Sau hơn 20 năm đổi mới thì cục diện của nền kinh tế nước ta đã có nhiều tiến bộ trong đó phải kể đến sự đóng góp của hoạt động thương mại quốc tế vào sự phát triển chung này. Tuy vậy trong cơ chế thị trường, hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng không tránh khỏi những vướng mắc ban đầu. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải cùng với Nhà nước và các cơ quan chức năng cố gắng hơn nữa để quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, đưa đất nước tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Đề tài: "Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm dệt may của công ty cổ phần may Chiến Thắng sang thị trường Mỹ trong giai đoạn 2008-2010" được nghiên cứu ở khía cạnh đi sâu phân tích, đánh giá hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần may Chiến Thắng sang thị trường Mỹ nhằm đưa ra các giải pháp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty trong thời gian tới.
Trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần may Chiến Thắng, em đã cố gắng nắm bắt được hoạt động kinh doanh của công ty, trong đó đặc biệt là hoạt động xuất khẩu của công ty sang thị trường Mỹ trong những năm qua và định hướng phát triển trong những năm tới. Mặc dù kết quả của hoạt động này chưa tương xứng với tầm phát triển của công ty, song công ty còn nhiều tiềm năng phát triển, mở rộng và đứng vững trên thị trường này. Qua quá trình nghiên cứu ta thấy công ty đã đạt được những thành công nhưng cũng còn những tồn tại, hạn chế khi tham gia vào thị trường Mỹ. Từ đó nêu lên những nguyên nhân đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty nói chung và sang thị trường Mỹ nói riêng.
Qua đây em cũng mong được sự chỉ dẫn góp ý của các thầy cô, cũng như của các cô, các chú, các anh chị trong công ty cổ phần may Chiến Thắng để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn nữa.
Cuối cùng cho em bày tỏ lòng cám ơn chân thành và sâu sắc nhất tới các thầy cô trong trường đã dạy dỗ và truyền đạt những kiến thức về khoa học kinh tế đặc biệt là sự tận tình hướng dẫn, chỉ bảo của Thạc sỹ Đặng Thị Thuý Hồng trong suốt thời gian qua. Đồng thời em cũng xin cám ơn sự giúp đỡ tận tình của công ty cổ phần may Chiến Thắng, đặc biệt là các anh chị trong phòng xuất nhập khẩu đã tạo điều kiện cho em được học hỏi thực tế và hoàn thiện chuyên đề này.
79 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1848 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của công ty cổ phần may Chiến Thắng sang thị trường Mỹ trong giai đoạn 2008-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gọi là thành phẩm, đủ điều kiện xuất xưởng.
Tuy nhiên thực tế cho thấy so với các đối thủ cạnh tranh trong nước thì chất lượng sản phẩm của công ty chỉ cao hơn ở sản phẩm áo Jacket còn các sản phẩm khác chỉ có chất lượng trung bình. Còn so với các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan thì cũng như các doanh nghiệp trong nước khác, chất lượng sản phẩm của công ty còn kém xa. Một mặt do còn phụ thuộc vào nguồn nguyên liêu nhập khẩu, mặt khác do mẫu mã, cơ cấu sản phẩm cũng như dây chuyền công nghệ của chúng ta còn thua khá xa họ.
Về bao bì sản phẩm của công ty: đối với từng đơn vị hàng cụ thể công ty sẽ tiến hành theo yêu cầu của khách hàng như đã thoả thuận trong hợp đồng. Khi đó bao bì có thể do nhà cung cấp hoặc do công ty tự thiết kế. Tuỳ từng loại sản phẩm mà công ty có những bao bì riêng cho phù hợp. Thông thường bao bì sản phẩm của công ty được thiết kế thành 02 lớp, lớp bên trong là túi PE và lớp bên ngoài là thùng Cattong. Bao bì ngoài không những có chức năng bảo quản sản phẩm mà còn có chức năng thông tin, quảng bá sản phẩm đó cũng như hình ảnh của công ty. Tuy nhiên bao bì của công ty chưa thực hiện thật tốt các chức năng này.
3.2.4. Thương hiệu, uy tín của công ty cổ phần may Chiến Thắng
Công ty chủ yếu xuất khẩu qua trung gian nên các hàng hoá của công ty thường mang nhãn hiệu của các nhà phân phối. Do đó thương hiệu của công ty thường rất mờ nhạt, chưa có nhiều người biết đến. Mà nhãn hiệu của công ty cổ phần may Chiến Thắng cũng chưa hoàn chỉnh, mẫu mã chưa đẹp, biểu tượng của công ty còn mờ nhạt, chưa thực sự hấp dẫn người tiêu dùng trong nước và quốc tế. Mặt khác cách ghi nhãn hiệu và biểu tượng của công ty trên sản phẩm là chưa hợp lý (chỉ ghi trong cổ áo) nên chưa thực sự tạo ra dấu ấn về thương hiệu sản phẩm của công ty và khả năng lôi cuốn sự chú ý của khách hàng là thấp.
3.2.5. Hoạt động xúc tiến thương mại của công ty cổ phần may Chiến Thắng
Nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu công ty đã tiến hành các quảng cáo trên kênh truyền hình, truyền thanh, các loại báo chí, cũng như các quảng cáo trên các tạp chí chuyên ngành dệt may của hiệp hội dệt may Việt Nam. Công ty cũng tham gia hội chợ triễn lãm quốc tế trong và ngoài nước, tổ chức các hội nghị khách hàng để tiếp cận và đáp ứng các ý kiến phản hồi từ thị trường hay người tiêu dùng.
Công ty cũng chú trọng đến công tác nghiên cứu, tìm hiểu thị trường nhằm nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng.
3.2.6. Cơ sở vật chất của công ty cổ phần may Chiến Thắng
Công ty cổ phần may Chiến Thắng được thành lập từ thời kỳ bao cấp nên đa số máy móc thiết bị của công ty được các nước XHCN giúp đỡ. Trải qua một giai đoạn hoạt động tương đối dài, máy móc của công ty đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, công ty đã mạnh dạn đầu tư máy móc thiết bị tiên tiến, hiện đại được nhập từ các nước như Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc…Hiện nay máy móc thiết bị mà công ty đang sử dụng đều thuộc thế hệ mới chủ yếu từ năm 1970 trở lại đây.
3.2.7. Về lao động của công ty cổ phần may Chiến Thắng
Con người là nhân tố trọng tâm của quá trình sản xuất, là một nhân tố quyết định đến chất lượng sản phẩm, cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Nhận thức được tầm quan trọng của nhân tố lao động thì công ty cổ phần may Chiến Thắng đã không ngừng nâng cao trình độ của người lao động. Hiện nay, tổng số lao động của công ty có khoảng 2476 người bao gồm các công nhân có trình độ trung học cơ sở trở lên.
Bảng 3.1.Tình hình lao động của Công ty cổ phần may Chiến Thắng được phản ánh qua bảng số liệu sau:
Chỉ tiêu
Số lượng
Tổng số lao động
2476
Lao động nữ
2375
Lao động nam
101
Cán bộ quản lý
142
Lao động có trình độ cao đẳng trở lên
80
Lao động khác
2254
(nguồn: phòng kế hoạch và phát triển thị trường)
Từ bảng số liệu trên ta thấy lao động nữ và lao động phổ thông chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng số lao động. Điều này hoàn toàn xuất phát từ đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty. Dệt may là ngành cần nhiều lao động "sống" và đặc biệt phù hợp với lao động nữ với tính cần cù, chăm chỉ, khéo léo…
3.2.8. Tình hình tài chính của công ty cổ phần may Chiến Thắng
Từ nguồn vốn điều lệ ban đầu là 12 tỷ đồng để mở rộng sản xuất công ty đã không ngừng khai thác các nguồn vốn từ bên ngoài. Công ty đã tiến hành cổ phần hóa. Đây là một trong những cách huy động vốn rất có hiệu qủa không những giúp cho doanh nghiệp tăng nguồn vốn mở rộng sản xuất mà còn thúc đẩy tinh thần làm việc của người lao động và lúc này quyền lợi của họ gắn chặt với công ty hơn bao giờ hết. Nhờ những nổ lực lớn của công ty nên hiện nay tổng nguồn vốn đã lên tới hơn 100 tỷ đồng. Đây sẽ là điều kiện để công ty có thể đầu tư trang thiết bị hiện đại, nhằm tăng năng suất cũng như hiệu quả kinh doanh.
