Để đẩy mạnh phát triển hoạt động của Ngân hàng thì không chỉ có cố gắng nỗ lực của riêng phía Ngân hàng mà cần có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước. Đặc biệt là trong hoạt động cho vay tiêu dùng bởi nếu hoạt động này phát triển thì Nhà nước cũng là đối tượng nhận được nhiều lợi ích từ sự phát triển đó. Vì vậy, Nhà nước nên tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động này ngày càng mang lại nhiều lợi ích cho xã hội.
+ Nhà nước cần thực hiện các biện pháp nhằm ổn định môi trường vĩ mô (kinh tế – chính trị – xã hội) thông qua việc thực hiện các biện pháp nhằm ổn định chính trị, xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế, hướng đầu tư, tăng cường đầu tư, chuyển đổi cơ cấu kinh tế một cách hợp lý nhằm mục tiêu ổn định thị trường, ổn định giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức có lợi cho nền kinh tế. Việc Nhà nước tạo ra một môi trường kinh tế – chính trị – xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện cho quá trình phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư, khiến cho khả năng tích lũy và tiêu dùng của dân cư ngày càng tăng lên, thúc đẩy mạnh mẽ tăng cầu về tiêu dùng. Bên cạnh đó, sự ổn định giúp cho các thành phần kinh tế yên tâm sản xuất kinh doanh tạo ra hàng hóa, dịch vụ cho xã hội.
- Nhà nước cần thực hiện các biện pháp nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP. Chuyển dịch phân bố dân cư theo hướng tăng tỷ lệ dân cư ở thành thị giảm tỷ lệ này ở nông thôn. Chuyển lao động ở những ngành có năng suất thấp sang các ngành có năng suất cao, giảm tỷ lệ thất nghiệp tăng mức sống dân cư, từ đó tạo ra cầu hàng hóa, dịch vụ.
- Nhà nước cần có văn bản quy định hướng tới các Bộ, Ngành, Tổng Công ty, các Doanh nghiệp về việc xác nhận cho cán bộ công nhân viên thuộc đơn vị mình vay vốn tín dụng ở các Ngân hàng thương mại. Tránh tình trạng gây khó dễ cho CBCNV hoặc quá dễ dãi để họ xin xác nhận nhiều lần đi vay ở nhiều nơi, gây rủi ro cho Ngân hàng.
- Nhà nước cần phối hợp với các Ngân hàng trong việc đào tạo nguồn nhân lực. Ngành Ngân hàng đòi hỏi CBCNV có trình độ cao, luôn luôn cập nhật và bổ sung kiến thức cho mình thì mới có thể theo kịp với sự thay đổi của công nghệ. Công nghệ, nghiệp vụ Ngân hàng thường là sự ứng dụng của nước ngoài vào hoạt động, vì vậy Nhà nước cần chú trọng tới việc đầu tư công nghệ cho các Ngân hàng thông qua việc cấp Ngân sách Nhà nước cử cán bộ Ngân hàng đi học tập ở nước ngoài. Đồng thời, đầu tư cho giáo dục trong nước thông qua việc đầu tư cho các trường có đào tạo chuyên ngành Ngân hàng, tạo điều kiện nâng cao trình độ của cán bộ Ngân hàng nói chung.
80 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1764 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỉnh giảm tốc độ tăng dư nợ. Đến giữa năm 2008 nhiều loại hình cho vay tiêu dùng như mua ô tô, mua nhà, bất động sản và hàng tiêu dùng khác đã không còn được các ngân hàng thương mại mặn mà cho vay như trước.
Tuy nhiên, có thể thấy, việc các ngân hàng hạn chế, thậm chí đóng cửa hạn mức cho vay tiêu dùng trong thời kỳ lạm phát vừa qua là hành động tất yếu nhằm mục tiêu bảo toàn vốn. Song phản ứng thái quá như trên là thiếu khôn ngoan. Nền kinh tế giai đoạn cuối 2008 bắt đầu rơi vào thiểu phát, nhiều ngân hàng sau giai đoạn mất tính thanh khoản đã trở lại trạng thái dư thừa vốn và phải nghĩ cách “tiêu” hết gần 10% tăng trưởng dư nợ tín dụng còn lại trong mấy tháng cuối năm. Đây chính là cơ hội để ngân hàng khởi động lại cho vay tiêu dùng, từ đó sẽ có tác dụng kích thích nhu cầu tiêu dùng trong dân cư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thực tế, trong giai đoạn này, một số ngân hàng cũng nhận định đây là cơ hội tốt để đẩy mạnh cho vay tiêu dùng nhưng vẫn rụt rè trong việc triển khai vì lo mất vốn và … phạm luật! Nếu như trước đó, các ngân hàng “vô tư” cho vay với lãi suất 23%-24%/năm thì lúc này không dám vượt trần 10,5% vì sợ Ngân hàng Nhà nước chế tài. Đối với hình thức vay tín chấp, các ngân hàng buộc phải có mức dự phòng rủi ro mất vốn khoảng 7%-8%. Do đó, để bảo đảm an toàn, họ phải cho vay với lãi suất từ 25%-30%/năm. Nhiều ngân hàng đã đề nghị được Ngân hàng Nhà nước cho phép áp dụng lãi suất riêng với lĩnh vực tín dụng tiêu dùng để đẩy mạnh thị trường này.
Theo đà thuận lợi vào cuối năm 2008, cùng với việc kể từ đầu tháng 2/2009, Thông tư 01 của NHNN cho phép các ngân hàng được thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường, mức độ tín nhiệm khách hàng vay. Điều này đồng nghĩa với việc ngân hàng có thể cho vay tiêu dùng vượt quá trần lãi suất 10,5%/năm, người dân tiếp cận vốn vay của ngân hàng dễ dàng hơn. Cùng với cho vay tiêu dùng mua nhà, sửa nhà, mua ô tô có thế chấp, nhiều ngân hàng còn cho vay tín chấp (không cần tài sản bảo đảm) hoặc vay qua thẻ ghi nợ, với hạn mức cao nhất lên tới 500 triệu đồng và thời hạn trả góp kéo dài từ 5 - 15 năm. Với loại hình dịch vụ này, khách hàng chỉ cần chứng minh có thu nhập ổn định từ lương (3 tháng gần nhất), có hộ khẩu thuộc khu vực 3 sẽ được vay khoản tiền tùy thuộc vào mức lương của khách hàng và hạn mức tín dụng của ngân hàng. Điển hình như: LienVietBank với sản phẩm cho vay tiêu dùng tín chấp với hạn mức vay lên đến 500 triệu đồng và thời hạn cho vay tối đa là 36 tháng; SeABank cho vay với hạn mức tối đa từ 300 - 500 triệu đồng/khách hàng, thời gian giải quyết hồ sơ tối đa chỉ 2 ngày; SHB cho vay với hạn mức tối đa 300 triệu đồng hoặc 12 lần thu nhập hàng tháng, thời hạn vay lên đến 48 tháng … Lãi suất cho vay tín chấp của các ngân hàng thương mại đang dao động quanh khoảng 10 - 15%/năm, cá biệt có ngân hàng lên tới 18%/năm.
Bảng 2.2.2: Bảng hạn mức tín dụng và lãi suất cho vay tiêu dùng tại một số
Ngân hàng
Tên ngân hàng
Hạn mức tín dụng
Lãi suất
LienVietBank
500 triệu đồng (18 tháng lương)
thấp nhất 12%/năm
Eximbank
500 triệu đồng (đảm bảo bằng BĐS)
Lãi tính trên dư nợ thực tế
Seabank
300 - 500 triệu đồng
14%/năm
SHB
300 triệu đồng
Lãi suất ưu đãi
ACB
250 triệu đồng
15,5%/năm
VIBank
200 triệu đồng
12 - 15%/năm
(Nguồn: www.dantri.com)
Lý giải việc các ngân hàng đẩy mạnh cho vay tiêu dùng, bà Đào Minh Anh, Phó Tổng Giám đốc VIBank cho biết: Điều này xuất phát từ Thông tư 01 cho phép ngân hàng thoả thuận với khách hàng mức lãi suất cho vay cao hơn mức trần lãi suất. Bên cạnh đó, nhu cầu vay vốn của khách hàng đến thời điểm hiện nay tăng cao, những mặt hàng mà người ta muốn vay vốn để mua tại thời điểm trước như bất động sản cũng có xu hướng giảm xuống với giá rất thấp. Nhu cầu vay vốn thì cao, mà nguồn cung của các ngân hàng cũng dồi dào, là lý do khiến cho vay tiêu dùng đang có mức tăng trưởng tương đối.
