Chuyên đề Đầu tư trực tiếp của hoa kỳ vào Việt Nam – thực trạng và giải pháp

Mặc dù, so với các quốc gia thuộc khối ASEAN hiện nay, thì những quy định của pháp luật Việt Nam về ĐTNN được đánh giá là một trong những quốc gia thông thoáng nhất chỉ sau Xin-ga-po. Tuy nhiên, đi vào thực tiễn ta thấy, hệ thống pháp luật đầu tư ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập gây cản trở cho việc thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư của Hoa Kỳ nói riêng. v Thứ nhất: nâng cao chất lượng công tác quản lý hoạt động đầu tư. Do quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài có một ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến thu hút ĐTNN, trong khi công tác này ở VN còn rất nhiều hạn chế. Vì vậy, VN cần nỗ lực cải thiện môi trường này. Hiện nay, các quy định liên quan đến việc quản lý hoạt động ĐTNN còn thiếu một cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất, rõ ràng gây ra sự khó hiểu cho các nhà ĐTNN, chúng ta cần xây dựng lại cơ sở pháp lý theo hướng nhất quán rõ ràng, dễ hiểu thông qua việc sử dụng các từ, cụm từ trong các quy định chỉ có thể hiểu theo một nghĩa duy nhất để tránh sự không rõ ràng trong sử dụng từ ngữ, giúp các nhà đầu tư thực hiện đúng quy định. Điều này là rất quan trọng bởi thực tế cho thấy, từ ngữ trong các quy định đIều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài còn rất không rõ ràng làm cho các nhà đầu tư rất khó xử, họ không biết phải thực hiện như thế nào. Bên cạnh đó chính sách, pháp luật của nước ta thay đổi quá nhiều mà lại không đồng bộ, thiếu thống nhất gây cản trở cho hoạt động của các nhà đầu tư (các quy định về cùng một đối tượng có thể lại khác nhau qua các lần sửa đổi bổ sung- một hiện tượng dễ thấy trong hệ thống pháp luật ĐTNN tại VN). Do vậy, chúng ta cần rà soát lại các quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài để xem những quy định nào còn chưa thống nhất với nhau thì phải kịp thời điều chỉnh để đưa ra một quy định nhất quán. Tóm lại, chúng ta cần nâng cao chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động đầu tư nước ngoài.

doc64 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư trực tiếp của hoa kỳ vào Việt Nam – thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ố v…v nhưng nhu cầu tiêu dùng một số sản phẩm trên thị trường Việt Nam được coi là đã tạm thời bão hoà, sức mua trong nước còn thấp, tăng trưởng chậm v…v Vì vậy đối với những nhà đầu tư Hoa Kỳ muốn hướng sản phẩm vào thị trường nước chủ nhà sẽ chần chừ khi quyết định đầu tư vào thị trường Việt Nam. Dòng FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam không nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi tình trạng suy giảm tăng trưởng của Hoa Kỳ trong giai đoạn hiện nay, cũng như sau khủng hoảng kinh tế ở các nước khu vực, các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các công ty đa quốc gia của Hoa Kỳ nói riêng đã trở nên thận trọng hơn, không đầu tư ồ ạt theo hướng đón đầu như những năm đầu 90 nữa. Như vậy, có thể nói FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã gia tăng kể từ khi Hiệp định thương mại được ký kết. Tuy nhiên, nó vẫn chưa có sự chuyển biến lớn. Chúng ta cần tìm hiểu rõ nguyên nhân để có những định hướng và chính sách cụ thể nhằm thúc đẩy dòng FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Cùng với việc cải thiện môi trường đầu tư trong nước, chúng ta hoàn toàn có thể lạc quan đối với dòng vốn này khi nền kinh tế Hoa Kỳ được phục hồi. Qua đó, chúng ta có thể nâng cao được trình độ công nghệ, kỹ thuật, tranh thủ được nguồn vốn, tiếp thu được trình độ quản lý tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại thông qua các dự án FDI. Nó sẽ góp phần giúp Việt Nam thực hiện thành công mục tiêu CNH – HĐH và phát triển đất nước. 2.2.2. Hiệu quả của nguồn FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam Tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư với Hoa Kỳ không chỉ là giải pháp quan trọng trong tổng thể chương trình vận động đầu tư nước ngoài nói chung mà còn góp phần đảm bảo lợi ích thiết thực của Việt Nam trong việc triển khai hoạt động thương mại đã ký với Hoa Kỳ. Nếu tính từ 1/1/1988 đến 12/3/2003, Hoa Kỳ đã đứng vị trí thứ 9 trong tổng số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 191 dự án được cấp giấy phép có tổng số vốn đầu tư là 1.623.065.000 USD trong đó Hoa Kỳ góp 615.429.000 USD trong tổng số 744.493.000 USD vốn pháp định. Có thể nói, đối với Việt Nam, đây là nguồn vốn vô cùng quan trọng. Bởi chúng ta về bản chất là một nước nông nghiệp lại đang trong giai đoạn đầu của quá trình CNH – HĐH, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thấp, nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, do đó ta rất thiếu vốn để đầu tư phát triển xã hội. Chúng ta cần vốn để đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực trọng điểm then chốt tạo nền tảng cho phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, còn cần phải cải thiện cơ sở hạ tầng, các dịch vụ công cộng v.v nhằm phục vụ cho hoạt động kinh tế và đời sống xã hội. Ngoài việc góp phần đáng kể bổ sung nguồn vốn đầu tư trong nước, giúp chúng ta thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội tạo ra thành công nhất định trong giai đoạn đầu CNH-HĐH đất nước. Các dự án đầu tư của Hoa Kỳ cùng với các dự án của các nhà đầu tư nước ngoài khác góp phần tăng thu ngân sách qua các khoản thuế, do thế mạnh của FDI là xuất khẩu cộng với đóng góp của FDI vào lĩnh vực thu ngoại tệ khác đã tăng dự trữ ngoại tệ trong cán cân thanh toán làm cho cán cân thanh toán ngày càng được cải thiện. Tính đến cuối năm 1998, sau khi Việt Nam và Mỹ ký kết Hiệp định về hoạt động của OPIC tại Việt Nam , các doanh nghiệp Mỹ đã có 75 dự án ở đây với tổng số vốn đầu tư là hơn 1,1tỷ USD, vốn pháp định là 500 triệu USD, trong đó vốn thực hiện là 358 triệu USD và vốn pháp định thực hiện là 223 triệu USD, tạo ra doanh thu là 172 triệu USD, xuất khẩu được 89 triệu USD và nộp thuế cho nhà nước Việt Nam là 8,8 triệu USD. Tính đến đầu năm 2003, trong số các dự án còn hiệu lực có 97 dự án đã góp vốn với giá trị 876 triệu USD (chiếm 69,8% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực), trong đó 56 dự án đã sản xuất đạt tổng doanh thu 670,7 triệu USD (chiếm 40,3% tổng số dự án đang hoạt động). Với những kết quả trên thì các dự án đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế đất nước. Như ta biết, Hoa Kỳ là nước có nhiều tập đoàn lớn và là trung tâm tài chính quốc tế, các công ty của Hoa Kỳ có sức cạnh tranh cao và sở trường đặc biệt trong việc triển khai các công trình lớn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do vậy, việc mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư với Hoa Kỳ không chỉ nhằm thu hút vốn để thực hiện các dự án có quy mô lớn mà còn tạo điều kiện mở rộng quan hệ với các công ty, tổ chức ngân hàng, tài chính quốc tế. Vì vậy, chúng ta cần có