Cơ cấu xuất khẩu nói chung cơ cấu các mặt hàng nông sản xuất khẩu nói riêng là một bộ phận của cơ cấu kinh tế, bị chi phối bởi cơ cấu của ngành kinh tế khác nhưng lại là một cơ cấu nhạy cảm nhất, dễ chuyển dịch.Trong điều kiện tự do hoá thương mại và bên cạnh đó cũng để chuẩn bị tiền đề đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2010, đòi hỏi ngay từ bây giờ phải có định hướng, chiến lược và chính sách chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế theo hương công nghệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu các mặt hàng nông sản xuất khẩu sẽ đóng góp một phần lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung.
99 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Định hướng chuyển dịch cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu trong điều kiện tự do hóa thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc thì khoảng cách đó được rút ngắn xuống 1/3 Malaysia và 1/2 Thái Lan. Điều này còn tạo ra nguồn cân đối nhập khẩu, tăng tích luỹ ngoại tệ, tiếp cận nền khoa học công nghệ cao của thế giới phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Trong bối cảnh mới, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nói chung và mục tiêu xuất khẩu nói riêng cần phải: Khai thác tốt tiềm năng của tất cả các thành phần kinh tế để mở rộng và đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu. Củng cố vị trí của xuất khẩu Việt Nam ở những thị trường quen thuộc, tìm thị trường và bạn hàng mới, giảm sự tập trung quá vào một vài thị trường. Tạo một số thị trường và bạn hàng lâu dài về những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. Giảm xuất khẩu qua trung gian. Chuẩn bị các điều kiện cho việc tham gia tổ chức thương mại quốc tế (WTO).
2.1.3. Định hướng phát triển mặt hàng xuất khẩu.
* Căn cứ xác định mặt hàng xuất khẩu:
Mỗi nước có thể có nhiều mặt hàng xuất khẩu, nhưng điều quan trọng là phải lựa chọn, xác định được những mặt hàng xuất khẩu chính, có kim ngạch xuất khẩu lớn và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Việc xác định mặt hàng chủ lực phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tuỳ thuộc vào đặc điểm, hoàn cảnh và trình độ phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ của mỗi nước mà xem xét lựa chọn. Tuy nhiên, có thể nêu ra các căn cứ chủ yếu sau:
- Nhu cầu thị trường thế giới và sự chuyển dịch cơ cấu thị trường thế giới về hàng nhập khẩu và chiến lược xuất khẩu của Việt Nam. Đây là căn cứ chính và tiên quyết. Thị trường thế giới không có nhu cầu, không thể xuất khẩu được. Thị trường thế giới bão hoà, xuất khẩu sẽ gặp khó khăn... Dự báo nhu cầu thế giới cần xem xét trên các mặt: thời gian, không gian, số lượng, chất lượng hàng hoá mà thị trường đòi hỏi. Ngoài ra còn xem xét tới sự biến động và mức ổn định tương đối của nhu cầu.
Cơ cấu kinh tế thế giới đang biến đổi theo hướng ngày càng tăng tỷ trọng của các sản phẩm công nghiệp - dịch vụ có hàm lượng khoa học - công nghệ cao trong sản phẩm. Xuất khẩu những sản phẩm này đưa kim ngạch xuất khẩu lớn so với xuất khẩu nguyên liệu và sản phẩm ở dạng thô sơ. Mặt khác, những sản phẩm này thường có khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. Chiến lược xuất khẩu của nước ta cũng đã xác định cơ cấu xuất khẩu phải dịch chuyển theo cơ cấu này. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập với khu vực và thế giới sẽ tạo điều kiện về khoa học - công nghệ cho phép chúng ta thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đó
- Lợi thế so sánh và khả năng khai thác lợi thế đó của Việt Nam.
Lợi thế tương đối là căn cứ chủ yếu của thương mại quốc tế. Lợi thế tương đối đối với mặt hàng không phải cố định mà nó sẽ thay đổi. Xuất khẩu một mặt hàng nào đó, hiện nay đang có lợi thế, nhưng trong những năm tới có thể trở nên bất lợi và ngược lại. Nhưng cũng có những mặt hàng có lợi thế so sánh tồn tại trong thời gian dài. Cần phải xác định cho được lợi thế so sánh về các mặt: Năng suất lao động, giá nhân công, khí hậu, thỗ nhưỡng, tài nguyên, tính hiệu quả của quy mô lớn... Lợi thế và khả năng khai thác lợi thế gắn liền với nhau, nhưng không phải là một. Có được lợi thế là có được tiền đề để tiến hành buôn bán quốc tế. Nhưng hiệu quả của nó phụ thuộc vào khả năng khai thác các lợi thế đó. Khả năng khai thác lợi thế phụ thuộc vào trình độ phát triển sản xuất, trình độ khoa học - công nghệ, trình độ tổ chức quản lý - kinh doanh, trình độ chuyên gia và công nhân, quan hệ buôn bán quốc tế, tổ chức thông tin và tiếp thị...
Dự báo mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào năm 2005 - 2010
- Hàng khoán sản:
Dầu mỏ.
Than đá.
Các loại quặng.
-Nông sản.
Cà phê.
Gạo.
Cao su.
Lạc.
Hạt tiêu.
Rau quả thô và sơ chế.
Tơ tằm, thuỷ sản và Lâm sản.
- Hàng chế biến.
Hàng dệt - may mặc.
Giầy dép.
Nông sản chế biến sâu.
Sản phẩm cơ điện.
Hoá chất, phân bón và cao su.
Sắt thép và sản phẩm bằng kim loại.
Xi măng và vật liệu xây dựng khác.
Sành sứ và thuỷ tinh.
Công nghệ thực phẩm.
- Hàng chế biến cao: Điện tử và linh kiện máy tính; phần mền.
2.2 Phương hướng chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đến năm 2010
2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hàng hoá.
Để đạt mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu với tốc độ nhanh, thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập với khu vực và thế giới cần chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng sau đây:
* Chuyển nhanh, mạnh và tiến tới chuyển hoàn toàn sang xuất khẩu hàng chế biến sâu, giảm mức tối đa xuất khẩu hàng nguyên liệu, hàng sơ chế. Nói cách khác là phải nhanh chóng chuyển hẳn từ xuất khẩu tàinguyên thiên nhiên sang xuất khẩu giá trị thặng dư.
Từ trước đến nay, xuất khẩu của ta chủ yếu tập trung vào nhóm hàng nguyên liệu (cà phê, cao su, chè, gạo, hạt tiêu, lạc, thuỷ sản, lâm sản và rau quả thô xuất khẩu). Nếu từ nay đến năm 2005 mà cứ tiếp tục xuất khẩu những hàng hoá này thì tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 14 - 15%/ năm tăng chậm lại so với mức tăng 20%/năm thời kỳ 1991 - 1996. Tới năm 2005 cả nhóm hàng này chỉ đạt tổng giá trị xuất khẩu là 9 tỷ USD (Kể cả dầu thô, than đá). Theo số liệu này, một mặt báo động về sự cạn dần tài nguyên thiên nhiên dạng thô mặt khác cho thấy, nó không còn vị trí , vai trò chủ lực nữa. Từ sự phân tích này, có thể dự báo, tới năm 2005, nhóm hàng nguyên liệu thô chỉ còn chiếm khoảng 32% kim ngạch xuất khẩu, 68% còn lại là hàng chế biến, trong đó có hàng chế biến sâu và các sản phẩm trí tuệ. Năm 2010, cơ cấu này là 20/80.
