Chuyên đề Đầu tư phát triển theo hình thức B.O.T trong nước tại Tổng công ty xây dựng Sông Đà: Thực trạng và giải pháp

Đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước là một hình thức đầu tư mới ở nước ta. Đây là một hình thức đầu tư có nhiều ưu điểm,vừa có lợi cho Nhà nước, vừa có lợi cho doanh nghiệp. Qua việc thực hiện các dự án B.O.T trong nước, Nhà nước có thể huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong nước, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Các dự án B.O.T sẽ góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đồng thời mang lại lợi ích kinh tế, tạo việc làm, nâng cao trình độ quản lý cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây là một hình thức đầu tư rất mới ở nước ta cho nên còn có nhiều vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện vì những nguyên nhân như hệ thống văn bản pháp quy của Nhà nước chưa hoàn chỉnh, những khó khăn về vốn, về kinh nghiệm quản lý điều hành một dự án B.O.T của các doanh nghiệp, cá nhân trong nước. Nhưng không vì thế mà ta phủ nhận sự cần thiết và vai trò của dự án B.O.T trong nước đối với nền kinh tế nước ta, nhất là trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng như đường, điện, nước . Do đó, Tổng công ty xây dựng Sông Đà cần khắc phục những khó khăn và vướng mắc trong quá trình chuẩn bị, triển khai thực hiện dự án, nhằm thúc đẩy việc mở rộng thực hiện các dự án B.O.T trong nước và làm cho hình thức đầu tư B.O.T thực sự phát huy hiệu quả đối với doanh nghiệp, đồng thời trở thành một biện pháp có ý nghĩa và phù hợp trong việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở nước ta.

doc94 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1808 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư phát triển theo hình thức B.O.T trong nước tại Tổng công ty xây dựng Sông Đà: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g, nhất là lĩnh vực thuỷ điện. Đáp ứng được những yêu cầu trên là những đơn vị thành viên của Tổng công ty Điện lực Việt Nam, một Tổng công ty Nhà nước bao gồm những đơn vị hàng đầu về lĩnh vực khảo sát, xây dựng, quản lý các công trình điện ở Việt Nam. Đồng thời, Tổng công ty phải tổ chức thực hiện tốt việc khảo sát, thiết kế, tính toán các tác động có thể có do dự án gây ra và đặc biệt phải giám sát chặt chẽ việc khảo sát thực địa vì đây là một công việc phức tạp, đòi hỏi kinh nghiệm, trình độ cũng như sự tận tâm của cán bộ, công nhân thực hiện. Kết hợp hài hoà giữa dự án thuỷ điện và các dự án khác. Để có thể xây dựng được nhiều công trình thuỷ điện ở nhiều nơi mà không gây xáo trộn cho đời sống của cán bộ công nhân viên, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà không thể không tính tới việc lập các dự án giúp những người công nhân không có điều kiện tiếp tục đi xa có thể ở lại định cư sau khi công trình được hoàn thành. Những dự án này bao gồm những dự án về xây dựng cơ sở hạ tầng, khu nhà ở cho cán bộ, công nhân giúp họ ổn định nơi ăn, ở, hay những dự án cho vay vốn trồng rừng, trồng cây công nghiệp giúp những người ở lại có thể phát triển sản xuất, làm giàu cho bản thân và cho cả địa phương. Có thể nói, giai đoạn tìm kiếm và lập dự án là một trong những giai đoạn quan trọng nhất của quy trình dự án, do đó Tổng công ty Xây dựng Sông Đà cần chú trọng hơn nữa đối với việc tìm và lập dự án đầu tư, nhất là đối với các dự án thuỷ điện đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước, làm tiền đề cho sự thành công của dự án và đem lại nhiều lợi ích cho cả Tổng công ty Xây dựng Sông Đà và nền kinh tế nước ta. 2. Giải pháp về vốn. Đối với việc chậm tiến độ thi công của thuỷ điện Cần Đơn, thiếu vốn là nguyên nhân lớn nhất gây ra tình trạng trên. Do đó, để có thể thúc đẩy được việc thực hiện dự án Cần Đơn cũng như nhiều dự án B.O.T trong tương lai, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà cần nhanh chóng tìm ra những giải pháp huy động đủ vốn và kịp thời cung cấp cho việc thi công, khắc phục được khó khăn lớn nhất đối với việc thực hiện các dự án ngành điện theo hình thức đầu tư B.O.T trong nước ở nước ta hiện nay. Vốn tự có. Vốn đầu tư cho dự án B.O.T trong nước có thể là vốn góp của chủ đầu tư, vốn góp của ngân sách Nhà nước (nếu có) hay vốn vay ngân hàng, vốn vay nước ngoài, vốn từ các doanh nghiệp cá nhân trong nước, vốn từ việc phát hành trái phiếu công trình, cổ phiếu, vốn huy động của cán bộ công nhân viên trong đơn vị tham gia thực hiện dự án B.O.T. Theo quy định hiện nay, tỷ lệ vốn góp của chủ đầu tư dự án B.O.T trong nước tối thiểu là 30% tổng vốn đầu tư cho công trình. Đây là một khó khăn rất lớn đối với các doanh nghiệp nước ta vì vốn đầu tư cho dự án B.O.T thường rất lớn, trong khi các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay hầu hết đang trong quá trình chuyển biến từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, vốn tích luỹ được chưa nhiều, tài sản doanh nghiệp chưa lớn, nhất là đối với các doanh nghiệp xây dựng. Do đó, tỷ lệ vốn góp 30% tổng vốn đầu tư là khá lớn đối với khả năng về vốn của doanh nghiệp trong khi về mọi phương diện khác doanh nghiệp hoàn toàn có thể thực hiện dự án thành công. Trong tương lai, quy định này cần được nới rộng hơn nữa nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp, cá nhân có thể dễ dàng đáp ứng được yêu cầu về vốn góp cho dự án và phát triển mở rộng các dự án đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước. Vốn vay ngân hàng. Tuỳ theo từng dự án B.O.T, có thể có một phần vốn góp của ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên tỷ lệ này chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với tổng số vốn đầu tư cho công trình và chủ yếu mang tính chất động viên, khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân thực hiện dự án B.O.T dưới dạng vốn đền bù và giải toả mặt bằng hoặc dưới dạng một hình thức vốn khác. Phần vốn lớn nhất để thực hiện dự án B.O.T hiện nay là vốn vay ngân hàng. Trên thực tế, vì khả năng vốn góp của doanh nghiệp, cá nhân còn những hạn chế nên số vốn vay ngân hàng có thể lên tới 80-90% tổng vốn đầu tư. Điều này cũng dễ hiểu vì hầu hết các doanh nghiệp có vốn tự có ít, hoạt động sản xuất kinh doanh thường ngày cũng chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng. Còn về phía các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, vốn ứ đọng nhiều trong khi nền kinh tế lại thiếu vốn đầu tư. Vì vậy, các doanh nghiệp cần có những dự án đầu tư tốt, đem lại hiệu quả kinh tế cao và đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng để có thể vay được vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Đối với công trình thuỷ điện Cần Đơn, một công trình có tính đột phá và mang nhiều ý nghĩa trong việc phát triển kinh tế bằng nội lực của đất nước, Chính phủ đã đồng ý giao cho ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại quốc doanh giải quyết cho Tổng công ty Xây dựng Sông Đà được vay vốn để đầu tư xây dựng, mua sắm thiết bị công trình, đồng thời được dùng thiết bị máy móc mua sắm bằng vốn vay để làm tài sản thế chấp. Hơn nữa, theo chỉ đạo của thống đốc Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại có thể thực hiện các loại bảo lãnh không phải thế chấp tài sản, không phụ thuộc vào giới hạn 10% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của ngân hàng cho Tổng công ty Xây dựng Sông Đà để thực hiện một số dự án trọng điểm của Nhà nước. Về nguyên tắc, các ngân hàng đã đồng ý tham gia đồng tài trợ cho dự án thuỷ điện Cần Đơn nhưng việc giải ngân diễn ra lại rất chậm chạp. Để có thể giải quyết được khó khăn về thiếu vốn cho công trình, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà cần khẩn trương hoàn thiện hồ sơ xin vay vốn để việc giải ngân có thể diễn ra nhanh chóng hơn, đáp ứng kịp thời vốn cho việc thi công công trình. Vốn vay nước ngoài. Một phần vốn cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng vốn đầu tư cho dự án B.O.T là vốn vay nước ngoài. Trong bối cảnh nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp thì việc vay vốn nước ngoài là cần thiết. Nhưng trong tương lai, nguồn vốn trong nước sẽ có xu hướng tăng dần và vốn nước ngoài sẽ giảm tương ứng. Vì vậy, phần vốn vay nước ngoài chỉ nên được sử dụng dưới dạng vốn mua thiết bị máy móc nhằm nâng cao năng lực khoa học kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp, cá nhân trong nước. Hầu hết các thiết bị máy móc của các nhà máy thuỷ điện lớn ở nước ta như Hoà Bình, Yaly v.v... đều do Liên Xô trước đây và nay là Nga, Ukraina sản xuất vì đây là những nước có thế mạnh về thuỷ điện. Đối với thuỷ điện Cần Đơn, thiết bị máy móc sẽ do công ty UKrinterenergo (Ukraina) cung cấp theo hình thức trả chậm. Đây là một phương án thích hợp cho việc huy động vốn cho dự án B.O.T mà vừa không phải phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay nước ngoài, vừa có thiết bị, máy móc cho công trình. Tuy nhiên, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà cần tăng cường mối quan hệ với các công ty cung cấp thiết bị, máy móc nước ngoài nhằm đảm bảo có được đối tác ổn định, đáp ứng được nhu cầu về máy móc thiết bị không những đối với thuỷ điện Cần Đơn mà còn đối với những dự án thuỷ điện B.O.T khác của Tổng công ty Xây dựng Sông Đà trong tương lai. Các nguồn vốn khác. Ngoài các phần vốn chủ yếu trên, vốn đầu tư cho dự án B.O.T trong nước có thể gồm vốn huy động từ cán bộ công nhân viên của đơn vị tham gia thực hiện dự án, vốn huy động từ các doanh nghiệp, cá nhân trong nước. Để xây dựng công trình thuỷ điện Cần Đơn, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà đã huy động cán bộ công nhân viên, các cá nhân và tổ chức kinh tế trong nước góp vốn. Có thể nói, giải pháp này phù hợp với các dự án B.O.T nhỏ hơn là đối với các dự án vừa và lớn vì hầu hết cán bộ công nhân viên của Tổng công ty chưa có tích luỹ nhiều, thu nhập trung bình cũng chưa phải là cao. Hơn nữa, chủ trương của Tổng công ty là sẽ tiếp tục mở rộng việc thực hiện các dự án B.O.T trong nước nên không thể huy động vốn từ cán bộ công nhân viên mãi được. Tuy nhiên, một nguồn vốn mà Tổng công ty có thể huy động được nhiều lần và trong một thời gian dài là vốn của các cá nhân, tổ chức kinh tế trong nước. Số lượng vốn đang nằm trong dân cư chưa được đưa vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ở nước ta hiện này còn rất lớn, từ 30 tới 40 nghìn tỉ đồng. Đây là một sự lãng phí đối với nền kinh tế nước ta trong khi rất nhiều các dự án có hiệu quả kinh tế tổng hợp và cao lại không có vốn để đầu tư. Do đó, để có thể đáp ứng được nhu cầu về vốn cho đầu tư xây dựng các dự án thuỷ điện theo hình thức B.O.T trong nước trong tương lai, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà cần quan tâm chú trọng đến nguồn vốn này. Nhưng để mọi người có thể yên tâm góp vốn vào đầu tư xây dựng công trình, Tổng công ty phải tìm được những dự án có hiệu quả kinh tế cao, mang lại lợi ích cho người góp vốn. Đồng thời, luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án phải được lập một cách đầy đủ chính xác và phải được công bố rộng rãi để chứng minh cho tính hiệu quả của dự án, làm bằng chứng thuyết phục mọi người góp vốn đầu tư xây dựng công trình. Tuy nhiên cách huy động vốn từ tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước chỉ có thể thực hiện được với các doanh nghiệp lớn, có uy tín và có khả năng lớn về tài chính. Còn đối với doanh nghiệp nhỏ mọi người khó có thể tin tưởng và góp vốn đầu tư cho dù dự án có tính khả thi cao và mang lại nhiều lợi nhuận. Tại những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, việc huy động vốn cho đầu tư xây dựng một dự án nào đó có thể thực hiện bằng hình thức phát hành trái phiếu công trình hoặc cổ phiếu. Chẳng hạn dự án đường cao tốc Bắc - Nam Malaysia có tổng vốn đầu tư là 1.8 tỷ USD trong đó phần vốn huy động từ việc phát hành cổ phiếu chiếm 10% tương ứng 180 triệu USD. Mặc dù chi phí cho việc sử dụng nguồn vốn này thường cao hơn vốn vay ngân hàng nhưng đây là một giải pháp có thể dễ dàng thực hiện được với thời gian ít nhất trong những nền kinh tế có thị trường chứng khoán phát triển, đồng thời số lượng vốn huy động được có thể rất lớn tuỳ thuộc vào khả năng đem lại lợi nhuận của dự án trong tương lai cũng như uy tín của doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường. Đối với nền kinh tế nước ta, việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán chưa phổ biến, điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Nhưng trong tương lai, chắc chắn thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ là một kênh huy động vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp giải quyết được khó khăn về thiếu vốn cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Vì vậy, Tổng công ty cần nghiên cứu chiến lược huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán để chuẩn bị cho những dự án thuỷ điện B.O.T trong tương lai, đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên có hiểu biết về chứng khoán, phát hành chứng khoán để khi thị trường chứng khoán đi vào hoạt động, đội ngũ này sẽ giúp Tổng công ty huy động được vốn bằng việc phát hành trái phiếu công trình, cổ phiếu. Như vậy, để có thể đáp ứng được nhu cầu về vốn đầu tư cho các dự án thuỷ điện B.O.T trong nước, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà cần tăng cường quản lý và sử dụng các nguồn vốn hiện có như vốn chủ sở hữu, vốn vay ngân hàng, vốn vay mua thiết bị, máy móc v.v... Đồng thời Tổng công ty cũng cần nghiên cứu khai thác một nguồn vốn có khả năng huy động lớn trong tương lai ở Việt Nam là nguồn vốn của các tổ chức và cá nhân thông qua việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. 