Chuyên đề Đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương: Thực trạng và giải pháp

Công tác quy hoạch nông, lâm, thủy sản thời gian qua trên địa bàn tỉnh bên cạnh những kết quả đạt được còn bộc lộ một số tồn tại như quy hoạch chưa được những vùng nguyên liệu, chăn nuôi sản xuất lớn phục vụ ngành công nghiệp chế biến cả về chất lượng, số lượng cũng như sự ổn định của vùng nguyên liệu. Đồng thời, thiếu sự kết hợp giữa quy hoạch với xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách, đầu tư, khoa học công nghệ, khuyến nông. Với yêu cầu của thời kỳ hội nhập hiện nay, các loại nông sản của nước ngoài tràn ngập khắp thị trường trong nước như hiện nay đặc biệt là các loại nông sản của Trung Quốc, để ngành nông nghiệp Hải Dương phát triển và cạnh tranh được cần có quy hoạch cho từng ngành nông nghiệp, xác định yếu tố mũi nhọn có khả năng cạnh tranh đồng thời cũng phải phù hợp với điều kiện sản xuất tự nhiên của tỉnh. Trong thời gian tới công tác quy hoạch của Hải Dương cần phải chú ý tới các tới một số vấn đề sau: - Quy hoạch về sản xuất lúa gạo cần tập trung theo hướng đầu tư, nâng cao năng suất chất lượng cao tại một số huyện có diện tích đất nông nghiệp màu mỡ như tại Ninh Giang, Thanh Miện, Bình Giang, Gia Lộc, Tứ Kỳ. Kiên quyết giữ những diện tích đất trồng lúa màu mỡ cho năng suất cao. Những vùng đất trũng trồng lúa gặp nhiều khó khăn thì có thể chuyển sang làm trang trại chăn nuôi và thả cá. Những diện tích đất xấu ít màu mỡ có thể chuyển đổi mục đích sử dụng thành đất chuyên dụng hoặc xây dựng nhà máy, cơ sở sản xuất kinh doanh. Đối với các cây ăn quả nên giữ nguyên diện tích những cây ăn quả đã có và không khuyến khích mở rộng đặc biệt là đối với cây vải, vì hiện nay quả vải rất khó tiêu thụ do sản lượng vải quả hàng năm đã bị bão hòa và rất khó xuất khẩu cũng như bảo quản. Nên tập trung vào các biện pháp canh tác và cải tạo giống để nâng cao năng suất, chất lượng quả, tăng thu nhập.

doc80 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1978 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
000 140.000 170.000 9 SL thịt gia cầm (tấn) 25.000 30.000 37.000 Nguồn: Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn - Sở kế hoạch & đầu tư tỉnh Hải Dương Qua bảng trên ta thấy mục tiêu của ngành nông nghiệp Hải Dương là giảm diện tích đất trồng lúa năm 2010 là 61.789 ha, năm 2015 là 58.000 ha, năm 2020 là 55000 ha nhưng vẫn duy trì diện tích cây rau màu vụ đông là 35.000ha. Điều này chứng tỏ trong những năm tiếp theo nông nghiệp Hải Dương phải tích cực tiến hành thâm canh tăng vụ, triệt để lợi dụng điều kiện đất đai khí hậu của vùng để sản xuất những cây rau màu vụ đông có năng suất cao trên diện tích đất trồng lúa như: su hào, xúp lơ, bắp cải, khoai tây… Điều này cũng đồng nghĩa với việc là hệ số sử dụng đất cũng tăng từ 2,76 năm 2010 đến năm 2,88 năm 2020. Việc tăng cường duy trì diện tích cây màu vụ đông không chỉ góp phần làm tăng giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp mà còn góp phần giải quyết công ăn việc làm của người nông dân trong lúc nông nhàn đồng thời cũng tăng giá trị màu mỡ của đất đai. Tuy nhiên diện tích đất nông nghiệp giảm đi do hai nguyên nhân chính là một bộ phận lớn đất nông nghiệp bị quy hoạch thu hồi để xây dựng khu công nghiệp và một bộ phận để xây dựng các khu công nghiệp và chuyển đổi thành đất chuyên dùng xây dựng trường học, trạm xá, trụ sở, ủy ban… và một bộ phận diện tích trồng lúa không hiệu quả được chuyển sang diện tích nuôi trồng thủy sản và cây ăn quả… Việc diện tích trồng lúa bị giảm đi do nguyên nhân thứ nhất gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất nông nghiệp của tỉnh và xa hơn nữa đó là ảnh hưởng tới an ninh lương thực quốc gia vì Hải Dương nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng một trong hai vùng trồng lúa lớn nhất nước ta. Chính vì vậy Hải Dương cần có các chính sách bảo vệ và quản lý diện tích đất trồng lúa, loại đất sản xuất lúa tốt nhất phải được bảo vệ nghiêm ngặt, lâu dài không được chuyển đổi sang bất cứ mục đích sử dụng nào khác và cần xử lý nghiêm địa phương xâm phạm đất lúa đã được quy hoạch. Tập trung hệ thống thủy lợi để đảm bảo sản xuất lúa 2 vụ. Để duy trì và đảm bảo sản lượng lương thực trong khi diện tích đất trồng lúa giảm dần thì cần gieo trồng nhiều loại giống lúa mới đảm bảo năng suất, chất lượng phục vụ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Cần phải có được giống lúa thời gian sinh trưởng nhanh, kháng được nhiều loại sâu bệnh, năng suất cao thích nghi được với nhiều điều kiện khắc nghiệt của môi trường thời tiết. Điều này đòi hỏi sự đầu tư lớn cả về chủ trương chính sách, và sự trợ giúp từ ngân sách nhà nước. Trong khi sản lượng lúa giảm đi thì sản lượng của cây ăn quả và cây lương thực sẽ tăng lên theo việc đa dạng hóa cây trồng vật nuôi. Đây là kết quả của việc thâm canh, tăng vụ và chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Sản lượng thịt hơi và thịt gia cầm cũng tăng lên. Lợn và gia cầm là đối tăng chính của ngành chăn nuôi tỉnh Hải Dương. Hiện nay, trên địa bàn có rất nhiều trang trại chăn nuôi lợn và gia cầm tập trung đáp ứng nhu cầu về thực phẩm trên địa bàn và các vùng lân cận là nguồn cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thịt đóng hộp xuất khẩu. 1.2. Bối cảnh kinh tế xã hội ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp tỉnh Hải Dương 1.2.1. Nền kinh tế đang bước vào thời kỳ hội nhập, cạnh tranh Nền kinh tế Việt Nam bị chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc chiến tranh kéo dài, lại trải qua một thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập chung trong khi đó nền kinh tế thế giới đã phát triển đến trình độ cao sau nhiều cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, sau nhiều lần cải cách cơ chế, cải tiến thể chế và trình độ quản lý. Trong điều kiện đó, ngành nông nghiệp nước ta chịu sự thách thức lớn khi tham gia quá trình hội nhập, toàn cầu hóa, quá trình cạnh tranh quyết liệt. Đối với thị trường Đông Nam Á: khi hội nhập AFTA (khu vực mậu dịch tự do của các nước Đông Nam Á), hầu hết các mặt hàng nông nghiệp của chúng ta đều giống mặt hàng mà các nước Đông Nam Á khác cũng đang sản xuất do có chung nhiều đặc điểm về thổ nhưỡng và điều kiện khí hậu. Tuy nhiên, các mặt hàng của chúng ta có ít lợi thế so sánh hơn do không làm tốt khâu chăm bón, bảo quản và chế biến đặc biệt là so với các mặt hàng nông sản của Thái Lan. Mặt khác họ lại có kinh nghiệm buôn bán trên thị trường như gạo, cà phê, chè, thuốc lá, thịt gia súc, gia cầm. Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á) và Trung Quốc có hiệu lực từ 1/1/2003 tạo cơ hội lớn cho hàng hóa hai bên thâm nhập vào thị trường của nhau theo hướng chính ngạch. Tuy nhiên, Trung Quốc đang vươn tới cường quốc thương mại, khả năng vượt trội so với Việt Nam về chi phí dịch vụ, trình độ công nghệ, chế biến, cơ sở hạ tầng và thương mại, uy tín thương hiệu và kinh nghiệm cạnh tranh trên thương trường sẽ là những thách thức lớn đối với hàng hóa Việt Nam nói chung và hàng hóa nông sản thực phẩm của Hải Dương nói chung. Ngày 07/11/2006 Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào tổ chức thương mại thế giới. Nhờ đó mà đã có được những cớ hội lớn tiếp cận thị trường hàng hóa dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo các nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử điều đó tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu, mở rộng kinh doanh ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm 60% GDP thì điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố dảm bảo tăng trưởng. Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước, thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, đảm bảo tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước. Gia nhập WTO, chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đương nhiên kết quả còn phụ thuộc vào vị thế của nước ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quản lý điều hành nền kinh tế. Đồng thời với những cơ hội đó chúng ta cũng gặp nhiều thách thức lớn. Vì đất nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé. Những thách thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tàng của chính quá trình hội nhập. Đó là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối thủ lớn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm của các nước khác, giữa doanh nghiệp nước ta với sản phẩm của các nước và không chỉ ở thị trường quốc tế mà ngay cả thị trường trong nước do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3 – 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước với nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hóa là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hóa. Nguy cơ phá sản một bộ phận các doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hóa giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn, phải quán triệt và thực hiện tốt chủ trương của Đảng: “tăng cường kinh tế đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”. Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa, tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, nhanh nhạy, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu vươn lên mạnh mẽ. Ngành nông nghiệp phải chịu nhiều sức ép của hội nhập WTO, trong đó những tác động từ những phá bỏ cản đối với nông sản nước ngoài, sự tăng giá của các vật tư, sự tính toán đầy đủ các chi phí theo hội nhập sẽ tiếp tục là những thách thức lớn cho ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung và nông nghiệp Hải Dương nói riêng: - Hạ tầng nông nghiệp còn yếu kém, chưa thực sự tạo môi trường kinh tế cho các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, nhất là cạnh tranh về giá. Đồng thời cũng kém hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. - Môi trường pháp lý tuy có thay đổi do yêu cầu của quá trình đàm phán hội nhập và lộ trình thay đổi theo cam kết. Nhưng trên thực tế sự biến đổi trong cải cách hành chính còn chậm dẫn đến sức hút đầu tư kém. Trong số các dự án FDI đầu tư vào Hải Dương trong thời gian qua vào Hải Dương có rất ít các dự án đầu tư vào lĩnh vực và chưa thu hút được các nhà đầu tư có tiềm năng lớn về nông nghiệpnhư là Mỹ, Australia… - Cơ chế chính sách chưa theo kịp yêu cầu của hội nhập. Chính sách nông nghiệp trước đây là lo đủ ăn và có dư thừa để xuất khẩu. Nay hướng sang giai đoạn phát triển có hiệu quả cao và bền vững. Vì vậy, cần hướng nông dân tiếp cận được các thông tin về thị trường, đàm phán thương mại, kểm tra chất lượng và đăng ký thương hiệu nông sản…Kế hoạch phát triển nông nghiệp phải hướng tới ba lĩnh vực chủ yếu là: chuyển giao tiến bộ khoa học – công nghệ; tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho kinh tế nông thôn; tập trung xây dựng các cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn. Trong khi đó, sản xuất nông nghiệp vẫn ở tình trạng manh mún từ ruộng đất đến tư duy kinh tế qua việc quy hoạch, định hướng phát triển sản xuất dàn trải… 1.2.2. Các điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi cho phát triển nông nghiệp của tỉnh Hải Dương Sự phát triển của ngành công nghiệp có tác động quan trọng tới sự phát triển nông nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới nông nghiệp là công nghiệp chế tạo máy móc phục vụ nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm . Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp kéo theo quá trình đô thị hóa và dịch chuyển lao động dân cư, mở rộng nhu cầu tiêu thụ hàng nông sản. Đây là một tác động thuận lợi của sự phát triển các ngành công nghiệp đối với dịch vụ. Sự phát triển của giao thông, vận tải và các ngành dịch vụ giúp cho thông thương sản phẩm nông nghiệp được nhanh chóng, thuận tiện, làm giảm các chi phí phụ trợ của quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giai đoạn đến năm năm 2020, việc xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp, khu đô thị tạo thành các hành lang kinh tế tổng hợp, đóng vai trò là động lực phát triển kinh tế có tác động rất lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hải Dương nói chung và phát triển nông nghiệp Hải Dương nói chung. Các hành lang kinh tế cũng tạo điều kiện rất thuận lợi đối với sự phát triển nông nghiệp của tỉnh. Hành lang kinh tế Việt – Trung: thông qua các cửa khẩu Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc. Các tỉnh Vân Nam, Nam Ninh, Đông Hưng (Trung Quốc) đều có số dân khoảng 50 triệu người/ tỉnh, giàu tiềm năng về khoáng sản (nhất là quặng thiếc) và du lịch, hoa, cây cảnh. Đường từ Côn Minh (thủ phủ tỉnh Vân Nam) tới cảng biển gần nhất thuận tiện nhất chính là Hải Phòng. Công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản các dịch vụ thương mại, du lịch dọc theo tuyến hành lang này trong những năm tới sẽ rất phát triển. Trục giao thông đường số 5 Hà Nội nối cảng biển Hải Phòng đã đang và sẽ phát triển thành một hành lang kinh tế quan trọng và nhộn nhịp vào bậc nhất miền Bắc. Các điểm đô thị, khu công nghiệp gần nhau tạo thành chuỗi