những giải pháp định hướng cụ thể nhằm thu hút và tranh thủ nguồn FDI của Hoa Kỳ. Một tác động tích cực khác của dòng FDI Hoa Kỳ mang lại là đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế phục vụ CNH-HĐH đất nước. Các dự án FDI của Hoa Kỳ chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp gồm CN nặng và CN nhẹ với 101 dự án (53% tổng số dự án), tiếp đến là dịch vụ thu hút 27 dự án (14% tổng số dự án), xây dựng và CN thực phẩm lần lượt thu hút 20 và 21 dự án ( tương đương 11% và 10% số dự án). Điều này đã góp phần nâng cao tỷ trọng của khu công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế. Đặc biệt nhờ hoạt động đầu tư của Hoa Kỳ đã góp phần phát triển ngành dầu khí và công nghệ thông tin của Việt Nam (trong các công ty đầu tư lớn của Hoa Kỳ ở Việt Nam, có tới 9 công ty kinh doanh lĩnh vực viễn thông, công nghệ thông tin). Với cơ cấu đầu tư như vậy đã góp phần vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng rất tích cực, tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế đất nước. Bảng 12: Cơ cấu tổng sản phẩm xã hội Series1: Năm 1990, Series 2: Năm 2000 Như vậy, cùng với các dự án FDI của nước ngoài, FDI của Hoa Kỳ đã góp phần chuyển dịch cơ cấu tổng sản phẩm xã hội phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH của Việt Nam. Công nghiệp và dịch vụ đã và đang tăng lên rất nhanh trong những năm gần đây, từ 23% và 38% năm 1990 lên 35% và 40% năm 2000. Đây cũng là giai đoạn mà chúng ta đẩy nhanh việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (Luật đầu tư nước ngoài được ban hành vào năm 1987 và có hiệu lực vào năm 1988). Cùng với nó, tỷ trọng nông nghiệp trong FDP giảm từ 39% xuống còn 25%. Với xu hướng cơ cấu tổng sản phẩm xã hội rất tích cực này sẽ giúp Việt Nam thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế, và chúng ta hoàn toàn có thể hy vọng đến 2020 về cơ bản Việt Nam sẽ trở thành nước công nghiệp. Trong lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp, chỉ thu hút được 14 dự án. Số liệu trên cho thấy, đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào ngành này thời gian qua còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó quy mô đầu tư các dự án vào ngành còn nhỏ (trung bình là6,3 triệu USD) trong khi trung bình các dự án đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam là 8,7 triệu USD. Lý giải điều này có nhiều nguyên nhân, song thực tế cho thấy trước hết việc đầu tư cơ sở vật chất cho phát triển nông nghiệp ở nước ta còn nhiều hạn chế, hệ thống thuỷ lợi chưa được cung cấp một cách đầy đủ, thiếu quy hoạch phù hợp với các hệ thống cơ sở hạ tầng khác. Bên cạnh đó, chưa có sự tập trung sản xuất lớn cho ngành nông nghiệp, các nguồn lực cho phát triển nông nghiệp không được phối hợp một cách toàn diện, bị phân xẻ, sử dụng kém hiệu quả. Hiện tại, Việt Nam chỉ chú trọng vào việc đạt hiệu quả cao trong xuất khẩu gạo mà chưa có chính sách đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu. Mặc dù vậy, FDI của Hoa Kỳ cũng đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phục vụ công cuộc CNH-HĐH đất nước. Bên cạnh bổ sung vốn đầu tư trong nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, FDI của Hoa Kỳ còn giúp Việt Nam nâng cao năng lực công nghệ của nền kinh tế. Hoa Kỳ là nước đi đầu trong phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, đi đầu trong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến hiện đại nhất thế giới. Vì vậy, Hoa Kỳ có tiềm lực công nghệ hàng đầu thế giới. Việc các nhà đầu tư Hoa Kỳ chú trọng vào ngành công nghiệp ở Việt Nam đặc biệt với hình thức liên doanh giúp Việt Nam tiếp cận được với máy móc, thiết bị hiện đại so với tiềm lực công nghệ của chúng ta. Ngoài ra còn tạo điều kiện cho các chuyên gia của Việt Nam học được cách thiết kế, chế tạo… công nghệ nguồn, sau đó cải tiến cho phù hợp với điều kiện sử dụng trong nước và biến chúng thành những công nghệ của mình. Giá trị chuyển giao công nghệ trong các doanh nghiệp có vốn FDI tăng lên nhanh chóng trong thời gian vừa qua. Năm 1998, tổng giá trị nhập khẩu công nghệ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt tới 637 triệu USD, chiếm khoảng 31% tổng giá trị nhập khẩu công nghệ của các nước (so với năm 1995 tỷ lệ này chỉ đạt khoảng 12,7%). Đây là yếu tố rất quan trọng giúp chúng ta nâng cao được năng lực công nghệ trong nước. Một tác động cũng rất tích cực từ các dự án FDI của Hoa Kỳ ở Việt Nam là : các dự án này mang theo vào Việt Nam những mô hình quản lý tiến tiến, phương thức kinh doanh hiện đại qua đó chúng ta có điều kiện học hỏi, tiếp thu những kiến thức, kinh nghiệm mới trong kinh doanh. Các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp cận và tiếp thu được các mô hình quản lý và phương thức kinh doanh này qua đó góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh trong nước. Các dự án FDI của Hoa Kỳ cũng góp phần đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài thường tổ chức các khóa đào tạo một nguồn nhân lực phục vụ trực tiếp cho các dự án này, qua đó nâng cao được trình độ tay nghề của đội ngũ công nhân. Bên cạnh đó cũng góp phần đào tạo kiến thức quản lý, kinh doanh cho đội ngũ cán bộ chuyên gia. Nguồn nhân lực luôn đóng vai trò quan trọng trong giại đoạn đầu tiến hành CNH-HĐH đất nước, vì vậy tác động kể trên rất có ý nghĩa đối với chúng ta. VD: công ty Mobil. Việt Nâm là liên doanh được thành lập năm 1994 kinh doanh trong lĩnh vực dầu khí. Đây là một ngành kinh tế khá mới ở Việt Nam, liên doanh này đã góp phần đào tạo được nguồn nhân lực phục vụ cho một ngành kinh tế có khả năng đem lại nguồn thu rất lớn cho ngân sách nhà nước. Đồng thời dự án này cũng góp phần đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức cho đội ngũ cán bộ chuyên gia của phía Việt Nam. Qua đó họ có thêm kinh nghiệm để phục vụ cho các dự án tương tự của Việt Nam. Các dự án FDI của Hoa Kỳ cũng đã giúp giải quyết việc làm cho nguồn nhân lực phía Việt Nam. Bên cạnh việc tạo việc làm trực tiếp, các dự án này còn sử dụng rất nhiều các dịch vụ liên quan, các nhà đầu tư Hoa Kỳ gián tiếp tạo ra một số lượng khá lớn việc làm thông qua các hợp đồng cung cấp dịch vụ, gia công và đại lý. VD: công ty Cocacola của Hoa Kỳ thành lập tại Việt Nam năm 1994 đã tạo ra1500 việc làm trực tiếp và 18.030 việc làm gián tiếp, tương đương với tỷ lệ 1/12: trực tiếp /gián tiếp. Như vậy là bên cạnh viêc giải quyết việc làm cho phía Việt Nam, các dự án này có ý nghĩa rất tích cực: thông qua tạo việc làm cho một số lượng lạo động nhất định đã làm giảm bớt các tệ nan xã hội. Tính đến cuối năm 1998, các dự án của Hoa Kỳ đã thu hút được 3.253 lao động địa phương và tính đến tháng 6/2002 các dự án FDI của Hoa Kỳ đã tạo ra trên 5000 việc làm trực tiếp cho phía Việt Nam. Có thể nói, đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã có những tác động rất tích cực. Bên cạnh việc bổ sung cho nguồn vốn đầu tư trong nước nhằm thực hiện phát triển kinh