“Tuy lãi suất theo thoả thuận nhưng thực tế các ngân hàng áp dụng một mức lãi suất rất phù hợp. Mức lãi suất cũng chỉ tương đương hồi đầu năm 2008 chứ không quá cao. Sự phát triển của vay tín chấp và thẻ ghi nợ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân trong việc tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng với thời gian sử dụng vốn nhanh, không cần phải có tài sản bảo đảm, dù mức lãi suất có cao hơn một chút so với mức lãi suất cho vay tiêu dùng có tài sản bảo đảm”, bà Minh Anh nói.
Ông Lê Đình Tuấn, Phó Giám đốc khối khách hàng cá nhân ABBank nhận định: Tình hình lãi suất trên thị trường giảm mạnh là cơ hội tốt cho vay tín dụng tiêu dùng sôi động trở lại.
Đẩy mạnh cho vay tiêu dùng, Eximbank cam kết dành 3.700 tỷ đồng phục vụ cho các khách hàng cá nhân có nhu cầu vay vốn. Huy động vốn hiện tại của LienVietBank đạt gần 6.000 tỷ, tổng dư nợ đạt gần 3.000 tỷ với dư nợ cho vay tiêu dùng chiếm gần 7%.
Với ACB, khoản vốn khoảng 2.000 tỷ đồng mà ngân hàng này dành cho loại hình tín chấp, nay đã giải ngân được phân nửa; tính đến nay, tỉ lệ dư nợ cho vay bất động sản tại ACB chiếm 10% trên tổng dư nợ 34.000 tỷ đồng. VIBank tiếp tục giải ngân và đã hoàn chỉnh mọi quy trình cho các cá nhân tiếp cận nguồn vốn, với mức tăng trưởng từ 20 - 30%/năm.
Về Habubank, Thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, góp phần thức đẩy phát triển kinh tế xã hội, Habubank đã quyết định dành một gói 2.000 tỷ đồng để hỗ trợ cho các cá nhân có nhu cầu vay tiền để tiêu dùng và cải thiện đời sống. Các khách hàng vay tiền mua nhà tại ngân hàng theo chương trình: An cư nhà mới, mua ô tô trả góp, thấu chi tài khoản cá nhân. Bên cạnh thủ tục hồ sơ đơn giản, thuận tiện, lãi suất hợp lý còn có cơ hội được tặng hợp đồng bảo hiểm với giá trị tối đa bằng 800 triệu đồng. Habubank sẽ không từ chối tất cả các cá nhân và doanh nghiệp có đủ điều kiện vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh theo chương trình hỗ trợ lãi suất theo quyết định 131/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng và Thông tư 02/2009/TT- NHNN của Ngân hàng Nhà nước.
Ở một khía cạnh khác, hạn chế trong cho vay tiêu dùng ở các ngân hàng hiện nay vẫn còn khá lớn. Mặc dù hạn mức tín dụng đưa ra rất cao, nhưng để có thể được vay những khoản vay đó, người tiêu dùng cần phải thỏa mãn rất nhiều điều kiện khắt khe của Ngân hàng đưa ra. Điều này làm cho số người có thể tiếp cận được khoản vay bị giới hạn đi rất nhiều, hầu như những khoản cho vay này chỉ phục vụ cho tầng lớp dân cư có thu nhập tương đối cao. Có thể thấy, các ngân hàng đang rất cẩn trọng trong việc đưa ra các điều khoản cho vay nhằm hạn chế rủi ro tín dụng và nợ xấu, nợ khó đòi. Tuy nhiên, có lẽ việc đưa ra các hạn mức “trên trời” rồi đưa ra điều khoản cho vay cực kỳ khắt khe như thế là không nên.
2.3. Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Hội sở chính Ngân hàng Thương mại cổ phần Nhà Hà Nội
2.3.1. Hoạt động cho vay tiêu dùng ở Habubank
Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, và hoạt động cho vay, rộng hơn là hoạt động tín dụng, là một mảng chủ yếu của hoạt động ngân hàng, nó luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong doanh thu hàng năm của ngân hàng. Một ngân hàng tốt là một ngân hàng cân đối tốt cơ cấu của thu nhập từ hoạt động tín dụng và hoạt động phi tín dụng. Hiểu được điều đó, Habubank luôn hướng tới một cơ cấu tốt giữa thu nhập tín dụng và phi tín dụng. Tuy nhiên, không vì thế mà Habubank quên hoạt động tạo ra thu nhập chính cho ngân hàng, đó là hoạt động tín dụng, bao gồm huy động vốn và cho vay vốn. Tính đến 31/12/2008, dư nợ cho vay của Habubank đã là 9.510 tỷ đồng, tăng 0,97% so với năm 2007, và đóng góp hơn 70% cho tổng thu nhập của Ngân hàng. Nên nhớ rằng, năm 2008 là năm diễn ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu, và Việt Nam không thể nằm ngoài vòng xoáy của cuộc khủng hoảng đó.
Bên cạnh việc thực hiện các chính sách với cơ cấu lãi suất linh hoạt, phù hợp, hỗ trợ việc tăng trưởng tín dụng, Ngân hàng cũng chú trọng việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, đặc biệt các sản phẩm dành cho khối khách hàng cá nhân. Các sản phẩm có gắn với bảo hiểm như “An tín tiêu dùng” – cho vay tín chấp đối với cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp là khách hàng của Habubank, “An cư nhà mới” – cho vay mua nhà, cùng với các loại hình đã có sẵn như cho vay mua ô tô trả góp, cho vay kinh doanh chứng khoán niêm yết đã được các khách hàng đánh giá cao. Ngân hàng cũng thực hiện thí điểm việc kết hợp với các công ty cung ứng hàng hóa để cho các khách hàng vay mua hàng trả góp để hoàn thành sản phẩm trước khi áp dụng rộng rãi.
Tiện ích của hoạt động cho vay tiêu dùng ở Habubank:
Hỗ trợ từ 50% đến 70% tổng chi phí mua sắm;
Trả góp hàng tháng, hàng quý tuỳ theo nguồn thu nhập của mình hoặc trả một lần;
Không cần quá lo lắng về việc hoàn trả vốn vay trong thời gian ngắn do đã lựa chọn thời hạn linh hoạt;
Trả lãi suất cạnh tranh, hợp lý;
Vay nhanh chóng với thủ tục và hồ sơ đơn giản.
Điều kiện đối với khách hàng:
Năng lực pháp luật dân sự và hành vi dân sự đầy đủ;
Thu nhập hợp pháp và ổn định, đủ khả năng trả nợ, chứng minh được nguồn gốc trả nợ;
Tài sản đảm bảo khoản vay và có 30% đến 50% kinh phí tham gia vào kế hoạch vay vốn.
Một số loại hình cho vay tiêu dùng tại Habubank:
Mua nhà đất trả góp: dành cho các cá nhân có nhu cầu mua nhà ở thực sự và có hộ khẩu thường trú tại địa phương Habubank có trụ sở giao dịch. Đối tượng là nhà đất và các tài sản trên đất, các căn hộ mua mới của các công ty kinh doanh nhà.
Mua ôtô trả góp: dành cho các cá nhân mua ôtô mới 100% đủ điều kiện đăng ký biển số tại các địa phương Habubank có trụ sở giao dịch hoặc các địa phương Habubank cho phép.
Kinh doanh chứng khoán niêm yết: Habubank sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các nhà đầu tư chứng khoán cho các hoạt động như: mua bán, chuyển nhượng các loại cổ phiếu, trái phiếu niêm yết tại sàn giao dịch hay trên thị trường OTC trên cơ sở cầm cố chứng khoán.
Cho vay có tài sản đảm bảo là giấy tờ có giá: Quý khách đang sở hữu các giấy tờ có giá nhưng chưa đến kỳ hạn tất toán, có nhu cầu vay vốn phục vụ mục đích tiêu dùng, kinh doanh có thể sử dụng dịch vụ cho vay có tài sản đảm bảo là giấy tờ có giá tại Habubank.