4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY CHIẾN THẮNG
4.1. Ưu điểm
Qua việc phân tích hoạt động xúc tiến bán sản phẩm may mặc của công ty cổ phần may Chiến Thắng nói trên chúng ta thấy công ty đã đạt một số thành công:
Công ty đã thực hiện được hoạt động xúc tiến bán sản phẩm may mặc của công ty khá hoàn chỉnh.
Công ty có được nhiều sản phẩm có thể được coi là hoàn chỉnh, với việc đa dạng hoá sản phẩm và chú trọng đến sản phẩm mũi nhọn chủ lực của công ty trong việc tiến ra thị trường quốc tế. Đặc biệt là phương thức kinh doanh FOB khá hiệu quả.
Hoạt động quảng cáo và khuyếch trương cũng được quan tâm bằng việc tham gia vào các hội chợ triễn lãm quốc tế nhằm quảng bá sản phẩm và nâng cao chất lượng và hình ảnh của công ty.
4.2. Tồn tại
Qua việc nghiên cứu hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ tại công ty cổ phần may Chiến Thắng, có những hạn chế sau:
Thứ nhất là về hoạt động quảng cáo và khuyếch của công ty là thực sự chưa xứng đáng với tiềm năng của công ty. Hoạt động này diễn ra chủ yếu và thiếu đồng bộ. Các kênh quảng cáo và truyền thông hữu hiệu là công ty chưa sử dụng được tốt như tivi, quảng cáo trên mạng, tham gia các hội chợ quốc tế lớn trong khu vực và thế giới và còn nhiều hạn chế. Do đó làm giảm khả năng quảng bá và giới thiệu sản phẩm tới công chúng tiêu dùng quốc tế.
Thứ hai là việc đưa ra sản phẩm của công ty đến công chúng còn rất hạn chế do chủ yếu là hàng gia công nên việc thực hiện cho phát triển sản phẩm mới và hình ảnh là mờ nhạt.
Thứ ba là về vấn đề xúc tiến bán chưa hoàn thiện. Công ty ít có những đợt khuyến mại sản phẩm, điều này chủ yếu cũng là do chủ yếu là hàng gia công nên việc thực hiện xúc tiến còn rất hạn chế.
Thứ tư là công ty chưa thực sự có một thương hiệu thật hiệu quả cho mình, hình ảnh thương hiệu của công ty trong tâm trí người tiêu dùng còn mờ nhạt. Điều này đòi hỏi công ty phải nổ lực hơn nữa trong việc xây dựng va bảo vệ thương hiệu của mình.
Thứ năm là về kênh phương thức xuất khẩu của công ty là chú trọng vào phương thức gia công quốc tế, công ty cần dần dần giảm tỷ trọng của phương thức này đồng thời nâng cao phương thức xuất khẩu trực tiếp.
4.3. Nguyên nhân tồn tại
a. Nguyên nhân khách quan:
Đây là những nguyên nhân có tác dụng không chỉ tới hoạt động kinh doanh mà còn có tác động tới tất cả các công ty kinh doanh trên thế giới đặc biệt là các công ty kinh doanh quốc tế. Những nguyên nhân này là khó kiểm soát được, mà các công ty khó có thể tìm cách là làm sao để hạn chế tối thiểu rủi ro khi tiến hành hoạt động kinh doanh của mình trên thị trường quốc tế. Trong đó sự can thiệp của cả cộng đồng quốc tế, của các hiệp hội là có phần giảm bớt những khó khăn này cho công ty. Những nguyên nhân này bao gồm:
Thứ nhất: Nền kinh tế thế giới có nhiều biến động và phức tạp, đặc biệt là các cuộc khủng hoảng kinh tế - chính trị: nạn khủng bố chiến tranh tôn giáo, chiến tranh sắc tôn…là có tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động kinh doanh của các công ty kinh doanh quốc tế.
Thứ hai là xu thế hiện nay là toàn cầu hóa, quốc tế hoá khu vực trên thế giới là phổ biến, nhiều khu vực kinh tế thế giới đã và đang hình thành ngày một nhiều, chẳng hạn như các tổ chức và khu vực thế giới như: WTO, EU, ASEAN, AFTA, OPEC…Chính những xu thế này ngoài những thuận lợi đem lại cho công ty kinh doanh quốc tế thì chúng còn hàm chứa không ít những rủi ro giữa các doanh nghiệp, các quốc gia mà còn là giữa các khu vực kinh tế.
Thứ ba là Trung Quốc, một quốc gia giàu tiềm năng đã gia nhập vào tổ chức thương mại quốc tế thế giới WTO, đây là đối thủ cạnh tranh lớn đặc biệt là trong lĩnh vực dệt may. Sản phẩm của Trung Quốc nổi tiếng là rẻ và đẹp, nay lại còn được hưởng ưu đãi trong WTO. Điều này gây bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ riêng gì với các công ty kinh doanh quốc tế trong lĩnh vực dệt may như Công ty cổ phần may Chiến Thắng.
Trên đây là những nguyên nhân khách quan có tác động tới hoạt động kinh doanh quốc tế của Công ty cổ phần may Chiến Thắng. Những tác động này là tiêu cực, nằm ngoài tầm kiểm soát của công ty. Công ty không thể tự mình tìm cách đối phó được và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình, mà ở đây phải nhờ vào sự giúp đỡ từ tầm vĩ mô của Nhà nước, các tổ chức và các hiệp hội trong nước. Ngoài những nguyên nhân trên đây thì nguyên nhân nội tại trong chính công ty cổ phần may Chiến Thắng cũng góp phần không nhỏ làm giảm hiệu quả kinh doanh quốc tế của công ty, đó là những nguyên nhân chủ quan, những nguyên nhân nằm trong tầm kiểm soát của công ty.
b. Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất là ngân sách đầu tư cho hoạt động Marketing của công ty là còn thiếu, đồng thời công ty chưa tổ chức được bộ phận Marketing riêng biệt hoạt động thật hiệu quả để thúc đẩy nâng cao hoạt động xuất khẩu của mình. Từ đó các hoạt động nghiên cứu và phát triển thị trường quốc tế là khó khăn, việc thu thập thông tin thị trường, nắm bắt diễn biến thời cơ cơ hội của thị trường của công ty là hạn chế. Chính vì thế mà đây có thể là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến những tồn tại của công ty trên thị trường quốc tế.
Thứ hai là vấn đề sản xuất của công ty là ở thế bị động, là phụ thuộc vào đối tác trong hoạt động hợp tác xuất khẩu. Điều này làm giảm khả năng tự chủ, tính sáng tạo ra sản phẩm mới. Trong đó đặc biệt là thương hiệu sản phẩm của chính công ty bị mờ nhạt, bị núp bóng dưới thương hiệu của bên đặt hàng gia công. Công ty cần gia tăng hoạt động xuất khẩu của mình là theo phương pháp xuất khẩu trực tiếp nhằm giành thế chủ động trong kinh doanh hơn.
Thứ ba là nguồn nguyên liệu của công ty chủ yếu là nhập khẩu từ nước ngoài, từ đó mà giá thành sản phẩm đầu ra là cao và hơn nữa là phụ thuộc rất lớn vào thị trường nguyên liệu nước ngoài.