liên tiếp Sài Đồng, Ha nell, Phố Nối A, Phố Nối B, Phúc Điền, Tân Trường, Đại An, Việt Hoà, Nam Sách, Lai Vu, Phú Thái, Đò Nống - chợ Gạo, Nomuta, nam cầu Kiền, Đình Vũ, Tràng Duệ sẽ được điều chỉnh và bố trí đường gom đảm bảo thông thoáng, đồng thời tạo mối liên kết và giao lưu phát triển kinh tế đa dạng, phong phú. Hành lang kinh tế Nội Bài - Hạ Long (đi qua Chí Linh) theo đường cao tốc 18. Nhiều công trình sản xuất điện, xi măng, cơ khí chế tạo quy mô lớn sẽ được xây dựng làm cho tuyến hành lang này trở thành hành lang kinh tế mà công nghiệp nặng giữ vai trò chủ đạo. Nhiều khu công nghiệp mới sẽ hình thành và phát triển: Quế Võ, Yên Phong, Thuận Thành, Phả Lại, Đông Mai, Hải Yên, Hoành Bồ, Hạ Long. Hành lang kinh tế Hà Nội - Hải Phòng theo đường cao tốc mới: Đây là đường cao tốc nằm về phía nam đồng bằng sông Hồng. Nhiều đô thị và khu công nghiệp mới, khu nông nghiệp công nghệ cao sẽ hình thành, khơi dậy nhiều tiềm năng to lớn về lao động, các di tích lịch sử văn hóa. Sự phát triển của các khu công nghiệp – đô thị theo các hành lang kinh tế, sự phát triển của các loại hình dịch vụ, du lịch trong vùng sẽ thu hút nhiều lao động, làm giảm áp lực dư thừa lao động trong nông thôn. Đồng thời sự chuyển dịch cơ cấu lao động làm cho mức thu nhập của cư dân tăng mạnh. Do vậy, nhu cầu về các sản phẩm nông nghiệp không chỉ tăng về số lượng mà còn đòi hỏi cao hơn về chất lượng. 1.3. Nhu cầu vốn đầu tư cho nông nghiệp giai đoạn (2006 – 2020) Trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, việc giải quyết mối quan hệ giữa nhu cầu vốn cho phát triển và nguồn lực đảm bảo cho thực hiện chiến lược phát triển đất nước luôn là bài toán khó. Đầu tư vào nông nghiệp thường cho lợi nhuận thấp và rủi ro cao. Do tầm quan trọng chiến lược và những yếu tố đặc thù, thời gian qua nhà nước đã quan tâm bố trí ngân sách đầu tư vào nông – lâm - thủy sản với tỷ lệ vốn khá cao. Giai đoạn đến năm 2010 và những năm tiếp theo hướng đầu tư cho – nông – lâm vẫn cần được tăng cường, song tỷ lệ huy động vốn từ nguồn tín dụng và dân doanh cũng như vốn thu hút đầu tư nước ngoài cần được mở rộng hơn, tăng nhanh hơn đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy tỷ trọng vốn ngân sách nhà nước đầu tư cũng giảm dần, giai đoạn 2006 – 2010 chiếm 30,4%, giai đoạn 2011 – 2015 chiếm 32,35%, giai đoạn 2016 – 2020 chiếm 31,04%. Các hướng đầu tư chủ yếu: Về thủy lợi Hệ thống thủy lợi của tỉnh được tuy hàng năm được cải tạo nâng cấp, nhưng thường không đồng bộ. Quá trình khai thác và dưới tác động của thiên nhiên, nhiều công trình bị xuống cấp, máy móc thiết bị lạc hậu, hiệu suất sử dụng thấp. Biến động của khí hậu và quá trình xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện trên sông, quá trình phát triển kinh tế cũng như nhu cầu thâm canh phát triển nông nghiệp đòi hỏi phải đánh giá, quy hoạch lại hệ thống thủy lợi vùng đồng bằng sông Hồng trong đó có Hải Dương, Viện quy hoạch thủy lợi Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đang tiến hành nhiệm vụ này. Các chỉ tiêu được xác định qua quy hoạch sẽ là căn cứ cho việc đầu tư xây dựng hệ thống thời gian tới. Hướng đầu tư chủ yếu sẽ là: - Nâng cấp hệ thống đê điều, xây dựng các tuyến đê kè đảm bảo ổn định dòng chảy, chống sạt lở, cứng hóa toàn bộ mặt đê, xây mới thay thế các cống qua đê cũ hỏng và đảm bảo phòng chống lũ lụt. - Xây dựng nâng cấp hệ thống công trình thủy lợi nội đồng phù hợp với các chỉ tiêu quy hoạch thủy lợi điều chỉnh. Nạo vét các trục nước chính của hệ thống thủy nông. Cải tạo, thay thế các trạm bơm trục ngang đã cũ bằng máy trục đứng. Nâng cao hệ số tiêu thoát nước để đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất nông nghiệp, xây dựng và nâng cấp các hồ chứa nước dung tích lớn khu vực bắc đường 18 đối với khu vực sản xuất rau chuyên canh chất lượng cao, rau an toàn. Về nông, lâm, thủy sản Đầu tư theo các chương trình, dự án từng thời kỳ, đặc biệt chú trọng đến các chương trình giống và các dự án vệ sinh môi trường trong chăn nuôi, thủy sản và trồng trọt, các vùng sản xuất tập trung. Bảng 2.3: Nhu cầu vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương đến năm 2020 Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2006 - 2010 2011 - 2015 2016 - 2020 I. Tổng vốn đầu tư phát triển 40500 68245 114997 Trong đó: Vốn NSNN 8505 15696 24194,4 Tỷ trọng (%) 21 23 21 II. Vốn đầu tư phát triển NN 2573,303 3725 5025 Trong đó 1. Vốn ngân sách nhà nước 893,303 1205 1560 Tỷ trọng (%) 34,7 32 31 Ngân sách trung ương 460,21 640 855 Đê điều 102,71 155 195 Thủy lợi nội đồng 303 405 540 Nông - lâm - thủy sản 54,5 80 120 Ngân sách địa phương 433,093 565 705 Đê điều 92,45 115 140 Thủy lợi nội đồng 156,5 200 255 Nông - lâm - thủy sản 184,143 250 310 2. Vốn tín dụng 710 1050 1400 3. Vốn dân doanh 770 1150 1550 4. Vốn đầu tư nước ngoài 200 320 515 Nguồn: Phòng quy hoạch tổng hợp - Sở kế hoạch & đầu tư tỉnh Hải Dương Qua bảng trên ta thấy, do sự phát triển của nền kinh tế nói chung nhu cầu vốn của ngành nông nghiệp cũng tăng lên về quy mô ở tất cả các nguồn vồn. Quy mô vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trong tổng vốn đầu tư phát triển duy trì ở mức là 20% thấp hơn 30% của nguồn vốn ngân sách trong tổng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp là 10%, rõ ràng trong những năm tới có sự ưu tiên sử dụng vốn ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển nông nghiệp và nguồn vốn ngân sách nhà nước vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong sự phát triển của ngành nông nghiệp tuy nhiên tỷ trọng này có xu hướng giảm xuống trong khi quy mô các nguồn vốn khác như vốn tín dụng và đặc biệt là nguồn vốn dân doanh tăng lên rất nhiều. 1.