tiện hơn. Qua đó các doanh nghiệp có điều kiện để so sánh, đối chứng, sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất có chất lượng sẽ được khẳng định, góp phần nâng cao thương hiệu sản phầm, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp liên tục cải tiến để đáp ứng yêu cầu.
Về phần các tiêu chuẩn xuất khẩu, thì bộ tiêu chuẩn hoàn toàn phụ thuộc và thay đổi theo từng thị trường, do đó để các sản phẩm dệt may Việt Nam có thể đáp ứng các yêu cầu về chất lượng thì Ngành cần hình thành bộ phận này quản lý chung, theo dõi, cập nhập và cung cấp thông tin về những thay đổi nếu có cho các doanh nghiệp tham gia sản xuất xuất khẩu để có phương án kinh doanh, đặc biệt là việc ở các thị trường xuất khẩu chính với các điều kiện tiêu chuẩn về xuất khẩu khắt khe như Eu và Nhật Bản. Làm được như vậy sẽ tránh được hiện tượng bị khách hàng khiếu nại như đã từng xảy ra đối với các doanh nghiệp địa phương, và tránh được tình trạng các sản phẩm dệt may rơi vào các vụ kiến chống bán phá giá như đang xảy ra với Mỹ.
-Thứ hai: Đầu tư bổ sung và nâng cấp hệ thống kiểm tra chất lượng trong toàn ngành:
Hiện tại, hệ thống kiếm tra chất lượng trong toàn ngành chưa thực sự đồng bộ, một phần do hệ thống tiêu chuẩn khác nhau nhưng chủ yếu là do năng lực của các thiết bị kiểm tra ở các doanh nghiệp khác nhau.Ở nhiều doanh nghiệp vẫn còn tồn tại cách đánh giá chất lượng sản phẩm bằng tay hay mắt.. với cách làm như vậy không thể đảm bảo được về sự đồng đều về chất lượng của sản phẩm.
Từ đó, để khắc phục hiện tượng này, trước hết cần nhanh chóng bổ sung những thiết bị tối thiểu cần thiết cho việc kiểm tra chất lượng ở các doanh nghiệp, xí nghiệp dệt may.
Và tiến tới là thành lập các trung tâm kiểm tra chất lượng theo cấp vùng ở các thành phố chính là Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh,sau đó sẽ tiền hành lan rộng thêm ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Các trung tâm này phải được trang bị đầy đủ các thiết bị hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế phục vụ cho công tác kiểm tra, đặc biệt là kiểm tra nguồn nguyên liệu đầu vào(bong xơ, hóa chất… cho dệt và vải,phụ kiện cho may) để đảm bảo các sản phẩm xuất khẩu tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ, quy trình sản xuất theo đúng đúng nhãn mạc và tài liệu kỹ thuật bên đặt hàng cung cấp.
Đẩy mạnh quản lý chất lượng sản phẩm ở doanh nghiệp theo mô hình quản lý chất lượng toàn diện hoặc theo tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000 và ISO 8000. Trong lĩnh vực này, để hoạt động có hiệu quả, điều quan trọng trước hết là phải làm tốt công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm trong toàn thể CBCNV, sau đó là quyết tâm cao của lãnh đạo và cuối cùng mới là tìm các nguồn tài chính cho việc thực hiện.
Lợi ích từ việc tiến hành quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO 9000 sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm dần và tiến tới loại bỏ được việc thử nghiệm lại sản phẩm mà thông thường phải mất khá nhiều thời gian và tốn kém về vật chất. Khi hoạt động quản lý chất lượng đã đi vào nề nếp, có thể thử nghiệm việc cho phép doanh nghiệp tự kiểm tra chất lượng sản phẩm, tự chịu trách nhiệm về những sản phẩm do mình làm ra mà không cần phải thông qua một cơ quan giám định chất lượng nào.
Thứ ba: Mở rộng các mối liên hệ ngược với người tiêu dùng:
Đây được coi là phương pháp hiệu quả nhất và khách quan nhất để xác định nhu cầu của người tiêu dùng đối với các sản phẩm nói chung và các sản phẩm dệt may nói riêng.
