Đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý Nhà nước về xuất bản ở Việt Nam hiện nay là đòi hỏi khách quan. Việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý Nhà nước về xuất bản được thực hiện trên cơ sở của hệ thống các quan điểm cơ bản. Đó là các mối quan hệ giữa quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản với tự do sáng tạo, công bố, phổ biến xuất bản phẩm; giữa định hướng xã hội chủ nghĩa với cơ chế thị trường; giữa bình đẳng và tự do trong hoạt động xuất bản ; quan hệ giữa xuất bản với phương tiện văn hoá - thông tin khác; và đó là vấn đề đổi mới tư duy pháp lý trong quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản. Từ hệ thống quan điểm cơ bản đó đề xuất phương hướng và các giải pháp đồng bộ nhằm hoàn thiện pháp luật trong quản lý Nhà nước về xuất bản ở văn hoá hiện nay. Tạo lập môi trường và điều kiện cho hoạt động xuất bản theo định hướng xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước về xuất bản ; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là những phương hướng cơ bản nhằm đổi mới và hoàn thiện pháp luật quản lý Nhà nước về xuất bản trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
68 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1700 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước về xuất bản ở Việt Nam hiện nay: Phương hướng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i tên gọi của các cơ quan có thẩm quyền chung như: Chính phủ, Hội đồng bộ trưởng, rồi Chính phủ, thay đổi tên gọi của cơ quana có thẩm quyền riêng là Văn hoá, rồi Văn hoá - thông tin cũng không thay đổi một cơ cấu quản lý về xuất bản ổn định, thống nhất đã được hình thành từ trung ương đến địa phương.
Khi đánh gía về tổ chức quản lý, chúng ta không thể quên được sự biến động lớn về việc tách, nhập văn hoá, thông tin, thể thao, du lịch trong một thời gian rất ngắn. Việc làm này của Nhà nước ít nhiều gây sự đình trệ, chờ đợi của cơ sở trong quản lý Nhà nước về xuất bản. Hoạt động của Cục xuất bản, Sở văn hoá - thông tin bị hạn chế khi phát sinh vấn đề cần sự chỉ đạo, quyết định sớm của Bộ. Việc tách nhiệm vụ quản lý báo chí ra khỏi Cục xuất bản, việc chuyển giao nhiệm vụ quản lý in, phát hành về Cục xuất bản đòi hỏi phải có thời gian sắp xếp, bố trí bộ máy và cán bộ. Sự xáo trộn này dẫn đến tình trạng chờ đợi, ảnh hưởng trực tiếp đến việc điều hành, giám sát và xử lý các vi phạm trong hoạt động xuất bản.
2.3. Hoạt động tư pháp
Trong những năm qua, hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật xuất bản sôi động hẳn lên. Là một lĩnh vực sản xuất các sản phẩm tinh thần, trong công cuộc, đổi mới, hoạt động xuất bản có những diễn biến phức tạp, đặc biệt là vấn đề nội dung xuất bản. Nhân danh đổi mới, tổ chức xuất bản và tác giả có tể công bố những tác phẩm trái với đạo lý, pháp luật, đường lối, chính sách. Ngược lại, nhân danh sự kiên định, việc truyền bá tư tưởng bảo thủ, lỗi thời cũng là một khuynh hướng. Các quan điểm, trào lưu được dịp công khai ở thời đổi mới. Chính vì vậy, các cơ quan bảo vệ an ninh, kinh tế, điều tra xét hỏi, kiểm sát đã tăng cường hoạt động.
Hoạt động âm thầm, chủ động có hiệu quả của lược lượng an ninh văn hoá, công an quản lý các ngành nghề đặc biệt trong thời gian đã góp phần bảo vệ sự lành mạnh, trật tự cho hoạt động xuất bản phát triển. Tuy vậy chúng ta cũng có thể thấy một số vấn đề cần nghiên cứu xử lý phù hợp:
- Sự phối hợp giữa Ngành Văn hoá - Thông tin với hải quan, nội vụ, thương mại trong việc quản lý xuất nhập văn hoá phẩm chưa đồng bộ và chặt chẽ, nên một số “rác phế thải văn hoá” đang còn nằm trong khá nhiều ở một số hải cảng. Số tuồn ra ngoài đầu độc xã hội chưa biết là bao nhiêu, những loại gì.