2.3.2. Kết quả hoạt động cho vay tiêu dùng ở Habubank
2.3.2.1. Cơ cấu dư nợ cho vay phân theo loại hình doanh nghiệp
Cũng giống như hầu hết các Ngân hàng TMCP khác ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội luôn xác định đối tượng khách hàng chính của mình là các đơn vị ngoài quốc doanh và khách hàng cá nhân. Thực tế cho thấy Ngân hàng đã và đang đi đúng định hướng này. Bảng số liệu trên đã cho thấy rõ điều đó, khách hàng cá nhân và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn chiếm trên dưới 80% tổng dư nợ cho vay của toàn Ngân hàng.
Bảng 2.3.2.1: Tổng dư nợ phân theo loại hình doanh nghiệp của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (giai đoạn 2006-2008)
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ
tiêu
Năm
2006
Năm
2007
So sánh
2006-2007
Năm 2008
So sánh
2007-2008
Số
tiền
Tỷ lệ
(%)
Số
tiền
Tỷ lệ
(%)
Tổng dư nợ cho vay
1.772
3.391
1.619
91,37
3.224
-167
-4,92
DN ngoài Quốc doanh
1.057
2.344
1.278
121,7
2.224
-119,4
-5,09
DN Nhà nước
175,07
340,4
165,4
94,5
323,7
-16,77
-4,93
DN có vốn đầu tư nước ngoài
24,99
35,27
10,28
41,13
32,24
-3,03
-8,59
Kinh tế tập thể
18,78
34,25
15,47
82,37
33,21
-1,04
-3,04
Cho vay
cá nhân
468,6
601,5
132,8
28,35
580,32
-21,24
-3,53
Các ngành khác
28
34,93
6,93
24,75
29,99
-4,94
-14,4
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội)
Biểu đồ 2.3.2.1: Tỷ trọng dư nợ phân theo loại hình doanh nghiệp
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội)
Nhìn vào bảng số liệu và biểu đồ trên, ta thấy được dư nợ cho vay tiêu dùng cá nhân tăng trong giai đoạn trước 2007, đây là giai đoạn “bùng nổ” của thị trường cho vay, nhưng đến năm 2008 thì bị giảm xuống, mặc dù là tương đối ít. Việc giảm xuống này là do tác động xấu từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mà bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng nhà đất ở Mỹ. Điều này dẫn đến việc các ngân hàng thắt chặt cho vay, đặc biệt là đối với cho vay cá nhân, lĩnh vực mà các ngân hàng rất khó kiểm soát chất lượng tín dụng, và Habubank cũng không phải là ngoại lệ, hoạt động cho vay tiêu dùng gần như bị “xếp xó”. Tuy nhiên, như đã phân tích ở các phần trên, sau tình trạng lạm phát vào nửa đầu năm, đến nửa sau của năm 2008 nền kinh tế Việt Nam bắt đầu rơi vào thiểu phát, cộng với việc nhu cầu mua sắm vào thời điểm cuối năm có “ấm” lên đã tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng nói chung và Habubank nói riêng khởi động trở lại hoạt động cho vay tiêu dùng cá nhân. Thêm vào đó, Chính phủ cũng đã bắt đầu có những biện pháp nới lỏng chính sách tiền tệ, hạ mức lãi suất cơ bản xuống dần. Những tác động này đã phần nào giúp cho các ngân hàng nói chung và ngân hàng Nhà Hà Nội nói riêng hạn chế việc sụt giảm dư nợ cho vay cá nhân trong năm 2008.
2.3.2.2.Dư nợ cho vay tiêu dùng
Trong quá trình cho vay, các ngân hàng vừa phải đảm bảo có lãi vừa phải đảm bảo mang lại lợi ích cho khách hàng. Điều này rất khó thực hiện, đòi hỏi các ngân hàng trước khi cho vay phải tìm hiểu thị trường, nắm bắt thông tin về khách hàng và quan trọng là làm sao xác định được mục đích vay vốn của khách hàng là gì? Sử dụng như thế nào? Các rủi ro nào có thể dự đoán trước? Đó chính là cơ sở đảm bảo cho ngân hàng thu hồi được vốn gốc và lãi đúng thời hạn, còn người tiêu dùng thì thỏa mãn được nhu cầu của mình. Sau đây chúng ta sẽ xem xét tỷ trọng của dư nợ cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ cho vay cá nhân, và xem xét tỷ lệ nợ quá hạn của hoạt động cho vay tiêu dùng.
Bảng 2.3.2.2: Tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng/tổng dư nợ cho vay cá nhân
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Dư nợ cho vay cá nhân
468,6
601,5
580,32
Dư nợ cho vay tiêu dùng
345,26
468,2
468,89
Tỷ trọng (%)
73,68
77,85
80,8
Tỷ lệ nợ quá hạn của cho vay tiêu dùng (%)
0,72
1,12
1,01
Tỷ lệ nợ xấu
1,95%
2,6%
2,1%
(Nguồn: Báo cáo cho vay tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội)
Dựa vào bảng số liệu trên ta có thể thấy dư nợ cho vay tiêu dùng tăng dần theo các năm, cả về giá trị tương đối lẫn giá trị tuyệt đối. Đặc biệt là trong năm 2008, mặc dù dư nợ cho vay cá nhân giảm, nhưng dư nợ cho vay tiêu dùng vẫn tăng 0,69 tỷ đồng so với năm 2007. Điều này chứng tỏ Ngân hàng đang ngày càng chú ý hơn đến mảng hoạt động cho vay tiêu dùng cá nhân.
Cũng theo bảng trên, ta thấy được đã có sự tiến bộ trong việc kiểm soát nợ xấu và nợ quá hạn. Đây là tín hiệu đáng mừng đối với ngân hàng, cho thấy công tác nâng cao chất lượng hiệu quả tín dụng ngày càng hiệu quả. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận ở một khía cạnh khác. Đó là trong năm 2008, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tất cả các ngân hàng đều thực hiện thắt chặt cho vay và kiểm soát chặt chẽ hơn chất lượng tín dụng, từ đó cũng góp phần giúp hạn chế tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn trong năm 2008.
Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội thực hiện phân loại nợ căn cứ vào điều 7 Quyết định 493, phân loại nợ căn cứ vào Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đã xây dựng. Theo cách đánh giá này, nhiều lúc các khoản nợ quá hạn bị coi là nợ xấu theo quy định ở điều 6, thì theo điều 7 chưa chắc đã là nợ xấu. Có nghĩa là, nhiều khoản nợ mặc dù đã quá hạn, nhưng theo đánh giá của Ngân hàng, khách hàng là người có đầy đủ khả năng trả nợ nhưng vì một lý do nào đó mà khách hàng không trả được món nợ thì khoản nợ đó chưa chắc đã là nợ xấu. Nhưng nhiều khoản vay, đặc biệt là các khoản vay trung & dài hạn, các khách hàng vẫn trả lãi và gốc đầy đủ song theo đánh giá của Ngân hàng, khách hàng có dấu hiệu suy giảm khả năng trả nợ vì những lý do chủ quan của chính khách hàng: rủi ro lien quan tới đạo đức của người trả lương cho khách hàng; việc giảm quy mô, vốn chủ sở hữu… làm Ngân hàng đánh giá không tốt về khách hàng cũng sẽ làm các khoản vay xếp vào nhóm nợ xấu. Quan hệ với Ngân hàng là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng của khách hàng, nếu khách hàng trả nợ đúng hạn cũng chưa chắc đã là khách hàng tốt.
Chính nhờ hệ thống này mà khách hàng của Ngân hàng sẽ chú ý hơn đến bản thân mình, để Ngân hàng có cách đánh giá tốt hơn, tạo điều kiện để khách hàng vay vốn Ngân hàng một cách dễ dàng.
2.3.2.3. Lãi cho vay thu từ hoạt động cho vay tiêu dùng
Cùng với sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong thời gian qua, lãi thu được từ hoạt động này cũng tăng lên tương ứng, chiếm một phần lớn trong doanh thu từ hoạt động cho vay cá nhân trong phòng bán lẻ, cũng như đóng góp quan trọng vào doanh thu hàng năm từ hoạt động tín dụng của Habubank.