Phương pháp liên hệ ngược có thể được thực hiện bằng cách phát và thu lại các phiếu thăm dò định kỳ hoặc lấy ý kiến trực tiếp của người tiêu dùng tại các quầy hàng, có hệ thống nhận các yêu cầu khiếu nại của khách hàng…
Từ các kết quả thăm dò, doanh nghiệp sẽ có cơ sở để xác định các yêu cầu về chất lượng, số lượng và kiểu dáng của các sản phẩm do mình sản xuất đang được lưu thông trên thị trường. Hiện nay các doanh nghiệp dệt may chưa thực sự chú ý tới phương thức này đó là lí do tại sao các sản phẩm dệt may Việt Nam chỉ chiếm được trên dưới 30% thị trường nội địa, do đó trong thời gian tới hoạt động này cần được thực hiện phổ biến đẩy mạnh.
Thứ tư : Đầu tư đa dạng hóa hàng may mặc xuất khẩu:
Kinh tế xã hội phát triển kéo theo nhu cầu của người cũng lên cả về chất lượng và mẫu mã sản phẩm. Sản phẩm có mẫu mã đẹp, có tính thời trang, phù hợp với đặc điểm văn hóa của vùng thị trường bao giờ cũng đạt được sản lượng tiêu thu cao. Chính vì vậy, ngoài việc nâng cao chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp dệt may Việt nam còn cầu phải đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng cũng như đáp ứng được nhu cầu của từng thị trường.
Trong nhiều năm, hàng may mặc Việt Nam có những thay đổi nhiều về kiểu dáng, mẫu mã, chất liệu, chủng loại hàng nhưng khi hàng may mặc của Việt Nam thay đổi được một phần, hàng may mặc của các đối thủ cạnh tranh đã thay đổi liên tục về kiểu dáng, mẫu mã, chất liệu, chủng loại hàng hóa. Mặt hàng sơ mi, jacket, veston của Việt Nam chỉ thay đổi chút ít về mầu sắc còn chất liệu vải, kiểu dáng thay đổi ít.
Cho nên, trong ngắn hạn từ 2 đến 3 năm tới cần tập trung vào những mặt hàng như sơ mi, jacket, quần âu, quần áo dệt kim, quần áo thể thao tạo sự đa dạng theo hai hướng:
- Đa dạng hóa chất liệu sản phẩm nhờ vào ý tưởng thiết kế. Đa dạng hóa chất liệu sản phẩm cần dựa vào ý tưởng thiết kế của các nhà thiết kế thời trang. Các nhà thiết kế sẽ biết cách sử dụng chất liệu khác nhau cho những sản phẩm khác nhau, dù những chất liệu có thể trong nước sản xuất được hoặc phải nhập khẩu. Ý tưởng thiết kế cần xuất phát từ khả năng sáng tạo của các nhà thiết kế Việt Nam, tránh sao chép hoặc rập khuôn theo mẫu mã của nước ngoài
- Đa dạng hóa chủng loại sản phẩm: Chủng loại sản phẩm hàng may mặc thời gian qua đã tăng đáng kể nhưng chưa theo kịp nhu cầu sử dụng của thị trường thế giới rất đa dạng. Mỗi nhóm khách hàng và mỗi thị trường đều có những yêu cầu khác nhau khi mua hàng may mặc với mục đích sử dụng khác nhau.Thậm chí, những chủng loại hàng khác nhau cần được sản xuất theo nhu cầu của từng khoảng thời gian ngắn theo mùa trong năm nhu hàng may mặc cho đầu hè hoặc cuối mùa hè, đầu mùa thu và cuối mùa thu,.. cần tiến hành có thiết kế hình thành theo bộ sưu tập thời trang theo mùa và thị trường. Và để làm được những hướng phát triển thì điều tiên quyết cần một chiến lược thời trang hóa ngành dệt may Việt Nam, đẩy mạnh hoạt động thiết kế và sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao cùng với việc xây dựng hình ảnh ngành sản xuất dệt may Việt Nam với chất lượng- thời trang- thân thiện với môi trường.
Tóm lại, với ý tưởng thiết kế mang tính thương mại, tức là tạo ra sản phẩm để xuất khẩu và cạnh tranh trên thị trường, thì các sản phẩm dệt may Việt Nam không đơn thuần dừng ở trình diễn trên sân khấu hay tham gia các cuộc thời trang.