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào nông nghiệp Hải Dương 1.4.1. Đẩy mạnh việc tích tụ ruộng đất tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư phát triển nông nghiệp Khuyến khích tích tụ ruộng đất để hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá, các trang trại sản xuất tập trung quy mô lớn, phù hợp yêu cầu hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tạo điều kiện xác lập các mối liên kết giữa các hộ nông dân sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản; khuyến khích, tạo điều kiện cho nông dân mua cổ phần trong các cơ sở chế biến; liên kết giữa nông dân với các cơ sở chế biến, doanh nghiệp thương mại nhằm hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với việc quản lý chất lượng và cung cấp thông tin thị trường cho các chủ thể sản xuất. Mục tiêu chung của phát triển sản xuất nông nghiệp là phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa, có các vùng sản xuất tập trung. Việc tích tụ ruộng đất để tạo ra những vùng sản xuất rộng lớn và chuyên biệt là một yêu cầu cấp thiết cho phát triển nông nghiệp, cần tạo điều kiện cho những nông dân sản xuất giỏi có thể mở rộng quy mô sản xuất theo hướng gia trại, trang trại, có điều kiện tiếp thu tiến bộ khoa học vào sản xuất. Việc tích tụ đất đai sẽ tận dụng được lợi thế về quy mô tạo thuận lợi cho sản xuất, thu hoạch, chế biến và bảo quản. Vì thế yêu cầu đầu tiên, trước mắt là phải tích tụ được ruộng đất để nhiều hộ gia đình sản xuất nông nghiệp có quy mô từ 01 ha trở nên mới có điều kiện sản xuất sản phẩm hàng hóa. Tích tụ ruộng đất là chủ trương lớn mà nhà nước đã ban hành (Nghị quyết 10/BTC năm 1988 – quy định về hạn điền của Ủy ban Thường vụ quốc hội năm 2007). Đây là vấn đề lớn phức tạp liên quan đến lịch sử, đến tập quán trong tập quán sinh hoạt của người nông dân. Do vậy công tác tuyên truyền tới người dân phải tập trung vào: - Quy hoạch khu chăn nuôi tập trung ở các thôn: mục tiêu đến năm 2020 cơ bản không còn chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán ở các hộ gia đình, căn cứ vào quy hoạch đất đai ở các xã, đến năm 2015 các xã hoàn chỉnh quy hoạch chi tiết khu chăn nuôi tập trung, mỗi thôn có từ 1 – 2 khu, diện tích từ 3 ha trở lên. Đến năm 2010 có 5 % số thôn (70 thôn) triển khai thực hiện, đến năm 2015 có thêm 500 thôn và đến năm 2020 cơ bản các thôn đều triển khai mô hình chăn nuôi tập trung. Do điều kiện nguồn vốn của nông dân có hạn, đề nghị ngân sách hỗ trợ tiền đền bù đất đai và xây dựng kết cấu hạ tầng; các hộ nông dân xây dựng chuồng trại, mua sắm máy móc, phương tiện và con giống thức ăn để tổ chức sản xuất. - Các hộ nông dân có điều kiện để sản xuất sản phẩm hàng hóa thuê đất của các hộ khác theo giá thuê đất sản xuất công nghiệp để sản xuất nông nghiệp (theo quy hoạch được duyệt). Hình thức này người có ruộng sẵn sàng cho thuê nhưng người đi thuê thì đầu tư quá lớn, các hộ nông dân không đủ vốn, thiếu vốn ( tiền thuê đất 360 triệu/ 1ha). Vì vậy nhà nước cần hỗ trợ từ 20 – 30% tiền thuê đất và tiền xây dựng kết cấu hạ tầng khu sản xuất. - Các hộ nông dân có điều kiện để sản xuất sản phẩm hàng hóa thuê lại mầu (trả địa tô chênh lệch 2) cho các hộ khác, thời gian thuê có thời hạn từ 5 – 10 năm để tổ chức sản xuất các loại cây trồng hàng năm, sản xuất các giống cây. Hình thức này vốn thuê đất không lớn (khoảng 15 triệu/ha/năm). Các chủ hộ đỡ khó khăn về nguồn vốn. Tuy nhiên, các chủ hộ vẫn có tư tưởng đất thuê, mướn có thời hạn nên việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vục cho sản xuất không lớn, không bền vững. Hình thức thuê đất này phù hợp với các hộ có kinh nghiệm sản xuất rau màu hàng hóa, đăng ký bán sản phẩm sạch (rau an toàn) để tiêu thụ trong và ngoài nước. - Các hộ nông dân có điều kiện để sản xuất sản phẩm hàng hóa chuyển đổi ruộng đất cho nhau: hình thức này đơn giản nhưng trong thực tế lại không khả thi vì ruộng canh tác của mỗi hộ phổ biến trên dưới 1 mẫu bắc bộ chia làm 2 – 3 thửa, nay có đổi để dồn lại 1 thửa thì diện tích cũng quá nhỏ, khó đầu tư thành khu, vùng sản xuất hàng hóa được. Hình thức này nên kết hợp với thuê lại đất cũng không còn nhiều lại để rải rác ở nhiều xứ đồng và đều bị giới hạn thời hạn đến năm 2013. Từ những phân tích trên đưa ra giải pháp tích tụ ruộng đất là cần thiết, tất yếu sẽ phải diễn ra nên tập trung theo hình thức thứ nhất và thứ 2, thứ 3. Muốn tích tụ ruộng nhanh hơn, rõ hơn thì cần tuyên truyền để người thuê đất yên tâm với chính sách cho thuê đất lâu dài, ổn định của nhà nước; người cho thuê đất cũng dần dần thay đổi nhận thức nếu có ruộng thì làm ăn kém hiệu quả thì cho chủ thuê đất mà được trả công hợp lý, thỏa đáng. 1.4.2. Bố trí nguồn lao động hợp lý cho phát triển nông nghiệp Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, nguồn lao động trong nông nghiệp có số lượng lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn lao động. Song cùng với quá trình công nghiệp hóa, nguồn lao động có xu hướng cả về tương đối và tuyệt đối. Nguồn nhân lực trong nông nghiệp có đặc điểm riêng so với các ngành vật chất khác, trước hết là mang tính thời vụ cao, nó làm phức tạp quá trình sử dụng yếu tố nguồn nhân lực trong ngành nông nghiệp và nó có xu hướng thu hẹp không ngừng về số lượng và được chuyển sang ngành khác trước hết là công nghiệp với đội ngũ lao động có trình độ trẻ khỏe. Vì thế số người ở lại trong khu vực nông nghiệp thường là những người có độ tuổi trung bình cao và tỷ lệ này có xu hướng tăng lên. Với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng và toàn quôc nói chung thì sự di chuyển nguồn lao động từ nông nghiệp sang các ngành này là một lẽ tất yếu. Tuy vậy tỉnh Hải Dương cũng cần phải có những kế hoạch cụ thể để bố trí nguồn lao động một cách hợp lý và có những cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích người dân tích cực tham gia sản xuất nông nghiệp tránh sự di chuyển ồ ạt lao động từ nông thôn lên thành thị và ra các vùng khác. Vì con người là chìa khóa của sự phát triển. Nếu tình trạng lao động nông nghiệp Hải Dương cứ mãi như hiện nay (có tới 60% lao động sản xuất nông nghiệp trong tổng số lao động của địa bàn nhưng chủ yếu là những người trên 40 tuổi và phụ nữ) thì ngành nông nghiệp sẽ không nhanh chóng phát triển được và ngày càng tụt hậu hơn so với ngành công nghiệp và dịch vụ vì vịêc ứng dụng khoa học công nghệ và tiếp thu những kiến thức mới sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Phương hướng bố trí lao động cho phát triển nông nghiệp của tỉnh Hải Dương trong thời gian tới: - Đẩy mạnh việc mở rộng quy mô sản xuất, thâm canh tăng vụ để thu hút thêm nhiều việc làm, tăng sản phẩm hàng hóa và tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp, nâng cao thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 85% năm 2010 và 92% năm 2020. - Đưa máy móc thiết bị vào các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp để nâng cao năng suất lao động. Lao động trong ngành nông nghiệp phấn đấu giảm từ 70,57% năm 2005 xuống còn 53% năm 2010, năm 2015 giảm còn 46% và đến năm 2020 còn 35% trong tổng lao động xã hội. - Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn để đẩy mạnh tốc độ giảm nghèo. Tập trung nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm xúc tiến hỗ trợ việc làm cho người lao động. Củng cố mới hoạt động của hệ thống đào tạo nghề, giải quyết tốt mối quan hệ giữa người đào tạo lao động và người sử dụng lao động. Chú trọng đào tạo nghề cho nông dân ở những nơi bị thu hồi đất. Mặc dù tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhưng trong khu vực nông nghiệp tình trạng thiếu việc làm vẫn xảy ra. Do vậy cần phải tạo ra việc làm và tăng thu nhập cho khu vực nông thôn. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, đa dạng hóa cây trồng, hướng vào những cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hóa và hàng hóa xuất khẩu để tạo việc làm và tăng thu nhập cho nông dân. Để giảm khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị cần phải tạo việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn. Giảm tỷ trọng hộ thuần nông, tăng hộ nông nghiệp kiêm ngành nghề dịch vụ. Mặt khác tăng cường tiết kiệm trong dân cư nông thôn đẩy mạnh đầu tư phát triển công nghiệp nông thôn thông qua việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các thị trấn, các tụ điểm dân cư để thu hút lực lượng lao động trẻ ở nông thôn vừa tạo ra những sản phẩm tiêu dùng phục vụ dân cư nông thôn bằng những chính sách cởi mở khuyến khích dân cư đầu tư phát triển mạnh công nghiệp nông thôn. 1.4.3. Tăng cường các nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp Để phát triển nông nghiệp Hải Dương theo hướng bền vững và không bị lạc hậu so với ngành công nghiệp và dịch vụ thì phải đáp ứng được các nhu cầu vốn đầu tư cho các ngành này. Trong điều kiện các nguồn lực bị chia sẻ như hiện nay thì cần phải có những cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút và tăng cường mọi nguồn vốn đầu tư cả trong và ngoài nước. Đối với nguồn vốn trong nước thì nguồn vốn tín dụng chiếm một tỷ trọng khá cao. Nhưng trong thực tế nguồn vốn này tại các ngân hàng thường rất dồi dào nhưng nông dân và doanh nghiệp muốn tiếp cận được nguồn vốn này cũng gặp không ít khó khăn và thủ tục phiền hà. Thường nguồn vốn này chỉ cho vay theo các dự án cho nên nông dân vay được rất ít, các ngân hàng thương mại đặc biệt là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cần cải tiến phương thức cho vay thuận tiện, tăng mức cho vay và thời hạn cho vay dài hạn; phổ biến rộng rãi thủ tục, cách thức vay và thanh toán cho mọi người dân, đồng thời tạo điều kiện để các tổ chức đoàn thể ở thôn, xã đóng vai trò là người tư vấn, hỗ trợ cho việc vay vốn của nông dân nhằm huy động tốt hơn nguồn vốn cho sản xuất nông nghiệp. Nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước tạo động lực thu hút các nguồn vốn của nhân dân, tăng thêm niềm tin cho nông dân khi thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Hiện nay lượng vốn đầu tư còn thấp, ở mức 1,3 – 1,5 % ngân sách; cần tăng lên 2,5 -3% (không kể vốn đầu tư cho đê điều, xử lý thiên tai, dịch bệnh). Tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ (bằng ngân sách) để khuyến khích nông dân đóng góp hoặc doanh nghiệp, hộ tư nhân đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp trong việc xây dựng hệ thống tưới tiêu… Cần tạo cơ chế, chính sách phù hợp để hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Đó là những ưu tiên về thuế, đất đai, hỗ trợ sản xuất...nhằm giảm bớt những rủi ro vào lĩnh vực này. Nguồn vốn đầu tư từ khu vực dân cư và dân doanh đóng vai trò quan trong và có triển vọng nhất vì nguồn vốn này sẽ đem lại hiệu quả đầu tư cao nhất do mục tiêu của người đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận. Muốn ngành nông nghiệp phát triển cần phải có những giải pháp kịp thời để tăng cường thu hút nguồn vốn này.Nguồn vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp hiện nay ở Hải Dương chiếm tỷ trọng nhỏ bé so với tổng nguồn vốn FDI và nguồn vốn đầu tư xã hội. Nguồn vốn này mới chỉ dừng lại ở một số dự án lẻ tẻ và chủ yếu là một số nước trong khu vực châu Á, chưa thu hút được các nhà đầu tư lớn như Trung Quốc, Nhật Bản và chủ yếu tập trung vào lĩnh vực chế biến nông sản. Các dự án này có tốc độ giải ngân chậm chạp và hiệu quả đầu tư cũng không cao. Để nền sản xuất nông nghiệp phát triển và không bị lạc hậu so với các nền nông nghiệp trong khu vực và thế giới thì thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này để tiếp thu trực tiếp kinh nghiệm quản lý và sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại được xem như là giải pháp tối ưu nhất. Nhưng với tình hình hiện nay thì nông nghiệp Hải Dương vẫn chưa hấp dẫn được các nhà đầu tư nước ngoài so với lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Một phần là do tỷ suất lợi nhuận đầu tư vào nông nghiệp không cao, rủi ro nhiều và chu kỳ sản xuất kéo dài, vốn lớn nên không hấp dẫn các nhà đầu tư. Mặt khác, việc quy hoạch đất nông nghiệp để xây dựng vùng nguyên liệu còn diễn ra chậm chạp, các thủ tục đầu tư rườm rà cũng là những trở ngại lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài khiến họ không mặn mà với lĩnh vực này. Để thu hút được nguồn vốn này các cấp, ban, ngành có liên quan phải có cơ chế hỗ trợ kịp thời và có những ưu đãi đặc biệt. Như sự cần thiết phải có những chính sách thúc đẩy các dự án tăng cường triển khai thực hiện vốn và thu hút những dự án lớn vào những ngành nghề kém hấp dẫn. Bên cạnh đó, cần cải tiến các thủ tục hành chính cho phù hợp với xu thế phát triển và điều kiện của các doanh nghiệp. Hệ thống cơ sở hạ tầng ở khu vực nông nghiệp nông thôn cũng là trở ngại lớn cho việc thu nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Chính bởi vậy, để khu vực nông nghiệp có sức hút lớn hơn với các nhà đầu tư cần phải cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng đường giao thông, điện nước, viễn thông và tạo ra một cơ chế cấp phép đầu tư thuận lợi. 1.4.4. Chú trọng vào vấn đề tiêu thụ và chế biến các sản phẩm nông nghiệp Phát triển công nghiệp chế biến và tiêu thụ là cách thức nâng cao giá trị gia tăng của nông sản và thu hẹp tình trạng xuất khẩu sản phẩm thô. Việc phát triển công nghiệp chế biến còn tạo nên thị trường to lớn và ổn định cho sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, công nghiệp chế biến nông sản của Hải Dương còn nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, tỷ trọng nông sản chế biến trong tổng sản lượng sản xuất còn rất thấp. Để phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cần giải quyết nhiều vấn đề, trong đó chủ yếu là: - Rà soát lại quy hoạch sản xuất nông nghiệp cho phù hợp với yêu cầu của thị trường trong nước và thế giới ; phát huy, khai thác được lợi thế tự nhiên, kinh tế của từng vùng, sinh thái nâng