Tốc độ chuyển dịch cơ cấu như trên không phải là nhanh mà chỉ bằng hoặc thấp hơn các nước trong vùng, và nếu đạt được cơ cấu xuất khẩu như năm 2000 thì vào thời gian này chúng ta mới bằng cơ cấu xuất khẩu của Trung quốc năm 1990 (nguyên liệu 30/thành phẩm công nghiệp 70).
* Phải mở ra các mặt hàng hoàn toàn mới. Cùng với việc chuyển từ xuất khẩu sản phẩm thô sang xuất khẩu hàng chế biến đã có chuyển từ xuất khẩu nông sản thô sang xuất khẩu nông sản chế biến cần mở ra các mặt hàng hiện nay chưa có, nhưng có tiềm năng và triển vọng, phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới.
Mở ra mặt hàng xuất khẩu mới là phương hướng quan trọng, có ý nghĩa chiến lược để cải thiện cơ cấu xuất khẩu và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Kinh nghiệm của các nước ASEAN đã chứng minh điều đó. Thái lan năm 1992, trong tổng kim ngạch 8,9 tỷ USD xuất khẩu cho Mỹ, thuỷ sản chiếm 4,9 tỷ (55%). Nhưng năm 1994, thuỷ sản chỉ còn 835 triệu USD (8%). Trong khi đó chỉ một mặt hàng mới là máy xử lý dữ liệu động và mạch tổ hợp (là mặt hàng năm 1992 họ chưa có) đạt kim ngạch trên 2 tỷ USD (chiếm 22% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ). Ngoài ra riêng du lịch mỗi năm đem lại cho Thái Lan trên 6 tỷ USD.
* Chuyển sang xuất khẩu hàng chế biến và mở rộng các mặt hàng xuất khẩu mới - dạng chế biến sâu và tinh không thể hiện được bằng cách tự lực cánh sinh, vì công nghệ của ta lạc hậu và chưa có thị trường tiêu thụ, mà chỉ có thể thực hiện được thông qua giải pháp cơ bản là hợp tác, liên doanh với nước ngoài, trước hết là các nước tiên tiến.
Hiện nay, ở Việt Nam các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài đã đạt được cơ cấu xuất khẩu tiên tiến (chỉ có 26% là xuất khẩu nguyên liệu, còn 74% là hàng chế biến sâu). Chẳng hạn như mặt hàng thịt của Việt Nam không xuất khẩu được là do thiếu công nghệ tiên tiến và chưa đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, thiếu cả giống mới phù hợp với yêu cầu thị trường và không có bạn hàng. Nếu hợp tác liên doanh, nhập thiết bị - công nghệ và tiến hành sản xuất dưới sự giám sát trực tiếp của đối tác, thì có thể xuất khẩu được.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của liên doanh, cần phải tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu của các xí nghiệp liên doanh lên khoảng 40 - 50% vào năm 2000 như Trung quốc đạt được năm 1995, với tỷ trọng đó, năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của xí nghiệp này sẽ đạt ở mức cao.
2.2.2 Chuyển dịch cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu
Mọi người đều thừa nhận muốn tăng trưởng kinh tế lâu dài, ổn định cần đẩy mạnh xuất khẩu, cần thay đổi cơ cấu nhưng thay đổi chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nào cho phù hợp với quy luật chung và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng thời kỳ nhất định còn là một ẩn số đối với các nhà quản lý kinh tế.
Hiện nay nước ta xuất khẩu chủ yếu là gạo, cà phê, cao su, lạc, điều, tiêu, chè. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng trên năm 1999 bằng 18% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Thị trường lương thực và nông sản thế giới nhìn chung phát triển chậm và rất không ổn định về giá. Chẳng hạn gạo 5% tấn của Thái Lan năm 1980 giá 434 USD/tấn giảm dần đến năm 1986 còn 210 USD/tấn, sau đó lại tăng lên trên 265 USD/tấn năm 1994 rồi lại tăng lên đến 320 USD/tấn năm 1996. Các mặt hàng khác như cà phê, tơ tằm, tiêu... cũng biến động thất thường. Mặc dù đã có sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật phục vụ cho công nghiệp nhưng thời tiết vẫn là yếu tố quyết định đến sản lượng nông phẩm và chất lượng của nó. Để đẩy mạnh xuất khẩu và hạn chế rủi ro trong sản xuất và xuất khẩu nhóm hàng này một mặt cần chuyển hướng sang thị trường các loại lâm đặc sản nhiệt đới; mặt khác cần đầu tư thoả đáng cho công nghệ và sau thu hoạch để làm tăng chất lượng và giá trị xuất khẩu. Chỉ có trên cơ sở hình thành các vùng tập trung với công nghệ thu hoạch và bảo quản tốt mới có sự đảm bảo vững chắc cho việc thâm nhập mạnh mẽ vào thị trường nông sản thực phẩm thế giới.
Căn cứ vào dự đoán thương mại thế giới, điều kiện hiện tại của Việt Nam và những học hỏi kinh nghiệm của các nước phát triển nhất là những nước có xuất phát điểm tương tự như Việt Nam em mạnh dạn đưa ra những xu hướng (chứ không dám khẳng định là tính quy luật) chung của chuyển dịch cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu .
a. Nên giữ cơ cấu nhóm hàng nông sản xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu các loại hàng hoá nói chung như hiện nay trong khoảng 5-7 năm sau đó giảm dần.
Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu của một quốc gia đánh giá trình độ phát triển nông nghiệp và các ngành sản xuất khác trong nền kinh tế quốc dân. Xuất phát từ nhận định đó cần phải có một cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu phù hợp trong từng thời kỳ nhất định.
Chuyển dịch cơ cấu là một quá trình đòi hỏi phải có kết hợp nhiều yếu tố như: các điều kiện khách quan (tiến bộ khoa học, bối cảnh chung của nền kinh tế..), điều kiện chủ quan ( con người, khả năng và điều kiện sản xuất...) và một yếu tố không thể không đề cập đến đó là yếu tố thời gian. Từ đó có thể hiểu rằng trong cơ cấu để hình thành thêm một mặt hàng mới có vị trí đứng trong thị trường cần phải có một thời quá độ, một cơ cấu phù hợp không có nghĩa là phải giảm ngay tỷ trọng các mặt hàng hiện có trong cơ cấu. Mà điều cần thiết phải xác định được khoảng thời gian đủ để giảm dần tỷ trọng của các mặt hàng, đặc biệt trong thời gian đó vẫn thu được lợi ích xuất khẩu một cách tối đa.
Trong thực tế các mặt hàng trong cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu nhìn chung theo dự đoán trong những năm tới nhu cầu vẫn đang còn khả quan. Bên cạnh đó, các mặt hàng đó đã góp phần trong sự tăng trưởng kinh tế cũng như giải quyết về việc làm tăng thu nhập cao cho người dân. Chính vì hai mặt của vấn đề này nên khi chuyển dịch cơ cấu trong thời gian đầu vẫn nên giữ nguyên cơ cấu hiện nay và mặt khác trong thời gian đó nên chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho quá trình chuyển dịch cơ cấu.
b. Chuyển dịch cơ cấu về chất lượng mặt hàng xuất khẩu:
Các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua, xét về khía cạnh giá cả, nhìn chung tất cả các mặt hàng nông sản này đều có mức giá thấp hơn so với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực và trên thị trường thế giới. Nguyên nhân của vấn đề gồm rất nhiều yếu tố, nhưng nổi cộm lên vẫn là vấn đề về chất lượng. Mặt khác, do những sản phẩm xuất khẩu dưới dạng thô và sơ chế - những mặt hàng này giá cả trên thị trường thế giới biến động một cách thất thường nhất là trong điều kiện hiện nay của một số hàng nông sản đang ở trong tình trạng “cung > cầu” . Trong quá trình phân tích thực trạng cho thấy vấn giá cả ảnh hưởng rất nhiều vấn đề như: lợi ích xuất khẩu, người sản xuất... Bên cạnh đó theo những dự đoán của OECD về thị trường nông sản thế giới trong tương lai, nêu bật ba xu hướng chính sau:
- Một là, sản lượng các sản phẩm nông nghiệp tiếp tục duy trì nhịp độ phát triển.