Ngoài ra, hướng đa dạng hóa sản phẩm, với nhiều chủng loại hàng may mặc theo thời gian và theo các bộ sưu tập sẽ rất phù hợp với các thực giới thiệu những sản phẩm mà các trung tâm thời trang quốc tế lớn tại Pháp, Đức, Anh, Ý Mang đến khách hàng EU. Dần dần, hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam sẽ trở nên hòa nhập hơn với xu hướng thời trang thế giới, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
3.3.4.Giải pháp đầu tư cho phát triển vùng nguyên liệu và sản xuất phụ liệu:
Chúng ta biết rằng, nguyên- phụ liệu là đầu vào của quá trình sản xuất sản phẩm dệt may.Nó bao gồm hai loại: một loại có nguồn gốc từ thiên nhiên như : bông, đay, lanh, tằm tơ,..một loại có nguồn gốc từ quá trình sản xuất nghiên cứu hóa học như sợi tổng hợp, nhân tạo. Hiện nay trên thế giới, nhiều nước đã biết phát huy lợi thế về từng chủng loại nguyên liệu để phát triển ngành công nghiệp dệt –may như Trung quốc,…nhưng không ít nước nước phải nhập khẩu gần như toàn bộ nguyên liệu thiên nhiên ( bông,len…) nhưng tự túc được nguồn nguyên liệu hóa học nên nền công nghiệp cũng rất phát triển như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Hông Kông, Đài Loan,…
Thiếu một nguồn cung cấp nguyên, phụ liệu ổn định, sản xuất không thể phát triển bền vững,do đó phải tăng cường phát triển và củng cố các vùng chuyên cạnh trông bông, trồng dâu nuôi tằm song song với việc đẩy nhanh quá trình xây dựng các khu công nghiệp hóa dầu, làm tiền đề cho việc sản xuất các loại xơ tổng hợp, góp phần tạo thế chủ đồng về nguyên liệu, tăng sức cạnh tranh các sản phẩm dệt may.
Cụ thể là:
Thứ nhất: Đối với cây bông:
Để giải quyết tận gốc vấn đề, cần thống nhất quan điểm là đưa cây bông thành cây công nghiệp chiến lược quan trọng với mục tiêu đến năm 2010, Việt Nam phải tự túc được khoảng 70% nguyên liệu bông cho ngành Dệt- May và năm 2015 là 90% và dần tự túc toàn bộ. Muốn vậy, trước hết cần tập trung đầu tư cho nghiên cứu khoa học nhằm giải quyết khâu giống bông, huy động lực lưỡng cán bộ chuyên gia khoa học kỹ thuật của cơ quan nghiên cứu, các trường đại học để đưa tiến bộ khoa học và khâu gieo trồng. chăm bón và thu hoạch. Đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị và nhân lực cho Trung tâm nghiên cứu bông Nha Hố đủ sức hợp tác với các cơ quan nghiên cứu trong và ngoài nước thực hiện công tác nghiên cứu phục vụ cho chiến lược phát triển bông gắn với với việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học kỹ thuật cho toàn ngành trong những năm tới.
Đầu tư một số vùng chuyên canh: xây dựng một số vùng chuyên canh lớn ở những nơi đã có quy hoạch đất đai, thủy lợi và đã có kinh nghiệm trồng bông ở các tỉnh duyên hải Nam trung bộ như Bình Thuận và Ninh Thuận.. để áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào khâu gieo trồng, chăm bón và thu hoạch.
Về vấn đề chất lượng: cần áp dụng các tiêu chuẩn về bông hạt, bông xơ Việt năm nhằm kiểm soát chất lượng các cơ sở cán bông hạt không làm ảnh huwongr đến sức cạnh tranh của sản phẩm dệt ở thị trường trong và ngoài nước,bên cạnh đó việc hiện đại hóa thiết bị cán bông để tăng tỷ lệ thu hồi xơ; và nghiên cứu chết biến dầu hạt bông để tăng gái trị thu hồi góp phần giảm giá thành bông xơ.
Thứ hai, Đối với tơ tằm:
Các sản phẩm dệt từ tơ tầm trong nước sản xuất còn ít, chất lượng thấp. Hiện nay, ta mới chỉ khai thác nguồn nghuyên liệu quý này dưới dạng xuất khẩu nguyên liệu là chính nên hiệu quả còn thấp. Trong tương lai, để đạt hiệu quả kinh tế cao, cần có thiết bị và công nghệ chế biến được các sản phẩm có chất lượng cao hơn phục vụ xuất khẩu. Nếu có công nghệ chế biến phế liệu tơ để kéo thành sợi spunsilk. Đây là loại nguyên liệu có giá trị xuất khẩu không thua kém nhiều so với tơ nõn.