Thứ tư là việc đào tạo và bồi dưỡng của công ty là chưa thực sự chú trọng. Trong đó đặc biệt là các cán bộ chuyên viên có trình độ chuyên môn cao, cán bộ kỹ thuật đầu ngành, cán bộ chuyên viên Marketing quốc tế của công ty là cần phải có tầm nhìn sâu và đầu tư thích đáng.
Thứ năm là khả năng giữ vững thị trường đã được công ty chiếm lĩnh là kém.
Trên đây là những nguyên nhân dẫn đến tồn tại của công ty cổ phần may Chiến Thắng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong thời gian qua trên thị trường quốc tế.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CÁC SẢN PHẨM DỆT MAY CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY CHIẾN THẮNG SANG THỊ TRƯỜNG MỸ
TRONG GIAI ĐOẠN TỪ 2008-2010
1.ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY CHIẾN THẮNG TRONG THỜI GIAN TỚI
1.1. Dự báo về môi trường thế giới ảnh hưởng đến ngành dệt may Việt Nam
Sau WTO, ngành dệt may sẽ tránh được mối lo về hạn ngạch xuất khẩu nhưng lại phải đối mặt với những khó khăn lớn. Đó là sự cạnh tranh rất khốc liệt, đặc biệt là mảng phân phối. Hiện nay ở Việt Nam, các cửa hàng nhỏ chiếm tới 70%, còn các cửa hàng tự chọn của các công ty bán lẻ chưa phát triển. Sau khi vào WTO sẽ có nhiều công ty bán lẻ nước ngoài nhảy vào và cạnh tranh trong cùng một sân chơi. Khi đó, sức ép về giá đối với sản phẩm dệt may Việt Nam là rất lớn. Nếu không tính toán tốt chi phí sản xuất đầu vào, sản phẩm giá cao, chúng ta không thể cạnh tranh và việc bị loại khỏi cuộc chơi là khó tránh khỏi.
Đối với thị trường quan trọng của dệt may Việt Nam là Mỹ, từ năm 2004– 2007, tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Mỹ đã chậm lại, hầu như chỉ dừng ở mức 10% . Riêng 9 tháng năm 2005, mức tăng trưởng bị âm (-). Vì vậy, khi gia nhập WTO, nếu chúng ta không có một chiến lược tốt thì tình hình sẽ khó được cải thiện.
Lý do Dệt may Việt Nam khó tạo được làn sóng tăng trưởng xuất khẩu ồ ạt vào Mỹ như của Trung Quốc xuất phát từ nội tại sản xuất của Dệt may Việt Nam từ nhiều năm qua: Việt Nam chủ yếu xuất khẩu hàng may mặc, trong khi đó, có 80% hàng dệt may phải nhập khẩu. Đặc biệt, ngành dệt may cũng bị ảnh hưởng nặng nề hơn khi hàng rào thuế quan bảo hộ doanh nghiệp ở thị trường nội địa mất dần và vòng tay “bao cấp” hỗ trợ của Nhà nước không còn nữa. Hết ưu đãi cũng đồng nghĩa với việc đầu tư vào ngành dệt nhuộm sẽ bị giảm đi rất nhiều, do đó, Việt Nam sẽ phải nhập khẩu nhiều vải nguyên liệu hơn. Như vậy, mục tiêu nội địa hoá khó thành hiện thực.
Có một câu hỏi luôn làm đau đầu các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu Dệt may Việt Nam là: Tại sao hàng dệt may Trung Quốc có giá rẻ không chỉ tràn ngập thị trường Mỹ, EU mà còn loang rộng cả các châu lục? Lý do thật đơn giản vì Trung Quốc chủ động được nguồn nguyên liệu, bông họ trồng được; hoá chất nhuộm và thiết bị sản xuất họ cũng tự túc được. Những thuận lợi đó của Trung Quốc cũng là những điểm yếu của Việt Nam. Theo thống kê, hiện nay Việt Nam vẫn phải nhập khẩu 90% nguyên liệu bông, 100% hoá chất nhuộm và thiết bị cho ngành dệt.
Có thể nói, đối thủ lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam cũng như của công ty cổ phần may Chiến Thắng tại thị trường Mỹ vẫn là Trung Quốc. Hiện nay, dệt may của ta không thể cạnh tranh nổi với dệt may Trung Quốc. Minh chứng là trong 9 tháng đầu năm 2005, khi Trung Quốc được bãi bỏ hạn ngạch tại thị trường Mỹ, lập tức, dệt may Trung Quốc tăng trưởng tới 76%, còn chúng ta xuất khẩu âm vào thị trường này. Chỉ đến khi Mỹ áp dụng biện pháp tự vệ (áp dụng hạn ngạch với 28 mặt hàng dệt may của Trung Quốc đến năm 2008) thì xuất khẩu của Việt Nam mới tăng trưởng trở lại, nhưng cũng chỉ chiếm được 3,2% thị phần dệt may Mỹ. Như vậy, khi Trung Quốc được bãi bỏ hoàn toàn hạn ngạch vào năm 2008, nếu doanh nghiệp dệt may Việt Nam chuẩn bị không tốt thì không những xuất khẩu vào Mỹ khó tăng, mà khả năng quay trở lại mức tăng trưởng âm cũng dễ trở thành hiện thực.
Thời gian qua, có rất nhiều doanh nghiệp dệt may tìm hướng phát triển các mặt hàng cao cấp trong đó có công ty cổ phần may Chiến Thắng đây là một hướng đi rất đúng đối với các doanh nghiệp hiện nay. Nếu Dệt may Việt Nam cạnh tranh với Ân Độ, Bangladesh… mà vẫn sản xuất các mặt hàng cấp thấp và trung bình thì không thể cạnh tranh được. Và điều quan trọng là, các doanh nghiệp nên tranh thủ và vận dụng thời gian Trung Quốc đang bị áp hạn ngạch để cải tiến công nghệ, mẫu mã, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh.
1.2. Dự báo nhu cầu thế giới về hàng dệt may trong thời gian 2005-2010
Do chủng loại rất phong phú nên khó có thể đưa ra những dự báo cụ thể nhất là dự báo cho từng mặt hàng. Vì vậy, dự báo cho ngành dệt may chỉ nhằm định hướng cho quan hệ cung cầu và xu thế vận động của giá cả.
Bảng 3.2.Bảng dự báo nhu cầu về hàng dệt may trên thế giới :
Năm
Khối lượng (triệu tấn)
Mức tiêu thụ bình quân (Kg/người)
2005
52,72
7,1
2010
70,00
9,2
( nguồn: phòng kế hoạch và phát triển thị trường)
Tuy nhiên căn cứ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng dân số thế giới có thể dự báo nhu cầu hàng dệt may của thế giới tăng bình quân 2,5% và nhu cầu sợi cho năm 2000 là 46,8 triệu tấn thì năm 2010 sẽ vào khoảng 70 triệu tấn.
1.3. Chiến lược phát triển tăng tốc của ngành dệt may Việt Nam trong thời gian tới
a. Những lý do mà các doanh nghiệp phải có một chiến lược phát triển tăng tốc:
Thứ nhất là Việt Nam đang phải đối mặt với sức ép của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá. Đặc biệt là sau khi nước ta gia nhập khu vực mậu dịch tự do AFTA, tổ chức thương mại quốc tế WTO, ASEAN, APEC…ngành dệt may của Việt Nam nói chung và của công ty cổ phần may Chiến Thắng nói riêng phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Hàn Quốc…
Thứ hai là mục tiêu phát triển của ngành dệt may Việt Nam nhằm nâng cao tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm xuất khẩu từ 25% lên 45% năm 2005 và 85% năm 2010 để nâng cao giá trị xuất khẩu đồng thời tạo công ăn việc làm cho người lao động, lãnh đạo ngành công nghiệp có định hướng đưa dệt may thành ngành xuất khẩu số 1 vào những năm tới; trong khi đó các doanh nghiệp dệt may dù lớn của Việt Nam cũng không làm hết đơn hàng, giá nhân công ở các thành phố lớn ngày càng tăng; các địa phương khác trong cả nước lại có nguồn nhân lực dồi dào, đất đai nhà xưởng thuận lợi cho phát triển sản xuất.
b. Nội dung của chiến lược phát triển tăng tốc của ngành dệt may Việt Nam là:
Đối với ngành dệt: kinh tế Nhà Nước là nòng cốt giữ vai trò chủ đạo, đầu tư phát triển phải đi đôi với bảo vệ môi trường, đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến, chú trọng công tác thiết kế sản phẩm mới, tổ chức lại hệ thống chất lượng quốc tế.