Bảng 2.3.2.3: Thu lãi cho vay tiêu dùng
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Tổng thu lãi cho vay
230
463
550
Thu lãi cho vay cá nhân
60,83
82,14
99
Thu lãi cho vay tiêu dùng
46,29
67,93
81,67
Thu lãi CV tiêu dùng/CV cá nhân (%)
76,1
82,7
82,1
(Nguồn: Báo cáo cho vay tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội)
Bảng số liệu trên cho ta thấy thu lãi từ cho vay nói chung và từ hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng của Habubank trong những năm gần đây đều tăng trưởng ổn định. Tỷ trọng thu lãi từ cho vay tiêu dùng trong hoạt động cho vay cá nhân cũng tăng dần theo từng năm. Nếu năm 2006, mức thu lãi từ cho vay tiêu dùng chỉ là 46,29 tỷ đồng và chiếm 76,1% trong thu lãi cho vay cá nhân, thì chỉ sau một năm, các chỉ số này đã là 67,93 tỷ đồng và 82,7%, và đến năm 2008, thu lãi từ hoạt động cho vay tiêu dùng đã lên tới 81,67 tỷ đồng, gần gấp đôi so với năm 2006. Tuy nhiên, tỷ trọng thu lãi từ cho vay tiêu dùng trong năm 2008 lại giảm xuống so với năm 2008. Nguyên nhân của việc sụt giảm này được giải thích là do Ngân hàng chủ trương phát triển các sản phẩm phi tín dụng để đem lại thu nhập bù đắp cho khoản lợi nhuận bị cắt giảm từ việc hạn chế cho vay, trong điều kiện thị trường tài chính có nhiều biến động gây khó khăn đối với việc cho vay truyền thống. Điều này cho thấy sự hiệu quả trong hoạt động cho vay ngày càng được nâng cao và sự linh hoạt trong việc điều chỉnh chiến lược kinh doanh của Ngân hàng nhằm ứng phó với những biến động khó lường của thị trường.
Cho vay tiêu dùng nếu so với tình hình cho vay chung của ngân hàng (bao gồm cho vay cá nhân và cho vay doanh nghiệp) thì có thể chỉ chiếm một phần tương đối nhỏ nhưng thông qua việc tăng trưởng mạnh mẽ của hoạt động này trong thời gian qua, ta thấy rằng tiềm năng phát triển của cho vay tiêu dùng trong tương lai sẽ rất lớn bởi nó mở ra một thị trường mới với lượng khách hàng ngày càng đông đảo hơn, đặc biệt khi đời sống của người dân ngày càng được nâng cao.
2.4. Đánh giá hoạt động cho vay tiêu dùng tại Hội sở chính Ngân hàng Thương mại cổ phần Nhà Hà Nội
2.4.1. Những kết quả Ngân hàng đạt được
Công tác kiểm soát và thu hồi nợ: Nhờ thực hiện tốt công việc kiểm soát sau khi vay, tăng cường phòng ngừa rủi ro ngay từ khâu xét duyệt nên tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tiêu dùng chiếm tỷ lệ nhỏ, cao nhất là 1,12% năm 2007. Năm 2006, tỷ lệ này là 0,72%. Tỷ lệ này là khá tốt nếu so với tình trạng chung của các Ngân hàng hiện nay.
Công tác thu lãi cho vay tiêu dùng cũng đạt kết quả cao, thường đạt ở mức trên 150% so với kế hoạch.
Các sản phẩm bán lẻ ngày càng đa dạng và phong phú, đặc biệt có thêm các sản phẩm mới có gắn với bảo hiểm như “An tín tiêu dùng” – cho vay tín chấp đối với cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp là khách hàng của Habubank, “An cư nhà mới” – cho vay mua nhà, cùng với các sản phẩm sẵn có như cho vay mua nhà mới, ô tô, du học, khám chữa bệnh nước ngoài thu hút ngày càng nhiều khách hàng. Khách hàng tới vay tiêu dùng chủ yếu dưới hình thức cầm cố sổ tiết kiệm và vay thế chấp nhà. Số dư tín dụng cũng ngày càng tăng lên.
Đối tượng khách hàng: Lúc mới thành lập, khách hàng đi vay chủ yếu của ngân hàng là các khách hàng quen thuộc và người thân của cán bộ Habubank. Thời gian gần đây, Phòng dịch vụ Ngân hàng bán lẻ đã tích cực thực hiện các chiến dịch tiếp thị nên đã thu hút được nhiều khách hàng quan trọng (mời họ từ ngân hàng khác về). Đối tượng khách hàng này chủ yếu là kinh doanh ngoại tệ, buôn bán nên có tần suất vay khá lớn và đây là nguồn thu lãi quan trọng. Bên cạnh vay vốn những khách hàng này còn sử dụng thêm các dịch vụ khác như: giao dịch mua bán ngoại tệ, tài khoản… Phòng bán lẻ cũng đã thực hiện một số chương trình chăm sóc khách hàng và quảng cáo qua một số phương tiện thông tin đại chúng (gửi thư giới thiệu sản phẩm, quảng cáo trên ti vi, báo chí…) nên đã thu được thêm rất nhiều khách hàng, đặc biệt là khách hàng vay mua ô tô và xây nhà mới.
Về cho vay mua nhà mới: Khi mới ban đầu triển khai, chỉ có 135 khách hàng tới Ngân hàng để vay vốn theo chương trình Nhà mới với số dư nợ tính đến 31/12/2006 là 78,2 tỷ đồng chiếm 34% số dư nợ của phòng thì tới năm 2008, số lượng khách hàng tăng lên 324 khách hàng với số dư nợ là 295,997 tỷ đồng, chiếm 51% số dư nợ cho vay cá nhân. Những con số đã cho thấy tầm quan trọng của hoạt động cho vay mua nhà mới đối với doanh thu của Ngân hàng.
Về cho vay mua ô tô trả góp: năm 2003, khi mới triển khai chương trình tài trợ mua ô tô xịn thì số lượng khách hàng mới chỉ là 4 khách hàng và dư nợ tính đến hết ngày 31/12/2003 là 259 triệu, chiếm 1,71% số dư nợ của phòng. Các năm tiếp theo, lượng khách hàng có nhu cầu vay mua ô tô tăng lên nhanh chóng, năm 2006 là 65 khách hàng, năm 2007 là 89 khách hàng và tới năm 2008, con số này là 126 khách hàng. Ngân hàng cũng đã thiết lập mối quan hệ đối tác với một số đơn vị bán xe như Ford, Vidamco, ISUZU, Mitshubishi, Toyota, Mercedes Benz… Đây là một cầu nối quan trọng giữa Habubank với khách hàng nhằm thu hút một số lượng lớn khách hàng có thu nhập khá và cao đến với Habubank. Ngân hàng thường cho khách hàng vay trực tiếp để mua ô tô trả góp chứ không thông qua doanh nghiệp bán xe ô tô. Khách hàng vay trực tiếp ngân hàng để mua xe thì chi phí sẽ ít hơn nếu như khách hàng vay qua doanh nghiệp dưới hình thức trả góp, bởi lãi suất của doanh nghiệp tính cho khách hàng sẽ cao hơn lãi suất ngân hàng bởi họ còn phải bù đắp tất cả các chi phí, trong đó có cả chi phí lãi vay ngân hàng. Habubank hợp tác với các doanh nghiệp bán xe ô tô sẽ nhận được khoản phí hỗ trợ bán hàng nếu như có khách hàng vay được tiền của Habubank và mua xe của hãng. Tới năm 2008, TCB đã nhận được 1,9 tỷ đồng từ các hãng xe thông qua hình thức này.
2.4.2. Một số hạn chế và nguyên nhân
2.4.2.1. Hạn chế
Mặc dù cho vay tiêu dùng trong mấy năm vừa qua đã phát triển nhanh chóng nhưng nếu đem so sánh với tổng dư nợ của cả Ngân hàng thì tỷ lệ này vẫn chiếm một phần rất nhỏ, tương ứng với nó doanh thu từ hoạt động này cũng không cao. Bên cạnh đó, tuy tổng dư nợ cho vay có vượt kế hoạch đề ra nhưng riêng cho vay tiêu dùng thì dư nợ đều chưa đạt so với kế hoạch, đặc biệt là kết quả thực hiện cho vay du học còn kém xa so với chỉ tiêu đề ra. Mặc dù đã được lãnh đạo Ngân hàng hết sức quan tâm và thường xuyên đưa ra các giải pháp để đổi mới và hoàn thiện, song trong quá trình hoạt động vẫn cho thấy những khó khăn, tồn tại cần được khắc phục. Những tồn tại này có thể xuất phát từ nguyên nhân chủ quan hoặc nguyên nhân khách quan, nhưng dù từ nguyên nhân nào thì chúng đều gây ảnh hưởng xấu tới chất lượng hoạt động của ngân hàng.