- Việc thực hiện thẩm quyền kiểm tra, giám sát, bảo vệ pháp luật của các cơ quan thuộc khối nội chính (công an, kiểm sát, toà án, thuế vụ, hải quan v.v...) và sự tôn trọng quyền chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở xuất bản là quan hệ cần thể hiện sự rạch ròi và công minh của pháp luật.
- “Rác phế thải văn hoá” là những ổ dịch bệnh, đã được Quốc hội nhắc đến, dư luận xã hội phê phán mạnh mẽ, trong khi các quy phạm pháp luật đã được ban hành, các hành vi vi phạm đã diến ra, thậm chí có trường hợp các đương sự đã bị bắt, tại sao chưa có vụ xử án nào. Việc phạt hành chính, “phạt tồn tại” là phổ biến.
- Thanh tra chuyên ngành xuất bản chưa được hình thành. Nếu có hệ thống tổ chức thanh tra chuyên ngành về hoạt động xuất bản trong cả nước, thì cũng không đủ tai mắt để kiểm soát, vì vậy phải tăng cường giáo dục ý thức pháp luật cho các chủ thể tham gia các quan hệ xuất bản, cho công dân là những người thợ in, người phát hành, người làm xuất bản.
II. NhỮng yêu cẦu đỔi mỚi, hoàn thiỆn pháp luẬt vỀ xuẤt bẢn Ở ViỆt Nam
Là phương tiện quan trọng hàng đầu của Nhà nước trong việc quản lý xã hội, pháp luật phải là những chuẩn mực chung, có giá trị thực tế trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhưng mọi dự án luật đều được ban hành trong một thời điểm nhất định, trong khi cuộc sống muôn hình muôn vẻ, ở đó các quan hệ xã hội nhằm trong quá trình chuyển dịch theo các quy luật phát triển của xã hội, đặc biệt trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về xuất bản được đặt ra như một tất yếu. Có thể xem xét các yêu cầu hoàn thiện pháp luật xuất bản về phương diện lý luận và thực tiễn sau:
1. Về mặt lý luận
- Nhận thức thế giới khách quan là một quá trình trong đó việc tiếp cận được các quy luật khách quan phải trải qua nhiều nấc thang, từ xa tới gần, từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ hiện tượng đến bản chất. Dù khó khăn và phức tạp trong việc nhận thức thế giới, nhưng không có gì là “bất khả tri” đối với con người. Chỉ có thể là chưa biết, chứ không có cái gì là loài người không biết. Nhưng con người nhận thức thế giới không chỉ để biết, mà mục đích cuối cùng là nhằm cải tạo nó phục vụ lợi ích của mình. Nhận thức được thế giới khách quan đã khó, nhưng khó hơn vẫn là việc cải tạo nó vì lợi ích của con người.
Trong hoạt động xuất bản, các quan hệ xã hội rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Nó đan xen giữa văn hoá - tư tưởng với kinh tế, giữa lao động sáng tạo của tư duy với lao động sản xuất vật chất, nó xuyên suốt quá trình sản xuất - lưu thông và tiêu dùng xuất bản phẩm. Việc nhận thức đúng và đủ các quan hệ xã hội trong xuất bản để từ đó đề ra được các quy phạm pháp luật phù hợp để điều chỉnh cũng phải trải qua một quá trình.
- Các quan hệ xã hội nói chung, trong đó phần lớn là các quan hệ do pháp luật điều chỉnh không phải là cái gì bất biến, mà nó tồn tại và ổn định trong trạng thái tương đối. Trong sự phát triển của xã hội, có quan hệ xã hội mất đi, có quan hệ xã hội mới xuất hiện. Sự chuyển dịch đó là tất yếu khách quan xuất phát từ những quan hệ xã hội về xuất bản mà từ đó nhà làm luật đề ra các quy phạm pháp luật, để điều chỉnh các chủ thể tham gia hoạt động xuất bản cũng không phải hoàn toàn cố định. Nó cũng dịch chuyển theo sự phát triển của kinh tế - xã hội.