tế đất nước, FDI của Hoa Kỳ còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực nhằm phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước thành công, đồng thời cũng góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm. Tuy nhiên, một tác động khác vô cùng quan trọng mà Việt Nam cần phải đẩy mạnh khai thác đó là các dự án đầu tư của Hoa Kỳ giúp ta nâng cao năng lực công nghệ hiện có của nền kinh tế. Hoa Kỳ là nước đi đầu và hoàn toàn có ưu thế về vốn và công nghệ. Vì vậy, khi mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư Hoa Kỳ, Việt Nam cần khai thác tối đa các công nghệ thích hợp với điều kiện cụ thể của chúng ta. Qua đó nâng cao được khả năng cạnh tranh của nền kinh tế góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà Đảng và Chính phủ đã để ra. 2.2.3. Thuận lợi và khó khăn trong việc thu hút FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Những thuận lợi: Như chúng ta đã biết, ổn định chính trị là yếu tố hấp dẫn hàng đầu đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi họ quyết định bỏ vốn vào một nơi nào đó. ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cho các cam kết của Chính phủ đối với các hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các quy định về đảm bảo và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ được tuân thủ. Đồng thời ổn định chính trị còn là điều kiện thiết yếu để duy trì sự ổn định về tình hình kinh tế xã hội – nhân tố quan trọng tác động đến rủi ro của các hoạt động đầu tư. Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có tình hình chính trị rất ổn định. Nhà nước CHXHCN Việt Nam và Đảng CS Việt Nam - Đảng cầm quyền duy nhất đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam trải qua 2 cuộc kháng chiến chống quân xâm lược vô cùng khó khăn, vất vả để đi đến thành công, thống nhất đất nước. Gần thế kỷ ĐCS Việt Nam vẫn và sẽ luôn luôn là chỗ dựa vững chắc cho quân dân Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu hàng đầu của ĐCS Việt Nam là phát triển đất nước và thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH. Nhân dân Việt Nam vẫn luôn tin tưởng vào đường lối và chính sách của ĐCS. Tất cả các thành phần kinh tế đều cố gắng phấn đấu để đạt được mục tiêu phát triển đất nước mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Với một nền chính trị ổn định như vậy sẽ tạo ra sự yên tâm cho các nhà đầu tư, bởi một nền chính trị ổn định chắc chắn tạo ra đường lối phát triển nhất quán, các cam kết về đảm bảo và khuyến khích đầu tư nước ngoài được duy trì. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến chiến lược sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư. ở Việt Nam, mặc dù các biện pháp về đảm bảo đầu tư nước ngoài đã qua nhiều lần sửa đổi nhưng chính sách vẫn luôn được khẳng định rõ ràng trong Điều 1 của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà ĐTNN”. Bên cạnh đó cũng phải thấy rằng, mặc dù đường lối của Đảng theo đuổi là tự do tôn giáo nhưng ở Việt Nam không có xung đột tôn giáo xảy ra. Điều này cho thấy sự thành công trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Như vậy, môi trường chính trị rất ổn định của Việt Nam sẽ đảm bảo cho hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài khỏi những rủi ro đối với đồng vốn của mình. Bởi đối với các nhà đầu tư nước ngoài, sự an toàn của đồng vốn được đặt lên hàng đầu. Với nền chính trị của Việt Nam, các nhà đầu tư có thể yên tâm khi bỏ vốn vào đây. vì vậy, có thể nói, môi trường chính trị ổn định là một ưu thế nổi bật trong điều kiện môi trường đầu tư của Việt Nam để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh sự ổn định về chính trị, một nhân tố khá quan trọng trong việc thu hút đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam đó chính là điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý. Việt Nam nằm ở rìa phía Đông của bán đảo Đông Dương, giáp biển thông ra Thái Bình Dương. Với vị trí này tạo ra sự thuận lợi vô cùng cho giao thông đường biển, chuyên chở hàng hoá. Tài nguyên thiên nhiên phong phú: trên 3500 mỏ với 80 loại khoáng sản khác nhau. Những yếu tố này trở nên rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ bởi như đã nói, các công ty Hoa Kỳ đặc biệt chú ý đến việc đầu tư vào ngành khai thác khoáng sản và chế biến nông sản nhằm tạo nguồn nguyên liệu, năng lượng chiến lược phục vụ cho các ngành công nghiệp của Hoa Kỳ. Trong đó thăm dò và khai thác dầu khí là một trong những lĩnh vực Hoa Kỳ đặc biệt có thế mạnh và quan tâm đầu tư ngay từ khi lệnh cấm vận đối với Việt Nam được bãi bỏ (theo thăm do Việt Nam lại là nước có trữ lượng dầu mỏ khá lớn). Trên thực tế mặc dù rất giàu có về tài nguyên và nguyên liệu cho sản xuất, nhưng để tiết kiệm, Hoa Kỳ vẫn muốn sử dụng nguồn từ bên ngoài thay vì khai thác nguồn ở trong nước. Các mỏ khoáng sản với trữ lượng khá lớn ở Việt Nam như than đá, dầu mỏ, quặng sắt, thiếc v…v. trở nên rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Nó giúp họ có một nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào phong phú với giá rẻ. Vd: trong lĩnh vực công nghiệp điện, điện tử…Hiện nay, công ty ORMAT của Hoa Kỳ đang đàm phán hoạt động mua bán điện, chuẩn bị lập báo cáo nghiên cứu khả thi xây dựng nhà máy điện địa nhiệt theo hình thức BOT tại miềm Trung với công suất 50MW (trên tổng trữ lượng từ 150-200MW) v…v. Ngoài ra, với một vị trí địa lý rất thuận lợi cho giao thông và chuyên chở hàng hoá sẽ làm chi phí vận chuyển thấp, giảm được giá thành và hạn chế rủi ro cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Hoa Kỳ nói riêng. Bên cạnh đó, do điều kiện nhiệt đới gió mùa rất phù hợp với các dự án nông nghiệp nên Hoa Kỳ đã thành lập công ty liên doanh với phía Việt Nam: Cargill Việt Nam (thành lập 1995) kinh doanh trong lĩnh vực chế xuất nông sản với số vốn đầu tư 30 triệu USD. Nhân tố cuối cùng cũng rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Hoa Kỳ nói riêng đó là nguồn nhân lực rất phong phú của Việt Nam với trên 40 triệu lao động với chi phí lao động thấp. Cùng với dân số là trên 70 triệu người, Việt Nam luôn hứa hẹn là một thị trường đầy tiềm năng trong khu vực. Hơn thế nữa lại là một dân tộc có lịch sử văn hoá lâu đời, biết tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại, có một nền văn hóa phong phú và đặc sắc, con người Việt Nam biết tiếp nhận cái đẹp, loại bỏ cái xấu. Vì vậy, Việt Nam luôn mở ra những cơ hội đầu tư đầy triển vọng đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ đặc biệt là những nhà đầu tư muốn hướng sản phẩm vào thị trường nội địa. Bên cạnh đó người Việt Nam có truyền thống cần cù, chăm chỉ, thông minh, sáng tạo, luôn biết vươn lên học hỏi cái hay, cái đẹp. Với nguồn nhân lực phong phú và giá cả lao động thấp chắc chắn là yếu tố rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Hoa Kỳ nói riêng. Cùng với những nhân tố rất thuận lợi cho việc thu hút FDI của Hoa Kỳ kể trên, ta cũng phải kể đến đường