3. Giải pháp về thiết kế kỹ thuật, thi công. Nâng cao năng lực đội ngũ thiết kế của Tổng công ty. Đối với bất kỳ một dự án đầu tư nào, thiết kế kỹ thuật luôn luôn đóng một vai trò quan trọng. Đặc biệt đối với các dự án thuỷ điện đầu tư theo hình thức B.O.T, thiết kế kỹ thuật lại càng trở thành một vấn đề bức xúc vì chủ đầu tư dự án sẽ phải tự mình lo liệu toàn bộ khâu thiết kế, kỹ thuật để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Trải qua các công trình thuỷ điện lớn của nước ta như Thác Bà, Hoà Bình, Yaly v.v... đội ngũ thiết kế, kỹ thuật của Tổng công ty đã tích luỹ được rất nhiều kinh nghiêm, học hỏi được nhiều từ các chuyên gia Liên Xô cũ trước đây sang giúp đỡ chúng ta xây dựng thuỷ điện. Tuy nhiên, thiết kế kỹ thuật cho một công trình thuỷ điện là phần công việc phức tạp nhất trong việc thực hiện xây dựng công trình vì công trình thuỷ điện bao gồm rất nhiều các hạng mục khác nhau, đồng thời lại liên quan đến máy móc thiết bị lắp đặt cho công trình mà hầu hết máy móc thiết bị này đều phải nhập khẩu. Do đó, đội ngũ thiết kế kỹ thuật của Tổng công ty vẫn chưa đủ năng lực tự mình chịu trách nhiệm thiết kế hoàn toàn cho một công trình thuỷ điện. Nhưng trong tương lai, với chủ trương tiếp tục mở rộng đầu tư các dự án thuỷ điện theo hình thức B.O.T, Tổng công ty sẽ phải tăng cường lực lượng thiết kế của mình, tập hợp được một đội ngũ thiết kế có đủ năng lực, kinh nghiệm để từ việc đảm nhận thiết kế kỹ thuật của một số hạng mục công trình tiến tới đảm nhận toàn bộ thiết kế bản vẽ thi công các công trình thuỷ điện B.O.T trong tương lai. Liên doanh với các đơn vị tư vấn nước ngoài Để chuẩn bị xây dựng được một lực lượng thiết kế có đủ năng lực tự mình thiết kế một công trình, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà đã thành lập công ty tư vấn thiết kế Sông Đà -UKRIN làm các dịch vụ tư vấn thiết kế các công trình trong và ngoài nước. Công ty trên là liên doanh giữa Tổng công ty và một công ty của Ukraina nhằm mục đích nâng cao trình độ, chất lượng trong thiết kế, thi công của Tổng công ty. Vì mới được đưa vào hoạt động nên công ty chưa tham gia thiết kế cho nhiều công trình, trước mắt sẽ thực hiện thiết kế kỹ thuật cho thuỷ điện Cần Đơn, thuỷ điện được đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước đầu tiên của Tổng công ty. Việc thành lập công ty liên doanh Sông Đà-Ukrin là một giải pháp phù hợp với tình hình hiện nay khi đội ngũ thiết kế của Tổng công ty vẫn còn thiếu và yếu, còn Ukraina hiện nay là một nước có thế mạnh về xây dựng thuỷ điện, họ có nhiều kinh nghiệm và có trình độ cao trong việc thiết kế, thi công công trình cũng như sản xuất máy móc, thiết bị cho nhà máy thuỷ điện. Ngoài liên doanh, hợp tác với Ukraina, một số trường Đại học trong nước, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà còn có thể mời một số công ty tư vấn Nga, Pháp tham gia tư vấn thiết kế kỹ thuật. Pháp và Nga là những nước có đội ngũ kiến trúc sư giỏi, thiết kế được nhiều công trình nổi tiếng trên toàn thế giới. Hơn nữa hai nước này cũng mạnh về sản xuất thiết bị, máy móc cho công trình thuỷ điện. Vì vậy hợp tác được với họ sẽ giúp Tổng công ty giải quyết được nhiều khó khăn trong thiết kế, thi công và tạo điều kiện cho cán bộ thiết kế, kỹ thuật của mình học hỏi được nhiều kinh nghiệm từ các chuyên gia nước ngoài. Hợp tác với các trường Đại học. Không những chỉ liên doanh với nước ngoài trong việc tư vấn thiết kế kỹ thuật, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà cũng cần hợp tác với các đơn vị trong và ngoài ngành để trao đổi kinh nghiệm trong việc thiết kế, thi công, quản lý. Là một doanh nghiệp có nghề truyền thống là xây dựng thuỷ điện, Tổng công ty có thể kết hợp với các trường Đại học như Đại học Xây dựng, Thuỷ lợi để có thể cùng với đội ngũ giáo sư, tiến sĩ và sinh viên của các trường đó trao đổi những vấn đề hai bên cùng quan tâm, khai thác và ứng dụng kiến thức chuyên môn của họ vào thực tế. Đây là một giải pháp có thể được thực hiện một cách dễ dàng và nhanh chóng, phù hợp với chủ trương học đi đôi với hành, áp dụng lý thuyết vào thực tế của ngành giáo dục nước ta. Đồng thời, qua việc hợp tác này Tổng công ty có thể sẽ tuyển chọn được một số sinh viên xuất sắc của các trường nhằm chuẩn bị một lực lượng thiết kế, kỹ thuật thi công trẻ nhưng có trình độ, có kinh nghiệm thực tế, đáp ứng nhu cầu ngày càng mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Bám sát tình hình thực tế của dự án Nhưng trước mắt, để đẩy nhanh được tiến độ thi công của công trình thuỷ điện Cần Đơn, cũng như nhiều công trình sắp tới, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà cần giải quyết kịp thời khâu thiết kế, biện pháp tổ chức thi công, giải pháp kỹ thuật, lập tiến độ chi tiết công trình. Một nguyên nhân khiến việc thi công thuỷ điện Cần Đơn diễn ra chậm chạp là tiến độ lập ra sơ sài, không có đủ điều kiện thực hiện, do vậy Tổng công ty cần phải chuẩn bị các công việc cho triển khai thi công công trình chu đáo như đảm bảo thi công công trình, biện pháp thi công phải cụ thể, xem xét tính toán cụ thể các yếu tố ảnh hưởng tới tiến độ. Hơn nữa, Tổng công ty cần phải chú ý tăng cường lực lượng thiết kế kỹ thuật và tổ chức thi công ở các đơn vị thành viên tham gia thực hiện dự án cả về số lượng cũng như chuyên môn. Đồng thời Tổng công ty phải tăng cường phối hợp giữa các đơn vị tư vấn, phòng ban của Tổng công ty, các đơn vị thi công về thiết kế, kỹ thuật, thi công kịp thời giải quyết những vướng mắc nẩy sinh trong khi xây dựng công trình. Ngoài ra, Tổng công ty còn có thể áp dụng chế độ khuyến khích về vật chất cho cán bộ, công nhân viên có những sáng kiến, giải pháp kỹ thuật hợp lý có thể giải quyết khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thi công và tiết kiệm được chi phí cho công trình. 