Kinh tế thị trường, ở đó các quan hệ xã hội khác về chất so với các quan hệ xã hội trong cơ chế hành chính, bao cấp. Việc chuyển nền kinh tế sang có chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực chất là quá trình cấu trúc lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu sở hữu, cơ cấu lao động..., từ đó dẫn đến đổi mới sâu sắc văn hoá, giáo dục, khoa học, pháp luật, tâm lý xã hội, v.v... Sự chuyển đổi này dẫn đến sự chuyển dịch của các quan hệ xã hội. Có quan hệ xã hội dã căn bản hình thành, có quan hệ đang trong quá trình chuyển dịch, do sự tác động của Nhà nước về mục tiêu, phương hướng phát triển. Mặt khác, quản lý nền kinh tế thị trường, một tình huống mới, chưa có tiền lệ ở Việt Nam đòi hỏi Nhà nước phải thận trọng trong các bước đi, vừa làm vừa thể nghiệm để chọn lọc. Như vậy, sự chuyển dịch, hình thành và ổn định của các quan hệ xã hội thiếu những điều kiện cần và đủ. Các nhà làm Luật không thể đưa ra các quy tắc phù hợp trong hoàn cảnh đó và như vậy có những “khoảng trống”, các “cửa bị bỏ ngỏ” về về mặt pháp luật là lẽ đương nhiên.
- Hoạt động sáng tạo, sản xuất, phổ biến và tiêu dùng các sản phẩm văn hoá nói chung, xuất bản phẩm nói riêng có những đặc trưng riêng biệt, káhc các lĩnh vực sản xuất, lưu thông và tiêu dùng các sản phẩm vật chất thuần tuý. Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy các đặc trưng đó càng được khắc hoạ đậm nét hơn trong quá trình lựa chọn, đưa ra các quy phạm pháp luật. Việc lượng hoá và cụ thể hoá các quy phạm pháp luật là quá trình của nhận thức, của kinh nghiệm và trình độ lập pháp.
2. Về mặt thực tiến
- Luật xuất bản được ban hành và đi vào cuộc sống đến nay đã ba năm rưỡi. Các qui phạm pháp luật về xuất bản cọ xát với thực tiễn hoạt động xuất bản đã khẳng định các giá trị, đồng thời cũng bộc lộ những khiếm khuyết, cần sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện.
- Hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và cac nước trên thế giới. Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế. Vì vậy, việc đa phương và đa dạng hoá các quan hệ quốc tế không chỉ là chính sách đối ngoại của Việt Nam, mà của nhiều nước. Xuất bản cũng đang nằm trong sự hoà nhập đó. Vì vậy, cần phải có định hướng pháp luật trong các quan hệ quốc tế về xuất bản, về quyền sở hữu trí tuệ.
- Trình độ và kỹ thuật lập pháp của các nhà làm luật Việt Nam đã có nhiều bước tiến đáng kể tròn những năm qua. Nhưng xuất bản vừa là hoạt động sản xuất vừa là hoạt động văn hoá tư tưởng, vì vậy việc lựa chọn để đưa ra những quy phạm pháp luật phù hợp là việc làm khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có thời gian thể nghiệm.
- Xuất bản là lĩnh vực vừa phải hoạt động theo Luật xuất bản vừa phải hoạt động theo các luật liên quan khác, vì vậy hoàn thiện Luật xuất bản có liên quan đến việc hoàn thiện các luật khác. Việc làm này là phù hợp với đòi hỏi của hoạt động xuất bản, của hoạt động quản lý Nhà nước trên các mặt khác nhau đối với xuất bản.
Trên đây là những đòi hỏi khách quan trong việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật xuất bản trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước dân chủ nhân dân ra đời, đã công bố các quyền cơ bản của công dân. Bản Hiến pháp 1946 lần đầu tiên ghi nhận quyền tự do xuất bản, đồng thời phủ nhận chế độ kiểm duyệt tác phẩm trước khi xuất bản do thực dân Pháp áp đặt tại Đông Dương từ 1922 (Sở kiểm duyệt Đông Dương). Để cụ thể quyền công dân ghi nhận tại Hiến pháp, Sắc luật số 003/SLt năm 1957 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký đã quy định cụ thể về chế độ xuất bản ở Việt Nam. Năm 1993, ngay sau khi ban hành bản Hiến pháp 1992, Quốc hội Việt Nam đã thông qua dự án Luật xuất bản, trên cơ sở kế thừa và phát triển Sắc luật 003/SLt trong tình hình mới. Hai văn bản luật trên đã xác lập hành lang pháp luật, đặt cơ sở pháp lý cho hoạt động xuất bản đúng hướng, phục vụ công cuộc kháng chiến, kiến thiết đất nước, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ xuất bản phẩm của nhân dân, góp phần mở rộng giao lưu với các nước. Trong hoàn cảnh tiếp tục sự nghiệp đổi mới và cơ chế thị trường, pháp luật vốn đã quan trọng, nay trở nên phương tiện hàng đầu trong việc quản lý xã hội nói chung xuất bản nói riêng. Các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp của Nhà nước về xuất bản phải luôn luôn được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu đổi mới đất nước. Vì vậy, tất yếu phải đặt ra việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về xuất bản.