- Hai là, xu hướng phục hồi giá cả.
- Ba là, Mậu dịch tiếp tục được định hướng lại, chuyển từ nguyên liệu sang các sản phẩm đã chế biến. Mậu dịch các sản phẩm đã chế biến hoặc có giá trị gia tăng ngày càng có ị trí cao hơn.
Từ sự phân tích trên, nên chuyển dịch cơ cấu theo hướng giảm tỷ trọng hàng xuất khẩu hàng nông sản thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh. Người ta gọi xu hướng này là chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng công nghiệp hoá.
c. Chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng đa dạng hoá cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu bao gồm:
- Tăng số lượng các mặt hàng xuất khẩu.
- Tăng các mặt hàng nông sản chủ yếu xuất khẩu.
Hiện nay những mặt hàng nông sản chủ yếu xuất khẩu chưa nhiều, nhất là những mặt hàng có giá trị kim ngạch lớn.
- Tăng xuất khẩu các mặt hàng nông sản truyền thống sử dụng nhiều lao động, mặt hàng có lợi thế so sánh.
d. Chuyển dịch cơ cấu thị trường nông sản xuất khẩu:
Cơ cấu mặt hàng bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với thị trường xuất khẩu. Trong thực tế, mỗi thị trường có sự đặc thù riêng, chính vì thế nhu cầu sản phẩm cũng không giống nhau, lợi ích xuất khẩu cũng khác nhau. Từ quá trình phân tích thực trạng của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu cho thấy thị trường chủ yếu là Châu á, trong khi đó tỷ trọng một số thị trường đưa lại lợi xuất khẩu lớn như Châu Âu, Châu Mỹ... chiếm một phần không đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là vấn đề cơ cấu sản phẩm chưa phù hợp với những nhu cầu thị trường có lợi ích xuất khẩu lớn. Yêu cầu của những thị trường rất cao về mọi mặt như: tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, các tiêu chuẩn liên quan đến từng mặt hàng cụ thể... trong quá trình chuyển dịch cơ cấu thị trường cần phải những bước đi phù hợp. Có nghĩa phải phù hợp với khả năng điều kiện của đất nước trong từng thời kỳ. Sau đây là các xu hướng chuyển dịch:
- Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu không tập trung nhiều vào thị trường Châu á - Thái Bình Dương mà nên chuyển sang các thị trường Châu Âu, Châu Phi, và Châu Mỹ.
Phát triển thị trường mới. Nhà nước có Chính sách thưởng cho các doanh nghiệp xuất khẩu được mặt hàng “mới” và thị trường "mới".
- Nhằm vào thị trường tiêu dùng cuối cùng chứ không phải các thị trường trung gian.
e. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hàng nông sản cần chú trọng đến cơ cấu xuất khẩu những sản phẩm có nguồn gốc từ chăn nuôi.
Trong cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nhóm hàng sản phẩm nhiệt đới, nhóm hàng ngũ cốc. Các sản phẩm này chịu sự chi phối rất lớn của sản xuất và vụ mùa thu hoạch. Khó mà ổn định được lợi ích xuất khẩu. Mặt khác, trong hàng nông sản đối với nhóm hàng thịt - nhóm mặt hàng này tương đối ổn định về sản xuất cũng như tiêu thụ, mà khả năng đáp ứng của đất nước ta là có thể. Xuất phát từ những lợi ích có thể đạt được, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng nông sản cần chú trọng đến cơ cấu xuất khẩu những sản phẩm có gốc chăn nuôi. Để đạt được mục đích trên đòi hỏi ngành công nghiệp chế biến phát triển để phục vụ xuất khẩu.
II. Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu ở Việt Nam
Trên con đường phát triển để trở thành một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá thực sự, gắn sản xuất với nhu cầu và khả năng tiêu thụ trên thị trường trong và ngoài nước, gắn chi phí đầu tư với hiệu quả thu tối ưu... nền nông nghiệp Việt Nam còn rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Tuy nhiên, chúng ta phải khẳng định rằng, mục đích quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu đó chính là năng cao khả năng xuất khẩu nhưng phải đem lại lợi ích xuất khẩu cao nhất, xuất phát từ mục đích đó cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:
1. Đổi mới cơ cấu sản xuất theo hướng phát triển và mở rộng nguồn hàng nông sản xuất khẩu.
Cơ cấu xuất khẩu là một phân hệ bộ phận của cơ cấu kinh tế, chịu sự chi phối của cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư. Vậy để chuyển dịch cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu, điều này cần phải có những định hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp. Để phát triển và mở rộng nguồn hàng nông sản xuất khẩu con đường duy nhất đó là phải đa dạng hoá nông nghiệp.
Trước hết cần lưu ý rằng, đa dạng hoá nông nghiệp được hiểu theo nghĩa đất nào cây ấy,khí hậu cây ấy, vùng nào cây ấy... chứ không phải sự manh mún, phân tán trong sản xuất theo kiểu tự túc lương thực bằng mọi giá của nền nông nghiệp nhỏ và lạc hậu trước đây. Mục đích chủ yếu của định hướng này là nhằm khai thác hết tiềm năng của sản xuất nông nghiệp Việt Nam và tạo ra các cơ sở nguồn hàng nông sản xuất khẩu không chỉ có quy mô lớn mà còn phong phú về chủng loại sản phẩm.
Những cơ sở của định hướng này: về lý thuyết, đa dạng hoá nông nghiệp dựa trên yếu tố như, đất đai, lao động và vốn vật chất, do đó, trong chừng mực nào đó, đa dạng hoá nông nghiệp tỏ ra khá phù hợp với hoàn cảnh và trình độ của sản xuất nông nghiệp hiện nay. Về thực tế, một mặt, do quá trình công nghiệp hoá ở các nước ĐPT đang diễn ra mạnh mẽ có tác động đến thị trường nông sản thế giới theo hướng làm thay đổi lợi thế so sánh trong sản xuất nông nghiệp của các nước và chính điều này đã bắt buộc các nước naỳ phải chú trọng đến vấn đề đa dạng hoá nông nghiệp để lấp chỗ hổng của nhu cầu thị trường. Mặt khác, trong thực tế phát triển nông nghiệp Việt Nam, đây là vấn đề thuộc chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước hiện nay, tuy nhiên cần khẳng định lại vì những lý do sau:
- Một là, nhiều loại sản phẩm nông nghiệp có triển vọng trên thị trường thế giới, nhưng chưa được phát triển đúng mức ở nước ta như, nhóm hàng hạt có dầu, dầu mỡ và khô dầu, các sản phẩm gia cầm; một số hoa quả nhiệt đới (chuối, quả có múi...). Nói cách khác, Việt Nam đang bỏ lỡ cơ hội để ra nhập thị trường thế giới đối với các sản phẩm này khi mà nhu cầu thị trường thì có tiềm năng trong nước sẵn có lại vẫn chưa được khai thác hết.