Thứ ba, Đối với xơ sợi tổng hợp và các loại hóa chất, thuốc nhuộm:
Sợi hóa học từ ngành hóa dầu là nguyên liệu rất quan trọng của ngành dệt may.. Hiện tại, Việt Nam đã có dầu mỏ và có dự án công trình lọc dầu tại Dung Quất đi vào hoạt động, nên việc sản xuất cá loại xơ, sợi tổng hợp và một số loại hóa chất, thuốc nhuộm chính vào năm 2010 là có nhiều triển vọng giảm được việc phải nhập khẩu gần như hoàn toàn hàng năm khoảng vài chục nghìn tấn với lượng ngoại tệ gần 60 triệu USD. Ngành cần kiến nghị với Chính phủ và phối hợp với các cơ quan nhà nước đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình để tiến tới có thể tự túc được phần nào loại nguyên nhiên liệu quan trọng này trong thơi gian sớm nhất.
Ngoài ra, để chủ động được nguồn nguyên phụ liệu đảm bảo chất lượng , đa dạng và đáp ứng trong thời gian ngắn nhất, cần xây dựng chợ nguyên phụ liệu riêng cho ngành dệt may. Đây sẽ là trung tâm giao dịch với chủng loại mẫu mã đa dạng, giá bán và phương thức thanh toán phong phú,.. để các nhà sản xuất và xuất khẩu có thể chủ động chọn lực, rút ngắn thời gian sản xuất. tăng khả năng cạnh tranh so với hàng hóa của nhiều nước khác, nâng cao lợi nhuận xuất khẩu.
Tóm lại, đầu tư cho sản xuất các loại nguyên, phụ liệu ngay trong nước không chỉ giúp ngành chủ động trong sản xuất làm tăng giá trị gia tăng của sản phẩm mà các sản phẩm dệt may xuất khẩu còn nhận được các ưu đãi về tiêu chuẩn xuất xứ khi xâm nhập vào thị trường quan trọng như EU, Mỹ, Nhật Bản,…Việc hình thành và mở rộng hoạt động sản xuất cũng góp phần trong việc tạo ra công ăn việc làm cho khu vực nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay.
Để khuyến khích mạnh mẽ hơn việc các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu trong nước cho sản xuất hàng xuất khẩu thì cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích như giảm thuế, thưởng từ quỹ xuất khẩu, đồng thời cũng chủ động giới thiệu với khách hàng nước ngoài về các nguyên phụ liệu có thể sản xuất trong nước để tiến tới xuất khẩu các nguyên phụ liệu trong nước giảm áp lực từ nhập khẩu, kich thích mạnh mẽ ngành sản xuất nguyên phụ liệu trong nước phát triển.
3.3.5.Các biện pháp về thu hút vốn và sử dụng hiệu quả nguồn vốn
Thứ nhất : Biện pháp về thu hút vốn
Cơ sở giải pháp : Một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu để phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm dệt may Việt nam đó là giải pháp huy động vốn ,tạo nguồn tài chính đủ lớn, ổn định vững chắc cho việc thực hiện nó. Vì nếu không có vốn, thì các dự án cũng chỉ dừng ở kế hoạch triển vọng. Do đó tài chinh là mấy chốt quyết định tính khả thi của những kế hoạch đã vạch ra. Từ nay cho đến năm 2015 và những năm tiếp theo, nhu cầu vốn đầu tư cho dệt mat Việt Nam là rất lớn. Nguồn vốn này được huy động từ đâu?