4. Giải pháp về thiết bị, xe máy. Hiện nay, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà có trên 1400 xe máy thi công do Mỹ, Nhật, Phần lan, Thụy Điển, Hàn Quốc, Nga v.v... sản xuất như xe vận chuyển hầm, xe benla, máy khoan hầm, máy khoan hở v.v... trong số đó, một phần là những loại xe máy hiện đại mới được nhập để thi công thuỷ điện Yaly, Sông Hinh v.v... Còn lại, chủ yếu là số lượng xe máy đã được dùng để xây dựng nhà máy thuỷ điện Hoà Bình. Chính vì vậy, để số lượng xe máy này có thể đảm bảo hoạt động tốt, Tổng công ty cần thực hiện trung đại tu xe máy, tái đầu tư chất lượng cao và nâng cao mỹ thuật nhằm mục đích sử dụng cho những công trình mới như thuỷ điện Cần Đơn và một số công trình khác. Tăng hiệu quả sử dụng thiết bị, xe máy. Trong thời gian vừa qua, toàn Tổng công ty có số đầu xe máy các loại hoạt động bình quân bằng 64% tổng số đầu xe máy hiện có trong đó có một số xe máy làm việc chuyên ngành phải dừng hẳn vì chưa có việc. Đồng thời, hệ số sử dụng ca xe máy ở mức cao nhưng năng suất sử dụng lại thấp, xảy ra tình trạng này là do không thực hiện tốt các quy định về quản lý cơ giới, về định mức vật tư nhiên liệu xe máy, tiêu hao phụ tùng vật tư trong việc quản lý máy móc thiết bị. Do vậy, Tổng công ty cần tăng cường hiệu quả sử dụng xe máy, tăng hệ số sử dụng, giảm chi phí, thiệt hại, quản lý chặt chẽ xe máy không chỉ có đảm bảo đầu xe máy, ca xe máy hoạt động mà quan trọng còn phải quản lý định mức, năng suất sản phẩm do xe máy, thiết bị làm ra. Đặc biệt, Tổng công ty cần xoá bỏ hẳn bao cấp trong quản lý xe máy, phân cấp cho các đơn vị thành viên trong việc lập kế hoạch sản xuất cho thiết bị, xe máy, lập kế hoạch sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ và tổ chức việc sửa chữa, nghiệm thu chất lượng, huy động máy móc thiết bị vào sản xuất theo nhiệm vụ của mình hoặc phục vụ cho các đơn vị khác. Ngoài việc sử dụng xe máy thiết bị thi công cho công trình của Tổng công ty, có thể kết hợp cho thuê, mướn xe máy ra bên ngoài để nâng cao hiệu quả sử dụng, nhanh chóng thu hồi được vốn đầu tư cho máy móc thiết bị. Hạn chế đầu tư mới xe máy, thiết bị, tận dụng tối đa năng lực xe máy, thiết bị hiện có. Để thi công các công trình trọng điểm của Nhà nước, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà đã vay ngân hàng một số lượng vốn lớn dùng để nhập máy móc thiết bị hiện đại của các nước công nghiệp phát triển. Điều này là hợp lý vì lúc đó khối lượng công việc của công trình còn lớn và đòi hỏi được thi công với chất lượng cao. Nhưng khi các công trình đó gần hoàn thành, hàng trăm xe máy lại phải ngừng hoạt động vì không có việc làm. Thực hiện đầu tư xây dựng thuỷ điện B.O.T Cần Đơn và một số thuỷ điện khác là quyết định đúng và kịp thời của Tổng công ty trong thời điểm hiện nay để tận dụng các thiết bị, xe máy hiện có. Nhưng để số lượng xe máy, thiết bị có thể hoạt động trong tình trạng tốt nhất, đảm bảo đúng tiến độ thi công của thuỷ điện Cần Đơn cũng như nhiều công trình khác, Tổng công ty cần thực hiện chế độ bảo dưỡng định kỳ kết hợp với việc thay thế thường xuyên phụ tùng cho xe máy, tránh việc sửa chữa nhỏ để kéo dài thành sửa chữa lớn và những hỏng hóc đột xuất làm chậm tiến độ thi công. Đồng thời, Tổng công ty cần tăng cường, bổ túc tay nghề sửa chữa máy móc, thiết bị cho công nhân sử dụng, đảm bảo những hỏng hóc trục trặc nhỏ được xử lý kịp thời không ảnh hưởng đến việc điều hành sử dụng xe máy. Mặc dù đã được phép đầu tư xây dựng thuỷ điện B.O.T Cần Đơn và sắp tới là Nà Lơi, Nà Loà v.v... , Tổng công ty vẫn chưa hoàn toàn sử dụng hết số lượng xe máy thiết bị hiện có của mình. Vì vậy vào lúc này, Tổng công ty cần tính toán tận dụng tối đa số lượng xe máy thiết bị hiện có, tái đầu tư, cải tiến công nghệ sử dụng một số loại xe máy, thiết bị cũ để tiết kiệm vốn đầu tư, và điều quan trọng nhất là Tổng công ty nên hạn chế đầu tư máy móc thiết bị mới, tránh tình trạng đầu tư tràn lan dẫn tới lãng phí vì không sử dụng hết số đầu xe máy hoạt động. Trong tương lai, với sự phát triển của các công ty thuê mua tài chính ở Việt Nam, Tổng công ty cần nghiên cứu tính toán đến phương án thuê tài chính để tăng cường số lượng xe máy, thiết bị của mình, tránh tình trạng nợ ngân hàng quá nhiều dẫn đến phải trả lãi vay nhiều làm giảm lợi nhuận của Tổng công ty. 5. Giải pháp về tổ chức, quản lý điều hành sản xuất, đào tạo cán bộ công nhân viên. Hoàn thiện bộ máy tổ chức, quản lý. Đối với các doanh nghiệp ở nước ta, trình độ về tổ chức, quản lý điều hành sản xuất luôn là một vấn đề yếu kém vì hầu hết các doanh nghiệp vẫn chưa thoát khỏi cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, chưa thực sự thích nghi được với cơ chế thị trường. Tổng công ty Xây dựng Sông Đà cũng không phải là một ngoại lệ, những hạn chế về mặt tổ chức, quản lý nhất là quản lý một dự án đầu tư theo hình thức B.O.T là một nguyên nhân quan trọng làm chậm tiến độ thi công công trình thuỷ điện Cần Đơn. Do đó, ngoài việc thành lập công ty B.O.T Cần Đơn thay mặt Tổng công ty trực tiếp điều hành quản lý dự án với một số những quyền hạn và nghĩa vụ nhất định, Tổng công ty cần chấn chỉnh lại bộ máy quản lý, điều hành, sắp xếp lại các phòng ban cho phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh, hoàn thiện bộ máy tổ chức của các doanh nghiệp thành viên tham gia thực hiện dự án. Trong việc lựa chọn cán bộ điều hành dự án, Tổng công ty cũng phải lựa chọn các cán bộ có năng lực về quản lý, thi công và có phẩm chất phù hợp với tính chất của dự án B.O.T. Công ty B.O.T nên được tổ chức thành các bộ phận (phòng, ban, tổ v.v... ) theo chức năng, nhiệm vụ rõ ràng và phải ổn định lâu dài để đảm bảo quản lý đầu tư vận hành dự án một cách thuận lợi và có hiệu quả. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện các dự án, Tổng công ty cần áp dụng theo mô hình quản lí dự án hiện đại, đảm bảo cho dự án được hoàn thành theo đúng tiến độ, chất lượng và chi phí. Trong thi công công trình, Tổng công ty cần phối hợp chặt chẽ công ty B.O.T Cần Đơn và các đơn vị thi công với nhau, chỉ đạo các đơn vị đó căn cứ vào mục tiêu, tiến độ thi công phát huy tính độc lập tự chủ trong công việc tránh tình trạng dựa dẫm, bao cấp, nhưng không được vượt quá thẩm quyền giải quyết, việc phối hợp phải được thực hiện tốt giữa các đơn vị từ phân công nhiệm vụ, cho thuê xe máy, cho thuê nhân công cho đến giải quyết những khó khăn vướng mắc nẩy sinh trong khi thi công, đảm bảo khả năng thanh toán và tiến độ thi công công trình, phát huy tính chủ động và tăng cường trách nhiệm của các đơn vị thành viên. Chấp hành đầy đủ các chế độ, chính sách của Nhà nước. Trong việc xác định đơn giá và giá trị dự toán cho công trình, nhất là đối với các dự án B.O.T định đầu tư trong tương lai, Tổng công ty cần phải tìm hiểu kỹ càng những vấn đề có liên quan như giá cả, thông tin để tính toán chính xác được hiệu quả của dự án. Tổng công ty có thể thực hiện hạch toán giá thành ở mỗi chi nhánh, xí nghiệp, đội trực thuộc các đơn vị thành viên tham gia thực hiện dự án, làm cơ sở hạch toán sản xuất kinh doanh ở các đơn vị thành viên. Đồng thời, các đơn vị cơ sở trên phải lập kế hoạch giá thành và hạch toán đầy đủ mọi chi phí trong sản xuất trên cơ sở so sánh thu chi thực tế, nâng cao quyền làm chủ, tính chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh và quyền lợi của người lao động, để từ đó tìm ra những biện pháp tiết kiệm được giá trị dự toán cho công trình. Mặt khác, Tổng công ty phải chấp hành triệt để các chính sách, chế độ của Nhà nước trong các mặt quản lý và hạch toán kinh doanh như chế độ khấu hao, VAT, các chi phí quản lý v.v... hay chế độ ưu đãi đối với dự án B.O.T trong nước. Nâng cao năng lực đấu thầu, đàm phán ký kết hợp đồng kinh tế. Trong