- Hai là, sự tập trung quá mức vào một số sản phẩm nông nghiệp có giá trị xuất khẩu cao như cà phê, cao su hiện nay đã dẫn đến nhiều điều bất cập không thích ứng với tiềm năng sản xuất nông nghiệp cả nước và yêu cầu phát triển xã hội, để lại hậu quả lâu dài như tình trạng di dân hàng loạt ở các tỉnh phía Bắc vào vùng Tây Nguyên. Hơn nữa, tình trạng khai thác quá mức ở một vùng sẽ để lại những hậu quả về môi trường và phát triển bền vững trong khi nhiều vùng tiềm năng khác bị lãng quên; tinhg trạng phát triển không đồng đều giữa các vùng trong cả nước dẫn đến chi phí xã hội cao ở những vùng kém phát triển và hiệu quả chung cho xã hội sẽ không cao.
Ba là, sản xuất nông nghiệp không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế đóng góp vào nền kinh tế nói chung, mà còn đảm bảo tính ổn định tổng thể về kinh tế - chính trị - xã hội trong quá trình phát triển đất nước. Đó là các vấn đề về đảm bảo an ninh lương thực, giải quyết việc làm, nhất là trong điều kiên Việt Nam có đến 80% dân số sinh sống bằng nghề nông, trong khi tiềm lực kinh tế để tiến hành công nghiệp hoá còn hạn chế, kết cấu lại lực lượng lao động diễn ra chậm chạp... Đa dạng hoá nông nghiệp cũng có nghĩa là tạo ra nhiều việc làm và nhiều khả năng thu nhập cho nông dân, nhất là đối với các vùng thuần nông, các vùng nông thôn nghèo, đất đai ít màu mỡ.
Bốn là: Cho dù với tiến bộ như vũ bão của khoa học và công nghệ, sản xuất nông nghiệp vào đầu thế kỷ 21 được xem là bớt phụ thuộc vào thiên nhiên và năng suất tăng do áp dụng tiến bộ kỹ thuật hơn là mở rộng diện tích canh tác, song điều này, không có nghĩa là nông nghiệp đã thoát khỏi những ảnh hưởng bất thường của thiên nhiên. Đối với Việt Nam, mức độ phụ thuộc vào thiên nhiên vẫn còn rất lớn. Tuy nhiên, sự tác động của thiên nhiên đến sản lượng các sản phẩm nông nghiệp không giống nhau theo loại sản phẩm, khu vực sản xuất, dẫn đến sự dao động mạnh của giá cả các sản phẩm nông nghiệp theo mùa vụ, theo sản phẩm và theo khu vực. Tất cả những điều này có nghĩa là rủi ro thương mại của nông sản là rất cao (ví dụ: ở Việt Nam đã có hiện tượng nông dân được mùa mà không vui), nhất là khi ngân sách của Chính phủ dành cho bảo hộ và trợ cấp cho nông nghiệp không đáng kể. Vì vậy, đa dạng hoá nông nghiệp cũng có nghĩa là làm giảm bớt rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi hơn trong điều chỉnh sản xuất theo nhu cầu thị trường, lấp các lỗ hổng của thị trường nội địa, giảm bớt sự xâm nhập của sản phẩm nước ngoài.
Ngoài những lợi ích nằm ngay trong mỗi lý do nêu trên còn có lợi ích chung là phù hợp với điều kiên tự nhiên và địa lý ở nước ta, phù hợp với trình độ và tập quán sản xuất trong giai đoạn quá độ hiện nay nhằm tạo ra một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá phát triển ổn định, bền vững, thích ứng linh hoạt với các xu hướng thị trường. Tuy nhiên, ở đây cũng gặp phải những hạn chế như tổng chi phí sản xuất tăng, hiệu quả sản xuất thấp, công tác quản lý điều hành phức tạp... Một số sản phẩm có quy mô sản xuất nhỏ, sản lượng thấp và khối lượng xuất khẩu không lớn sẽ bị phụ thuộc nhiều vào các thị trường xuất khẩu chính của sản phẩm đó và chịu thiệt thòi về giá cả. Vấn đề là ở chỗ, quan niệm lợi ích không chỉ đơn thuần là khoản thu được mà còn phải so sánh với khoản chi phí Chính phủ bỏ ra để khắc phục hậu quả, đảm bảo tính ổn định và phát triển bền vững cho toàn nền kinh tế.
Để thực hiện giải pháp này, Chính phủ cần tiến hành những công tác như:
Một là: Chính phủ cần có quy hoạch tổng thể, lâu dài về phát triển các vùng nông nghiệp hàng hoá với việc đưa ra danh mục các sản phẩm cụ thể theo thứ tự ưu tiên cho mỗi một vùng, bằng việc giải các bài toán quy hoạch đa mục tiêu với các tham số:
- Hiệu quả kinh tế cây trồng được xác định bằng giá trị tăng của sản phẩm nào đó trên 1 ha theo hàm số với các tham số như năng suất cây trông, tỷ lệ sản phẩm sau chế biến, giá xuất khẩu bình quân, giá thu mua xuất khẩu, thuế tài nguyên, doanh thu xuất khẩu, lợi nhuận.
- Quy mô sản xuất có thể và có khả năng mở rộng quy mô sản xuất với sản lượng phù hợp với yêu cầu sản xuất hàng hoá và khả năng xuất khẩu của sản phẩm.
Yêu cầu phát triển đối với vùng sản xuất nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định và cân bằng ở mỗi vùng và trên phạm vi cả nước.
Triển vọng buôn bán của sản phẩm trên thị trường thế giới trong giai đoạn từ nay đến năm 2010.
Hai là: Đa dạng hoá nông nghiệp đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ với nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, bao gồm cả công nghệ sinh học và công nghệ chế biến. Thực tế cho thấy, các tiến bộ công nghệ đóng vai trò rất quan trọng, thậm chí có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả kinh tế. Do đó, việc tăng cường chuyển giao các tiến bộ công nghệ chính là vấn đề then chốt có tác dụng làm giảm bớt những hạn chế của giải pháp đa dạng hoá nông nghiệp. Thực trạng phát triển nông nghiệp ở nước ta trong giai đoạn vừa qua cho thấy, các hoạt động này chưa tương xứng với yêu cầu phát triển của sản xuất hàng hoá và nhất là trước xu thế tự do hoá trên phạm vi toàn cầu. Vậy cần phải tập trung nghiên cứu, áp dụng công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học, để tạo ra các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, nhân nhanh các giống tốt để đáp ứng yêu cầu sản xuất. Nghiên cứu và đẩy mạnh chuyển giao côngnghệ mới về chế biến và bảo quản nông sản cũng như các tiến bộ kỹ thuạat về trồng trọt, chăn nuôi; trang thiết bị cơ khí hoá nông nghiệp và điện khí hoá nông thôn.
Tiếp tục sắp xếp và từng bước đầu tư nâng cấp, hiện đại hoá các cơ sở nghiên cứu khoa học. Có chính sách động viên các nhà khoa học, các cơ sở nghiên cứu của Nhà nước hoạt động có hiệu quả cao hơn, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, hộ gia đình nông dân giỏi tham gia phát triểnvà chuyển giao công nghệ, đảm bảo cho công tác nghiên cứu trong nước và nội nhập các loại giống tốt, công nghệ tiên tiến của nước ngoài.
Ba là: Các phương án cây trồng và các chuyển giao công nghệ đi kèm mà Chính phủ đưa ra cho mỗi vùng sản xuất của người nông dân, nhất là khi họ chưa tin tưởng vào khả năng tiêu thụ của sản phẩm. Vì vậy, Chính phủ cần phải thực thi các Chính sách thích hợp để làm cho việc đa dạng hoá trở nên hấp dẫn hơn đối với người nông dân về phương diện kinh tế, tức là các Chính sách làm giảm bớt các rủi ro thị trường và trợ giúp ban đầu cần thiết. Các Chính sách cụ thể là:
Khuyến khích áp dụng rộng rãi cả về không gian sản xuất và danh mục các sản phẩm thực hiện hợp đồng ràng buộc giữa nông dân và các cơ sở tiêu thụ nông sản (nhà máy chế biến, doanh nghiệp thương mại...).