Đối với ngành may: đẩy mạnh những doanh nghiệp Nhà Nước, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành may nhất là ở những vùng đông dân cư, nhiều lao động thủ công.
Đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu thời trang, tạo thêm nhiều sản phẩm mới, cải tiến công tác quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý hệ thống sản xuất, áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm và nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm may mặc của công ty trên thị trường Mỹ cũng như thị trường thế giới.
Khuyến khích mọi hình thức đầu tư để phát triển cơ khí dệt may tiến tới cung cấp đầy đủ phụ tùng lắp ráp và chế tạo thiết bị may nhằm hạn chế phải nhập khẩu thiết bị.
c. Các chỉ tiêu đặt ra:
- Chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu:
Năm
2005
2010
+ Sản xuất
Vải lụa (triệu mét)
Sản phẩm dệt kim (triệu sản phẩm)
Sản phẩm may qui chuẩn (triệu sản phẩm)
+ Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)
Hàng dệt
Hàng may
1330
150
780
3000
800
2200
2000
210
1200
4000
1000
3000
- Sử dụng lao động:
Năm 2005 thu hút từ 2,5 triệu lao động đến 3,0 triệu lao động
Năm 2010 thu hút từ 4,0 triệu lao động đến 4,5 triệu lao động
Năm 2020 thu hút từ 7,0 triệu lao động đến 8,0 triệu lao động
1.4. Định hướng chiến lược của công ty cổ phần may Chiến Thắng trong thời gian tới
Trong thời gian tới ngành dệt may Việt Nam nói chung và công ty may Chiến Thắng nói riêng tiếp tục có những điều kiện thuận lợi để phát triển. Mục tiêu của công ty đặt ra là đầu tư hiện đại hoá dây chuyền công nghệ để nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, chuyển dần gia công sang mua nguyên liệu bán thành phẩm và tăng khả năng tự cung ứng nguyên liệu trong nước phục vụ sản xuất.
Theo kế hoạch năm 2010 công ty sản xuất 12770 triệu sản phẩm và kim ngạch đạt là 56 triệu USD.
2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG MỸ CỦA CÔNG TY CỔ PHẨN MAY CHIẾN THẮNG
2.1. Đối với doanh nghiệp
2.1.1. Nâng cao chất lượng hàng hoá
Chất lượng hàng hoá đảm bảo cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề nâng cao chất lượng hàng hoá luôn được đặt ra hết sức cấp thiết.Đó cũng là đòi hỏi của thị trường và người tiêu dùng. Để nâng cao chất lượng của hàng hoá doanh nghiệp cần làm tốt các công việc sau:
Về mẫu mã của sản phẩm: Mẫu mã hàng hoá cần phải thường xuyên đổi mới toạ sự mới lạ, độc đáo và mang tính thời tranh nhưng cũng phải tiện lợi. Đặc trưng của hàng may mặc là tính thời trang cao và phải luôn thay đổi theo thời gian. Do đó nếu doanh nghiệp không kịp thay đổi, không nắm bắt đựơc xu thế thời trang thì các sản phẩm đưa ra sẽ bị lạc hậu và không được thị trường chấp nhận. Doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở việc làm theo các mẫu có sẵn do khách hàng đưa cho mà còn phải chủ động thiết kế các sản phẩm mới để giới thiệu cho khách hàng. Phải phát huy hết năng lực sáng tạo của đội ngũ nhà thiết kế có nhu vậy mới đảm bảo tính độc đáo, tránh sự đơn điệu, cứng nhắc.
Mẫu mã là cái bên ngoài, là phần nổi của sản phẩm. Bên cạnh mẫu mã đẹp, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến chất lượng nguyên liệu sản xuất ra sản phẩm, quy trình công nghệ, kỹ thuật may, chú ý đến từng chi tiết nhỏ nhất của sản phẩm, từng đường kim mũi chỉ…Đây cũng là yếu tố tạo nên chất lượng của sản phẩm. Hiện nay các doanh nghiệp của Việt Nam nói chung và của công ty cổ phần may Chiến Thắng nói riêng vẫn phải chủ yếu nhập khẩu nguyên liệu để phục vụ sản xuất. Các nguyên liệu cao cấp, chất lượng cao theo yêu cầu của khách hàng như vải Cotton mà người Mỹ rất ưa thích hiện trong nước vẫn chưa sản xuất được. Do đó chúng ta rất phụ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài. Cũng chính vì vậy việc tạo mối quan hệ tốt, bền vững với các nguồn hàng, đồng thời phát triển nguồn hàng trong nước, hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài trong việc phát triển nguồn nguyên liệu là rất quan trọng.
Về cơ cấu mặt hàng: cần đa dạng hơn nữa các chủng loại hàng hoá. Những hàng hóa mà đã đạt được thành công, tạo niềm tin cho khách hàng thì cố gắng duy trì và thâm nhập sâu hơn nữa bên cạnh đó doanh nghiệp cũng cần đưa ra các sản phẩm mới nhiều kiểu dáng mẫu mã hợp thời trang để thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng.
Có được mẫu mã tốt, nguyên liệu tốt thôi thì vẫn chưa đủ mà quy trình sản xuất cũng phải đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng, đặc biệt là tiêu chuẩn an toàn vệ sinh. Đây là một trong những tiêu chuẩn người tiêu dùng Mỹ rất quan tâm và có liên quan đến sức khoẻ của họ. Vì vậy doanh nghiệp cần áp dụng quy trình công nghệ sản xuất "sạch" và an toàn. Có như vậy doanh nghiệp mới xâm nhập được sâu hơn vào thị trường Mỹ và hàng hoá của chúng ta mới chiếm được cảm tình của người tiêu dùng Mỹ.
2.1.2. Xây dựng chính sách giá hợp lý
Đối với thị trường Mỹ giá cả hàng hoá nhiều khi lại là vũ khí cạnh tranh hiệu quả hơn cả chất lượng của nó. Giá cả cao hay thấp đều ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm cũng như ảnh hưởng đến lợi nhuận thu đựơc. Tuỳ vào mục tiêu mà doanh nghiệp theo đuổi, tuỳ theo đó là mặt hàng mới đưa vào kinh doanh hay mặt hàng đã đưa ra thị trường, tuỳ theo các mặt hàng mà doanh nghiệp đang hướng tới và tuỳ theo vị trí của mặt hàng trong thang mặt hàng kinh doanh mà doanh nghiệp định giá bán phù hợp.
Nếu sản phẩm mới đi vào thị trường, cần tìm chỗ đứng trên thị trường thì doanh nghiệp thường phải hạ giá bán để thúc đẩy bán ra, thậm chí lúc đó doanh nghiệp chấp nhận thua lỗ. Và một trong những công cụ rất hiệu quả trong giai đoạn này là Marketing. Doanh nghiệp cần tăng chi phí cho Marketing để khách hàng biết đến sản phẩm của mình.
Nhưng khi sản phẩm đã được người tiêu dùng biết đến, chấp nhận và ưa chuộng thì lúc này mục tiêu lợi nhuận được đặt lên hàng đầu. Doanh nghiệp cần có chính sách định giá để thu được lợi nhuận cao và tăng trưởng.
Khi định giá doanh nghiệp cũng cần phải quan tâm đến chính sách định giá của các đối thủ cạnh tranh. Để làm nản lòng các đối thủ cạnh tranh doanh nghiệp có thể định giá thấp hơn sau đó nâng giá lên để thu lợi nhuận. Đôi khi doanh nghiệp phải quy định mức giá để có một hình ảnh hay tiếng tăm nào đó trong xã hội.