việc đấu thầu thực hiện dự án B.O.T, thương thảo và ký kết các hợp đồng B.O.T, hợp đồng phụ, Tổng công ty cần tổ chức, xây dựng được bộ máy tiếp thị đấu thầu có đủ năng lực trong chiếm lĩnh, thị trường xây dựng các công trình thuỷ điện theo hình thức B.O.T trong nước, tổ chức tốt việc đàm phán thoả thuận nội dung và ký kết hợp đồng B.O.T, hợp đồng phụ. Đặc biệt việc thương thảo và ký kết hợp đồng cung cấp thiết bị, phụ tùng thay thế và các dịch vụ khác với các tổ chức nước ngoài phải do các cán bộ có năng lực, kinh nghiêm tiến hành đồng thời phải tạo điều kiện thuận lợi để các bộ phận chuyên môn được tham gia góp ý trước khi ký kết hợp đồng. Để làm được điều này, Tổng công ty có thể thành lập một nhóm chuyên về lập hồ sơ đấu thầu, hợp đồng, tổ chức đi học, đào tạo thêm nghiệp vụ công tác nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ làm công tác đấu thầu, hợp đồng, tăng cường hiểu biết về luật pháp (nhất là luật pháp quốc tế). Tổng công ty cần quan tâm, chỉ đạo đầu tư con người, phương tiện, điều kiện vật chất cho đội ngũ lập hồ sơ đấu thầu, hợp đồng. Việc xác định lập định mức, đơn giá cho đấu thầu phải phù hợp với thực tế, nội dung hợp đồng phải cụ thể phù hợp với chế độ chính sách của Nhà nước cũng như luật pháp quốc tế đảm bảo hợp đồng phải được ký kết với nội dung đầy đủ tránh xảy ra trường hợp tranh chấp, bị chèn ép từ phía chủ thầu. Ngay đối với từng công việc nội bộ của dự án B.O.T Tổng công ty giao nhiệm vụ và phân công cho các đơn vị thành viên, Tổng công ty cũng cần phải ký kết hợp đồng cụ thể, đầy đủ các điều kiện, điều khoản rõ ràng đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ được tốt và có căn cứ xác định trách nhiệm của các bên khi có những vướng mắc phát sinh ngoài hợp đồng xảy ra. Khâu lập hồ sơ đấu thầu, đàm phán ký kết các hợp đồng cho dự án B.O.T là một khâu quan trọng trong việc chuẩn bị thực hiện dự án, vì vậy nếu khâu này được đầu tư quan tâm đúng mức thì dự án sẽ được đẩy nhanh về tiến độ thi công và có cơ sở vững chắc để đạt được sự thành công của dự án. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công nhân lao động, đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Về vấn đề con người, nhằm đáp ứng những yêu cầu mới cao hơn trong công việc trong nền kinh tế thị trường, Tổng công ty cần có chính sách hợp lý sắp xếp đội ngũ lao động. Đối với những cán bộ công nhân viên có tay nghề cao, có điều kiện thuyên chuyển giữa các công trình, Tổng công ty nên bố trí việc làm cho họ, khi yêu cầu của các công trình đòi hỏi nhiều lao động giản đơn, có thể thuê thêm lao động thờivụ. Đối với số lao động hợp đồng thời hạn không xác định hay hợp đồng ngắn hạn có đủ điều kiện tiếp tục nhận thành hợp đồng không xác định chuẩn bị cho lực lượng kế cận, Tổng công ty cũng cần có kế hoạch đào tạo và tái đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề cho họ nhằm phát triển được lực lượng lao động chủ yếu là lao động có tay nghề, lao động khoa học kỹ thuật để đảm bảo cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, hình thức kinh doanh ngày càng mở rộng của Tổng công ty. Đối với số lao động không có nghề hoặc lớn tuổi, Tổng công ty có thể vận động họ tái định cư sau khi xây dựng xong công trình. Nhưng để việc này được thực hiện tốt, Tổng công ty cần có chính sách đầu tư rõ ràng, thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng, có kế hoạch cho vay vốn làm kinh tế để những người ở lại định cư có thể an tâm, ổn định được cuộc sống của mình. Ngoài việc đào tạo đội ngũ lao động có đủ trình độ tay nghề đảm nhận được những công việc phức tạp, Tổng công ty cũng cần phải tự đào tạo đội ngũ cán bộ cho chỉ huy và điều hành ở mỗi đơn vị thành viên. Những cán bộ làm giám đốc điều hành dự án phải là những người có trình độ giao tiếp ngoại ngữ, hiểu biết về kinh tế thị trường, có năng lực chỉ huy, quản lý sản xuất, thực hiện độc lập nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về hiệu quả của dự án, đặc biệt họ phải có năng lực quản lý một dự án đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước nhằm thực hiện chủ trương phát triển số lượng các dự án B.O.T thuỷ điện của Tổng công ty trong thời gian tới. Đối với việc quản lý vận hành nhà máy sau khi kết thúc giai đoạn xây dựng, Tổng công ty phải có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên vận hành, quản lý công trình ngay từ khi xây dựng công trình. Tổng công ty cần hợp tác với các đơn vị trong và ngoài nước tổ chức các lớp đào tạo với chủ trương kết hợp lý thuyết với thực tiễn nhằm khai thác, vận hành nhà máy thuỷ điện Cần Đơn được thuận lợi và có hiệu quả ngay từ đầu. Khi dự án đi vào hoạt động thì vấn đề nhân sự cũng là một vấn đề lớn mà Tổng công ty cần phải quan tâm giải quyết ngay từ bây giờ. Do lĩnh vực vận hành nhà máy thuỷ điện là một lĩnh vực mà Tổng công ty chưa có kinh nghiệm nên Tổng công ty cần có kế hoạch đào tạo cán bộ, kĩ sư và công nhân kĩ thuật để đảm bảo vận hành và khai thác một cách có hiệu quả công trình mà mình làm chủ đầu tư. III. Một số kiến nghị với các cơ quan hữu quan. Để các giải pháp từ phía doanh nghiệp thực hiện dự án B.O.T trong nước có thể được thực thi và phát huy hiệu quả, Nhà nước cũng như các Bộ, Ban , ngành có liên quan cần sửa đổi một số văn bản pháp quy cũng như đơn giản hoá khâu thủ tục giấy tờ xin phép đầu tư và hồ sơ xin vay vốn, tạo điều kiện cho việc thi công công trình đảm bảo đúng tiến độ, thực sự đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay. 1. Kiến nghị với các Bộ. Các thông tư hướng dẫn Quy chế về đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước của Bộ Xây dựng, Bộ kế hoạch và Đầu tư cần thống nhất với những điều trong Quy chế tránh việc lúng túng không biết thực hiện theo Thông tư hay Quy chế cho doanh nghiệp cũng như những tranh cãi về việc khác nhau này. Chẳng hạn điều 19, Nghị đinh 77/CP có quy định là “Hợp đồng B.O.T có thể được thảo luận và đàm phán ngay sau khi doanh nghiệp B.O.T hoặc sáng lập viên doanh nghiệp B.O.T được chọn như quy định tại chương II của Quy chế và phải được ký trong vòng 7 ngày kể từ ngày cấp phép đầu tư dự án.” Còn theo hướng dẫn của Thông tư 12-BKH/QLKT tại điều 5 thì “ Hợp đồng B.O.T chỉ được ký kết sau khi thiết kế kỹ thuật được phê duyệt”. Hai văn bản này có sự không thống nhất về điều kiện cần và đủ để ký kết hợp đồng B.O.T và gây khó khăn cho doanh nghiệp B.O.T vì chi phí cho thiết kế kỹ thuật của các dự án nhóm A thường lớn nên doanh nghiệp B.O.T không thể tiến hành lập thiết kế kỹ thuật khi chưa ký được hợp đồng B.O.T với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, thông tư hướng dẫn cần được sửa đổi cho phù hợp với quy chế và tạo điều kiện cho doanh nghiệp B.O.T thực hiện dự án được nhanh chóng, nghĩa là doanh nghiệp B.O.T tiến hành lập thiết kế kỹ thuật công trình