Ban hành Chính sách hỗ trợ các yếu tố đầu tư vào như cung cấp cây giống, các loại vật tư nông nghiệp... cho người sản xuất nhất là người sản xuất ở các vùng nghèo điều kiên tự nhiên không thuận lợi.
Xây dựng và phát triển thị trường đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp, như khuyên khích tiêu dùng rộng rãi; nghiên cứu và chuyển giao công nghệ là tăng giá trị hàng hoá của sản phẩm, nghiên cứu, thăm dò các thị trường cho xuất khẩu sản phẩm... Đây là hướng hết sức quan trọng cho định hướng đa dạng hoá nông nghiệp, nếu không sẽ làm cho tình hình trở nên bế tắc và mang tính phong trào nhiều hơn.
Nghiên cứu áp dụng hình thức bán bảo hiểm cho các loại cây công nghiệp để tạo quỹ trợ cấp thiệt hại đối với sản lượng thu hoạch khi gặp thiên tai.
Tiếp tục triển khai áp dụng các quy định về giá sàn đối với các sản phẩm nông nghiệp, sử dụng ngân sách Nhà nước để can thiệp kịp thời khi giá cả tụt xuống dưới mức giá sàn quy định.
Bốn là: Trong điều kiện nước ta ngân sách Chính phủ cho phép và không thể can thiệp sản xuất nông nghiệp và vào thị trường sản phẩm một cách rộng rãi, thì vấn đề đa dạng hoá nông nghiệp có thể vẫn là điều băn khoăn của các nhà kinh tế. Trong khả năng cho phép, giải pháp cho vấn đề đa dạng hoá có tính chất lâu dài hơn, phù hợp với xu thế chung và với điều kiện kinh tế nước ta chính là nỗ lực của Chính phủ nhằm nâng cao hiệu quả thông tin cho các đối tượng liên quan đến hoạt động sản xuất và thương mại các sản phẩm nông nghiệp. Nghĩa là, cần phải hình thành hệ thống thông tin và bảo đảm thông tin; các thông tin khoa học, kỹ thuật, công nghệ, các thông tin về thị trường trong và ngoài nước, nhất là các thông tin dự báo triển vọng trung và dài hạn; mở rộng loại hình thông tin phù hợp; tạo thêm các luồng thông tin; tăng cường chất lượng và tính chính xác của thông tin...
2. Giải pháp về chiến lược sản phẩm
Như trên đã phân tích nguyên nhân có tính bao trùm cản trở khả năng và hiệu quả xuất khẩu nông sản là do chất lượng còn thấp, khối lượng không ổn định, không đồng đều, phân tán nhỏ bé, mẫu mã không hấp dẫn, giá còn cao... Mặt khác trong cơ cấu nông sản xuất khẩu tỷ trọng hàng thô và sơ chế khá cao. Với tình hình hiện nay của một số mặt hàng nông sản chủ lực đều nằm trong tình trạng “cung> cầu” hoặc nằm trong tình trạng “bão hoà” hoặc nhu cầu tăng chậm. Do vậy, giải pháp về sản phẩm là giải pháp có tính chiến lược vừa lâu dài vừa có tính cấp bách hiện nay.
Trước hết cần làm rõ một số quan niệm trong giải pháp này, đó là:
Quan niệm về đồng bộ: Không nên xem các sản phẩm nông nghiệp ở giai đoạn thu hoạch là sản phẩm cuối cùng, mà là chỉ sản phẩm trung gian, vừa qua một giai đoạn của sản xuất cần được nâng cao giá trị hàng hoá của sản phẩm ở giai đoạn tiếp theo (giai đoạn sau thu hoạch). Từ đó, cần có các dự án đầu tư tương xứng vào giai đoạn sau thu hoạch, nhất là đối với các sản phẩm có khả năng xuất khẩu.
Quan niệm về sản phẩm trọng điểm được xem xét trên một số chỉ tiêu như:
* Khả năng tiêu thụ của sản phẩm đó, nhất là trên các thị trường xuất khẩu.
* Hiệu quả kinh tế do sản phẩm đem lại.
* Mức độ phổ biến của sản xuất sản phẩm.
* Xu hướng phát triển dài hạn của sản phẩm.
* Khả năng phát triển cơ sở hạ tầng ở vùng sản xuất tập trung của sản phẩm.
Mục tiêu của giải pháp này là nhằm nâng cao tỷ trọng hàng nông sản chế biến trong cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam hay là nói cách khác nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu nông sản Việt Nam trên các góc độ khác nhau như: Tăng khối lượng xuất khẩu nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp bằng cách tăng giá trị công nghiệp trong sản phẩm ở mức độ cao nhất có thể, tiếp cận các thị trường có lợi ích xuất khẩu lớn, hạn chế bớt biên độ giao động giá cả của các sản phẩm nông nghiệp.
Giải pháp xây dựng chiến lược sản phẩm trọng điểm thực chất là đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp theo chiều sâu có chọn lọc. Các cơ sở của giải pháp này là: về lý thuyết: đầu tư phát triển theo chiều sâu cho phép phân bổ sử dụng các nguồn lực hợp lý, do đó sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn trên cơ sở tạo ra năng suất lao động. Trên thực tế: một mặt, trên thị trường thế giới, xu hướng chung của các nước xuất khẩu nông sản là tăng tỷ lệ các sản phẩm có độ chế biến sâu nhằm nâng cao các giá trị của sản phẩm, thoả mãn được các tiêu chuẩn chất lượng của thị trường nhập khẩu và giảm mức độ dao động của giá cả nông phẩm trên thị trường... Mặt khác, trong điều kiện nước ta, đây là vấn đề hết sức quan trọng trong chủ trương phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh vào xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010.
Tuy nhiên, nghiên cứu về khả năng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam hiện nay cho thấy còn có nhiều vấn đề bất cập, trong đó có vấn đề cải thiện sản phẩm xuất khẩu. Cụ thể trong danh mục các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu của Việt Nam những năm qua, hầu hết các sản phẩm xuất khẩu đều có tỷ lệ giá trị trước thu hoạch cao hơn nhiều so với tỷ lệ giá trị sau thu hoạch. Đây là hậu quả của một nền công nghiệp chế biến kém phát triển. Thậm chí, nhiều yếu tố trong tầm khả năng còn chưa được chú trọng đúng mức, như bao bì, đóng gói các sản phẩm xuất khẩu... Do đó, trên thế giới, các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam luôn rơi vào tình trạng khó khăn như:
- Giá xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp thường ở mức thấp hơn so với các sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực, như giá xuất khẩu gạo của Việt Nam so với Thai lan, giá xuất khẩu cao su...
Thị trường xuất khẩu phổ biến của các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam là các thị trường bậc trung hoặc các thị trường tái xuất những thị trường không cho phép thu được lợi ích xuất khẩu lớn.
Danh tiếng của các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam bị mất đi qua công đoạn tái chế biến và xuất khẩu của các nước tạm nhập tái xuất, do đó, gây nên tình trạng yếm thế của hàng nông sản Việt Nam trên thương trường quốc tế, khó phát triển thị trường xuất khẩu...