cao khả năng của những loại nông sản, ngành sản xuất mà tỉnh có thế mạnh. Hình thành vùng sản xuất tập trung, thâm canh gắn với công nghiệp chế biến. Khắc phục tình trạng xây dựng cơ sở chế biến nhưng thiếu nguyên liệu sản xuất hoặc phát triển vùng nguyên liệu sản xuất nhưng chưa có nhà máy chế biến. Ví dụ: Quy hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn theo định hướng xuất khẩu ( trông vải ở Thanh Hà, Chí Linh; vùng trồng dưa hấu ở Kim Thành; vùng rau ở Gia Lộc, vùng nuôi cá, ba ba ở Tứ Kỳ…). Từ đó, tập trung đầu tư thâm canh và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới để đáp ứng tốt yêu cầu chế biến xuất khẩu. Khuyến khích việc thành lập hợp tác xã, hiệp hội chăn nuôi, thủy sản. Chủ động thực hiện việc liên kết 4 nhà: nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nước theo phương thức khép kín từ sản xuất - chế biến – tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. - Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản gần với vùng nguyên liệu. Quy hoạch điểm giết mổ gia cầm gắn với tiêu thụ sản phẩm. Có những chính sách ưu đãi kích thích sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến xuất khẩu. Thực hiện song song 2 hướng: đầu tư đổi mới hiện đại hoá thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp chế biến nông sản hiện có; đầu tư xây dựng các doanh nghiệp chế biến mới với trình độ công nghệ hiện đại. 1.4.5. Tăng cường đầu tư vào khoa học công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp Nâng cao trình độ khoa học và công nghệ là điều kiện cơ bản nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Đê ngành nông nghiệp có sự phát triển mạnh mẽ và vượt bậc thì khoa học công nghệ đóng vai trò quyết định. Nhiều loại giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên đã thay thế cho những loại giống cũ. Khoa học và công nghệ bước đầu phát huy vai trò tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu chuyển đổi nhanh, có hiệu quả và bền vững sản xuất nông nghiệp theo định hướng thị trường và nâng cao sức cạnh tranh của nông sản, hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ trên địa bản tỉnh Hải Dương vẫn còn nhiều bất cập. Đến nay, rất nhiều huyện, kể cả những nơi sản xuất hàng hoá tập trung, vẫn tồn tại kỹ thuật canh tác kiểu cổ truyền, sử dụng giống cây con năng suất, chất lượng thấp, không thích ứng với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước dẫn tới năng suất và chất lượng cây trồng, vật nuôi thấp sản phẩm làm ra đem lại giá trị không cao. Ngoài ra, tình trạng lạm dụng những chế phẩm hoá học trong trồng trọt và chăn nuôi đã gây ảnh hưởng xấu tới cả người sản xuất, người tiêu dùng và môi trường sinh thái.   Để khoa học và công nghệ góp phần tích cực vào phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, trong những năm trước mắt cần chú trọng tập trung nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ cao việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, khai thác các lợi thế của từng vùng sinh thái vừa đảm bảo phát triển bền vững, vừa nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản, tăng giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích. Với từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi, cần chú ý đổi mới công nghệ đồng bộ ở các khâu trước, trong và sau sản xuất theo hướng hiện đại. Đẩy mạnh việc phát triển công nghệ sinh học trong nông nghiệp bằng việc thay thế các giống cây trồng và vật nuôi có năng suất và chất lượng thấp, không phù hợp với yêu cầu thị trường bằng các loại giống cây mới có năng suất, chất lượng cao, bảo đảm được những tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm nghiêm ngặt nhất theo yêu cầu thị trường trong và quốc tế.     Cùng với việc ứng dụng kỹ thuật canh tác và những giống cây trồng, vật nuôi mới để tạo nông sản hàng hoá có chất lượng cao, giá thành hạ và phù hợp với thị hiếu tiêu dùng, cần hết sức coi trọng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào khâu sau thu hoạch. Đây là khâu có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giảm tổn thất, nâng cao hiệu quả sản xuất và bảo đảm đáp ứng tốt yêu cầu của người tiêu dùng. Ngoài việc hiện đại hoá kỹ thuật phơi sấy, cần chú trọng nghiên cứu các phương pháp bảo quản rau, hoa, quả, thịt và các loại nông sản thực phẩm khác. Bảo đảm đưa đến người tiêu dùng những nông sản tươi sống hấp dẫn cảm quan bằng màu sắc, hương vị và bảo đảm tuyệt đối vệ sinh an toàn thực phẩm. Hiện nay công tác thu hoạch và bảo quản những loại trái cây đặc sản như vải, nhãn trên địa bàn tỉnh rất kém dẫn đến giá trị của những loại hoa quả này bị giảm đi đáng kể do vải chín đồng loạt trong một thời gian ngắn dẫn tới giá rẻ mà nông dân lại không có điều kiện để bảo quản. Gây thiệt về giá rất nhiều cho người nông dân trồng vải. Làm tốt được công tác bảo quản thì giá trị của cây vải và nhiều loại cây trồng khác trên địa bàn tỉnh sẽ được nâng lên rất nhiều. Để thực hiện tốt việc ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp cần phải tích cực xây dựng và đẩy mạnh các chương trình trong các lĩnh vực nông, lâm, thủy sản và các chương trình có liên quan đến sản xuất nông nghiệp như chương trình : kiên cố hóa kênh mương, nạc hóa đàn lợn, cơ giới hóa, dồn ô đổi thửa... Bên cạnh đó cũng phải chú trọng tới việc xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ của ngành nông nghiệp bao gồm các nội dụng sau: Đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, hệ thống trung tâm giống cây trồng, bồi dưỡng kiến thức sản xuất nông nghiệp cho người nông dân. Về đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ cần có những chính sách khuyến khích cả về vật chất và tinh thần để họ gắn bó để họ phát huy được năng lực sáng tạo có những đóng góp xứng đáng, đồng thời có những chính sách ưu đãi đặc biệt được nhân tài về phục vụ quê hương đặc biệt là đội ngũ cán bộ trẻ. Gấp rút đào tạo những công nhân lành nghề, các kỹ thuật viên cho các cơ sở nông lâm ngư nghiệp. Đối với các trung tâm giống cây trồng trên địa bàn tỉnh cần phải được cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới. Vì giống trong sản xuất nông nghiệp là nhân tố mang tính chất quyết định tới năng suất và chất lượng nông sản. Không những thế với nguồn giống đảm bảo còn tránh được tình trạng lây lan những dịch bệnh nguy hiểm trên đàn gia súc, gia cầm xảy ra liên miên trên địa bàn tỉnh trong thời gian gần đây như: dịch cúm gia cầm H5N1, dịch tai xanh ở lợn, dịch lở mồm ở trâu bò...Với tốc độ phát triển của các trang trại chăn