Tuy nhiên doanh nghiệp cũng phải hết sức cẩn trọng trong việc định giá, không nên lạm dụng nhiều quá việc giảm giá vì đó là "con dao hai lưỡi". Khi định giá doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến chi phí sản xuất ( giá thành ) mà còn phải quan tâm đến yếu tố tâm lý của khách hàng. Thường người tiêu dùng cho rằng giá cả là sự thể hiện của chất lượng ( tiền nào của ấy ) do đó hàng định giá thấp nhiều khi lại khó tiêu thụ. Một điểm nữa nếu doanh nghiệp giảm giá thì các đối thủ cạnh tranh cũng có thể giảm giá theo, thậm chí thấp hơn như vậy "gậy ông đập lưng ông". Và khi giảm giá doanh nghiệp phải quan tâm xem với giá mà doanh nghiệp đưa ra có vi phạm luật chống bán phá giá hay không. Nền kinh tế nước ta còn chưa được phát triển cao nên hay bị ép giá sản phẩm điều này gây bất lợi cho các doanh nghiệp. Do đó trong việc định giá một mặt hàng nào đó doanh nghiệp cần tập hợp đầy đủ, chính xác các khoản chi phí liên quan đến sản phẩm, ngoài ra còn phải quan tâm đến các yếu tố khác như thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, các quy định của Chính Phủ…
Theo các nhà mua hàng đến từ Mỹ thì giá lao động dệt may ở Việt Nam dao động từ 28 USD đến 48 USD một tháng là rất cạnh tranh so với giá lao động của Trung Quốc là 78 USD một ngày, nhưng hiệu quả của các nhà máy Việt Nam chỉ bằng 60% so với ở Trung Quốc. Từ đó làm cho giá thành các sản phẩm dệt may của Việt Nam cao hơn Trung Quốc từ 7% đến 10% tuỳ theo từng loại mặt hàng. Do đó sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn kém xa so với hàng hoá của Trung Quốc. Việc giảm giá được đặt ra cấp thiết đối với doanh nghiệp để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Để làm được điều này doanh nghiệp cần phải tăng năng suất lao động, cải tiến chất lượng của sản phẩm, quy trình công nghệ, quy trình sản xuất…Mặc dù công ty đã đầu tư máy móc thiết bị mới nhưng so với các doanh nghiệp khác thì vẫn còn lạc hậu. Do đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, cũng như chất lượng của sản phẩm.
Mặt khác ngành dệt may nói chung và công ty cổ phần may Chiến Thắng nói riêng lại phải nhập phần lớn nguyên liệu cho sản xuất ( khoảng 80%) làm cho giá đầu vào của sản phẩm là rất cao. Từ đó ảnh hưởng đến giá thành của hàng hoá, làm giá thành dội lên cũng rất cao giảm tính cạnh tranh của sản phẩm. Do đó chiến lược lâu dài để phát triển bền vững là phải nội địa hoá các sản phẩm càng cao càng tốt bằng cách phát triển các nguồn lực trong nước, phát triển công nghệ dệt là nguyên liệu để sản xuất vải cotton, loại chất liệu mà người tiêu dùng Mỹ rất ưa thích.
2.1.3. Nâng cao trình độ chuyên môn người lao động:
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết được thể hiện ở trình độ quản lý của doanh nghiệp. Đây là một trong những điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung. Sự yếu kém, cứng nhắc, thiếu kinh nghiệm trong quản lý đã làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó nâng cao trình độ quản lý cần phải được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm, kể cả đối với các nhà lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có những kế hoạch cụ thể như kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ nhân viên nhằm nâng cao năng lực, trình độ, tay nghề tạo tiền đề năng suất lao động. Nhất là đối với công ty cổ phần may Chiến Thắng, một công ty chú trọng đến kinh doanh quốc tế, đòi hỏi nhân viên đặc biệt là những người trực tiếp làm việc đối với đối tác nước ngoài cần có trình độ ngoại ngữ thành thạo bên cạnh đó là năng lực và kinh nghiệm làm việc cũng rất quan trọng cần phải được quan tâm. Tất cả các nhân viên cần phải trau dồi vốn ngoại ngữ kể cả đối với ban lãnh đạo của doanh nghiệp. Vì nếu phải sử dụng người phiên dịch thì không những tốn kém mà thông tin truyền đạt không biết có được chính xác hay không nữa, lại bất tiện mà lại ở thế bị động khi đàm phán với đối tác nước ngoài.
Hiện nay việc thu hút người lao động có chuyên môn cao làm việc cho ngành dệt may nói chung và công ty may Chiến Thắng nói riêng gặp rất nhiều khó khăn. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên hay cao đẳng còn chiếm tỷ lệ không cao nhất là trong điều kiện kinh doanh quốc tế cần có nhiều nhân viên giỏi. Một trong những nguyên nhân là lương cho nhân viên ngành dệt may còn quá thấp so với các ngành khác. Sự thăng tiến cũng như môi trường làm việc cũng không tốt bằng. Do đó khó thu hút được những người lao động có chuyên môn cao.
Đối với những người lao động trực tiếp cũng như vậy. Công việc của họ gò bó, cần sự cẩn thận, khéo léo và tập trung cao…nhưng môi trường làm việc nhiều khi không đảm bảo an toàn vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động (bụi, tiếng ồn…) Lương của họ nhận được lại thấp. Vì vậy để thu hút và khuyến khích người lao động làm việc tăng năng suất thì công ty cần phải cải thiện môi trường làm việc, đồng thời có chế độ bồi dưỡng, đãi ngộ một cách thích hợp và kịp thời. Một kế hoạch đào tạo, đào tạo lại người lao động cần được làm thường xuyên để nâng cao trình độ tay nghề, kỹ năng làm việc. Bên cạnh đó để khuyến khích người lao động làm việc tích cực, tăng năng suất lao động thì doanh nghiệp cần có những chính sách trả lương thích hợp. Hiện nay doanh nghiệp đang áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm, có tích luỹ kế. Điều đó nhiều khi sẽ làm cho người lao động chạy theo số lượng và không chú ý đến chất lượng sản phẩm. Để khắc phục hạn chế này doanh nghiệp cần có chế độ giám sát hoạt động của những người lao động nói chung và nhất là những lao động trực tiếp nói riêng một cách chặt chẽ, khoa học bằng cách đưa ra các tiêu chuẩn chất lượng cụ thể để hưóng dẫn người lao động làm việc tốt hơn.
Công nghệ may có rất nhiều quy trình, công đoạn khác nhau nhưng lại liên quan mật thiết đến nhau, sản phẩm của khâu nọ lại là đầu ra của khâu tiếp theo. Vì vậy doanh nghiệp cần có sự phân công lao động hợp lý, phù hợp với năng lực, sở trường của người lao động để đảm bảo dây truyền sản xuất được tiến hành liên tục không bị gián đoạn. Đồng thời quy định rõ trách nhiệm của từng khâu để làm cơ sở cho công tác giám sát, đánh giá có những điều chỉnh hợp lý, kịp thời. Mỗi khâu sẽ có một bộ phận giám sát. Khi hàng hoá xuất kho nếu có sai sót gì thì sẽ dễ dàng hơn khi tìm kiếm nguyên nhân từ khâu nào và khắc phục ở khâu đó. Như vậy sẽ đảm bảo hơn cho sản phẩm và năng lực của các cá nhân khi họ chuyên môn hoá sản xuất theo từng khâu.