Chương 3
ĐỔi mỚi và hoàn thiỆn pháp luẬt trong quẢn lý
nhà nưỚc vỀ xuẤt bẢn Ở ViỆt Nam hiỆn nay-
phương hưỚng và giẢi pháp
I. HỆ thỐng nhỮng quan điỂm cơ bẢn đỔi mỚi và hoàn thiỆn pháp luẬt trong quẢn lý nhà nưỚc vỀ xuẤt bẢn
Để có nhận thức chung và thống nhất, làm cơ sở cho việc đổi mới, hoàn thiện pháp luật trong việc trong quản lý nhà nước về xuất bản, phần này trình bày các quan điểm cơ bản sau:
1. Pháp luật là phương tiện bảo đảm quyền tự do sáng tạo, công bố, phổ biến xuất bản phẩm
Pháp luật là phương tiện của nhà nước trong quản lý xã hội. Quyền tự do nói chung và quyền tự do ngôn luận nói riêng. Trong đó có quyền sáng tạo, công bố và phổ biến xuất bản phẩm là quyền của con người, quyền công dân được hiến pháp 1992 ghi nhận. ở mọi nhà nước, pháp luật chỉ là phương tiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhằm đảm bảo các quan hệ xã hội và định hướng phát triển trong hoạt động xuất bản, mục đích của pháp luật hướng tới việc xuất bản nhiều xuất bản phẩm có giá trị cao, lành mạnh phục vụ nhu cầu bạn đọc. Đề cao trách nhiệm người cầm bút. Như vậy, pháp luật và quyền tự do sáng tạo, công bố, phổ biến xuất bản phẩm có quan hệ mật thiết và tác động qua lại trong nhà nước Pháp quyền.Có thể thấy được quan hệ đó trong xuất bản qua các phương diện sau:
Pháp luật tạo lập hành lang, môi trường an toàn và thuận lợi cho công dân và các tổ chức tự do nghiên cứu, sáng tạo, công bố và phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm. Đồng thời thông qua cơ chế và bộ máy, nhà nước bảo vệ môi trường tự do cho hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, công bố và phổ biến xuất bản phẩm. Tự do xuất bản là tự do trong khuôn khổ pháp luật, tự do trong trách nhiệm cao cả của người cầm bút, người chịu trách nhiệm xuất bản trước xã hội và bạn đọc. Đó là tự do của những ý tưởng cao đẹp, tiến bộ do con người và vì con người, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Những hoạt động sáng tạo, công bố và phổ biến xuất bản phẩm trái với pháp luật là hoạt động vô chính phủ. Bản thân những chủ thể đó đã tự đánh mất quyền tự do của mình, đặt mình ra ngoài cộng đồng, ngoài vòng pháp luật. Mặt khác hoạt động tự do sáng tạo, công bố và phổ biến xuất bản phẩm trong khuôn khổ pháp luật là góp phần củng cố, tăng cường pháp luật, đồng thời phát huy cao độ quyền cũng như năng lực sáng tạo của chính mình. Quyền tự do sáng tạo của chủ thể xuất bản chỉ thực sự có được khi hoạt động của mình không ảnh hưởng tới quyền tự do sáng tạo của người khác và của cộng đồng. Tự do cá nhân trong tự do của đa số, của cộng đồng. Khi người cầm bút, người chịu trách nhiệm xuất bản do pháp luật quy định là bầu trời cao rộng cho sự sáng tạo. Văn kiện đại hội đại biểu toàn Quốc lần thứ VIII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định: “Bảo đảm dân chủ, tự do cho mọi sự sáng tạo và hoạt động văn hoá, vun đắp các tài năng, đồng thời đề cao trách nhiệm của văn nghệ sĩ trước công chúng, dân tộc và thời đại“.
2. Pháp luật là phương tiện bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa đối với xuất bản trong điều kiện cơ chế thị trường
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam đã ghi: “tăng cường hiệu lực quản lý vì mô của Nhà nước, khai thác triệt để vài trò tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường”.
Điều này có ý nghĩa cơ chế kinh tế thị trường ở Việt Nam được thực hiện trong sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước xác lập và xây dựng đồng bộ thị trường cho sự vận động tích cực và năng động, có trật tự nhằm khai thác những mặt tích cực, đồng thời ngăn ngừa để hạn chế tới mức thấp nhất do mặt trái của cơ chế thị trường tác động.