lối chính sách muốn làm bạn với tất cả các nước, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Tại Đại hội VI (1986), Việt Nam đã tìm thấy lối thoát một cách kịp thời cả ở trong và ngoài nước. Trong nước đó là công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế – xã hội; còn ngoài nước, đó là phương pháp đối phó một cách thích ứng trên trường quốc tế, tìm được những đối tác mới và sự ủng hộ mới thông qua đường lối mong muốn làm bạn với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Công cuộc đổi mới với chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chống quan liêu, bao cấp đã động viên được mọi tầng lớp nhân dân, kích thích được các thành phần kinh tế và thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Với sự đổi mới cả về mặt kinh tế-xã hội ở phạm vi trong và ngoài nước cùng việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 12/1987 đã thổi một luồng gió mới cho môi trường đầu tư của Việt Nam. Luật Đầu tư nước ngoài sau nhiều lần sửa đổi, tuy vẫn còn một số bất cập nhưng phần nào cũng đã đáp ứng được những mong chờ của nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Hoa Kỳ nói riêng. Bởi các nhà đầu tư nước ngoài luôn mong muốn có một môi trường pháp lý (điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài) ổn định, nhất quán, không mâu thuẫn, chồng chéo để họ có thể tiến hành hoạt động đầu tư một cách thuận lợi nhất. Đặc biệt kể từ khi Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ được ký kết vào ngày 10/7/2000 và có hiệu lực từ 10/12/2001, chúng ta hoàn toàn có thể lạc quan vào dòng FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Với việc đơn giản hoá các thủ tục, giấy phép đầu tư và các hoạt động liên quan đến việc quản lý dự án đầu tư v.v… cùng những ưu đãi cho các nhà đầu tư Hoa Kỳ sẽ làm cho thị trường Việt Nam trở thành một thị trường đầy hứa hẹn và rất hấp dẫn đối với các doanh nghiệp nước ngoài nói chung và doanh nghiệp Hoa Kỳ nói riêng. Bên cạnh những yếu tố được đề cập trên đây thì việc HĐTM Việt-Mỹ bắt đầu có hiệu lực vào ngày 10/12/2001 đã đánh dấu một giai đoạn mới trong việc phát triển quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước trong đó có đầu tư. Những cam kết mà phía Việt Nam phải thực hiện sẽ tạo ra những điều kiện rất thuận lợi để thu hút dòng vốn đầu tư của Hoa Kỳ. Trong đó có một số cam kết có thể nói là rất quan trọng ảnh hưởng đến quyết định di chuyển vốn đầu tư của các nhà đầu tư Hoa Kỳ Việt Nam. Như chúng ta biết, về hình thức, hiện tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam chỉ được phép thành lập theo hình công ty trách nhiệm hữu hạn mà chưa được phép thành lập theo hình thức công ty cổ phần, trong khi đó mô hình công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài là một hình thức quan trọng trên thế giới. Thông qua hình thức này, các doanh nghiệp được quyền huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Do đó việc giới hạn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được thành lập và hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) sẽ không khuyến khích được các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn làm ăn tại VN. Trong khi đó theo như cam kết thì trong vòng 3 năm kể từ khi HĐTM có hiệu lực, Việt Nam sẽ cho phép thành lập doanh nghiệp cổ phần có vốn của bên Hoa Kỳ. Đây là yếu tố rất hấp dẫn để có thể thu hút đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Ngoài cam kết kể trên, trong vòng 2 năm kể từ khi HĐTM có hiệu lực tức là đến năm 2003, chúng ta sẽ thực hiện chế độ đăng ký cấp đầu tư đối với: (i) các dự án đầu tư vào khu công nghiệp và khu chế xuất. (ii) các dự án có tỷ lệ xuất khẩu tối thiểu 50% sản phẩm. (iii) các dự án vốn đầu tư đến 5 triệu USD. Cam kết này sẽ giúp các nhà đầu tư Hoa Kỳ giảm bớt sự khó chịu do thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư mang lại cùng với việc đơn giản hoá thủ tục này. Một cam kết nữa chắc chắn cũng sẽ gây được sự chú ý của các nhà đầu tư đó là Việt Nam sẽ xoá bỏ sự phân biệt về giá, phí đối với tất cả các hàng hoá, dịch vụ còn lại trong vòng 4 năm kể từ khi HĐTM Việt-Mỹ có hiệu lực (các hàng hóa, dịch vụ còn lại ở đây bao gồm tất cả các hàng hoá, dịch vụ ngoại trừ những hàng hoá dịch vụ đã được đề cập xoá bỏ ngay tại thời điểm có hiệu lực của Hiệp định). Đây chỉ là một số cam kết trong rất nhiều cam kết mà phía Việt Nam phải thực hiện. Nếu những cam kết này được thực thi đầy đủ, chắc chắn Việt Nam sẽ là một môi trường đầu tư rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Tuy nhiên, môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn có những hạn chế nhất định cần chúng ta phải cố gắng nỗ lực cải thiện để Việt Nam thực sự trở thành điểm đến đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Những khó khăn. Môi trường đầu tư của Việt Nam còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được đầy đủ các quy định trong HĐTM. Có thể nói, so với các quốc gia thuộc khối ASEAN hiện nay thì những quy định của pháp luật Việt Nam về ĐTNN được đánh giá là quốc gia có Bộ Luật thông thoáng nhất chỉ sau Xin-ga-po. Mặc dù vậy, hệ thống pháp luật về đầu tư ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập, gây cản trở cho thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư Hoa Kỳ nói riêng. Trước hết, về công tác quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài. Quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước ta. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động này đang gặp một số trở ngại sau đây: + Một là, thiếu một cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất, rõ ràng dẫn đến tình trạng có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, gây khó khăn cho nhà đầu tư nước ngoài. VD: Khoản 4, Điều 64 Nghị định số 21/2000/NĐ-CP ban hành ngày 31/7/2000 quy định: “Báo cáo Tài chính của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bên hợp doanh nước ngoài đã được kiểm toán có thể được dùng làm cơ sở để xác định và quyết toán các nghĩa vụ khác đối với Nhà nước Việt Nam”. Cụm từ “có thể được dùng” trên đây đồng nghĩa với việc “có thể không được dùng” sẽ là không sai quy định và thực tế là: Baó cáo Tài chính hàng năm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được kiểm toán hầu như không được sử dụng làm cơ sở xác định thuế và nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước Việt Nam. Trong khi đó, theo quy định của pháp luật, ngành thuế hàng năm vẫn tiến hành kiểm tra quyết toán thuế và các nghĩa vụ tài chính khác đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cho thấy số thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà nước của doanh nghiệp thường cao hơn báo cáo kiểm toán, biên bản này có giá trị pháp lý và doanh nghiệp phải thực hiện. + Hai là, chính sách, pháp luật của nước ta hay thay đổi quá nhiều và thường lại không đồng bộ, thiếu thống nhất. Trong 15 năm qua, Luật ĐTNN đã được sửa đổi đến 5 lần nhưng các luật