B.O.T chỉ sau khi đã ký được hợp đồng B.O.T với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Còn trong Nghị định 77/CP, điều 42 quy định “ những cơ quan có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T sẽ thẩm định và phê duyệt thiết kế kỹ thuật công trình”. Nhưng trong thông tư số 09/BXD-CSXD lại hướng dẫn “ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T sẽ phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán. Nhưng vậy, thông tư hướng dẫn không phù hợp với tính chất của dự án B.O.T vì vốn đầu tư cho dự án là vốn của doanh nghiệp, cá nhân thực hiện dự án B.O.T, nên để đảm bảo lợi ích và quyền tự chủ của doanh nghiệp B.O.T hướng dẫn này nên được sửa thành “cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T phê duyệt thiết kế kỹ thuật còn tổng dự toán do doanh nghiệp tự lập và duyệt “. Về phía bộ Công nghiệp, cơ quan có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T đối với các dự án B.O.T ngành điện nhóm A (thuỷ điện Cần Đơn), Bộ Công nghiệp cần có những hướng dẫn cụ thể, hướng dẫn doanh nghiệp, cá nhân thực hiện dự án chuẩn bị các bước để ký kết hợp đồng B.O.T, tạo điều kiện cho doanh nghiệp B.O.T có thể nhanh chóng thoả thuận được nội dung của hợp đồng B.O.T, tiến tới ký kết chính thức. Đồng thời, Bộ Công nghiệp cũng cần phối hợp với doanh nghiệp B.O.T, các Bộ, Ban, ngành, địa phương có liên quan khác hỗ trợ doanh nghiệp B.O.T hoàn thành nhanh chóng các thủ tục chuẩn bị đầu tư, trong việc xây dựng công trình và kinh doanh vận hành theo đúng hợp đồng B.O.T. Ngoài ra các Bộ, ban, ngành và địa phương có liên quan cần đơn giản hoá các thủ tục xin phép, phẩm định, phê duyệt, cấp giấy phép đầu tư.cho dự án B.O.T, tạo điều kiện cho doanh nghiệp B.O.T rút ngắn được thời gian chuẩn bị, xin cấp phép đầu tư, nhanh chóng tiến hành thi công chính công trình. Điều này cũng rất có ý nghĩa đối với doanh nghiệp B.O.T vì thời gian xin phép đầu tư rút ngắn sẽ làm giảm những rủi ro và tránh cho doanh nghiệp B.O.T những thiệt hại về kinh tế do việc kéo dài giai đoạn xin phép đầu tư gây ra. 2. Kiến nghị với các ngân hàng. Đối với các dự án B.O.T trong nước hiện nay các ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ chính cho dự án vì thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt động, doanh nghiệp B.O.T khó có thể huy động được vốn cho dự án bằng cách phát hành trái phiếu công trình, cổ phiếu. Vì thế vốn vay từ các ngân hàng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của dự án B.O.T và chủ yếu là vốn vay dài hạn, nhất là đối với các dự án B.O.T có quy mô lớn. Vai trò của ngân hàng trong việc tài trợ cho dự án B.O.T không những chỉ quan trọng đối với một nước đang phát triển như nước ta mà còn quan trọng đối với cả những nước phát triển. Chẳng hạn, các ngân hàng cho dự án B.O.T đường hầm qua eo biển Anh-Pháp vay 7,4 tỷ USD trong số 9,2 tỷ USD tổng vốn đầu tư, hay dự án nhà máy điện Shajiao của Trung Quốc có số vốn vay ngân hàng 500 triệu USD trong số 517 triệu USD tổng số vốn đầu tư của dự án. Còn đối với dự án thuỷ điện Cần Đơn đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước, 4 ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam đã cam kết tài trợ cho dự án hơn 30 triệu USD trong tổng số vốn đầu tư 81,617 triệu USD. Ngoài việc cho dự án vay vốn để thực hiện, ngân hàng còn đóng vai trò làm trung gian mở tài khoản, mua bán ngoại tệ, thanh toán chuyển khoản cho doanh nghiệp B.O.T. Tăng tốc độ giải ngân. Dự án thuỷ điện B.O.T Cần Đơn đã được Chính phủ giao cho ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng cho vay không phải thế chấp tài sản, không phụ thuộc vào giới hạn 10% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của ngân hàng. Thế nhưng, tốc độ giải ngân vẫn còn diễn ra chậm chạp làm cản trở tiến độ thi công công trình. Do vậy, ngân hàng cần hợp tác chặt chẽ với Tổng công ty trong việc giám sát tình hình thực hiện dự án, đồng thời tạo điều kiện giúp đỡ Tổng công ty trong việc lập hồ sơ xin vay vốn để khi dự án cần vốn thì ngân hàng cũng sẽ tiến hành giải ngân kịp thời đảm bảo dự án được liên tục thực hiện, không phải ngừng trệ vì thiếu vốn. Xây dựng quy chế cho vay hợp lý. Dự án thuỷ điện B.O.T Cần Đơn là dự án thuỷ điện B.O.T trong nước đầu tiên được Chính phủ ưu tiên trong việc huy động vốn vay, còn đối với các dự án B.O.T trong nước khác trong tương lai, có thể sẽ không có ưu đãi này, do đó các ngân hàng cần xây dựng một quy chế cho vay phù hợp và có những ưu tiên nhất định cho dự án. Yếu tố quyết định để ngân hàng có thể cho các dự án B.O.T vay vốn không nên chỉ căn cứ vào tài sản thế chấp mà là các yếu tố như: hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án, khả năng trả nợ của dự án, năng lực, khả năng về tài chính cũng như uy tín của doanh nghiệp B.O.T. Căn cứ vào từng dự án thuộc các ngành, lĩnh vực khác nhau, các ngân hàng nên quy định thời gian cho vay khác nhau, đồng thời lãi suất cũng nên thấp hơn so với các dự án khác và không nên duy trì một mức lãi suất như nhau trong suốt thời gian cho vay vì dự án có mức sinh lời khác nhau ở các thời điểm khác nhau, chẳng hạn, trong những năm đầu lợi nhuận của dự án còn nhỏ nhưng lãi vay lại lớn do dư nợ vay lớn, ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của dự án trong thời gian đầu vận hành. Hơn nữa , để hạn chế rủi ro về lãi suất cho ngân hàng, lãi suất cho vay cũng nên được điều chỉnh theo biến động về lãi suất hay giá cả trên thị trường theo một biên độ nào đó hoặc theo sự điều chỉnh lãi suất trần cho vay của ngân hàng Nhà nước. Tích cực tìm kiếm các dự án B.O.T để tài trợ. Dự án B.O.T trong nước được thực hiện sẽ đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp thực hiện dự án và cả Nhà nước, cũng như nền kinh tế. Chính vì vậy, các dự án đó cần được phát triển mở rộng hơn nữa. Nhưng để làm được điều này, các ngân hàng nên tích cực tìm kiếm các dự án B.O.T để cho vay, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể huy động được vốn thực hiện dự án, khắc phục được khó khăn lớn nhất, cản trở việc phát triển của dự án B.O.T trong nước là vấn đề thiếu vốn. Đồng thời, các ngân hàng cần có những ưu tiên hơn nữa đối với các dự án B.O.T và phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp B.O.T trong việc giám sát tình hình thực hiện dự án nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn cho việc thi công công trình. Hoàn thiện quy trình thẩm định dự án . Khi nhận được hồ sơ xin vay vốn đầu tư thực hiện dự án B.O.T, ngân hàng cần nhanh chóng tiến hành thẩm định dự án để có thể quyết định cho vay chính xác. Chính vì vậy, các ngân hàng cần hoàn thiện quy trình thẩm định dự án (kể cả dự án B.O.T) nhằm đánh giá chính xác hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án cũng như các vấn đề thiết kế kỹ thuật, thi công công