2.1.4. Doanh nghiệp cần quan tâm đến việc đăng ký bản quyền sở hữu công nghiệp, tuân thủ các quy định về nhãn hiệu sản phẩm, xuất xứ sản phẩm
Trên thị trường có nhiều các doanh nghiệp khác nhau, có những doanh nghiệp làm ăn chân chính nhưng cũng có không ít doanh nghiệp lừa đảo. Các doanh nghiệp lừa đảo thường hay lợi dụng uy tín, danh tiếng của các doanh nghiệp khác nhằm lừa đảo khách hàng nhằm chuộc lợi bất hợp pháp như làm hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng…Do đó việc đăng ký quyền sở hữu công nghiệp là rất quan trọng trong kinh doanh quốc tế. Các doanh nghiệp cần xây dựng một thương hiệu có uy tín, tuân thủ các quy định về nhãn hiệu, nhãn mác sản phẩm, xuất xứ có như vậy mới khẳng định được sự tồn tại của mình, mới được người tiêu dùng biết đến và tạo lòng tin cho người tiêu dùng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Việc này cũng tạo điều kiện cho hoạt động xúc tiến thương mại được tiến hành thuận lợi hơn.
2.1.5 Tăng tỷ trọng hoạt động xuất khẩu theo hình thức FOB:
Xuất phát từ thói quen tiêu dùng của người Mỹ, họ thích mua thẳng hàng từ nhà sản xuất. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam lại thường phải qua trung gian thứ ba để xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Chính việc sử dụng người thứ ba này đã làm giá thành của sản phẩm bị đẩy lên cao rất nhiều, trong khi chúng ta chỉ được hưởng phí gia công. Vì vậy hiệu quả sản xuất kinh doanh của các công ty dệt may Việt Nam nói chung và của công ty cổ phần may Chiến Thắng nói riêng là thấp. Để đáp ứng yêu cầu của đối tác Mỹ cũng như nâng cao giá trị gia tăng, công ty cần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trực tiếp. Khi đó công ty sẽ phải đảm nhiệm các công việc từ mua nguyên liệu, tiến hàng sản xuất đến xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Rủi ro cao nhưng bì lại lợi nhuận công ty thu được cũng cao hơn hình thức gia công. Doanh nghiệp được tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng nên việc tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng tốt hơn. Nhưng muốn làm việc được với đối tác nước ngoài một cách trực tiếp đòi hỏi doanh nghiệp phải có đội ngũ nhân viên có năng lực chuyên môn, giỏi ngoại ngữ, giao tiếp tốt đồng thời doanh nghiệp cũng cần có thương hiệu, nhãn hiệu khi đó sẽ tạo niềm tin cho đối tác.
2.1.6. Tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp cùng ngành
Đối tác Mỹ thường đề nghị những hợp đồng có giá trị lớn. Trong khi đó năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam lại rất hạn chế, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó để thực hiện một hợp đồng lớn rất khó khăn, nhiều khi không thực hiẹn được và tất nhiên cơ hội sẽ đến với các đối thủ cạnh tranh lớn khác như Trung Quốc. Đây là điều rất đáng tiếc. Xuất phát từ thực tế đó để dành được các hợp đồng có giá trị lớn đòi hỏi các doanh nghiệp cần có sự hợp tác cùng nhau. Nhưng hợp tác cũng không phải là đơn giản, nó cần có sự đồng tâm nhất trí của tất cả các doanh nghiệp. Vì cùng chung một hợp đồng nên tất nhiên sản phẩm về chất lượng, giá cả, mẫu mã…phải tương đồng. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp phải đầu tư máy móc thiết bị đồng bộ. Làm được điều này thì năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam đã được nâng lên so với các đối thủ tầm cỡ quốc tế như Trung Quốc, Hàn Quốc…và các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với các hợp đồng có giá trị lớn hứa hẹn lợi nhuận cao.
2.1.7. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại xuất khẩu:
Ngày nay công nghệ thông tin đang trên đà phát triển vượt bậc và những ứng dụng của nó đã mang lại lợi ích thiết thực cho toàn xã hội. Internet là một phương tiện thông tin đại chúng rất hữu hiệu đối với các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Do đó để giới thiệu sản phẩm của mình công ty có thể xây dựng một trang Website trên mạng internet. Bằng cách này khách hàng có thể viết được những thông tin về công ty, về sản phẩm, cũng như các thông số kỹ thuật của sản phẩm…Quảng cáo qua mạng internet có ưu điểm là chi phí không cao, hiệu quả truyền tin rộng rãi tới nhiều đối tượng khách hàng.
Công ty cũng có thể chào hàng tại các thị trường mục tiêu bằng cách tổ chức các buổi hội thảo nhằm giới thiệu cho khách hàng về sản phẩm của công ty. Do đó để các buổi hội thảo này đạt được hiệu quả tuyên truyền tốt nhất, công ty cần có biện pháp bồi dưỡng đào tạo đội ngũ nhân viên bán hàng về các kĩ năng thương mại, trình độ ngoại ngữ, nghệ thuật giao tiếp ứng xử, những hiểu biết về sản phẩm của công ty cũng như phong tục tập quán của thị trường mục tiêu .
Công ty cần tích cực hơn nữa trong việc tham gia các hội chợ, triển lãm để giới thiệu sản phẩm của mình đồng thời có cơ hội tiếp xúc trực tiếp khách hàng, qua đó tìm hiểu phản ứng của họ đối với sản phẩm của công ty, thiết lập các mối quan hệ với bạn hàng và kí kết các hợp đồng.
Ngoài ra công ty nên tích cực cử cán bộ đi tìm hiểu thị trường, từng bước thiết lập văn phòng ở nước ngoài. Công ty cũng cần tiến hành các cuộc điều tra, khảo sát thị trường. Đây là công việc rất quan trọng,nhất là với đặc thù của ngành dệt may-sản phẩm mang tính thời trang cao, và cũng là công việc rất khó khăn và tốn kém vì thị trường là thị trường quốc tế. Nếu công ty không nắm bắt được xu thế thời trang, thị hiếu của người tiêu dùng thì sản phẩm của công ty đưa ra khó có thể được người tiêu dùng chấp nhận. Việc khảo sát, nghiên cứu thị trường sẽ giúp doanh nghiệp có được những thông tin về thị trường như giá cả, hàng hoá, cung, cầu, đối thủ cạnh tranh…Đây sẽ là căn cứ để công ty xây dựng chiến lược kinh doanh của mình cho phù hợp. Trong nền kinh tế thị trường, thông tin được coi là một trong những nguồn lực rất quan trọng, quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có nắm bắt được cơ hội hay không, cũng như có né tránh được những rủi ro hay không là nhờ vào những luồng thông tin thu được. Nếu thiếu thông tin thì mọi hoạt động của công ty sẽ mất phương hướng. Có thể nói thông tin là một trong những yêu tố ảnh hướng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.1.8. Các giải pháp khác
Vốn cũng là một nguồn lực ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đây là một trong những nguồn lực rất quan trọng ảnh hưởng đến nguồn lực đầu vào của doanh nghiệp cũng như khả năng mở rộng sản xuất khi muốn phát triển một sản phẩm nào đó mà không có vốn. Không có vốn mọi hoạt động của công ty sẽ bị đình trệ. Do đó để tăng cường nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty cần huy động nguồn vốn cả trong nước và nước ngoài. Thực hiện theo chủ trương của Đảng, hiện nay công ty đã cổ phần hoá, nhưng để có thể thu hút được vốn từ các cổ đông công ty cần nâng cao uy tín, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Một thực tế cho thấy không riêng gì công ty cổ phần may Chiến Thắng, các công ty dệt may của Việt Nam đèu có số vốn ít ỏi, qui mô doanh nghiệp vừa và nhỏ do đó khả năng thực hiện những hợp đồng lớn là rất khó. Vì vậy đòi hỏi tăng vốn cho sản xuất kinh doanh luôn được đặt ra.
Đầu tư, cải tiến công nghệ, máy móc thiết bị để nâng cao năng suất lao động. Trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển như hiện nay, nếu doanh nghiệp cứ khư khư không chịu thay đổi các máy móc đã lạc hậu thì không những ảnh hưởng đến năng suất mà còn làm giảm chất lượng sản phẩm.