Định hướng xã hội chủ nghĩa trong xuất bản là định hướng nhằm đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng chính trị, tư tưởng, khoa học và nghệ thuật của xuất bản phẩm, với chi phí thấp nhất, để từng bước thoả mãn nhu cầu đa dạng và phong phú của nhân dân, góp phần mở rộng giao lưu vơí các nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện được định hướng đó, cần thiét phải kết hợp chặt chẽ giữa việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch xuất bản với việc hoạch định chính sách và thể chế dẫn dặt điều hành ngành xuất bản theo định hướng chính trị, xử lý kịp thời những mất cân đối và những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện.
Định hướng xã hội chủ nghĩa mặc dù là hoạt động chủ quan của con người, nhưng phải được nhận thức từ thế giới khách quan. Chỉ khi nào tiếp cận được quy luật mới đề ta được mục tiêu, bước đi và cơ chế thích hợp cho sự phát triển. Nó không là hoạt động tuỳ tiện, duy ý chí của con người. Có như vậy, định hướng sự chuyển động của quy luật cho phù hợp với mục tiêu phất triển. Sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế thị trường là cần thiết khách quan, nhằm hạn chế những hoạt động tự phát, hướng sự phát triển theo các mục tiêu được xác định, kết hợp tăng trưởng với công bằng và tiến bộ xã hội.
Định hướng xã hội chủ nghĩa và chơ chế thị trường có quan hệ hỗ trợ, phối hợp lẫn nhau. Định hướng xã hội chủ nghĩa xác định mục tiêu, bước đi cơ chế vận hành của kinh tế phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sự phát triển năng động, có trật tự của thị trường. Khai thác triệt để những mặt tích cực của cơ chế thị trường, nhằm phát triển xuất bản. Điều tiết, ngăn ngừa để hạn chế tối đa mặt trái của có chế thị trường tác động vào xuất bản, nhằm giữ vững định hướng xuất bản. Đảm bảo cho xuất bản phát triển đi đôi với công bằng xã hội giữa các chủ thể hoạt động xuất bản. Thị trường với những ưu điểm và những mặt mạnh vốn có, nó đảm bảo và đẩy nhanh quá trình thực hiện các mục tiêu xuất bản hoạt đông có hiệu quả kinh tế, làm cơ sở phương tiện sự tồn tại và phát triển.
3. Pháp luật là phương tiện đảm bảo quyền bình đẳng và tự do trong hoạt động xuất bản
Bình đẳng và tự do trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, xuất bản nói riêng là bình đẳng và tự do trong mọi khuôn khổ pháp luật. Bình đẳng trong xuất bản là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định. Các tổ chức và cá nhân bằng lao động của mình sáng tạo ra tác phẩm, có quyền bình đẳng trong việc công bố và phổ biến tác phẩm của mình, đồng thời chịu trách nhiệm về tác phẩm của mình trước pháp luật. Các chủ thể xuất bản đều được pháp luật trao cho các quyền nhất định, trong đó có những quyền giống nhau và có những quyền khác nhau giữa các chủ thể xuất bản. Các quyền khác nhau do tính chất và đặc điểm hoạt động của các chủ thể quy định. Nói cách khác do các quan hệ nội tại của các chủ thể quy định. Ví dụ quyền của các nhà xuất bản khác quyền của các cơ sở in, tổ chức phát hành. Ngay giữa các nhà xuất bản cũng có các quyền khác nhau về đối tượng phục vụ, chức năng, nhiệm vụ xuất bản, loại hình xuất bản phẩm. Mọi nhà xuất bản chỉ được phép xuất bản những xuất bản phẩm đã đăng ký và được cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cho phép. Nhà xuất bản học không thể xuất bản sách khoa học và công nghệ, cũng như nhà xuất bản nông nghiệp y học không thể đòi hỏi quyền xuất bản sách văn học. Mọi cơ sở in, tổ chức phát hành chi được phép kinh doanh những mặt hàng đã đăng ký, và được các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cho phép. Sẽ là sai lầm, khi nhận thức mọi nhà xuất bản, cơ sở in, tổ chức phát hành đều có quyền giống nhau trong hoạt động công bố và phổ biến xuất bản phẩm. Chỉ có thể thừa nhận bình đẳng trong xuất bản là bình đẳng về các quyền do pháp luật quy định. Các chủ thể xuất bản được ra đời có đại vị pháp luật quy đinh. Các chủ thể xuất bản được ta đời có địa vị pháp lý, với những điều kiện nhất định, hoạt động trong phạm vi luật định. Như vậy, pháp luật tạo ra những cớ hội cho sự bình đẳng.