trình. Việc thẩm định dự án B.O.T được tiến hành nhanh chóng với chất lượng cao sẽ góp phần nâng cao hiệu quả vốn vay, giảm rủi ro cho ngân hàng, thúc đẩy việc mở rộng các dự án B.O.T trong nước. Nội dung chính của việc thẩm định dự án B.O.T là việc phân tích và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án như: vai trò và sự phù hợp của dự án đối với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch của khu vực cũng như cả nước; năng lực thực hiện đầu tư xây dựng dự án của doanh nghiệp B.O.T như kinh nghiệm, trình độ của cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp và thiết bị, máy móc thi công công trình; tiến độ thi công và các biện pháp thi công công trình; tác động môi trường sinh thái, các biện pháp về công nghệ, thiết bị cho dự án; quy mô của dự án với nhu cầu của thị trường về sản phẩm do dự án tạo ra. 3. Chính phủ. Xây dựng danh mục các dự án B.O.T trong nước. Trong phạm vi một quốc gia, có rất nhiều những dự án có tính chất, quy mô khác nhau. Trong đó, các dự án B.O.T trong nước đóng một vai trò quan trọng trong việc huy động tiềm lực trong nước để hỗ trợ Nhà nước thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Với tính chất của dự án B.O.T, nó có khả năng phát huy rất hiệu quả trong việc xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng của đất nước như đường giao thông, cung cấp điện, cầu, cảng..., những dự án đòi hỏi vốn đầu tư lớn và thời gian thu hồi vốn kéo dài. Do vậy, Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền phải nghiên cứu, xem xét những dự án B.O.T cần ưu tiên thực hiện trước mắt đưa vào danh mục các dự án B.O.T. Danh mục các dự án B.O.T trong nước phải được công bố định kỳ đúng quy định trên các phương tiện thông tin đại chúng, thể hiện được sự quan tâm chú trọng đến việc kêu gọi đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước như là một phương thức quan trọng để huy động các thành phần kinh tế trong nước tham gia vào việc phát triển kinh tế đất nước. Tránh tình trạng Quy chế có quy định nhưng trong thực tế thì từ ngày Quy chế được ban hành vẫn chưa có một danh mục các dự án B.O.T trong nước nào được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, gây khó khăn cho các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu đầu tư các dự án B.O.T nhưng không biết nên chọn dự án nào và nếu chọn được thì không biết dự án đó có được đầu tư theo hình thức B.O.T hay không. Quy định tỷ lệ vốn góp phù hợp và hỗ trợ một phần về vốn cho doanh nghiệp B.O.T. Khó khăn lớn nhất cản trở việc thực hiện các dự án B.O.T trong nước hiện nay là vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp B.O.T phải đạt mức tối thiểu bằng 30% tổng vốn đầu tư dự án. Trong khi đó rất nhiều doanh nghiệp, cá nhân trong nước có khả năng thực hiện dự án một cách có hiệu quả nhưng lại không đảm bảo được tỷ lệ vốn góp như trên. Vì vậy, Chính phủ cần nới rộng quy định về tỷ lệ vốn góp trên tuỳ theo từng loại dự án B.O.T, chẳng hạn nếu là dự án nhóm B, C thì tỷ lệ 30% có thể chấp nhận được nhưng đối với các dự án nhóm A thì tỷ lệ này nên giảm xuống thấp hơn 30% và không được nhỏ hơn một tỷ lệ nhất định nào đó, ví dụ 15%. Điều này có nghĩa là khi xem xét quyết định có giao cho doanh nghiệp, cá nhân trong nước thực hiện dự án hay không, Chính phủ nên chủ yếu căn cứ vào những lợi ích mà dự án có khả năng đem lại, tính khả thi của dự án và phương án huy động vốn của doanh nghiệp có đảm bảo cho việc thực hiện dự án hay không. Ngoài ra, có thể tuỳ từng loại dự án có ý nghĩa đặc biệt, Chính phủ nên hỗ trợ doanh nghiệp trong việc huy động vốn để thực hiện dự án, hoặc là góp một phần vốn vào dự án để thể hiện sự ủng hộ của mình đối với dự án và làm cho dự án có thể huy động được vốn nhanh hơn từ các nguồn khác, hoặc là có những chính sách ưu tiên giúp doanh nghiệp B.O.T thu xếp được vốn cho dự án. Những hỗ trợ về vốn của Chính phủ đã được một số nước thực hiện và thực sự chúng đã góp phần không nhỏ vào thành công của dự án như dự án đường hầm cảng Sydney được Chính phủ úc cho vay không phải trả lãi với số tiền 125 triệu USD tương ứng 23% tổng số vốn đầu tư, hay dự án đường cao tốc Bắc-Nam của Malaixia được Chính phủ cho vay 235 triệu USD tương ứng 13% tổng vốn đâu tư với lãi suất cố định 8%/năm trong 25 năm. Đối với thuỷ điện Cần Đơn, Chính phủ đã giao cho Ngân hàng Nhà nước bảo lãnh các khoản cho vay cho Tổng công ty Xây dựng Sông Đà và không phải theo mức khống chế 10% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của các ngân hàng nhằm huy động đủ vốn cho việc thực hiện dự án. Ngoài ra, để các dự án B.O.T khác có thể nhanh chóng huy động được vốn với chi phí nhỏ nhất, Chính phủ cũng cần có những ưu tiên như chỉ định các ngân hàng thương mại cho vay với lãi suất nhỏ hơn lãi suất thị trường. Xây dựng chính sách ưu đãi phù hợp. Một trong những đặc trưng của dự án B.O.T là thời gian vận hành dự án B.O.T thường kéo dài, chứa đựng những rủi ro có thể xảy ra đối với chủ đầu tư. Chính vì vậy, Chính phủ cần có những ưu đãi hơn trong việc đảm bảo giá sản phẩm của dự án không làm giảm lợi nhuận cho chủ đầu tư do những biến động trên thị trường hay sự xuất hiện của những công trình có sản phẩm tương tự. Tuỳ thuộc vào từng dự án, Chính phủ nên cho phép thời gian vận hành được kéo dài phù hợp với tính chất của sản phẩm dự án và quy mô vốn đầu tư, đồng thời có những ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hay thuế nhập khẩu máy móc thiết bị cho dự án nhưng không nên quy định một mức chung cố định cho tất cả các dự án mà phải quy định chi tiết theo vùng, khu vực hay tính chất của dự án. Những ưu đãi của Chính phủ sẽ góp phần không nhỏ vào thành công của dự án B.O.T và khuyến khích những doanh nghiệp, cá nhân khác tham gia thực hiện các dự án B.O.T trong nước. Lựa chọn nhà thầu có đủ năng lực tham gia thực hiện dự án. Ngoài các ưu đãi đối với dự án B.O.T, một yếu tố nữa có khả năng quyết định sự thành công của dự án là việc lựa chọn được nhà đầu tư có đủ năng lực thực hiện. Do tính chất hấp dẫn của hình thức đầu tư B.O.T nên có thể có nhiều nhà đầu tư cùng xin phép đầu tư một dự án, vì vậy cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần xác định một phương thức lựa chọn nhà đầu tư tốt nhất. Phương thức lựa chọn tối ưu là thực hiện đấu thầu dự án. Người thắng thầu dự án sẽ trở thành nhà thầu có khả năng đáp ứng đầy đủ nhất những yêu cầu nghiêm ngặt mà dự án đặt ra. Do đó, quy trình đấu thầu phải tuân theo một trình tự chặt chẽ, khoa học và được thực hiện nghiêm túc để đảm bảo tính bình đẳng khách quan trong việc lựa chọn nhà thầu. Tất cả những vấn đề về xây dựng (tổng vốn đầu tư, thiết kế kỹ thuật, tiến độ thi công v.v...), kinh doanh (giá bán sản phẩm hay phí dịch vụ, thời gian khai thác v.v...), chuyển giao (trách nhiệm sửa chữa, bảo dưỡng công