liên quan như Bộ luật Lao động, Luật tổ chức-tín dụng… lại không được thay đổi đồng bộ. Bên cạnh đó, chúng ta lại còn thiếu rất nhiều luật khác quan trọng như luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền… hoặc như quy định về tiêu chuẩn đầu tư. Theo Luật ĐTNN năm 1996, trong trường hợp có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư thì mức thuế lợi tức là 15% thu nhập nhưng theo Nghị định số 24/2000/NĐ-CP thì chỉ cần một tiêu chuẩn cụ thể là đã áp dụng thuế suất 15%. Thứ hai: Các thủ tục hành chính còn quá nhiều rườm rà. Mặc dù Nhà nước ta đã có những cố gắng trong cải cách thủ tục hành chính như thực hiện chính sách “một cửa, một dấu”, giảm thời gian cấp phép đầu tư… Nhưng thủ tục hành chính rườm rà vẫn là một trongnhững rào cản lớn nhất trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thủ tục hải quan, thủ tục hoàn thuế, thủ tục cấp đất, giao đất …, nhất là những dự án liên quan đến đền bù, giải toả mặt bằng còn quá phức tạp, kéo dài dẫn đến việc triển khai dự án chậm, gây nản lòng các nhà đầu tư, làm mất dần đi yếu tố hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam, đơn cử như việc hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo nhiều chuyên gia thì nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện quá nhiều thủ tục rắc rối để được hưởng ưu đãi là: phải lập hồ sơ gửi Bộ Tài chính với rất nhiều các yếu tố khác nhau, sau đó phải đợi 15 ngày xem Bộ Tài chính có chấp nhận hay không… Do đó, những quy định này lại tạo thêm rắc rối cho nhà ĐTNN, hay như vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng cũng vậy. Thứ ba: Các lĩnh vực, địa bàn khuyến khích ĐTTT nước ngoài chưa được quy định một cách rõ ràng, cụ thể. Mặc dù đã rất cố gắng trong việc tạo sự hài hoà giữa quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ nhưng chúng ta vẫn để xảy ra tình trạng mất cân đối trong cơ cấu vốn đầu tư giữa các vùng lãnh thổ. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch- Đầu tư thì trong khi vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thu hút được 57% số dự án và 48% vốn đăng ký thì vùng kinh tế trọng điểm miền Trung chỉ thu hút được 3% tổng số dự án và 5,5% vốn đăng ký, còn vùng miền núi trung du Bắc bộ và Tây nguyên có sức thu hút đầu tư kém nhất. Còn về cơ cấu đầu tư theo ngành nghề, lĩnh vực thì cũng mới chỉ tập trung vào lĩnh vực xây dựng và công nghiệp, các lĩnh vực lâm thuỷ sản còn quá ít. Thực tế cho thấy, việc lựa chọn địa điểm và lĩnh vực, ngành nghề đầu tư là vấn đề quan trọng hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài khi đến Việt Nam. Do vậy, chừng nào mà họ còn chưa sáng tỏ và vững tin vào hiệu quả của dự án thì chừng đó họ còn chưa quyết định đầu tư. Thứ tư: còn thiếu sự quản lý thống nhất đối với hoạt động ĐTNN, bộ máy quản lý công kềnh, chồng chéo. Hiện nay, việc quản lý các dự án vốn ĐTTT nước ngoài ở nước ta còn thiếu sự thống nhất giữa các ngành, các địa phương. Chưa có một cơ quan chuyên trách có thẩm quyền để giải quyết các vướng mắc trong hoạt động ĐTNN của doanh nghiệp. Một đề xuất, kiến nghị của doanh nghiệp thường phải qua quá nhiều Bộ, Ngành nên không xử lý kịp thời và doanh nghiệp vẫn phải chịu những bất hợp lý phát sinh. Các nhà đầu tư thường than phiền rằng: các cơ quan chức năng có quá nhiều quyền hạn đối với doanh nghiệp nhưng lại chẳng có cơ quan nào có trách nhiềm rõ ràng. Bên cạnh những quy định của pháp luật, chính sách liên quan đến ĐTNN, Bộ máy quản lý gồm các cơ quan, bộ, ngành cồng kềnh, chồng chéo thì một khó khăn nữa trong việc thu hút FDI của nước Hoa Kỳ vào Việt Nam là cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Như ta biết, các dự án đầu tư của Hoa Kỳ tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, dầu khí, dịch vụ… đây lại là lĩnh vực hoạt động cần kèm theo rất nhiều dịch vụ liên quan đến hệ thống hạ tầng cơ sở mới có thể đáp ứng được hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư Hoa Kỳ, điều này đòi hỏi hệ thống cơ sở hạ tầng phải tốt. Mặc dù Việt Nam đã cố gắng rất nhiều để cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng nhưng so với khu vực thì vẫn còn thua kém nhiều. Ngoài ra, việc phát triển nguồn nhân lực còn nhiều có nhiều hạn chế. Chúng ta chưa có một định hướng cụ thể cho việc phát triển nguồn nhân lực. Năng lực của đội ngũ cán bộ ở các lĩnh vực nói chung, kể cả cán bộ hoạch định chính sách và điều hành sản xuất, kinh doanh, sự hiểu biết về luật pháp Hoa Kỳ, kỹ thuật, kinh nghiệm kinh doanh với các công ty Hoa Kỳ nói riêng còn hạn chế. Đội ngũ công nhân lành nghề chưa được chú trọng đào tạo và còn thiếu trầm trọng. Tỷ lệ lao động qua đào tạo so với tổng số lao động của nước ta chưa chiếm tới 20%, trong đó lao động qua đào tạo nghề mới chiếm 11,3%. Ngân sách chi cho đào tạo nghề mới chiếm 6,5% tổng chi cho GD-ĐT. Đây là con số quá thấp so với khu vực và thế giới. Mặt khác, chúng ta để lãng phí quá nhiều nguồn lực có trí tuệ trong nước do chế độ đãi ngộ và sử dụng không hợp lý. Cơ cấu đào tạo còn chưa hợp lý gây ra tình trạng có nơi thì có quá nhiều nhân lực đáp ứng dẫn đến thất nghiệp và làm không đúng ngành nghề mình được đào tạo và kết quả là hiệu quả kinh tế thấp; có nơi chúng ta cần phát triển nhưng lại có quá ít nguồn nhân lực đáp ứng lại dẫn đến tình trạng thiếu người. Đây là một hiện tượng rất phổ biến ở Việt nam mà đòi hỏi các bộ, ngành liên quan nghiên cứu để đưa ra định hướng, chính sách giáo dục đào tạo theo kịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế xã hội. Một yếu tố nữa mà các nhà ĐTNN nói chung và các nhà ĐT Hoa Kỳ nói riêng rất lo ngại đó là tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ ở Việt Nam được coi là nhất Châu á. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu, lợi nhuận. Đặc biệt là chất xám của họ đã bị lạm dụng và sẽ gây tổn thất lớn cho lợi ích của các nhà đầu tư. Việc xử lý các sai phạm về bản quyền tác giả còn chưa nghiêm, tình trạng làm nhái theo mẫu mã nước ngoài còn phổ biến, chưa kịp thời ngăn chặn. Nói chung, những quy định pháp lý về vấn đề sở hữu trí tuệ của ta còn thiếu và chưa đồng bộ theo yêu cầu của WTO. Tóm lại, Việt Nam có những yếu tố rất thuận lợi để thu hút FDI của Hoa Kỳ nhưng chúng ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn cản trở luồng vốn này vào Việt Nam. Chúng ta cần phải biết tận dụng những yếu tố tích cực để phát huy tối đa khả năng thu hút đầu tư trực tiếp của một nước đóng vai trò rất lớn trong di chuyển luồng vốn đầu tư quốc tế. Nhưng chúng ta cũng cần cố gắng, nỗ lực giải quyết những bất cập còn tồn tại bên trong môi trường đầu tư của mình để hoàn thành được những mục tiêu, yêu cầu đã đề ra trong việc thu hút FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Chương 3. Giải pháp đẩy mạnh thu hút FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam Như chúng ta biết Hoa Kỳ là nước nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nhiều nhất và cũng là nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất (năm 1998, đầu tư của Hoa Kỳ ra nước ngoài chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của thế giới). Mặc dù tiềm năng lớn, nhưng mức đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào VN vẫn còn ở mức khiêm tốn khoảng trên 1,6 tỷ USD, với những dự án đầu tư nhỏ trung bình bằng 8,6 triệu USD. Tuy nền kinh tế của Hoa Kỳ vẫn nằm trong tình trạng suy thoái, mặc dù vậy, sau khi HĐTM có hiệu lực, khả năng thu hút đầu tư của Hoa Kỳ vào VN sẽ tăng lên về quy mô và giá trị, nhất là đầu tư trung và dài hạn. Việt Nam cần có những biện pháp cụ thể để thu hút đầu tư của Hoa Kỳ qua đó Việt Nam có thể tận dụng cũng như khai thác lợi thế về công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại và tranh thủ nguồn vốn của các nhà đầu tư - đây vốn là những ưu điểm nổi bật của các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Điều này sẽ giúp Việt Nam đẩy nhanh được sự nghiệp CNH-HĐH và góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Sau đây, luận văn xin đề cập một số giải pháp nhằm thu hút có hiệu quả dòng vốn đầu tư này. 3.1. Phát triển cơ sở hạ tầng. Có thể nói cơ sở hạ tầng (phần cứng) có vai trò làm nền móng cho các hoạt động đầu tư, nhất là trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ sử dụng công nghệ hiện đại. Trong khi đó cơ cấu đầu tư của Hoa Kỳ chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, dầu khí, xây dựng v.v… Đây đều là các lĩnh vực đòi hỏi cơ sở hạ tầng tốt, yêu cầu trình độ kỹ thuật công nghệ cao; hệ thống giao thông đi lại, vận chuyển hàng hoá thuận lợi phục vụ cho hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư một cách có hiệu quả v.v… Cơ sở hạ tầng tốt không chỉ đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật, giảm giá thành của sản phẩm mà còn hạn chế được các rủi ro trong đầu tư - một trong những yếu tố thu hút nhất sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư Hoa Kỳ nói riêng. Để đáp ứng được các yêu cầu trên, Việt Nam phải tăng cường cải thiện cơ sở hạ tầng thông qua việc nâng cấp và xây mới hệ thống giao thông (đường xá, nhà ga, bến cảng…), kho bãi, điện nước, thông tin, bưu điện,… theo kịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và đặc biệt để nâng vị trí của Việt Nam lên trong bảng xếp hạng môi trường đầu tư “cúng” cũng như môi trường đầu tư “mềm” của các nước ASEAN. Đây là biện có tính quyết định đến sự thành công trong thu hút đầu tư nước ngoài. Chúng ta cần chú trọng quy hoạch phát triển hạ tầng kho bãi với số lượng, quy mô và tiêu chuẩn, kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu sản xuất và phân phối của các nhà ĐTNN nói chung và các nhà đầu tư Hoa Kỳ nói riêng. Hiện nay, việc xây dựng hệ thống kho bãi đạt tiêu chuẩn quốc tế còn rất hạn chế, phần lớn do các công ty nhà nước thực hiện và thường tập trung ở các cảng biển là chủ yếu. Hệ thống giao thông đường xá ở Việt Nam cũng đã được chú ý phát triển trong giai đoạn hiện nay. Tuy vậy, chất lượng một số các công trình sau khi xây dựng còn kém do sự thiếu hụt về trình độ chuyên môn kỹ thuật nhưng các nhà thầu vẫn được nhận công trình do hiện tượng “đi đêm”. Chúng ta cần có biện pháp xử lý thẳng tay, thật nghiêm đối với những cán bộ, chuyên gia Nhà nước có hiện tượng ăn đút lót, hối lộ trong việc quyết định thắng thầu, đồng thời phải tổ chức giám sát hoạt động thi công các công trình, dự án để đảm bảo yêu cầu về chất lượng, kỹ thuật của công trình. Bên cạnh đó, xây dựng hệ thống giao thông đáp ứng tốt đòi hỏi lượng kinh phí rất lớn và thời gian thu hồi vốn đầu tư dài. Vì vậy, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, chúng ta cần thuyết phục các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ tài trợ và đặc biệt là khuyến khích đầu tư tư nhân (chủ yếu là đầu tư nước ngoài) tham gia dưới hình thức BOT, BT. Muốn làm được như vậy, chúng ta cần có những chính sách đảm bảo và khuyến khích ĐTTTNN trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, các lĩnh vực dịch vụ của ta còn quá yếu kém. Những dịch vụ điện nước, thông tin, bưu đIện… vẫn gặp những khó khăn. Khả năng cung cấp điện nước cho các hoạt động đầu tư là yếu tố quy định quy mô dự án mà hiện nay ta vẫn còn nhiều hạn chế. Bởi vậy, chúng ta cần ưu tiên phát triển thêm một số nhà máy điện lực và nhà máy cung cấp nươc sạch để đáp ứng nhu cầu cho sinh hoạt của người dân cũng như cho các hoạt động kinh tế xã hội, cũng như hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư. Thông tin, bưu đIện là nhu cầu không thể thiếu được trong các hoạt động đIều hành kinh doanh và trong cuộc sống của các nhà đầu tư. Chúng ta cần xây dựng một hệ thống thông tin, bưu điện đạt chất lượng cao. Hiện nay, một vấn đề nổi cộm trong ngành bưu chính viễn thông ở Việt Nam đó là giá phí cho loại hình dịch vụ này là cao so với khu vực nhưng chất lượng lại không tương xứng. Mặc dù kể từ 1/4/2003, ngành bưu chính viễn thông của Việt Nam có một đợt giảm giá phí dịch vụ viễn thông – Internet lớn nhất từ trước đến nay, trung bình từ 10-40%, điều này sẽ làm cho giá phí loại hình này giảm đảng kể nhưng vẫn còn cao so với khu vực và vẫn sẽ làm mất đi lợi thế so sánh của Việt Nam so với các nước trong khu vực do chi phí viễn thông, vận tải, điện nước cao hơn nhiều. Chúng ta cần mở rộng thêm các loại hình dịch vụ mới cũng như có thêm những ưu đãi đối với khách hàng trong lĩnh vực bưu chính viễn thông để thu hút thêm khách hàng phấn đấu trong một khoảng thời gian gần nhất sẽ giảm giá phí này xuống ngang bằng mức trung bình của khu vực. Khi giá phí các loại dịch vụ kể trên xuống thấp sẽ làm chi phí đầu tư giảm và làm tăng tính hấp dẫn đối với các nhà ĐTNN. Trong khi đó, trình độ các ngành dịch vụ quan trọng của ta như ngân hàng, bảo hiểm, hệ thống phân phối, kiểm toán, tư vấn các loại công nghệ, thông tin… còn non kém, các luật lệ, cơ chế chính sách, trình độ cán bộ, phương thức quản lý, điều hành còn nhiều bất cập dẫn đến các dịch vụ này không đáp ứng tốt được các yêu cầu của các nhà đầu tư, khi họ muốn thực hiện giao dịch liên quan đến các hoạt động đầu tư của mình. Do vậy, chúng ta cần mở các lớp để nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, nhằm nâng cao chất lượng phục vụ cho các giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời cải tiến, đổi mới phương thức quản lý, điều hành sao cho bộ máy được tổ chức một cách gọn nhẹ, đơn giản giúp các nhà đầu tư khi đến làm việc cảm thấy dễ dàng và không bị cản trở. 3.2. Hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật đến hoạt động ĐTNN. Mặc dù, so với các quốc gia thuộc khối ASEAN hiện nay, thì những quy định của pháp luật Việt Nam về ĐTNN được đánh giá là một trong những quốc gia thông thoáng nhất chỉ sau Xin-ga-po. Tuy nhiên, đi vào thực tiễn ta thấy, hệ thống pháp luật đầu tư ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập gây cản trở cho việc thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư của Hoa Kỳ nói riêng. Thứ nhất: nâng cao chất lượng công tác quản lý hoạt động đầu tư. Do quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài có một ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến thu hút ĐTNN, trong khi công tác này ở VN còn rất nhiều hạn chế. Vì vậy, VN cần nỗ lực cải thiện môi trường này. Hiện nay, các quy định liên quan đến việc quản lý hoạt động ĐTNN còn thiếu một cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất, rõ ràng gây ra sự khó hiểu cho các nhà ĐTNN, chúng ta cần xây dựng lại cơ sở pháp lý theo hướng nhất quán rõ ràng, dễ hiểu thông qua việc sử dụng các từ, cụm từ trong các quy định chỉ có thể hiểu theo một nghĩa duy nhất để tránh sự không rõ ràng trong sử dụng từ ngữ, giúp các nhà đầu tư thực hiện đúng quy định. Điều này là rất quan trọng bởi thực tế cho thấy, từ ngữ trong các quy định đIều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài còn rất không rõ ràng làm cho các nhà đầu tư rất khó xử, họ không biết phải thực hiện như thế nào. Bên cạnh đó chính sách, pháp luật của nước ta thay đổi quá nhiều mà lại không đồng bộ, thiếu thống nhất gây cản trở cho hoạt động của các nhà đầu tư (các quy định về cùng một đối tượng có thể lại khác nhau qua các lần sửa đổi bổ sung- một hiện tượng dễ thấy trong hệ thống pháp luật ĐTNN tại VN). Do vậy, chúng ta cần rà soát lại các quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài để xem những quy định nào còn chưa thống nhất với nhau thì phải kịp thời điều chỉnh để đưa ra một quy định nhất quán. Tóm lại, chúng ta cần nâng cao chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động đầu tư nước ngoài. Thứ hai: thủ tục hành chính còn quá rườm rà và gây nản lòng các nhà đầu tư mặc dù chúng ta đã cố gắng cải cách thủ tục hành chính như thực hiện chính sách “một cửa, một dấu”, giảm thời gian cấp phép đầu tư… nhưng hoạt động này vẫn còn rất nhiều bất cập. Chúng ta cần phải đơn giản hoá các thủ tục hành chính và đặc biệt là xem xét lại những khâu nào là không cần thiết thì có thể giảm bớt để rút ngắn thời gian cũng như sự phiền hà phức tạp cho các nhà đầu tư. Chúng ta cần giải quyết những vướng mắc đặc biệt là có sự cải tiến trong thủ tục hải quan, thủ tục hoàn thuế, cấp đất, giao đất…, nhất là những dự án liên quan đến đền bù giải phỏng mặt bằng còn quá phức tạp và kéo dài. Trong khi có quá nhiều thủ tục mà các thủ tục lại rắc rối, điều này gây ra một tâm lý khó chịu cho các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, Chính phủ phải có các quy định rõ ràng đối với các ban, ngành liên quan đến hoạt động giải quyết thủ tục này cho các nhà ĐTNN theo hướng giảm bớt và đơn giản hoá các thủ tục đó. Như vậy, chúng ta cần phải tiếp tục cải cách thủ tục hành chính. Ngoài ra, một hiện tượng cũng trở nên khá phổ biến hiện nay mà chúng ta cần đấu tranh đó là nạn quan liêu, tham nhũng trong các cơ quan quản lý hoạt động ĐTNN cũng như các cơ quan giải quyết những vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư. Do các tệ nạn này đã làm cho các dự án ĐTNN được triển khai chậm, các nhà đầu tư gặp rất nhiều khó khăn, cản trở trong hoạt động đầu tư. Điều này sẽ làm giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư tại VN. Chính phủ cần nỗ lực đấu tranh chống lại tệ nạn này để hoạt động của các nhà đầu tư được thuận lợi, qua đó sẽ tạo được lòng tin đối với các nhà đầu tư. Thứ ba: chúng ta cần có sự phân cấp rõ ràng đối với các cơ quan quản lý hoạt động ĐTNN, bên cạnh đó là có sự phân chia trách nhiệm rõ ràng đối với các cơ quan chức năng. Cơ quan nào là chịu trách nhiệm trực tiếp giải quyết các vướng mắc cho doanh nghiệp?, cơ quan nào có quyền can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp ? Tất cả những vấn đề này chúng ta cần có những quy định rõ ràng, nếu không, sẽ gây ra hiện tượng: Các cơ quan chức năng có quá nhiều quyền hạn đối với doanh nghiệp nhưng lại chẳng có cơ quan nào có trách nhiệm rõ ràng - một hiện tượng trở nên khá phổ biến ở Việt Nam. 3.3. Đẩy mạnh chương trình xúc tiến đầu tư của Hoa Kỳ. 3.3.1. Tập trung nỗ lực hỗ trợ các dự án đầu tư của Hoa Kỳ đã được cấp giấy phép đầu tư hoặc đang đàm phán, chuẩn bị đầu tư. Đây là một trong những công tác quan trọng được xác định trong chương trình tổng thể vận động ĐTNN thời kỳ 2001-2005 như một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm củng cố lòng tin của nhà ĐTNN đang hoạt động tại VN và góp phần vào việc xây dựng hình ảnh, tạo sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư mới. Đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ, cần thực hiện các giải pháp cụ thể sau: Giải quyết sớm các vướng mắc trong hoạt động của các dự án đầu tư đã được cấp giấy phép như: dự án tập đoàn Cargil, dự án chế biến cà phê xuất khẩu của công ty McCalaugh International, dự án chế biến nhựa đường của tập đoàn Hackel tại Quảng Ngãi… Thành lập tổ công tác liên ngành để thúc đẩy đàm phán, chuẩn bị một số dự án quan trọng, đặc biệt là dự án sản xuất IC của tập đoàn Intel, dự án sản xuất Lab của tập đoàn VOP, đồng thời có biện pháp giải quyết sớm các vướng mắc liên quan đến việc đàm phán. 3.3.2. Tập trung vận động đầu tư đối với từng lĩnh vực, dự án và đối tác tiềm năng theo hướng: Chuẩn bị thông tin chi tiết về một số dự án có tính khả thi cao để giới thiệu với các nhà đầu tư Hoa Kỳ trong dịp tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại, triển lãm, hội chợ… tại Hoa Kỳ. Các hội thảo về đầu tư tại Việt Nam và Hoa Kỳ cần tổ chức theo từng lĩnh vực, chuyên ngành cụ thể hướng vào những công ty, tập đoàn có tiềm năng, tạo điều kiện để các đối tác trực tiếp gặp gỡ, tìm hiểu về khả năng hợp tác đầu tư. Tiếp xúc trực tiếp ở các cấp khác nhau ( kể cả cấp Chính phủ, nếu cần thiết) với các công ty, tập đoàn Hoa Kỳ có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ để xúc tiến thực hiện một số dự án quan trọng được lựa chọn, đồng thời cam kết hỗ trợ thực hiện có hiệu quả các dự án này nhằm mở đường cho việc thu hút các công ty trực thuộc và hoặc có quan hệ kinh doanh với các tập đoàn nói trên đầu tư vào Việt Nam. - Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng, tổ chức tài chính, các công ty tư nhân xúc tiến đầu tư Hoa Kỳ… để phối hợp vận động các khách hàng của họ đầu tư vào Việt Nam. - Duy trì và nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư Hoa Kỳ, đặc biệt là trong khuôn khổ phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham), hội đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ-ASEAN, hội đồng Thương mạiViệt Nam- Hoa Kỳ… - Triển khai nghiên cứu pháp luật về kinh tế của Hoa Kỳ và xu hướng đầu tư của các công ty Hoa Kỳ để xây dựng lĩnh vực và đối tác đầu tư thích hợp; tìm mối quan hệ giữa các công ty Hoa Kỳ với các quan chức chính quyền, quốc hội và chính giới khác nhằm từng bước tạo lập mạng lưới lợi ích với các thế lực chính trị ở Hoa Kỳ. 3.3.3. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về đầu tư. Hoạt động tuyên truyền đầu tư cần hướng vào các trung tâm tài chính, kinh tế và công nghiệp của Hoa Kỳ như New York, Chicago, Los Angeles, San Francisco, Miami…, đồng thời coi trọng các bang có lợi ích và quan tâm nhiều nhất đến việc hợp tác với Việt Nam. Chẳng hạn đối với các bang: Washington, Oklahoma Nebraska, New York, California… có thể vận động đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, vận tải biển, sản xuất mềm, hàng tiêu dùng. Ngoài các công ty, tập đoàn của Hoa Kỳ có tiềm năng đầu tư tại Việt Nam, cần chú trọng vận động các quan chức Chính phủ, nghị sĩ Quốc Hội, phóng viên báo chí, truyền hình, các nhà tư vấn… nhằm vận động hành lang cho Việt Nam. Nâng cao hiệu quả hoạt động vận động đầu tư gián tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng cách hợp tác với các cơ quan, hãng thông tấn xã, báo chí, truyền hình trong nước và ngay tại Hoa Kỳ để tăng tần suất thông tin về môi trường và cơ hội đầu tư tại Việt Nam: kịp thời và chuẩn xác trong thông tin, khắc phục tình trạng đưa tin sai hoặc cố tình bóp méo sự thật về Việt Nam. Nâng cao chất lượng tuyên truyền đầu tư bằng các phương tiện hiện đại, như xây dựng trang web, phát hình đĩa CD room, đĩa VCD nhằm giới thiệu môi trường và cơ hội đầu tư tại Việt Nam… Các thông tin về vấn đề này, đặc biệt là các thông tin về dự án trong danh mục gọi vốn ĐTNN phải có độ tin cậy cao, cập nhật, định hướng cụ thể lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư của Hoa Kỳ và nêu rõ được những lợi thế của việc lựa chọn dự án đầu tư tại Việt Nam thay vì địa bàn khác… Chúng ta cần triệt để khai thác sử dụng các phương tiện thông tin bởi đây là phương tiện có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động tuyên truyền, quảng cáo về môi trường đầu tư của Việt Nam tới các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Thông qua hệ thống truyền hình, băng đĩa, ấn phẩm,… các hình ảnh về đất nước, con người và các cơ hội đầu tư ở Việt Nam sẽ được giới thiệu đầy đủ và sinh động. Vì vậy, thông qua phương tiện này nó sẽ đem lại hiệu quả to lớn trong các hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam. 3.3.4. Mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác xúc tiến đầu tư với các công ty tư vấn, xúc tiến đầu tư, các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ của Hoa Kỳ theo hướng: Tận dụng tối đa sự trợ giúp kỹ thuật của Chính phủ Hoa Kỳ trong khuôn khổ Chương trình hỗ trợ thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (STAR) để triển khai nghiên cứu pháp luật, chính sách và thị trường Hoa Kỳ. Duy trì, mở rộng quan hệ hợp tác với các cơ quan Chính phủ và tổ chức Tài chính Hoa Kỳ như OPIC, Exim Bank, VSAID, TDA…nhằm phối hợp tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư. Tiếp tục ký kết các thoả thuận hợp tác xúc tiến đầu tư dưới những hình thức thích hợp với chính quyền một số Bang có tiềm năng hợp tác đầu tư với Việt Nam và các công ty tư vấn, xúc tiến đầu tư của Hoa Kỳ…, đồng thời nâng cao chất lượng hợp tác về vấn đề này với các công ty, tổ chức xúc tiến đầu tư của Hoa Kỳ đang hoạt động tại Việt Nam. 3.3.5. Thiết lập văn phòng xúc tiến đầu tư của Việt Nam tại Hoa Kỳ: Để tổ chức có hiệu quả các hoạt động xúc tiến đầu tư, cần nghiên cứu thiết lập văn phòng xúc tiến đầu tư tại một số thành phố lớn của Hoa Kỳ làm đầu mối tuyên truyền, vận động đầu tư, tìm hiểu thị trường, giới thiệu đối tác hợp tác của hai nước… Trước mắt, có thể thiết lập một văn phòng tại New York hoặc tại một Bang có nhiều quan hệ về Thương mại và đầu tư với Việt Nam. Cơ quan thương vụ Việt Nam tại Washington D.C và tổng lãnh sự quán Việt Nam tại San Francisco cần có cán bộ kiêm nhiệm thực hiện chức năng xúc tiến đầu tư. Do chi phí thành lập, thuê văn phòng, trả lương cho nhân viên và chi phí hoạt động thường xuyên tại Hoa Kỳ rất cao nên tổ chức văn phòng cần gọn nhẹ với lực lượng cán bộ có trình độ về pháp luật đầu tư, am hiểu thị trường Hoa Kỳ. Kết luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của nước chủ nhà. Đối với Việt Nam, luồng FDI lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Để đạt được những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra đối với việc phát triển đất nước, chúng ta cần tranh thủ tối đa luồng FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Thu hút được các nhà đầu tư Hoa Kỳ vào Việt Nam, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội để bổ sung vốn đầu tư trong nước, nâng cao năng lực công nghệ trong nước v.v… cùng với rất nhiều tác động tích cực khác đối với nền kinh tế. Song môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập cản trở dòng vốn này. Trong phạm vi đề tài này, người viết tập trung nghiên cứu thực trạng của dòng FDI Hoa Kỳ vào Việt Nam trước và sau Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, các yếu tố thuận lợi và khó khăn trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam, qua đó xin đưa ra một vài gợi ý mang tính chất giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút được nguồn FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong giai đoạn tới. Trong quá trình hoàn thành đề tài này, chắc hẳn không tránh được những thiếu sót. Người viết mong muốn nhận được sự đóng góp của những người quan tâm tới để góp phần hoàn thiện hơn nữa cho vấn đề mà đề tài đề cập. Tài liệu tham khảo Phùng Xuân Nhạ, Đầu tư quốc tế, Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội, 2001. Đề án đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ nhằm triển khai thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, Bộ kế hoạch và đầu tư, 9/2002. Đinh Quý Độ, Chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu vực Châu á- Thái Bình Dương kể từ sau chiến tranh lạnh, Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Kinh tế thế giới 2001-2002, thời báo kinh tế Việt Nam, 3/2002 Việt Nam trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương, Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương,4/2002. Châu Mỹ ngày nay, số 1,2,4,8 năm 2002 Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 8/1999. Nguyễn Anh Tuấn, Quan hệ kinh tế giữa Mỹ, Nhật và Việt Nam từ 1995 đến nay, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 9/2000. Lê Văn Sang, Chiến lược kinh tế của Mỹ đối với khu vực Châu á - Thái Bình Dương, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, 4/1996. Nguyễn Xuân Thắng, Lợi ích và sự điều chỉnh chiến lược kinh tế Châu á - Thái Bình Dương của Mỹ, Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới, 4/1995. Thời báo kinh tế Việt Nam số 8,27 năm 2002. Báo cáo của Vụ đầu tư nước ngoài, Bộ kế hoạch đầu tư, 20/3/2003. Báo cáo tổng kết kinh tế đối ngoại, Văn phòng chính phủ, ngày 30/9/1999 Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện chủ trương thực hiện và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Bộ kế hoạch và đầu tư, 9/1999. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37034.doc
Tài liệu liên quan