* Tỷ lệ nợ quá hạn: như đã phân tích ở các phần trên, tuy tỷ lệ nợ quá hạn nói chung và tỷ lệ nợ quá hạn của cho vay tiêu dùng nói riêng ở Habubank chưa phải ở mức cao, nhưng với tình hình kinh tế khó khăn hiện nay, dự báo sự gia tăng nhanh các khoản nợ quá hạn so với sự gia tăng của tổng dư nợ thì tỷ lệ nợ quá hạn cũng là một vấn đề đáng quan tâm đối với không chỉ Habubank mà còn là toàn hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, việc xử lý chỉ đạo thu hồi nợ còn có nhiều hạn chế, mặcduf Ngân hàng đã tập trung nhiều công sức nhưng kết quả thu nợ còn thấp, tình hình tài chính của những đơn vị có nợ quá hạn rất khó khăn, không có nguồn trả nợ, tài sản đảm bảo tiền vay còn nhiều tranh chấp, phát mại khó khăn.
* Về đội ngũ cán bộ tín dụng: mặc dù chất lượng cán bộ tín dụng nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu về trình độ chuyên môn, tác phong nghề nghiệp, nhưng hạn chế nằm ở chỗ hầu hết nhân viên tín dụng của Ngân hàng có tuổi đời và tuổi nghề trẻ nên kinh nghiệm thẩm định cũng như xử lý các vấn đề phát sinh còn nhiều hạn chế, số lượng cán bộ tín dụng còn ít so với khối lượng công việc cần làm. Khối lượng công việc lớn như vậy cũng là một trong những nguyên nhân khiến cán bộ tín dụng không có thời gian kiểm tra, nắm bắt đầy đủ thông tin về tình hình hoạt động của khách hàng, từ đó phát sinh rủi ro tín dụng.
* Ngân hàng chưa thực sự thực hiện vai trò là người hỗ trợ các doanh nghiệp mới phát triển, chủ yếu chỉ cho vay các doanh nghiệp đã có uy tín từ lâu.
2.4.2.2. Nguyên nhân
a. Nguyên nhân khách quan
- Môi trường kinh tế: Xuất phát từ những khó khăn chung của nền kinh tế: 9 tháng đầu năm 2008 lạm phát và nhập siêu cao, sang tháng 10 nền kinh tế lại bắt đầu rơi vào thiểu phát. Diễn biến cung cầu vốn ngoại tệ trên thị trường tiền tệ bất thường. Tình trạng doanh nghiệp khó khăn, làm ăn thua lỗ diễn ra khá phổ biến. Nền kinh tế đi vào suy giảm, sức cầu yếu. Sản xuất lưu thông hàng hóa bắt đầu trì trệ. Đây là những yếu tố gây bất lợi cho hoạt động Ngân hàng.
Chính phủ và NHNN đã sử dụng nhiều biện pháp để điều hành nền kinh tế, điều hành chính sách tiền tệ Quốc gia nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, thị trường tiền tệ diễn biến thất thường cùng với tác động xấu của khủng hoảng tài chính thế giới và hiệu ứng của tăng trưởng tín dụng nóng, tăng quy mô và mạng lưới hoạt động quá nhanh của những năm trước vẫn ảnh hưởng lớn tới hoạt động của các ngân hàng TMCP. Đến năm 2008, mặc dù một số chỉ tiêu cơ bản của Ngân hàng vẫn tăng trưởng nhưng tốc độ đã chậm lại. Hoạt động của Ngân hàng chủ yếu là tập trung huy động vốn để cân đối nguồn và đảm bảo khả năng thanh khoản, đảm bảo an toàn của mình.
- Nguyên nhân từ phía khách hàng: Do khách hàng cho vay tiêu dùng là những thể nhân nên cái khó đầu tiên là xác định nguồn thu để trả nợ vì ít khách hàng khó có thể chứng minh được một nguồn thu rõ ràng để thanh toán nợ vay. Vướng mắc thứ hai đối với cho vay tiêu dùng liên quan đến tài sản đảm bảo. Do có một số quy định ngày càng chặt chẽ hơn của các cơ quan quản lý Nhà nước đã khiến nhiều khách hàng không vay được vốn vì giấy tờ tài sản thế chấp chưa hợp pháp và hợp lệ.
Đối tượng khách hàng là thể nhân nên các khoản vay thấp (trung bình 180 triệu đồng cho một khoản vay), có khi chỉ 5-10 triệu đồng, thời hạn vay thường ngắn. Do đó dư nợ cũng thường không ổn định.
Nhiều người dân vẫn còn tâm lý ngại đến vay ngân hàng vì cho rằng thủ tục phức tạp, phiền hà hoặc do họ chưa thực sự hiểu về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng.
- Tính cạnh tranh giữa các ngân hàng: Có thể nói trong giai đoạn hiện nay, lĩnh vực ngân hàng tài chính đang phát triển hết sức nhanh chóng và giữa các ngân hàng có sự cạnh tranh gay gắt về quy mô, chất lượng dịch vụ, sự đang dạng về sản phẩm… Riêng trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng cũng đã có rất nhiều ngân hàng tham gia, từ các ngân hàng lớn như Vietcombank, Ngân hàng NNo & PTNT, Ngân hàng Đầu tư Việt Nam cho tới các ngân hàng có quy mô nhỏ hơn như các ngân hàng cổ phần, bên cạnh đó còn có sự tham gia của các Công ty cho thuê tài chính. Sự cạnh tranh giành giật thị trường giữa các tổ chức tài chính đã gây khó khăn cho Habubank trong việc thu hút khách hàng. Trong môi trường cạnh tranh ấy đòi hỏi các ngân hàng cần có những thế mạnh, những ưu thế nổi trội của riêng mình trong chiến lược thu hút khách hàng. Ngân hàng Á Châu trong lĩnh vực cho vay mua nhà trả góp đã thành lập hẳn một siêu thị địa ốc để đáp ứng nhu cầu khách hàng, đây cũng có thể coi là một phương thức mời chào khách hàng hiệu quả của ACB.
Từ việc tìm ra các nguyên nhân gây hạn chế cho vay tiêu dùng của hội sở chính Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam, tôi xin đề ra một số giải pháp và nêu một số kiến nghị với hi vọng có thể mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NHÀ HÀ NỘI
3.1. Định hướng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Nhà Hà Nội
Với mục tiêu xây dựng Habubank trở thành một trong ba ngân hàng được tín nhiệm nhất Việt Nam về: môi trường làm việc, văn hóa doanh nghiệp chú trọng khách hàng, thúc đẩy hợp tác và sáng tạo, linh hoạt khi môi trường kinh doanh thay đổi, Habubank tiếp tục phát triển song song các chiến lược Ngân hàng bán lẻ đồng bộ tại các đô thị lớn và Ngân hàng bán buôn phục vụ các doanh nghiệp và kinh doanh tích cực trên thị trường tiền tệ trong và ngoài nước; chiến lược khách hàng và sản phẩm nhằm vào các thị phần mục tiêu đã lựa chọn và phát triển các loại hình sản phẩm, dịch vụ đa dạng gắn liền.
Để thực hực hiện các định hướng trên, Habubank đã xác định các yếu tố quyết định thành công chủ yếu như sau:
- Một quy mô tương đối đủ lớn để thực hiện các lợi thế chi phí, hình ảnh, uy tín và thị phần tại các đô thị lớn nhất Việt Nam;
- Chính sách nguồn nhân lực năng động: thực hiện tuyển chọn đào tạo và đãi ngộ trên cơ sở kết quả công việc, kết hợp tạo môi trường phát triển nghề nghiệp lâu dài;
- Hiện đại hóa công nghệ với công nghệ thông tin làm nòng cốt là động lực thực hiện đổi mới quy trình kinh doanh và quản trị của ngân hàng, đồng thời tạo cơ sở cho việc triển khai các sản phẩm dịch vụ mới;
- Một bộ máy quản lý hữu hiệu trên nền tảng phân quyền có quản lý và tạo dựng tinh thần làm việc độc lập – phối hợp tập thể;
- Một chiến lược rõ ràng về khách hàng mục tiêu, sản phẩm và khu vực hoạt động.