Công ty cần tìm cho mình những "thị trường ngách" để làm tiền đề xây dựng uy tín của mùnh đối với người tiêu dùng nước ngoài, từ đó chiếm lĩnh những thị trường lớn hơn. Thị trường Mỹ vốn là thị trường cạnh tranh quyết liệt với nhiều đối thủ cạnh tranh tầm cỡ quốc tế. Để chen chân vào thị trường này đã khó, việc giữ được chỗ đứng trên thị trường này còn khó hơn. Mà các doanh nghiệp Việt Nam vốn sức cạnh tranh yếu hơn các đối thủ khác, lại mới tham gia vào thị trường này mà còn chưa có nhiều kinh nghiệm trên thị trường quốc tế, nếu không thận trọng chúng ta rất dễ bị rơi vào những sai lầm nên phải tiến từng bước vững chắc không nên nóng vội.
2.2. Kiến nghị đối với Nhà nước
Để kinh doanh quốc tế thành công thì chỉ nổ lực của doanh nghiệp thôi chưa đủ mà cần có sự hỗ trợ giúp đỡ từ phía Nhà nước. Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Để phát huy tốt vai trò này, Nhà nước cần thực hiện những điều chỉnh sau:
2.2.1. Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống luật pháp cho tương thích với luật pháp của nước Mỹ cũng như Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
Luật pháp Mỹ cũng như Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có rất nhiều điểm khác biệt so với luật pháp của Việt Nam. Đó là sự khác biệt về chính sách thuế, hải quan, thương mại, luật cạnh tranh, giải quyết tranh chấp…Chính điều này đã gây không ít khó khăn, lúng túng cho doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường này. Do đó để tháo gỡ bớt phần nào khó khăn cho doanh nghiệp, Nhà nước cũng cần có sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật pháp sao cho phù hợp với luật pháp Mỹ cũng như Hiệp định thương mại giữa hai nước. Việc hoàn thiện cần làm tốt các công việc sau:
Rà soát lại toàn bộ hệ thống luật pháp của Việt Nam để phát hiện ta những vấn đề bất cập, những sơ hở, thiếu sót, những điểm chưa tương đồng với luật pháp Mỹ. Đây là công việc rất khó khăn, phức tạp, không thể hoàn thành trong một sớm một chiều mà cần có thời gian, thậm chí nhiều năm. Nó cũng tốn kém cả sức người sức của nhưng chúng ta vẫn phải làm, làm thường xuyên để có thể kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với luật pháp quốc tế nói chung và luật pháp Mỹ nói riêng.
Tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi luật thương mại.
Xây dựng và hoàn thiện luật cạnh tranh và luật chống độc quyền để tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Hoàn thiện chính sách xuất nhập khẩu.
Đơn giản hoá các thủ tục hành chính, thủ tục hải quan tạo sự thông thoáng cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
Giới thiệu cho doanh nghiệp các địa chỉ tư vấn có uy tín.
2.2.2. Thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đã cam kết trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ:
Hiệp định quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên Việt Nam và Mỹ. Theo Hiệp định thì cả hai bên phải mở cửa thị trường cho hàng hoá của bên kia thâm nhập vào. Về phía Mỹ họ đặc biệt quan tâm đến thị trường dịch vụ của Việt Nam, đây cũng là thế mạnh của Mỹ. tuy nhiên thực tế Việt Nam vẫn chưa mở cửa thị trường này cho Mỹ. Để Hiệp định được thực hiện, đòi hỏi sự nỗ lực hợp tác của cả hai bên. Riêng đối với Việt Nam thì Nhà nước cần chỉ đạo, hướng dẫn các doanh nghiệp tích cực chuẩn bị tốt mọi điều kiện để có thể sẵn sàng mở cửa hàng hoá của Mỹ xâm nhập vào. Điều đó đồng nghĩa với hàng hoá của Việt Nam cũng có cơ hội vào thị trường Mỹ thuận lợi hơn, trong đó có dệt may.
2.2.3. Tuyên truyền, phổ biến những thông tin về thị trường Mỹ, chính sách xuất nhập khẩu của Mỹ và Hiệp định thương mại Việt-Mỹ:
Trong những năm gần đây, thị trường Mỹ đã mở cửa cho hàng hoá của Việt Nam xâm nhập vào. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam đây vẫn còn là thị trường tương đối mới lạ và họ còn thiếu kinh nghiệm khi tham gia thị trường này. Khi tham gia vào thị trường Mỹ các doanh nghiệp cần tìm hiểu các quy định về thương mại của Mỹ. Các doanh nghiệp phải biết các nghĩa vụ và trách nhiệm khi ký kết hợp đồng thương mại quốc tế, cũng như tìm hiểu về các rào cản thương mại, về chính sách xuất nhập khẩu, luật cạnh tranh, luật chống phá giá…
Mặt khác luật pháp của Mỹ cũng như Hiệp định thương mại Việt - Mỹ rất phức tạp và có nhiều điểm khác biệt so với luật pháp của Việt Nam. Vì vậy để có thể nắm bắt, hiểu rõ về tất cả những vấn đề trên là rất khó khăn đối với các doanh nghiệp. Lúc này các doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ giúp đỡ từ phía Nhà nước. Chỉ có Nhà nước mới có đủ khả năng về nhân lực và vật lực để cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cần thiết đó. Để làm được điều này Nhà nước cần phải làm tốt các điều sau:
Tuyên truyền trên các phương tiện thông tinn đại chúng về thị trường Mỹ, chính sách xuất nhập khẩu của Mỹ, về Hiệp định thương mại Việt - Mỹ.
Cử các doanh nghiệp có năng lực sang khảo sát thị trường Mỹ bằng kinh phí của Nhà nước.
Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp tự túc kinh phí để sang khảo sát thị trường này.
Tạo mối quan hệ tốt với kiều bào ở Mỹ để giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc tìm hiểu về thị trường Mỹ cũng như tìm kiếm đối tác.
2.2.4. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu:
Nhà nước cần có chính sách chống độc quyền trong hoạt động xuất khẩu, tạo sự cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp.
Nhà nước cần có chính sách về tỷ giá, lãi suất thích hợp nhằm khuyến khích xuất khẩu.
Tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, mà lại không vi phạm các quy định của luật pháp quốc tế cũng như Hiệp định thương mại Việt - Mỹ.
Phân định rõ chức năng của các cơ quan quản lý của Nhà nước với nhiệm vụ của doanh nghiệp, tạo tính chủ động cho doanh nghiệp.
Tăng cường quỹ hỗ trợ xuất khẩu đồng thời khuyến khích hiệp hội dệt may thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro nhằm chia sẻ những khó khăn cho doanh nghiệp.
Nhà nước cần có chính sách đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực cho các cán bộ quản lý Nhà nước, đặc biệt về trình độ ngoại ngữ đối với những người làm công tác kinh tế đối ngoại.
2.2.5. Chính sách thuế và trợ cấp xuất khẩu
*Về chính sách thuế xuất khẩu:
Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu. Đây là công cụ hàng đầu để điều tiết hoạt động xuất khẩu trong tiến trình hội nhập quốc tế. thuế xuất khẩu của Việt Nam đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn còn nhiều bất cập như: tỷ lệ thuế cao, các quy định về thuế con rườm rà, trùng lặp…gây ảnh hưởng đến giá bán và sức cạnh tranh của công ty trên thị trường, chưa tạo điều kiện cho công ty tích tụ vốn, nghĩa vụ thuế chưa bình đẳng giữa các doanh nghiệp dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp tìm cách trốn thuế.
Vì vậy để hoàn thiện chính sách thuế, Nhà nước nên hướng vào việc đảm bảo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp trong kinh doanh xuất khẩu. Những ưu đãi về thuế không xác định theo thành phần kinh tế, nguồn gốc đầu tư mà phân biệt theo quy mô doanh nghiệp, theo vùng, theo sự tác động tới việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội như tạo công ăn việc làm…Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thành lịch trình cắt giảm thuế để tham gia CEPT và chính sách thuế đối với các quốc gia không thuộc khối ASEAN.