nuôi và trồng trọt như hiện nay ở Hải Dương thì nhu cầu về cây con giống lại càng lớn, do vậy để đáp ứng được nhu cầu này Hải Dương cần phải chú trọng đầu tư xây dựng và nâng cấp các trung tâm cây con giống đảm bảo thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Việc phát triển các giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt, góp phần hạ giá thành và tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Vấn đề bồi dưỡng kiến thức cho lao động nông nghiệp có ý nghĩa quyết định đối với việc áp dụng tiến bộ công nghệ vào sản xuất. Việc bồi dưỡng cần chú ý cả hai hướng: - Bồi dưỡng kiến thức cho người lao động hiện tại thông qua các hình thức thích hợp như trình diễn kỹ thuật, mô hình, tham quan... - Bồi dưỡng kiến thức cho nguồn lao động tương lai thông qua các chương trình dạy nghề nông trong trường học và lồng ghép với việc học ngoại khóa của các em học sinh. 1.4.6. Xây dựng và thực hiện các hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp Sản xuất nông nghiệp là một ngành mà có mức độ rủi ro cao nhưng đây là một ngành sản xuất quan trọng cung cấp nguyên liệu đầu vào cho nhiều lĩnh vực sản xuất công nghiệp và đảm bảo về mặt an ninh lương thực quốc gia cũng như đời sống của nhiều nông dân. Hiện nay, trên địa bàn Hải Dương vẫn còn rất nhiều hộ gia đình sống nhờ chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, cần phải xây dựng các chính sách bảo trợ cho nông dân: như bảo trợ do thiên tai, bảo trợ khi bị rủi ro về giá do biến động thị trường hoặc do các đại dịch gây ra vì nông dân thường không có nhiều vốn và do đó khó có khả năng chống chọi với những biến động lớn. Cần tập trung vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, dịch vụ, khuyến nông và các chính sách hỗ trợ đào tạo nghiên cứu khoa học, dịch vụ kiểm tra giám sát dịch bệnh và sâu bệnh... Hiện nay, trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương thì phát triển thủy sản (chủ yếu là nuôi trồng cá nước ngọt) được coi là ngành sản xuất có nhiều tiềm năng nhất. Vì Hải Dương có nhiều hệ thống ao hồ, sông ngòi được thoát nước tốt rất thuận lợi cho phát triển ngành này. Mặt khác, nuôi trồng thủy sản ít gặp các loại dịch bệnh nguy hiểm do vậy mức độ rủi ro của ngành này là ít hơn nhiều so với ngành chăn nuôi. Bên cạnh đó các sản phẩm của nó cũng dễ tiêu thụ và có giá trị kinh tế cao hơn. Do đó trong thời gian tới Hải Dương cần đặc biệt chú tròng tới các chính sách hỗ trợ sản xuất và nuôi trồng thủy sản. Muốn vậy trước hết phải hoàn thiện chính sách cấp và cho thuê đất, mặt nước lâu dài cho nuôi trồng thủy sản. Hoàn thiện chính sách vay vốn, tín dụng đầu tư phát triển thủy sản phù hợp với chu trình sản xuất. Tăng cường vay vốn trung và dài hạn phù hợp với chu trình sản xuất, đặc biệt là cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng cho các khu nuôi trồng thủy sản hàng hóa tập trung, đặc biệt là hệ thống thủy lợi để bảo đảm sản xuất ổn định và sản xuất bền vững. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển thủy sản: xây dựng cơ chế, chính sách rõ ràng cho việc khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư từ khu vực thành thị và nước ngoài vào sản xuất giống và tổ chức nuôi trồng với quy mô lớn tập trung với công nghệ cao, tổ chức dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, chế biến và xuất khẩu thủy sản. Thiết lập thể chế đầu tư công bằng, thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, kích thích đầu tư phát triển thủy sản. Trợ giá cho các tổ chức, cá nhân thuần hóa giống nhập nội có lợi cho phát triển thủy sản. Ngành chăn nuôi thường xuyên xảy ra dịch bệnh và gây thiệt hại rất lớn cho các hộ chăn nuôi cũng như các cơ sở chăn nuôi tập trung. Vì vậy tỉnh cần có những chính sách hộ trợ cho ngành này. Bên cạnh đó cũng cần tập trung vào công tác thu y và vệ sinh môi trường thông qua các biện pháp như: Thực hiện việc hỗ trợ tiêm phòng dịch bệnh nguy hiểm theo quy định của ngành thú y. Quản lý chặt chẽ việc kiểm dịch đổng vật, kiểm soát giết mổ gia súc, gia cầm và vệ sinh thú y. Trong đó cần tập trung vào các trang trại, cơ sở giết mổ tập trung, chợ buôn bán thịt gia súc, gia cầm. Quy hoạch và hỗ trợ đầu tư để hình thành cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm tập trung nhằm quản lý dịch bệnh ngay từ gốc. Muốn làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh trong chăn nuôi để tránh những tổn thất nặng nề do dịch bệnh gây ra. Thì cần phải củng cố hệ thống thú y từ tỉnh đến cơ sở, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả phòng chống dịch bệnh. Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật do UBND tỉnh ban hành làm cơ sở cho quản lý ở các cấp đồng thời tăng cường công tác chỉ đạo, giám sát của các cơ quan chuyên ngành thuộc lĩnh vực này như: quy định tiêu chuẩn với các cơ sở giết mổ, chế biến sản phẩm gia súc, quy định tiêu chuẩn với các cơ sở giết mổ, chế biến sản phẩm gia súc... Mặc dù rừng chiếm diện tích không nhiều khoảng 11% trong tổng diện tích nhưng vai trò của rừng rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế bền vững do vậy cần phải bảo vệ tốt diện tích rừng, giữ vững diện tích rừng đặcdụng, rừng phòng hộ, không phát triển thêm diện tích rừng sản xuất. Cần thực hiện chính sách đất đai đối với việc trồng và bảo vệ rừng : Đối với rừng đặc dụng và rừng phòng hộ do ban quản lý rừng đang quản lý cần phải khoán cho cộng đồng, hộ gia đình, cá nhân theo quy chế quản lý rừng đặc dụng và rừng phòng hộ. Đối với rừng sản xuất tiến hành giao đất, giao rừng lâu dài cho các tổ chức, hỗ gia đình, cá nhân trên cơ sở hợp đồng kinh tế theo quy chế rừng sản xuất. Xác định rõ hiện trạng đất, hiện trạng rừng trước khi giao khoán và quy định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi với người nhận khoán theo quy định của nhà nước đối với từng loại rừng. Khuyến khích tạo điều kiện tốt nhất để các doanh nghiệp, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế liên kết với dân để phát triển rừng như: thuê rừng, thuê đất, góp vốn để trồng rừng kinh tế, rừng phục vụ phát triển danh lam thắng cảnh, phát triển du lịch. Đồng thời xây dựng một số dự án ưu tiên phát triển rừng phòng hộ, đặc dụng, rừng kinh tế để kêu gọi vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân, vốn ODA và các nguồn vốn khác. Có cơ chế chính sách thông thoáng, đủ sức thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn (vốn của doanh nghiệp, của các hộ nông dân, vốn của các cộng đồng làng bản, tổ chức xã hội... để bảo vệ và phát triển rừng