Những yếu tố trên sẽ là cơ sở để Habubank tiếp tục triển khai các bước chiến lược phát triển đã được hoạch định. Cụ thể:
Tổ chức hệ thống ngân hàng bán lẻ tại một số đô thị lớn với trọng tâm cung cấp các sản phẩm huy động và sử dụng vốn, dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng dân cư, kinh tế cá thể và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hoàn thiện cơ cấu hệ thống ngân hàng bán buôn tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh với trọng tâm cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng doanh nghiệp có quy mô lớn, các tổ chức tài chính, tiền tệ hoạt động trên thị trường tiền tệ, liên ngân hàng và trên thị trường vốn dài hạn.
Ưu tiên phát triển các loại hình dịch vụ phi tín dụng thông qua chính sách đa dạng hóa các loại hình dịch vụ cung ứng.
Trong thời gian tới, Habubank tiếp tục tập trung thực hiện các chương trình lớn và các giải pháp chủ yếu như sau:
- Dịch vụ ngân hàng đồng bộ phục vụ các doanh nghiệp tập trung;
- Quản trị tập trung và tối ưu hóa nguồn vốn, kết hợp với việc đẩy mạnh hoạt động trên thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế tập trung tại Hội sở;
- Cấu trúc ngân hàng bán lẻ tại chi nhánh và phòng giao dịch tập trung ở các đô thị lớn.;
- Tin học hóa các quy trình kinh doanh và quản lý ngân hàng;
- Củng cố và mở rộng mạng lưới chi nhánh và các phòng giao dịch ở các tỉnh và thành phố trong cả nước;
- Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực đảm bảo cả về lượng và chất nhằm đáp ứng nhu cầu nhân sự của hệ thống Habubank mở rộng các năm tới. Ngân hàng chủ trương mở rộng cho vay trong những năm tới. Đối tượng mà ngân hàng mở rộng theo hướng cung cấp các dịch vụ trọn gói cho khách hàng mở tài khoản cá nhân, trả lương đưa tài khoản, gửi tiết kiệm, cấp thẻ tín…
3.2. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Nhà Hà Nội
3.2.1. Tăng cường quảng bá thương hiệu, hình ảnh Ngân hàng
3.2.1.1. Thực hiện chiến lược chính sách khách hàng hợp lý
Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có hơn 60 ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh dịch vụ tiền tệ. Với số lượng ngân hàng đông đảo như vậy tất yếu sẽ có sự cạnh tranh gay gắt và phân chia khách hàng. Khách hàng là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo chò thành công và phát triển của ngân hàng. Vì vậy, mỗi ngân hàng cần xây dựng cho mình một chiến lược khách hàng riêng hợp lý, trong đó xác định rõ cần ưu tiên đối tượng khách hàng nào, đối tượng nào cần khuyến khích phát triển. Ngân hàng cần tập trung thực hiện chính sách khách hàng dựa trên một số vấn đề sau:
- Phải có một đội ngũ cán bộ giỏi về nghiệp vụ, tận tụy với công việc trực tiếp giao tiếp với khách hàng, cần phải lịch sự vui vẻ khi giao tiếp với khách hàng. Khi giải quyết công việc cần khẩn trương nhanh chóng nhưng vẫn đảm bảo chính xác, đúng chế độ. Phải có sự khiêm nhường tôn trọng, bình đẳng trong giao tiếp với khách hàng để họ luôn cảm thấy vừa lòng ngay cả khi họ không đạt được mục tiêu của mình. Đây là điểm mạnh của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội cần phải phát huy hơn nữa;
- Nghiên cứu áp dụng cách phân loại nợ dựa trên cơ sở rủi ro và trích lập dự phòng rủi ro theo các chuẩn mực quốc tế để nâng cao uy tín của Ngân hàng;
- Duy trì mối quan hệ tín dụng ổn định, lâu dài với những khách hàng truyền thống, bên cạnh việc thường xuyên chủ động tìm kiếm khách hàng mới
- Áp dụng chính sách ưu đãi một cách mềm dẻo, hợp lý. Vận dụng các cơ chế chính sách một cách linh hoạt trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Đơn giản hóa các thủ tục trong điều kiện có thể nhưng phải đảm bảo hiệu quả và an toàn vốn tín dụng;
3.2.1.2. Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động marketing ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi mà sự cạnh tranh diễn ra hết sức gay gắt thì hoạt động marketing trở nên rất quan trọng. Vì vậy trong thời gian tới Ngân hàng cần xây dựng cho mình một chiến lược marketing phù hợp hơn nữa. Cụ thể đó là:
- Tăng cường tuyên truyền quảng bá các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp một cách rộng rãi nhằm tạo cho kháchhangf biết đến hoạt động, cơ chế chính sách tín dụng của Ngân hàng, từ đó đẩy mạnh tín dụng một cách bền vững;
- Chủ động tìm kiếm khách hàng: bộ phận marketing của Ngân hàng không chỉ làm nhiệm vụ tuyên truyền, quảng bá mà nhiệm vụ quan trọng hơn là tìm hiểu khách hàng, lựa chọn khách hàng mục tiêu. Từ đó giúp Ngan hàng đưa ra các giải pháp, các chiến lược cụ thể nhằm thu hút khách hàng tới Ngân hàng nhiều hơn;
- Tăng cường khả năng cạnh tranh bằng cách tạo ra sự khác biệt về sản phẩm. Chín vì vậy đòi hỏi Ngân hàng phải luôn đổi mới, cải tiến chất lượng sản phẩm dịch vụ, tăng khả năng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng nhằm nâng cao năgn lực cạnh tranh cho Ngan hàng;
- Thường xuyên xây dựng và giới thiệu những chính sách khuyến khích và ưu đãi đối với khách hàng, quan tâm tới khó khăn thực tế và nhu cầu của khách hàng để từ đó đề ra được những biện pháp cụ thể đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng, góp phần làm cho mối quan hệ đôi bên ngày càng bền vững.
3.2.2. Mở rộng mạng lưới của Ngân hàng
Hoạt động cho vay tiêu dùng là hoạt động cho vay đối với cá nhân, đòi hỏi phải có một hệ thống cung ứng sản phẩm, dịch vụ rông khắp mới có thể cung cấp đẩy đủ cũng như đưa tiện ích của dịch vụ Ngân hàng tớ tay người tiêu dùng.
Hội sở Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội có trụ sở tại Hà Nội, một địa bàn được xem là giàu tiềm năng nhất của cả nước trong hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Hà Nội là thủ đô nên tất các cơ quan đầu não của đất nước đều tập trung ở đây, tất cả các tổ chức phi chính phủ, Công ty của các hãng trong nước cũng như nước ngoài… đều tập trung ở đây. Với dân cư đông đúc, trình độ dân trí cao, không ngừng được mở rộng… Hà Nội trở thành một thị trường giàu tiềm năng cho tất cả các ngân hàng. Vì vậy có sự cạnh tranh cũng trở nên gay gắt giữa các Ngân hàng. Một trong các biện pháp để thắng trong cạnh tranh và thu hút tối đa số lượng khách hàng có thể là mở rộng mạng lưới hoạt động của Ngân hàng trên địa bàn.
Hiện nay cùng với tốc độ đô thị hóa mạnh mẽ, mức sống của người dân cũng được nâng cao đáng kể, nhu cầu về nhà cửa và tiện nghi sinh hoạt là không thể thiếu, có thể ở hiện tại họ chưa thể mua sắm được những tiện nghi đó nhưng trong tương lai gần chắc chắn họ sẽ có. Ngân hàng cần mở rộng các chi nhánh nhỏ, các phòng giao dịch tới những khu đô thị mới, những thành phố vệ tinh của Hà Nội… để đáp ứng được tất cả nhu cầu của người vay, tận dụng tối đa lợi thế nằm trên địa bàn Thủ đô của mình.