trình, thủ tục chuyển giao v.v...) phải được nghiên cứu kỹ lưỡng và được ghi rõ trong hồ sơ đấu thầu, làm căn cứ để lựa chọn đúng nhà đầu tư có khả năng thực hiện thành công dự án B.O.T. Đối với thuỷ điện B.O.T Cần Đơn, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà không phải tham gia đấu thầu để lựa chọn chủ đầu tư, nhưng trong quá trình thực hiện dự án Tổng công ty sẽ phải tổ chức đấu thầu để chọn những nhà thầu phụ thực hiện cung cấp vật tư, thiết bị điện, thiết bị cơ điện và thiết bị cơ khí thuỷ công cho công trình. Do đó, Chính phủ cần có những hướng dẫn cụ thể cho doanh nghiệp B.O.T tổ chức đấu thầu với các nguyên tắc phải cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết cho bên dự thầu trước khi đấu thầu một khoảng thời gian phù hợp để chuẩn bị hồ sơ đấu thầu, đảm bảo sự cạnh tranh công bằng giữa các bên dự thầu và lấy giá đấu thầu là căn cứ quan trọng nhất để quyết định nhà thầu phụ nào trúng thầu. Việc đảm bảo thực hiện nghiêm túc quy trình đấu thầu sẽ tạo điều kiện cho việc lựa chọn được những nhà thầu phụ có đủ năng lực tham gia thực hiện dự án B.O.T, không làm tổng dự toán công trình vượt quá tổng vốn đầu tư đã được phê duyệt. Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp quy của Nhà nước và các thủ tục hành chính. Nghị định 77/CP và các Thông tư hướng dẫn của Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần được sửa đổi cho phù hợp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu tham gia thực hiện dự án B.O.T có thể dễ dàng thực hiện, chẳng hạn như quy định về việc đăng ký thực hiện dự án B.O.T không nhất thiết phải có giấy cam kết của các ngân hàng cũng như những nhà tài trợ cho dự án vì các ngân hàng khó có thể cam kết tài trợ cho dự án khi mà dự án chưa được đăng ký, chọn được chủ đầu tư. Hay các quy định về việc giải toả diện tích đất để thực hiện dự án B.O.T nên được sửa đổi để doanh nghiệp B.O.T tự tổ chức việc thực hiện giải toả, giám sát việc thi công công trình nhằm rút ngắn thời gian chuẩn bị không cần thiết, vì việc giải toả diện tích đất có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của doanh nghiệp B.O.T nên doanh nghiệp B.O.T sẽ phải có trách nhiệm nhanh chóng triển khai giải toả, còn nếu giao cho cơ quan khác thực hiện việc này thì sẽ gây ra chậm trễ trong việc giải toả diện tích đất để thực hiện xây dựng công trình. Bên cạnh việc hoàn thiện các văn bản pháp quy về việc đầu tư thực hiện dự án B.O.T trong nước, Chính phủ cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính rườm rà như thủ tục xin phép đầu tư, xin phép cấp đất hay các thủ tục về giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án. Những thủ thục trên kéo dài vừa mất nhiều thời gian chuẩn bị cho công trình, vừa lãng phí tiền của, công sức của doanh nghiệp B.O.T. Các quy định về thời gian thông qua nghiên cứu tiền khả thi, khả thi hay thời gian thẩm định dự án B.O.T để được cấp giấy phép đầu tư, ký kết hợp đồng B.O.T đều không được thực hiện đúng như trong Nghị định 77/CP, Thông tư hướng dẫn của Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Chẳng hạn như thuỷ điện Cần Đơn, thời gian bắt đầu tiến hành nghiên cứu chuẩn bị thực hiện dự án đến khi dự án được cấp giấy phép đầu tư là hơn 2 năm. Vì vậy, Chính phủ cần lập một cơ quan chức năng đứng ra quản lý chung các dự án đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước, làm đầu mối phối hợp các Bộ, Ban, ngành, địa phương có liên quan đến dự án với doanh nghiệp B.O.T trong việc giải quyết những khó khăn vướng mắc trong việc xin phép đầu tư, thực hiện đầu tư, rút ngắn những thời gian không cần thiết trong việc thực hiện các thủ tục hành chính để có thể nhanh chóng triển khai được dự án B.O.T. Kết luận Đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước là một hình thức đầu tư mới ở nước ta. Đây là một hình thức đầu tư có nhiều ưu điểm,vừa có lợi cho Nhà nước, vừa có lợi cho doanh nghiệp. Qua việc thực hiện các dự án B.O.T trong nước, Nhà nước có thể huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong nước, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Các dự án B.O.T sẽ góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đồng thời mang lại lợi ích kinh tế, tạo việc làm, nâng cao trình độ quản lý cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây là một hình thức đầu tư rất mới ở nước ta cho nên còn có nhiều vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện vì những nguyên nhân như hệ thống văn bản pháp quy của Nhà nước chưa hoàn chỉnh, những khó khăn về vốn, về kinh nghiệm quản lý điều hành một dự án B.O.T của các doanh nghiệp, cá nhân trong nước. Nhưng không vì thế mà ta phủ nhận sự cần thiết và vai trò của dự án B.O.T trong nước đối với nền kinh tế nước ta, nhất là trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng như đường, điện, nước ... Do đó, Tổng công ty xây dựng Sông Đà cần khắc phục những khó khăn và vướng mắc trong quá trình chuẩn bị, triển khai thực hiện dự án, nhằm thúc đẩy việc mở rộng thực hiện các dự án B.O.T trong nước và làm cho hình thức đầu tư B.O.T thực sự phát huy hiệu quả đối với doanh nghiệp, đồng thời trở thành một biện pháp có ý nghĩa và phù hợp trong việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở nước ta. Đây là một hình thức đầu tư mới đối với nước ta cả về lý luận lẫn thực tiễn, do vậy kết quả của bài viết này chắc chắn còn nhiều hạn chế, em mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp, chỉ dẫn của các thầy, cô giáo và các bạn quan tâm đến lĩnh vực này để tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện trong thời gian tới. danh mục Tài liệu tham khảo. Nghị định 77/CP về việc ban hành Quy chế Đầu tư theo hình thức hợp đồng B.O.T áp dụng cho đầu tư trong nước ngày 18/06/1997 Thông tư số 12-BKH ngày 27/08/1997, Thông tư số 6-BXD/CSXD ngày 25/09/1997 hướng dẫn một số điều của quy chế đầu tư theo hình tứch hợp đồng B.O.T áp dụng cho đầu tư trong nước. Nghị định 52/CP ngày 08/07/1999 về việc ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng. Giáo trình Lập và Quản lý dự án đầu tư - Đại học Kinh tế Quốc dân. Quản trị Tài chính doanh nghiệp - Nguyễn Hải Sản - Nhà xuất bản Trẻ. Giáo trình Kinh tế đầu tư - Đại học Kinh tế Quốc dân. Giáo trình Kinh tế các nghành sản xuất vật chất - Đại học Kinh tế quốc dân. Giáo trình Địa lý kinh tế - Đại học Kinh tế Quốc dân. Tạp chí kinh tế và Dự báo số 7/1996. Thời báo Kinh tế Việt Nam số 29 ngày 08/03/2000. Tạp chí Xây dựng số 22 ngày 16/03/2000. Thời báo tài chính Việt Nam số 27 ngày 03/03/2000. Báo Đầu tư số 15 ngày 21/02/2000. Báo cáo nghiên cứu khả thi công trình thuỷ điện Cần Đơn. Các công văn, tài liệu liên quan đến việc xin phép, chuẩn bị, thực hiện dự án thuỷ điện Cần Đơn. Mục Lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29124.doc
Tài liệu liên quan