Từ việc nhận thấy rõ tầm quan trọng của nguồn vốn như vậy, ta có thể đề xuất các giải pháp thu hút vốn như sau:
a) Đẩy mạnh huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán
Hiện tại, ngành công nghiệp Dệt-may sau khi được tổ chức lại và hoạt động theo hướng tập đoàn,các doanh nghiệp thuộc Vinatex đã hoàn thành cổ phần hoá, thì có thể phát hành cổ phiếu để huy động vốn qua thị trường chứng khoán Việt Nam, hoặc một số thị trường chứng khoán quốc tế.Và trên thực tế đã có 5 công ty thuộc ngành dệt may đang niệm yếu trên thị trường chứng khoán, trong đó có 3 công ty niêm yết chứng khoán trên Sở GDCK Hồ Chí Minh và 2 công ty đăng ký giao dịch trên TTGDCK Hà Nội.Ngoại trừ CTCP SX_KD XNK Bình Thạnh thì 4 công ty còn lại bao gồm CTCP Dệt may Thành Công;CTCP SX_TM may Sài Gòn, CTCP May Phú Thịnh –Nhà Bè;CTCP Đầu tư và Thương mại TNG đều mới thực hiện niêm yết chứng khoán trong năm 2006 và 2007. Trong năm 2007, các doanh nghiệp đều có mức tăng trưởng lợi nhuận sau thuế ở mức cao so với năm 2006, cụ thể TCM tăng gấp 5 lần, TNG tăng gấp 3 lần. Có thể nhận thấy những tác động tích cực từ việc niêm yết trên thị trường chứng khoán, nhưng số lượng doanh nghiệp niêm yết vẫn còn hạn chế. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh hoạt động này nhưng cũng cần lưu ý về thời điểm và đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp để góp phần nâng cao hiệu quả của việc huy động vốn qua kênh này.
b) Tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Đối với nguồn vốn nước ngoài,chúng ta cần có những biện pháp gọi vốn đầu tư thích hợp như chủ động xây dựng danh mục các dự án đầu tư trực tiếp ở các vùng, khu vực trọng điểm để có thể thu hút được được sự quan tâm các dự án đầu tư của các nước, các tổ chức tài chính quốc tế hoặc chủ động tham gia tích cực vào các hoạt động của cộng đồng quốc tế và khu vực, nhằm tăng cường cơ hội thu hút đầu tư. Bên cạnh đó, cần có có các hình thức đặc biệt trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài như việc giảm thuế đất, giảm các phí và lệ phí bất hợp lý tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay từ đó thu hút đầu tư vào các lĩnh vực cần khuyến khích như nhuộm, hoàn tất, sản xuất sợi hóa học,…Việc này cần có sự kết hợp của ngành và chính phủ.
Làm như vậy, một phần ngành sẽ có vốn và có nhà đầu tư phát triển các lĩnh vực trọng điểm nhưng cũng đồng thời buộc các doanh nghiệp dệt may trong nước sẽ phải hoạt động có hiệu quả hơn và điều đó cũng góp phần đẩy nhanh quá trình đa sử hữu trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
c) Đa dạng hóa cơ cấu sở hữu và tạo sự liên kết vốn giữa các thành phần kinh tế.
Có thể thấy rằng hiện nay số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may đã có cả các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia sản xuất kinh doanh song đứng trước sức ép cạnh tranh và sự đào thải trong cơ chế thị trường nhiều cơ sở đã phải thu hẹp sản xuất hoặc giải thể.Nhưng nhìn chung với sự đa dang về hình thức sở hữu đã đáp ứng phần nào nhu cầu phong phú của tầng lớp nhân nhân về nhu cầu sử dụng sản phẩm dệt may.
Ngành Dệt May không thuộc những ngành mà Nhà nước cần độc quyền sản xuất nên việc đa dạng hóa cơ cấu sở hữu đặc biệt là đối với doanh nghiệp nhà nước sẽ giúp giảm gáng nặng cho ngân sách nhà nước.Vì vậy cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong ngành dệt may,nhà nước có thể giữ lại một số doanh nghiệp trọng điểm có ưu thế về vốn ,kỹ thuật,công nghệ hoặc doanh nghiệp trước mắt khó hấp dẫn đầu tư của tư nhân và nước ngoài như kéo sợi, nhuộm, hoàn tất. Điều cần chú ý là cần xử lý hài hòa việc phân chia lợi ích giữa Nhà nước với người lao động để gắn được trách nghiệm và quyền lợi của người lao động với doanh nghiệp, vừa tạo tâm lý phấn khởi, làm cho họ tận tâm với doanh nghiệp của mình hơn.