Như vậy, với mục tiêu nâng cao giá trị xuất khẩu nông sản Việt Nam (bao gồm cả việc nâng cao khối lượng và chất lượng sản phẩm trên cơ sở nhằm phát triển thị trường ) trong giải pháp này cần chú trọng đến các vấn đề sau:
Một là: Chương trình đồng bộ cho các sản phẩm trọng điểm được xây dựng trên cơ sở đa dạng hoá nông nghiệp để lựa chọn ra các sản phẩm có ưu thế xuất khẩu, qua các kết quả phân tích trên đây theo hướng nhìn ra thị trường thế giới, trong giai đoạn tới Việt Nam có thể xây dựng chương trình cho các sản phẩm như gạo, thịt gia cầm, các sản phẩm nhiệt đới như cà phê, chè... Ví dụ đối với các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam, trong những năm gần đây cần phải chuyển dịch cơ cấu nội bộ của sản phẩm để phù hợp với nhu cầu thị trường:
+ Đối với lúa, hiện nay đã đưa vào sản xuất trên 100 giống lúa mới khác nhau được gieo trồng tới 80 - 90% diện tích trồng lúa của cả nước, đã góp phần đáng kể vào tăng sản lượng lươngthực vừa qua, việc lựa chọn cơ cấu thích nghi trên các vùng sinh thái là cần thiết, song do yêu cầu thị trường gạo thế giới là: hạt dài, trừ thị trường Nhật mua hạt tròn nhưng không nhiều, do vậy cần tăng cường công tác nghiên cứu về giống, để có giống đáp ứng xuất khẩu theo tiêu chuẩn; (chiều dài hạt gạo +7mm; chiều dài/chiều rộng > 3; gạo phải trong, nấm (điểm) bạc bụng cho phép 0 - 1mm). Mặt khác tạo ra những vùng lúa đặc sản; dựa vào công nghệ chế biến tạo ra sự đa dạng chủng loại về sản phẩm gạo, để tạo ra sức cạnh tranh về gạo Việt Nam trên thị trường.
+ Đối với cà phê, do chất lượng không đồng đều, cần thực hiện một chương trình lai ghép cải tạo rộng lớn trong sản xuất thay thế cơ bản diện tích số cây cho năng suất thấp quả nhỏ và bị bệnh rỉ sắt bằng cây đầu dòng, mà được đánh giá tốt, bên cạnh đó nghiên cứu tạo giống cà phê chè và giống lai mới cáo chất lượng, để tăng thêm giá trị và chất lượng cà phê cũng là đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới ( cà phê của Việt Nam chủ yếu là cà phê vối, trong khi đó thị trường thế giới cà phê chè được ưa chuộng và có giá trị lợi ích xuất khẩu lớn hơn). Cụ thể hơn đó là, chúng ta phải giảm diện tích trồng cà phê vối, tăng nhanh diện tích trồng cà phê chè.
+ Đối với cao su, những tiến bộ giống mới đưa vào năm 1994 trở lại đây, nhất là giống lai tạo trong nước tỏ ra có tiềm năng năng suất cần được tiếp tục và phát triển, vấn đề quan trọng là cải tạo các vườn cây cao su đã già cần thanh lọc giống, câykém chất lượng, đồng thời tuyển chọn giống cao su cho các vùng mới...
Hai là: Chương trình này cần được xây dựng trước hết trên cơ sở coi trọng định hướng đến thị trường xuất khẩu chứ không phải trên cơ sở coi trọng tiềm năng sản xuất trong nước có thể có một số thị trường định hướng cho các sản phẩm như: đối với các sản phẩm nhiệt đới nên hướng đến thị trường khu vực cả Đông và Tây Âu, thị trường Trung Đông; các sản phẩm ngũ cốc đến thị trường khu vực Châu á, các khu vực có khả năng mất an ninh lương thực cao.
Ba là: Đầu tư, đổi mới và lựa chọn bước đi thích hợp công nghệ chế biến.
Để nâng cao sức cạnh tranh cần thiết phải tạo lập chương trình: “hỗ trợ đổi mới công nghệ trong nông nghiệp nói chung, đối với những mặt hàng nông sản xuất khẩu nói riêng”. Tập trung chủ yếu vào khâu thu hoạch, bảo quản, chế biến với những công nghệ tiên tiến hiện đại, đẩy mạnh chế biến và tinh chế nông chế nông sản, đa dạng hoá sản phẩm chế biến. Trước hết, cần nâng cấp các nhà máy chế biến hiện có, trong đó những nhà máy lạc hậu thì nên rà xét lại, để có hướng xử lý trên cơ sở lấy hiệu quả làm mục tiêu. Đồng thời xây dựng một số nhà máy mới tại vùng nguyên liệu áp dụng đồng bộ công nghệ tiên tiến và đa dạng hoá sản phẩm các sản phẩm chế biến. Chúng ta đều nhận định rằng, với những công nghệ lạc hậu thì cần phải đổi mới, nhưng đổi mới thế nào? nên đầu tư theo một hướng nào? Điều này đòi hỏi chúng ta cần phải lựa chọn bước đi thích hợp về công nghệ, hoặc là phát triển tuần tự từ công nghệ thấp đến công nghệ cao hoặc là tiếp cận ngay với trình độ công nghệ. Điều đó cho phép kiểm soát được các cấp độ công nghệ đầu tư sau này được thuận tiện hơn. Việc lựa chọn công nghệ được tiến hành trên cơ sở yêu cầu của các thị trường. Ví dụ, đối với thị trường Tây Âu cần áp dụng ngay trình độ công nghệ cao.
Bốn là: Về thực chất chương trình này chính là giai đoạn mở đầu cho việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với sản phẩm nông nghiệp nhất định. Vì vậy, cần có sự đảm bảo về điều kiện ban đầu như: cơ sở hạ tầng của vùng cung cấp nguyên liệu; chính sách thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước; qui hoạch các điểm công nghiệp...
Năm là: Mỗi một chương trình cụ thể cần có ban chỉ đạo thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ, liên kết các ngành sản xuất và các cơ quan chức năng cùng phối hợp hành động xuyên suốt quá trình sản xuất - thu mua - chế biến - xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp.
3. Vai trò chính phủ trong quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu.
Chuyển dịch cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu với mục đích là để nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản và đồng thời xâm nhập vào các thị trường mới nhất là những thị trường có khả năng thanh toán cao. Sự thành công của chuyển dịch cơ cấu không phải chỉ là có những sản phẩm xuất khẩu mà thị trường thế giới cần, điều này chỉ mới là điều kiện cần, điều kiện đủ đó là sản phẩm xuất khẩu phải có mặt vào những thị trường mà chúng ta đã định hướng. Ngoài sự nỗ lực của chính các doanh nghiệp, để đạt được kết quả trên cần phải có vai trò của Chính phủ sẽ giúp cho các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam xâm nhập thị trường mới và duy trì ổn định các thị trường truyền thống.
Ngày nay, khi mà nền kinh tế của mỗi quốc gia ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào kinh tế thương mại thì mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị càng chặt chẽ hơn. Các hành động cấm vận, đóng cửa thị trường, cho hoặc không cho hưởng các điều kiện mậu dịch ưu đãi, xây dựng khu vực thị trường chung... được sử dụng khá phổ biến trong quan hệ giữa các quốc gia với nhau. Thông thường, cơ hội tiếp cận thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm nông nghiệp bị hạn chế bởi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan của mỗi quốc gia, do đó cần phải đàm phán, thoả thuận ở cấp độ quốc gia và đôi khi trở thành điều kiện cho các thoả thuận thương mại của các hàng hoá khác. Vì vậy, Chính phủ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng, củng cố và phát triển thị trường xuất khẩu chung và xuất khẩu nông sản nói riêng.