3.2.3. Tiếp tục phát triển áp dụng khoa học công nghệ vào hoạt động ngân hàng
Trong xã hội mà công nghệ thông tin đóng vai trò chủ chốt thì hoạt động của Ngân hàng không thể không phụ thuộc vào công nghệ này, thậm chí nó phụ thuộc rất nhiều. Có thể nói Ngân hàng hiện đại hoạt động dựa trên nền tảng là công nghệ thông tin.
Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội luôn xác định rõ công cụ để cạnh tranh thắng lợi trong hội nhập chính là công nghệ. Chỉ có công nghệ tiên tiến Ngân hàng mới có thể thiết kế được những sản phẩm có chất lượng cao, đa tiện ích, ưu việt và tiết kiệm chi phí đặc biệt là chi phí cho nguồn nhân lực vốn đang có xu hướng gia tăng trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Ngoài ra công nghệ hiện đại còn là nhân tố quan trọng trong việc ứng dụng các mô hình quản lý hiện đại. Đây là xu hướng phát triển của hầu hết các quốc gia tiên tiến trên thế giới.
Gần đây, Habubank đã triển khai và đưa vào ứng dụng hàng loạt công nghệ Ngân hàng mới, sau thời gian hoạt động nó đã chứng tỏ được vai trò của mình, Ngân hàng luôn đi đầu trong lĩnh vực công nghệ mới và khẳng định vị trí hàng đầu của Ngân hàng TMCP hàng đầu ở Việt Nam trong mọi lĩnh vực, mang tới cho khách hàng những tiện ích Ngân hàng hiện đại.
Đối với lĩnh vực cho vay tiêu dùng, hiện nay tại Hội sở Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, việc quản lý khoản vay, tính lãi, thu nợ… đều được thực hiện trên máy tính, nâng cao được năng suất lao động của cán bộ tín dụng, giảm thời gian giao dịch đối với khách hàng. Nhưng đó chỉ là trong quá trình quản lý sau khi đã cho vay, còn thủ tục cho vay thì Ngân hàng vẫn tiến hành hoàn toàn thủ công. Ngân hàng nên sử dụng hệ thống tính điểm tự động để ra quyết định cho vay đối với khách hàng. Cài phần mềm tính điểm tín dụng đối với khách hàng vào máy, khi có đơn xin vay cán bộ tín dụng chỉ việc nhập dữ liệu vào máy lúc đó máy sẽ cho ra số điểm đạt được của khách hàng và cán bộ tín dụng lúc này chỉ cần ra quyết định có cho vay hay không, áp dụng phương pháp này, thời gian để ra quyết định rất ngắn, chính xác do không có sự nhầm lẫn của cán bộ tín dụng, thao tác rất đơn giản… Làm được điều này thì cả quá trình cho vay và thu nợ đều được thực hiện trên máy tính, giảm chi phí nhân công trong suốt quá trình cho vay.
3.2.4. Nâng cao số lượng, chất lượng nguồn nhân lực của Ngân hàng
Một vấn đề mà luôn được xem là nhân tố quyết định đối với Ngân hàng đó là công tác cán bộ. Cán bộ được xem là nhân tố quan trọng trong chiến lược phát triển của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội.
Cùng với việc đổi mới công nghệ Ngân hàng là việc đào tạo lại cho cán bộ Ngân hàng có khả năng làm chủ công nghệ đó là một yêu cầu cấp thiết. Mặt khác, trong xu thế hội nhập hiện nay yêu cầu đặt lên vai đội ngũ cán bộ Ngân hàng là rất lớn. Trong hoàn cảnh Việt Nam đã ra nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), đặc biệt là tổ chức thương mại quốc tế (WTO), đã và đang có nhiều Ngân hàng nước ngoài thâm nhập vào thị trường Việt Nam tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt mà chỉ có thể thắng được trong cạnh tranh này là chất lượng dịch vụ Ngân hàng. Mặt khác, tỷ lệ khách hàng nước ngoài khi đó sẽ cao hơn so với hiện nay, để đáp ứng được nhu cầu của những đối tượng này đòi hỏi chất lượng dịch vụ phải rất cao. Để làm được điều này thì yếu tố nền tảng và quan trọng nhất của Ngân hàng là nguồn nhân lực.
Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ cơ bản và mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng, để giữ vững được hoạt động của Ngân hàng trong thời buổi cạnh tranh thì việc nâng cao và mở rộng nghiệp vụ tín dụng là điều cốt yếu. Vì vậy người cán bộ tín dụng phải có được những phẩm chất và năng lực để thực hiện công việc.
- Có năng lực để giải quyết những vấn đề chuyên môn, nghiệp vụ. Muốn vậy họ phải có kiến thức chuyên môn về Ngân hàng, được đào tạo các kỹ năng để xử lý các thông tin liên quan tới công việc của mình.
- Có năng lực dự đoán các vấn đề kinh tế về sự phát triển cũng như triển vọng của hoạt động tín dụng. Đây chính là tầm nhìn của mỗi cá nhân, nhưng nó lại ảnh hưởng tới hoạt động của Ngân hàng. Từ kinh nghiệm mà họ có được những dự đoán chính xác thì đó là sự sáng tạo của cán bộ tín dụng.
- Có uy tín trong quan hệ xã hội. Điều này thể hiện phẩm chất đạo đức và khả năng giao tiếp của cán bộ tín dụng, nó có ảnh hưởng rất quan trọng trong việc mở rộng và giữ chân những khách hàng truyền thống của Ngân hàng.
- Có năng lực tự học, tự nghiên cứu, có khả năng làm việc độc lập. Đây là yếu tố phẩm chất rất cần cho công việc của một cán bộ tín dụng.
Nhận thức được điều này, trong những năm vừa qua Habubank không ngừng nâng cao số lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực. Hàng năm Ngân hàng đều tổ chức cuộc thi công khai tuyển nhân viên với nhiều vòng thi về kiến thức chuyên môn, về trình độ ngoại ngữ khả năng giao tiếp… đã tuyển chọn được những cán bộ có năng lực thực sự, có trách nhiệm và nhiệt tình với công việc. Ngân hàng cũng thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, đào tạo lại cán bộ thông qua các Hội nghị chuyên đề, các lớp tập huấn trong nước, các khóa học ngắn hạn cũng như dài hạn ở nước ngoài. Đặc biệt Ngân hàng còn thường xuyên tổ chức kiểm tra, sát hạch đánh giá trình độ của cán bộ trẻ để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài để đưa vào quy hoạch đào tạo cán bộ kế cận.
Đối với cán bộ tín dụng thì lựa chọn trong số cán bộ Ngân hàng có đủ kiến thức và đạo đức nghề nghiệp làm công tác tín dụng. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn phổ biến kiến thức mới và kinh nghiệm cho vay đến cán bộ tín dụng, chú trọng kỹ năng đánh giá phân loại khách hàng và kỹ năng thẩm định dự án. Rèn luyện kỹ năng ngoại ngữ để có thể tiếp cận đối với khách quốc tế.
Hiện nay số lượng cán bộ tín dụng nói chung và cán bộ làm việc trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng nói riêng còn thiếu. Một cán bộ tín dụng phải giải quyết một khối lượng công việc lớn trong một ngày làm việc, tình trạng làm thêm giờ, làm việc vào ngày nghỉ là chuyện bình thường, gây nên sự căng thẳng đối với cán bộ tín dụng. Vậy để có thể mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng thì việc tăng cường thêm cán bộ cho lĩnh vực này là một việc cần thiết.
Để thu hút được cán bộ giỏi, nâng cao hiệu quả công tác của họ thì Ngân hàng cũng cần có những chế độ đãi ngộ nhất định đối với họ như: lương, thưởng, chế độ đào tạo… điều này sẽ tạo nên động lực làm việc mạnh mẽ đối với cán bộ, tạo ra hình ảnh đẹp về Ngân hàng trong lòng khách hàng.
3.3. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Nhà Hà Nội
3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước
Để đẩy mạnh phát triển hoạt động của Ngân hàng thì không chỉ có cố gắng nỗ lực của riêng phía Ngân hàng mà cần có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước. Đặc biệt là trong hoạt động cho vay tiêu dùng bởi nếu hoạt động này phát triển thì Nhà nước cũng là đối tượng nhận được nhiều lợi ích từ sự phát triển đó. Vì vậy, Nhà nước nên tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động này ngày càng mang lại nhiều lợi ích cho xã hội.