Trong công tác thu thuế của Nhà nước cũng còn nhiều bất cập, đặc biệt là công tác chiết khấu và hoàn thuế. Nhà nước cần quan tâm và có biện pháp khắc phục vấn đề này đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
*Về chính sách trợ cấp xuất khẩu:
Với chính sách này công ty được ưu đãi miễn hoặc giảm thuế đối với hàng hoá xuất khẩu. Nó có thể là trợ cấp một đơn vị USD trên một đơn vị hàng hoá xuất khẩu. Mục đích nhằm tăng thu nhập và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
Nhà nước nên phát huy và mở rộng hơn nữa hình thức trợ cấp trực tiếp cho các doanh nghiệp. Có thể ưu đãi về lợi tức cho các doanh nghiệp, nâng thời gian miễn thuế lợi tức cho các cơ sở đầu tư đổi mới công nghệ, xây dựng cơ sở hạ tầng.
Song song với hình thức trợ cấp trực tiếp, Nhà nước cần phải có các hình thức trợ cấp gián tiếp như chính sách khuyến khích hướng vào thị trường nội địa, khai thông thị trường quốc tế. Bằng các biện pháp cung cấp thông tin về thị trường, khoa học công nghệ, luật pháp, bạn hàng, đối thủ cạnh tranh. Nhà nước có thể giúp các doanh nghiệp giới thiệu, triển lãm, quảng cáo, và đào tạo các chuyên gia kinh doanh xuất khẩu cả về nghiệp vụ kinh doanh thương mại quốc tế.
2.2.6. Hoàn thiện chính sách tín dụng:
Để chiếm lĩnh thị trường các doanh nghiệp nhiều khi phải bán chịu hoặc bán trả chậm cho các bạn hàng, mà nguồn lực tài chính chỉ có hạn nên sự hỗ trợ về vốn của Nhà nước là rất cần thiết đối với các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu trong đó có công ty cổ phần may Chiến Thắng. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về tín dụng cho các công ty để giúp công ty ổn định nguồn hàng cũng như khách hàng. Hoạt động cấp tín dụng có thể trước hoặc sau khi công ty giao hàng hoặc có thể cho bạn hàng với lãi suất ưu đãi để họ mua hàng cho công ty. Ngoài ta Nhà nước có thể hỗ trợ để công ty có thể vay vốn ở nước ngoài bằng cách nới lỏng các quy định về bảo lãnh trong việc doanh nghiệp vay vốn nước ngoài, và thanh toán bằng sản phẩm sản xuất từ nguồn vay vốn đó. Cấp giấy phép sở hữu tài sản cho các doanh nghiệp Nhà nước. Phát huy tối đa hoạt động của hệ thống ngân hàng quốc doanh trong việc thanh toán chứng từ tín dụng giữa các doanh nghiệp được thuận lợi hơn.
Bên cạnh đó Nhà nước có thể sử dụng chính sách bảo lãnh tín dụng để các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu yên tâm khi phát sinh việc khách hàng trả chậm, hoặc có động thái trốn tránh không thực hiện hợp đồng đã được ký kết, tránh rủi ro cho công ty kinh doanh trong nước. Nhà nước nên phát huy hiệu quả các dich vụ của bảo hiểm nhằm bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp, có thế thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng như bảo lãnh chứng từ thương mại.
2.3. Kiến nghị đối với hiệp hội dệt may Việt Nam
Hiện nay hoạt động của hiệp hội là chưa thực sự hiệu quả, chưa thu hút được các thành viên công ty dệt may trong nước tham gia. Để nâng cao vai trò, vị trí của mình, tạo sự ảnh hưởng tích cực tới các thành viên. Các hoạt động cụ thể mà các hiệp hội cần phải tiến hành là:
Xây dựng và đoàn kết giữa các doanh nghiệp dệt may trong nước thành một khối thống nhất, hoạt động vì mục tiêu chung là tăng cường và phát triển toàn ngành, góp phần phục vụ vào mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Phối hợp các ngành, các cơ quan hữu quan, các bộ như: bộ tài chính, bộ thương mại, bộ công an, ban đối ngoại, cục sở hữu công nghệ…nhằm thực hiện các hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường tiêu thụ.
Mở rộng và tăng cường hoạt động của các văn phòng đại diện trên thị trường quốc tế, nhằm bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp dệt may Việt nam trên thị trường quốc tế, cung cấp các thông tun về thị trường, tổ chức các hội chợ thương mại quốc tế, hướng dẫn các thủ tục xâm nhập, đăng ký và bảo vệ thương hiệu.
Thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro để san sẻ khó khăn với doanh nghiệp khi tham gia thị trường quốc tế đầy biến động.
KẾT LUẬN
Sau hơn 20 năm đổi mới thì cục diện của nền kinh tế nước ta đã có nhiều tiến bộ trong đó phải kể đến sự đóng góp của hoạt động thương mại quốc tế vào sự phát triển chung này. Tuy vậy trong cơ chế thị trường, hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng không tránh khỏi những vướng mắc ban đầu. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải cùng với Nhà nước và các cơ quan chức năng cố gắng hơn nữa để quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, đưa đất nước tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Đề tài: "Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm dệt may của công ty cổ phần may Chiến Thắng sang thị trường Mỹ trong giai đoạn 2008-2010" được nghiên cứu ở khía cạnh đi sâu phân tích, đánh giá hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần may Chiến Thắng sang thị trường Mỹ nhằm đưa ra các giải pháp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty trong thời gian tới.
Trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần may Chiến Thắng, em đã cố gắng nắm bắt được hoạt động kinh doanh của công ty, trong đó đặc biệt là hoạt động xuất khẩu của công ty sang thị trường Mỹ trong những năm qua và định hướng phát triển trong những năm tới. Mặc dù kết quả của hoạt động này chưa tương xứng với tầm phát triển của công ty, song công ty còn nhiều tiềm năng phát triển, mở rộng và đứng vững trên thị trường này. Qua quá trình nghiên cứu ta thấy công ty đã đạt được những thành công nhưng cũng còn những tồn tại, hạn chế khi tham gia vào thị trường Mỹ. Từ đó nêu lên những nguyên nhân đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty nói chung và sang thị trường Mỹ nói riêng.
Qua đây em cũng mong được sự chỉ dẫn góp ý của các thầy cô, cũng như của các cô, các chú, các anh chị trong công ty cổ phần may Chiến Thắng để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn nữa.
Cuối cùng cho em bày tỏ lòng cám ơn chân thành và sâu sắc nhất tới các thầy cô trong trường đã dạy dỗ và truyền đạt những kiến thức về khoa học kinh tế đặc biệt là sự tận tình hướng dẫn, chỉ bảo của Thạc sỹ Đặng Thị Thuý Hồng trong suốt thời gian qua. Đồng thời em cũng xin cám ơn sự giúp đỡ tận tình của công ty cổ phần may Chiến Thắng, đặc biệt là các anh chị trong phòng xuất nhập khẩu đã tạo điều kiện cho em được học hỏi thực tế và hoàn thiện chuyên đề này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị - Nhà xuất bản chính trị Quốc Gia
2. Thời báo kinh tế Việt Nam
3. Báo Thương mại
4. Tạp chí kinh tế phát triển
5. Kinh tế Việt Nam năm 2006 – Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân
6. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần may Chiến Thắng – phát hành nội bộ
7. GS.TS Võ Thanh Thu- Kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu- Nhà xuất bản thống kê, tái bản năm 2005.
8. Nguyễn Minh Kiều- Giáo trình Thanh toán quốc tế- Nhà xuất bản thống kê, xuất bản năm 2006
9. Trang Website:
Và một số trang Website khác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11524.doc