Trong bối cảnh nước ta, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế, công tác điều hàng quản lý của Chính phủ cũng đang từng bước đổi mới, thay vì việc điều hành tác nghiệp, lấn sang nhiệm vụ của doanh nghiệp là những điều hàng mang tầm vĩ mô, tạo lập các quan hệ và hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường ngoài nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn còn nhiều vấn đề cần phải được quan tâm đúng mức hơn nữa. Ví dụ, việc đàm phán tìm ra phương thức xử lý công nợ với các nước SNG và Đông Âu để các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam tìm lại được thị trường truyền thống; hoặc đàm phán với Trung quốc để xử lý vấn đề buôn lậu biên giới và đưa ra các thương lượng về mậu dịch nói chung, trong đó có vấn đề xuất khẩu các nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc, nhằm giảm bớt rủi ro trong xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam.
Trong giải pháp này, Chính phủ nên tập trung vào các hoạt động chủ yếu sau:
- Thông qua các hoạt động ngoại giao, đàm phán với các thị trường có nhiều điều kiện ưu đãi mậu dịch dành cho các sản phẩm nông nghiệp của các nước đang phát triển như thị trường Mỹ, thị trường các nước Tây Âu.
- Đàm phán ký kết các thoả thuận thương mại song phương và đa phương, bao gồm: Đàm phán hạn ngạch xuất khẩu đối với mặt hàng có hạn ngạch, đàm phán đòi cân bằng xuất - nhập khẩu với các thị trường Việt Nam còn nhập siêu, ký các hiệp định Chính phủ và mua bán hàng hoá giữa các quốc gia.
Xây dựng tốt mối quan hệ giữa Việt Nam với các tổ chức kinh tế thương mại của các khu vực và thế giới như ASEAN, APEC, WTO, AFTA, EC... tham gia vào các hiệp hội xuất khẩu theo các mặt hàng nông sản, như hiệp hội cao su, hiệp hôi chè...
Quan tâm đến các vấn đề nhân đạo và thực hiện các hoạt động nhân đạo trên thế giới, qua đó nhằm đưa trực tiếp các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam đến gây dựng danh tiếng ở những thị trường mới, hoặc xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp thông qua các quỹ viện trợ nhân đạo của Liên Hiệp Quốc, các nước bảo trợ.
Tiến hành mạnh mẽ hơn các hoạt động xúc tiến thương mại cả trong và ngoài nước nhằm đẩy nhanh quá trình tiếp cận thị trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp, các sản phẩm Việt Nam.
Qua nghiên cứu thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam, trong giai đoạn tới, có thể tiến hành một số hoạt động chủ yếu đối với một số thị trường xuất khẩu sau:
- Đối với thị trường Châu Âu và các nước phát triển khác có rào cản lơn (thuế quan, yêu cầu về xuất xứ sản phẩm, tiêu chuẩn ngặt nghèo về vệ sinh môi trường...) nên tìm cách có được các điều kiên ưu đãi mậu dịch, chẳng hạn tham gia vào các Hiệp định thương mại đa biên và song biên.
- Đối với thị trường Trung Quốc, các đàm phán về thương mại nên tập trung vào các sản phẩm nông nghiệp nguyên liệu như cao su... và chủ yếu về dung lượng trao đổi thương mại song phương về phương diện giá cả.
- Đối với thị trường các nước ASEAN nên tập trung vào thương lượng nhằm cân bằng cán cân thương mại.
- Đối với các nước SNG và Đông Âu vấn đề hàng đầu vẫn là xử lý nợ tồn đọng và nên tập trung vào việc ký kết các Hiệp định giữa các Chính phủ.
- Đối với các nước mất an ninh lương thực nên thông qua các tổ chức viện trợ nhân đạo để xuất khẩu các sản phẩm lương thực, thực phẩm.
4. Tăng cường các biện pháp xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản.
Để mở rộng thị trường xuất khẩu nhằm thực hiện chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu và đảm bảo cho định hướng chuyển dịch cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu đạt hiệu quả cao, cần phải tăng cường các biện pháp xúc tiến xuất khẩu nông sản. Đây là giải pháp tất yếu trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta, hơn nữa, bản thân hoạt động quản lý là hoạt động tự hoàn thiện, được điều chỉnh trong quá trình vận hành. Hiện nay, những vấn đề bức xúc đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu nói chung đang tồn đọng trên nhiều mặt cả về hệ thống pháp lý và những quy định về thủ tục hành chính, trong đó nổi lên các mâu thuẫn giữa Chính sách thuế và Chính sách khuyến khích sản xuất và xuất khẩu, mâu thuẫn giữa Chính sách khuyến khích xuất khẩu và Chính sách quy định tỷ giá ngoại hối.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, sản xuất nông nghiệp có vị trí quan trọng trong nền kinh tế cũng như trong sự nghiệp phát triển chung, do đó đối với các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản cần phải tạo dựng được môi trường kinh doanh đặc biệt chứa đựng các yếu tố bảo hộ nông nghiệp và trợ cấp xuất khẩu. Mặc dù xu thế chung hiện là các nước phải cắt giảm các khoản bảo hộ và trợ cấp đối với các sản phẩm nông nghiệp, nhưng đối với Việt Nam, do là nước nghèo, nên các khoản chi của Chính phủ cho mục tiêu bảo hộ và trợ cấp trước đây và hiện nay hầu như không đáng kể, nên vẫn cần phải tăng cường trong giai đoạn tới. Trên thực tế hiện nay ở Việt Nam, việc quy định giá sàn (hình thức bảo hộ nông nghiệp chủ yếu của các nước có nền kinh tế chuyển đổi) mới chỉ áp dụng cho thu mua lúa, còn đối với các sản phẩm khác chưa có quy định. Trong xuất khẩu, các trợ giúp cho các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu hầu như chưa được áp dụng. Điều này đã làm ảnh hưởng không ít đến khả năng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trước đây và hiện nay.
Để tạo môi trường thuận lợi nhằm tăng cường khả năng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, trong giải pháp này cần tập trung vào các hoạt động sau:
Thực hiện các Chính sách tỷ giá hối đoái nhằm khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, nhưng trên cơ sở đảm bảo sự phát triển ổn định các ngành, lĩnh vực kinh tế. Có thể áp dụng tỷ giá thanh toán cao hơn tỷ giá quy định chung, cho các khoản thu xuất khẩu hàng nông sản trong điều kiện giá sản phẩm đó trên thị trường thế giới bị suy giảm, hoặc giá thu mua xuất khẩu trong nước tăng đột biến, hoặc Nhà nước vì lý do nào đó cố gắng kiềm chế tỷ giá chung để có lợi cho nền kinh tế nhưng lại bất lợi cho xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng trong giai đoạn nào đó.
Nghiên cứu xây dựng và triển khai quỹ tài trợ xuất khẩu cho các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu (phạm vi sản xuất rộng, là nguồn thu thập chủ yếu của đa số nông dân) trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, bằng các nguồn khác nhau như: Ngân sách Nhà nước, (tỷ lệ này sẽ tăng dần khi các nguồn thu ngân sách tăng); đóng góp của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản theo tỷ lệ lợi nhuận khi giá xuất khẩu tăng nhanh, hoặc khi Nhà nước cần điều chỉnh giảm ở mức độ lớn tỷ giá đồng nội tệ...
Nghiên cứu áp dụng các hình thức tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng nông sản như: bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong nhưng trường hợp cần thiết như cấp tín dụng bổ xung kịp thời vào thời điểm quan trọng; hợp tác tín dụng giữa các quỹ tín dụng, các ngân hàng, kể cả với các thị trường nhập khẩu chủ yếu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam ...