sản xuất). Tăng mức đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách cho công tác bảo vệ, nâng cấp, cải tạo và trồng rừng phòng hộ, thực hiện đầu tư theo thiết kế. 1.4.7. Rà soát, điều chỉnh lại quy hoạch theo hướng tập trung cho các ngành có khả năng cạnh tranh cao Công tác quy hoạch nông, lâm, thủy sản thời gian qua trên địa bàn tỉnh bên cạnh những kết quả đạt được còn bộc lộ một số tồn tại như quy hoạch chưa được những vùng nguyên liệu, chăn nuôi sản xuất lớn phục vụ ngành công nghiệp chế biến cả về chất lượng, số lượng cũng như sự ổn định của vùng nguyên liệu. Đồng thời, thiếu sự kết hợp giữa quy hoạch với xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách, đầu tư, khoa học công nghệ, khuyến nông. Với yêu cầu của thời kỳ hội nhập hiện nay, các loại nông sản của nước ngoài tràn ngập khắp thị trường trong nước như hiện nay đặc biệt là các loại nông sản của Trung Quốc, để ngành nông nghiệp Hải Dương phát triển và cạnh tranh được cần có quy hoạch cho từng ngành nông nghiệp, xác định yếu tố mũi nhọn có khả năng cạnh tranh đồng thời cũng phải phù hợp với điều kiện sản xuất tự nhiên của tỉnh. Trong thời gian tới công tác quy hoạch của Hải Dương cần phải chú ý tới các tới một số vấn đề sau: - Quy hoạch về sản xuất lúa gạo cần tập trung theo hướng đầu tư, nâng cao năng suất chất lượng cao tại một số huyện có diện tích đất nông nghiệp màu mỡ như tại Ninh Giang, Thanh Miện, Bình Giang, Gia Lộc, Tứ Kỳ. Kiên quyết giữ những diện tích đất trồng lúa màu mỡ cho năng suất cao. Những vùng đất trũng trồng lúa gặp nhiều khó khăn thì có thể chuyển sang làm trang trại chăn nuôi và thả cá. Những diện tích đất xấu ít màu mỡ có thể chuyển đổi mục đích sử dụng thành đất chuyên dụng hoặc xây dựng nhà máy, cơ sở sản xuất kinh doanh. Đối với các cây ăn quả nên giữ nguyên diện tích những cây ăn quả đã có và không khuyến khích mở rộng đặc biệt là đối với cây vải, vì hiện nay quả vải rất khó tiêu thụ do sản lượng vải quả hàng năm đã bị bão hòa và rất khó xuất khẩu cũng như bảo quản. Nên tập trung vào các biện pháp canh tác và cải tạo giống để nâng cao năng suất, chất lượng quả, tăng thu nhập. - Trong công tác quy hoạch đối với ngành chăn nuôi và thủy sản cần thận trọng mở rộng chăn nuôi cần gắn liền với nâng cao chất lượng công tác thú y. Cần có những chính sách cụ thể về đất đai, hỗ trợ tài chính cho hình thành các khu chăn nuôi tập trung thúc đẩy chăn nuôi hàng hóa và quản lý dịch bệnh đồng thời đảm bảo vệ sinh môi trường cho các khu dân cư. Đối với việc quy hoạch thủy sản tập trung cần tránh tình trạng ồ ạt, vượt quá khả năng hỗ trợ của ngân hàng chính sách về xây dựng hạ tầng kỹ thuật chính. - Mặc dù lâm nghiệp Hải Dương khônh phát triển do diện tích rừng ít nhưng cũng cần có những quy hoạch cụ thể đối với các loại rừng để đảm bảo sự phát triển bền vững của rừng và khai thác có hiệu quả các nguồn lợi từ rừng. KẾT LUẬN Tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương trong giai đoạn 5 năm (2004 – 2008) đã thu được những thành tựu đáng kể. Đóng góp một phânà đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong thời gian qua. Tuy nhiên đầu tư vào nông nghiệp tỉnh Hải Dương vẫn còn nhiều bất cập và gặp nhiều khó khăn. Những giải pháp đưa ra trong bài viết có thể chưa phải là những giải pháp tốt nhất cho sự phát triển của ngành nông nghiệp Hải Dương hiện nay nhưng hy vọng rằng nó có thể đóng góp vào việc hoạch định những chính sách đầu tư phát triển nông nghiệp Hải Dương trong thời gian tới. Để nông nghiệp Hải Dương có thể phát huy được tối đa những tiềm năng vốn có và đạt được những kết quả cao hơn. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................1 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hải Dương 8 Bảng 1.2: Vốn đầu tư phát triển tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 9 Bảng 1.3: Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn 12 Bảng 1.4: Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương phân theo nguồn hình thành giai đoạn (2004 – 2008) 13 Bảng 1.5: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương phân theo nguồn hình thành giai đoạn (2004 – 2008) 14 Bảng 1.6: Vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp Hải Dương từ ngân sách địa phương giai đoạn (2004 – 2008) 15 Bảng 1.7: Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp Hải Dương từ ngân sách trung ương Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 17 Bảng 1.8: Vốn đầu tư từ khu vực dân doanh và dân cư cho phát triển nông nghiệp Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 18 Bảng 1.9: Vốn đầu tư tín dụng đầu tư cho phát triển nông nghiệp Hải Dương giai đoạn ( 2004 – 2008) 20 Bảng 1.10 : Nguồn vốn FDI cho đầu tư phát triển nông nghiệp 21 Bảng 1.11: Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp theo cơ cấu nông, lâm, thủy sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 22 Bảng 1.12: Quy mô vốn đầu tư cho ngành trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 23 Bảng 1.13: Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp Hải Dương giai đoạn 25 Bảng 1.14: Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 26 Bảng 1.15: Tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 30 Bảng 1.16: Tỷ lệ giữa giá trị sản xuất và vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn 2004 – 2008 31 Bảng 1.17: Lao động trong ngành nông nghiệp của tỉnh Hải Dương 33 Bảng 2.1: Mục tiêu tốc độ tăng trưởng bình quân/năm về giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh Hải Dương đến năm 2020 49 Bảng 2.2: Các chỉ tiêu về sản xuất ngành nông nghiệp 49 Bảng 2.3: Nhu cầu vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương đến năm 2020 58 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT NSNN: Ngân sách nhà nước GDP: Tổng sản phẩm quốc dân UBND: Ủy ban nhân dân ODA: Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức FDI: Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài NN: Nông nghiệp WTO: Tổ chức thương mại thế giới Đ: Việt Nam đồng Đv: Đơn vị TÀI LIỆU THAM KHẢO Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương 2008, Nxb Thống kê Hà Nội. Các chương trình, đề án thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIV. Quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp tỉnh Hải Dương đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 Tạp chí kinh tế và dự báo. Số 3/2009. Tạp chí kinh tế và dự báo. Số 7/ 2008. Trang web: www.haiduong.net.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21636.doc
Tài liệu liên quan