Trong xu thế chung thì cần phát triển hài hòa các doanh nghiệp dệt may theo quy mô vừa và nhỏ với quy mô lớn để tạo tính tương hỗ trong quá trình phát triển, đồng thời đối với các khâu mà khu vực ngoài quốc doanh không đủ khả năng đảm nhiệm thì trước mắt các doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo để hiệp tác sản xuất giữa các thành phần kinh tế.Các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ phát triển thành các vệ tinh cho doanh nghiệp lớn là một bước đệm để hình thành các công lớn hay tập đoàn có đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường và thế giới.
Và thời gian tới nên hạn chế việc hình thành các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực dệt may, tiến hành đa dạng hóa sở hữu từ đầu đối với các công trình mới để tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển. Tiếp nữa, trong xu hướng tiếp nhận sự chuyển dịch thiết bị và công nghệ mới từ các nước phát triển hơn so với Việt Nam thì đầu tiên sẽ diễn ra ở các doanh nghiệp có cơ sở hạ tầng tốt, quỹ đất lớn sau đó mới đến các doanh nghiệp khác, do đó để nâng cao hiệu quả của quá trình này thì cần thực tốt quá trình chuyển giao lại từ các doanh nghiệp quốc doanh sang các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác.
Và thời gian qua hình thức như hiệp tác sản xuất hay cho thuê xí nghiệp sản xuất cũng tỏ ra có nhiều hiệu quả tích cực cùng cần xem xét để nhận rộng.
d) Một số biện pháp huy động vốn khác :
Có một hình thức huy động vốn của doanh nghiệp mà trong thời gian qua đã được thực hiện có hiệu quả ở một số doanh nghiêp lớn trong ngành đó là hình thức đầu tư bằng chính nguồn vốn tích lũy của doanh nghiệp được hình thành từ khấu hao, lợi nhuận để lại,và bán các tài sản không còn giá trị sử dụng cũng cần khuyến khích thực hiện.
Biện pháp giảm chi phí trong quá trình sản xuất như chi phí điện, nước.. hay tận dụng các nguồn nguyên liệu dư thừa… từ đó giảm giá thành để có khả năng tăng lợi nhuận rồi quay trở lại tái đầu tư là một cách làm tuy không mới nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng thực hiện, việc thực hành tiết kiệm trong sản xuất có thể được xem như là giải pháp quan trọng do nó có hiệu ứng dây .Theo phân tích ở trên, các chi phí sản xuất trong ngành dệt may Việt Nam luôn cao hơn so với các nước trong khu vực . Một ví dụ cho nhận định này là trong khi ở cả nước , chi phí điện chỉ chiếm từ 7.5%-8% trong giá thành một mét vải thì ở ta , chỉ tiêu này là 10% . Nhiều doanh nghiệp hằng năm phải trả tới hàng chục tỷ đồng tiền điện , với một xưởng nhuộm có công suất 1,5 triệu tấn vải/năm, cần 1,11 triệu lít dầu FO và khoảng 1 triệu KWh điện. Tổng số tiền tiêu thụ để phục vụ cho quy trình nhuộm, sấy số vải trên khoảng gần 5,3 tỷ đồng/năm. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng năng lượng chỉ đạt khoảng 74%-78%.
Lập đề án trình Chính phủ để liên kết với các Ngân hàng thương mại lớn, thành lập Tập đoàn Tài chính - Dệt may Việt Nam, để giải quyết nhu cầu vốn cho tương lai phát triển lâu dài của dệt may Việt Nam. Với phương châm đa dạng hoá nguồn vốn và với cơ chế tài chính phù hợp, chắc chắn Ngành dệt may Việt Nam sẽ có đủ vốn để hoàn thành các mục tiêu nêu trên.
Ngoài ra thu hút vốn từ đội ngũ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp để đầu tư cho một hạng mục nào đó trong dây chuyền sản xuất .Hình thức này tỏ ra có hiệu quả và được coi là tiền đề cho việc phát hành trái phiếu của doanh nghiệp sau này . Các biện pháp giám sát chi phí đầu vào để giảm thất thoát do tiêu cực cũng là biện pháp cần làm đối với doanh nghiệp .