Nghiên cứu, xây dựng và hình thành quỹ khai thác thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam nhằm trợ giúp cho các hoạt động Marketing ở thị trường nước ngoài giúp đỡ kỹ thuật, dịch vụ... nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu.
Xúc tiến nhanh việc hình thành các hiệp hội xuất khẩu đối với các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu, riêng đối với các sản phẩm xuất khẩu khối lượng xuất khẩu còn nhỏ có thể thành lập các hiệp hội theo các sản phẩm cùng nhóm hàng.
Xây dựng quy chế, quy định điều kiên tham gia và tổ chức các hoạt động môi giới để hình thành tầng lớp người môi giới (cá nhân, các tổ chức môi giới); tạo điều kiên cho ra đời các công ty chuyên hoạt động trong lĩnh vực Marketing và tư vấn về sản phẩm và thị trường cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản.
5. Chính sách khoa học công nghệ và đào tạo cán bộ phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu
5.1 Chính sách khoa học công nghệ
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp & PTNT, thì khoa học công nghệ đã góp tới 30 - 40% tăng trưởng nông nghiệp trong thời gian vừa qua và ngày càng khẳng định rõ vai trò, vị trí quan trọng của KHCN là yếu tố động lực trực tiếp của quá trình CNH và HĐH sản xuất nông nghiệp.
Trong thời gian tới “Chính sách khoa học công nghệ” trong nông nghiệp, cần tạo ra bước chuyển biến mới, để đáp ứng yêu cầu của chiến lược nâng cao cạnh tranh nông sản trên thị trường.
- Tập trung đầu tư cho nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng, thực hiện các chương trình nghiên cứu giống (lai tạo, chọn lọc, nhập nội) quốc gia, tạo một bước có tính “đột phá” về năng suất chất lượng, phát triển công nghệ sau thu hoạch, nghiên cứu kinh tế, thị trường.
- Có cơ chế chính sách khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất theo các lĩnh vực ưu tiên.
- Tăng cường công tác khuyến nông, đưa nhanh và trực tiếp đến người sản xuất.
- Kiện toàn và sắp xếp hệ thống NCKH, để huy động và phát huy được sức mạnh trí tuệ của đội ngũ cán bộ KHKT. Tăng cường đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất cho nghiên cứu khoa học.
- Đổi mới công tác quản lý khoa học, tiến tới thực hiện cơ chế đấu thầu trong các đề tài nghiên cứu.
5.2 Chính sách về đào tạo cán bộ
Kinh nghiệm của nhiều nước ( Nhật Bản, Singapore...) cho thấy công tác đào tạo là một trong những nhân tố quyết định thành công đối với sự phát triển đất nước. Ngày nay nhân tố này càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng tới tư duy quản lý, tư suy kinh tế và phương thức sản xuất - kinh tế. Vì vậy để thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược... vấn đề cần có chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ, doanh nhân, thương nhân có năng lực và đội ngũ công nhân lành nghề và phải có những phương hướng chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý.
Kết luận
Cơ cấu xuất khẩu nói chung cơ cấu các mặt hàng nông sản xuất khẩu nói riêng là một bộ phận của cơ cấu kinh tế, bị chi phối bởi cơ cấu của ngành kinh tế khác nhưng lại là một cơ cấu nhạy cảm nhất, dễ chuyển dịch.Trong điều kiện tự do hoá thương mại và bên cạnh đó cũng để chuẩn bị tiền đề đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2010, đòi hỏi ngay từ bây giờ phải có định hướng, chiến lược và chính sách chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế theo hương công nghệp hoá, hiện đại hoá... Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu các mặt hàng nông sản xuất khẩu sẽ đóng góp một phần lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung.
Đề tài “Định hướng chuyển dịch cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu trong điều kiện tự do hoá thương mại”, đã cố gắng phân tích, luận giải các nội dung nhằm mục đích chuyển dịch cơ cấu để phát huy các lợi thế cạnh tranh của nông sản xuất khẩu, từ lý luận, thực trạng và triển vọng về thị trường của Việt Nam trên con đường tự do hoá thương mại, đề tài đã chỉ thấy những tồn tại, cơ hội, thách thức cần phải giải quyết trên con đường phát triển để tiến tới một nền nông nghiệp hàng hoá hướng mạnh vào xuất khẩu, ngày càng nâng cao khả năng xuất khẩu nông sản của Việt Nam ra thị trường thế giới và khu vực.
Tuy nhiên, khoảng cách giữa mong muốn và khả năng, giữa mục tiêu và kết quả, giữa lý thuyết và thực tế lớn hay nhỏ sẽ phụ thuộc không ít vào cách tiếp cận và giải quyết vấn đề đang đặt ra cho sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung và sản xuất, xuất khẩu nông sản nói riêng của Việt Nam từ nay đến năm 2010. Hy vọng rằng Việt Nam, với những tiềm năng dồi dào sẵn có trong sản xuất nông nghiệp cả về đất đai, điều kiện tự nhiên và nguồn lao động, với định hướng phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng trong việc tăng cường phát huy nội lực sẽ taọ ra những sản phẩm nông nghiệp phong phú về chủng loại, với nhiều tầng về chất lượng, có khối lượng lớn và giá trị xuất khẩu ngày càng được cải thiện, tạo nên sức lan toả mạnh mẽ của “hương vị” sản phẩm Việt Nam trên thị trường nông sản thế giới.
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX của Đảng.
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Tổng kết việc thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư 10 (1991- 2000).
Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân - 2000.
3. Giáo trình Kinh tế học quốc tế.
Nhà xuất bản thống kê - 1999.
4. Hồ sơ các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam - nhóm hàng nông sản.
Bộ Thương mại - Viện nghiên cứu thương mại - 1999.
5. Cục diện kinh tế, thương mại thế giới và dự bảo năm 2001
Bộ Thương Mại.
6. Tình hình kinh tế - xã hội 10 năm 1991 - 2000.
Bộ Thương Mại.
7. Chiến lược và quy hoạch phát triển đất nước bước vào thế kỉ XXI.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư - 2000.
8. Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế.
Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế - 2000.
9. Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu thời kỳ 2001 - 2010.
Bộ Thương Mại.
10. Đông á phục hồi và phát triển.
NXB Chính trị quốc gia - 2000.
11. Kinh tế xã hội Việt Nam trong 10 năm đổi mới.
NXB Thống kê, Hà nội 1996.
12. Kinh tế NICs Đông á.
13. Dương Ngọc - Năm 2001: GDP đạt mức tăng trưởng cao nhất sau 4 năm.
Chử Văn Lâm - Phát triển nền nông nghiệp hợp đồng.
Nguồn: Kinh tế 2001 - 2002 Việt Nam và Thế Giới.
Nguyễn Ngọc Trinh - Thương mại thập kỷ 90: Bức tranh đa sắc.
Nguồn: Kinh tế 2000 - 2001 Việt Nam và Thế Giới.
14. Lương Duy Thức - Phải chăng đó là cơ hội cho cải cách nền kinh tế.
Nguồn: Thương mại 31/2001.
15. Nguyễn Duy Nghĩa - nhìn lại và suy ngẫm.
Nguồn: Thương Mại 36/2001.
16. Nghị định số 44/2001/NĐ - CP và một số nghị định khác.
Nguồn: Bộ Thương Mại.
17. Một số bài luận văn.
18. Tạp chí Ngoại thương 1, 21/2002; Thương nghiệp thị trường Việt Nam 1+2/2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33597.doc