+ Nhà nước cần thực hiện các biện pháp nhằm ổn định môi trường vĩ mô (kinh tế – chính trị – xã hội) thông qua việc thực hiện các biện pháp nhằm ổn định chính trị, xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế, hướng đầu tư, tăng cường đầu tư, chuyển đổi cơ cấu kinh tế một cách hợp lý nhằm mục tiêu ổn định thị trường, ổn định giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức có lợi cho nền kinh tế. Việc Nhà nước tạo ra một môi trường kinh tế – chính trị – xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện cho quá trình phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư, khiến cho khả năng tích lũy và tiêu dùng của dân cư ngày càng tăng lên, thúc đẩy mạnh mẽ tăng cầu về tiêu dùng. Bên cạnh đó, sự ổn định giúp cho các thành phần kinh tế yên tâm sản xuất kinh doanh tạo ra hàng hóa, dịch vụ cho xã hội.
- Nhà nước cần thực hiện các biện pháp nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP. Chuyển dịch phân bố dân cư theo hướng tăng tỷ lệ dân cư ở thành thị giảm tỷ lệ này ở nông thôn. Chuyển lao động ở những ngành có năng suất thấp sang các ngành có năng suất cao, giảm tỷ lệ thất nghiệp tăng mức sống dân cư, từ đó tạo ra cầu hàng hóa, dịch vụ.
- Nhà nước cần có văn bản quy định hướng tới các Bộ, Ngành, Tổng Công ty, các Doanh nghiệp về việc xác nhận cho cán bộ công nhân viên thuộc đơn vị mình vay vốn tín dụng ở các Ngân hàng thương mại. Tránh tình trạng gây khó dễ cho CBCNV hoặc quá dễ dãi để họ xin xác nhận nhiều lần đi vay ở nhiều nơi, gây rủi ro cho Ngân hàng.
- Nhà nước cần phối hợp với các Ngân hàng trong việc đào tạo nguồn nhân lực. Ngành Ngân hàng đòi hỏi CBCNV có trình độ cao, luôn luôn cập nhật và bổ sung kiến thức cho mình thì mới có thể theo kịp với sự thay đổi của công nghệ. Công nghệ, nghiệp vụ Ngân hàng thường là sự ứng dụng của nước ngoài vào hoạt động, vì vậy Nhà nước cần chú trọng tới việc đầu tư công nghệ cho các Ngân hàng thông qua việc cấp Ngân sách Nhà nước cử cán bộ Ngân hàng đi học tập ở nước ngoài. Đồng thời, đầu tư cho giáo dục trong nước thông qua việc đầu tư cho các trường có đào tạo chuyên ngành Ngân hàng, tạo điều kiện nâng cao trình độ của cán bộ Ngân hàng nói chung.
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
NHNN là cơ quan đại diện cho Nhà nước trong lĩnh vực Ngân hàng, trực tiếp chỉ đạo hoạt động của các Ngân hàng, vì vậy Ngân hàng Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển các hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng.
- NHNN cần sớm hoàn thiện các văn bản pháp quy về hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng và hoạt động của Ngân hàng nói chung. Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp quy sẽ tạo nền tảng cơ sở cần thiết cho hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển. Cần có những văn bản cụ thể về đối tượng, loại hình cho vay tiêu dùng, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, thông thoáng cho hoạt động này. Đối với các văn bản khác thì nên nghiên cứu kỹ tình hình thị trường và có những dự đoán chính xác xu hướng thay đổi của thị trường để ra những văn bản chính xác và có tuổi đời kéo dài.
- NHNN cần có sự nỗ lực trong việc phối kết với các Bộ, Ngành có liên quan trong hoạt động cho vay tiêu dùng để cho ra đời những Thông tư liên bộ tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển.
- NHNN nên linh hoạt hơn nữa trong việc điều hành và quản lý các công cụ của chính sách tiền tệ như: công cụ lãi suất, công cụ tỷ giá, công cụ dự trữ bắt buộc để hoạt động của các Ngân hàng thay đổi kịp với thị trường.
- NHNN nên hỗ trợ, tạo điều kiện cho các Ngân hàng Thương mại phát triển hoạt động của mình thông qua các biện pháp như: tăng khả năng tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh cho các Ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, NHNN cũng nên thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, những khóa học, những buổi nghe ý kiến của các Ngân hàng Thương mại về những văn bản chính sách mà NHNN đưa ra nhằm phổ biến những chủ trương mới của NHNN tới các Ngân hàng Thương mại và hoàn thiện những chủ trương này. Cử cán bộ của NHNN đi học ở các nước có hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển để học hỏi kinh nghiệm, vận dụng sáng tạo vào điều kiện của Việt Nam.
KẾT LUẬN
Mặc dù hoạt động cho vay tiêu dùng lả một lĩnh vực mới của Habubank nhưng nó đã khẳng định vai trò tích cực của mình không chỉ đối với Ngân hàng, người tiêu dùng mà còn với toàn bộ nền kinh tế. Tình trạng “thiếu phát” trong nền kinh tế đang dần bị đẩy lùi, nền kinh tế đang dần tăng trưởng trở lại, đời sống người dân được nâng lên, mức tiêu dùng mở rộng.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tín dụng đối với Ngân hàng nói chung và tín dụng tiêu dùng nói riêng, Hội sở Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội cũng như các Ngân hàng Thương mại khác, trong những năm gần đây đã tích cực thực hiện các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tín dụng tiêu dùng, khẳng định vai trò Ngân hàng đa năng và có chất lượng phục vụ hàng đầu, bước đầu đã đạt được kết quả đáng khích lệ, đóng góp vào thành tích chung của toàn ngành Ngân hàng trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội vẫn còn gặp nhiều khó khăn, trong bản thân Ngân hàng cũng như môi trường kinh doanh, trong việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng.
Trong xu thế hội nhập và mở cửa của nền kinh tế cùng với sự phát triển của xã hội về mọi mặt thì cho vay tiêu dùng là một xu thế tất yếu trong hoạt động Ngân hàng, nó sẽ là một lĩnh vực hoạt động thu được lợi nhuận cao cho các Ngân hàng, điều này đã được kiểm chứng tại các nước phát triển. Vì vậy, việc đưa ra và thực hiện những giải pháp để mở rộng cho vay tiêu dùng là một nhu cầu rất cần thiết đối với các Ngân hàng.
Qua nghiên cứu lý luận và thực tế hoạt động cho vay tiêu dùng tại Hội sở chính Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, được sự hướng dẫn của cô giáo Th.S. Phạm Hồng Vân cùng với các cán bộ tín dụng của Hội sở Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, em đã đi vào phân tích và nêu ra những mặt đạt được và những mặt còn hạn chế trong hoạt động tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, từ đó mạnh dạn đưa ra một số giải pháp với mong muốn hoạt động này ngày càng được mở rộng tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, giúp ích phần nào được cho Ngân hàng và cho những người có nhu cầu vay vốn tiêu dùng.
Do còn hạn chế về mặt kiến thức lý luận cũng như thực tiễn, đồng thời do hạn chế về tài liệu và thời gian nghiên cứu, nhiều vấn đề cấn phân tích sâu hơn nhưng em chưa làm được điều đó trong bài viết này, em rất mong có thể quay lại nghiên cứu trong một ngày gần đây.
Em rất mong có được sự góp ý, nhận xét của các thầy cô, các anh chị cán bộ Ngân hàng, bạn bè, những người có cùng niềm đam mê trong lĩnh vực Ngân hàng nói chung và lĩnh vực tín dụng tiêu dùng nói riêng.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, Báo cáo thường niên của 3 năm 2006, 2007 và 2008.
PGS.TS. Phan Thị Thu Hà (2007), Giáo trình Ngân hàng Thương mại.
Tạp chí Ngân hàng, các số trong năm 2008.
Nguồn từ Internet:
Website Ngân hàng Nhà nước, www.sbv.gov.vn
Website Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, www.habubank.com.vn
Báo điện tử Vietnamnet, www.vnn.vn
Báo điện từ Dân trí, www.dantri.com.vn
Thời báo kinh tế Việt Nam, www.economy.vn
Báo điện từ Tin mới, www.tinmoi.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22410.doc