Thứ hai: Sử dụng hiệu quả nguồn vốn
Để sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả cần các phương án đầu tư tổng thể , có trọng điểm , tránh dàn trải và đầu tư trùng lặp như đã từng làm ở giai đoạn trước. Muốn vậy , cần phải có một sự phối hợp và liên kết mật thiết , thường xuyên giữa Tập đoàn Dệt May Việt Nam - đại diện cho ngành kinh tế - kĩ thuật với Bộ Công nghiệp và UBND các tỉnh , thành phố trong việc cấp giấy phép đầu tư ( cho cả doanh nghiệp trong và ngoài nước ). Riêng đối với các công trình có vốn đầu tư từ nguồn vốn nhà nước thì dự án đầu tư cần phải được giảm sát chặt chẽ ngay từ khâu lập dự án và có sự tham giam gia thẩm định của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam, kể cả ngoài nguồn vốn nhà nước còn các nguồn vốn khác nhưng cần có quy chế chặt chẽ để tránh tình trạng đầu tư không hiệu quả, không sử dụng hết năng lực gây lãnh phí vốn.
Tiếp nữa là xác định được các sản phẩm mũi nhọn theo từng thời kỳ, để có thể phân bổ vốn phù hợp, đồng thời tiền hành phân loại theo mục đích sử dụng để nâng cao tính hiệu quả sử dụng vốn.
KẾT LUẬN
Cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh có vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi nền kinh tế nói chung và mỗi ngành sản phẩm, mỗi doanh nghiệp nói riêng. Đặc biệt trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta cần nhìn nhận rằng cạnh tranh đóng vai trò tất yếu để thúc đẩy sử phát triển nền kinh tế thế giới .Bởi vậy đối các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thì việc tìm ra chìa khóa để trả lời cho bài toán cạnh tranh là một vấn đề được quan tâm hàng đầu.Hơn thế nữa, việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may góp phần khẳng định vị thế Việt Nam với bạn bè thế giới.
Cho đến nay, sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam ở các thị trường nội địa và nước ngoài đã đạt được những thành tựu nhất định thể hiện qua sự gia tăng mạnh mẽ của giá trị xuất khẩu cũng như khả năng chiếm lĩnh thị phầnngày cành lớn,…Song cũng không thể phủ nhận rằng vẫn còn tồn tại những mặt yếu kém về khả năng tự túc về nguyên liệu,thiết kế,.. so với các đối thủ khác trên thị trường. Do đó với việc xây dựng một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam từ nhiều mặt trong đề tài, tôi tin tưởng rằng các sản phẩm Việt Nam sẽ có những bước tiến mạnh mẽ trong thời gian tới, có thể cạnh tranh và khẳng định thương hiệu Việt Nam trên thị trường không chỉ trong nước mà còn trên thế giới.
Tài liệu tham khảo
1. PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương (2007) – Kinh tế đầu tư,Nhà xuất bản Đại học Kinh Tế Quốc Dân
2. Michael E. Potter(1996), “Chiến lược cạnh tranh”,Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà nội.
3. Bộ Thương mại, Niên giám Thương mại Việt Nam 2007, NXB Thống kê, 2007.
4. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia- CIEM&UNDP .Nhà xuất bản giao thông vận tải năm 2003.
5. Báo cáo tài chính tổng hợp giai đoạn 2005-2008 của Công ty cổ phần May 10
6. Xuất khẩu hàng dệt may sẽ phải cạnh tranh quyết liệt-Thuỳ Dương.T/C Công Nghiệp &Thương Mại Việt Nam.
7. Nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng may mặc xuất khẩu khi WTO xoá bỏ hạn ngạch dệt may vào năm 2005-TS.Doãn Kế Bôn.T/C Nghiên Cứu và Trao Đổi Số 8/2006
8. Thử tìm hiểu khả năng cạnh tranh của ngành Công Nghiệp Dệt- May Việt Nam-Dương Đình Giám.T/C Nghiên Cứu – Trao Đổi Số 4/2007.
9. Thái Quang, Kim ngạch dệt may Việt Nam bứt phá 2007, Tạp chí con số và sự kiện, số 12.2007
10. Trang thông tin của Vinatex
11. Trang thông tin của May 10
12. Michael E. Porter, The Competitive Advantage of Nations , (1990).
12. Lee Kuan Yew-school of pulic policy _”Competitiveness, Clusters and Institution for Collaboration”- 20/08/2008
13. Vietnamese textile industry after joining the WTO, General Statistic Office, Ministry of Planning and Investment.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21632.doc