Do sự xuất bản là tự do trong khuôn khổ pháp luật. Trong văn kiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Đảng ta đã xác định : “khuyến khích tự do sáng tạo các giá trị văn hoá, vun đắp các tài năng; phát triển các hình thức hoạt động văn háo của Nhà nước, tập thể và tư nhân, khắc phục tình trạng hành chính hoá các đơn vị hoạt động văn hoá nghệ thuật và xu hướng thương mại hoá đơn thuần trong lĩnh vực này”.
Quyền tự do trong hoạt động xuất bản không phải chỉ đối với những tác giả sáng tạo tác phẩm, mà còn đối với các chủ thể khách bao gồm các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hôi và từ nhân trong việc sản xuất, phổ biến xuất bản phẩm. Là một ngành thuộc binh chủng văn hoá tư tưởng, hoạt động xuất bản có liên quan trực tiếp tới ý thức hệ, thể chế chính trị, và lợi ích giai cấp. Nhưng dưới ánh sáng của các quan điểm đổi mới, hoạt động xuất bản không thể là hoạt động độc quyền của nhà nước, cần thiết phải có nhiều thành phần kinh tế tham gia. Vấn đề là ở chỗ, tuỳ theo tính chất, đặc điểm của từng lĩnh vực (xuất bản, in, phát hành) mà xác định mức độ, phạm vi phù hợp để tư nhân tham gia hoạt động xuất bản, làm như vậy vừa phát triển được tiềm năng của xã hội cho sự phát triển, vừa đảm bảo trật tự, kỷ cương và sự lành mạnh của xuất bản phẩm. Mặt khác đảm bảo sự thống nhất, nhất quán giữa chính sách kinh tế và chính sách văn hoá.
Bình đẳng và tự do trong hoạt động xuất bản có quan hệ mật thiết với nhau. Không thể có bình đẳng trong tình trạng mất tự do, và ngược lại tự do không thể áp dụng khi mất bình đẳng. Bình đẳng ở đây là bình đẳng trong tự do. Và tự do ở đây cũng là tự do trong bình đẳng. Giữa chúng không thể xác định cái nào quết định cáo nào. Bản thân chúng là một thể thống nhất, có quan hệ hữu cơ.
4. Pháp luật là phương tiện bảo đảm sự thống nhất trong các hoạt đông văn hoá - thông tin.
Khi đề cấp tới văn hoá là đề cập tới con người, tới viêc phát huy những năng lực bản chất của con người, nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Hoạt động văn hoá của con người rất đa dạng và phong phú thể hiện khát vọng hướng tới chân, thiện, mỹ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chỉ rõ nhiệm vụ của hoạt động văn hoá trong việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. “Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát triển những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá của con người, với trình độ trí thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng văn hoá phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Như vậy, xuất bản là một bộ phận hữu cơ trong lĩnh vực văn hoá - thông tin, cùng thực hiện chức năng tuyên truyền, giáo dục và tổ chức quần chúng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, và trên mặt trận văn hoá tư tưởng nói riêng. Nhưng xuất bản là “công nghiệp nặng” của Ngành văn hoá - thông tin, Thông qua xuất bản phẩm, Ngành xuất bản giải quyết những vấn đề cơ bản, lâu dài của đời sống văn hoá tinh thần. Trong toàn bộ cấu trúc và thiết chế văn hoá - thông tin, xuất bản là binh chủng bao chứa và phản chiếu toàn bộ các giá trị đời sống văn hoá vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Bằng phương tiện riêng của mình, xuất bản đã vật hoá các giá trị khoa học, văn học, nghệ thuật. Hầu hết các tác phẩm âm, nhạc, sân khấu, điện ảnh, nghệ thật tạo hình, hiện vật bảo tàng, tác phẩm báo chí đến tác phẩm chính trị- xã hội, kinh té, khoa học, pháp luật v.v... đều trở thành xuất bản phẩm. Có thể nói các lĩnh vực kể trên là nguồn tạo nên “đầu vào” cho hoạt động xuất bản. Đồng thời nó cũng là thị trường tiêu dùng xuất bản phẩm là “đầu ra” của xuất bản, Ngược laị, chính xuất bản với xuất bản phẩm đã cung cấp phương tiện, nội dung hoạt động cho các lĩnh vực văn hoá - thông tin nói riêng và đời sống xã hội nói chung. Ví dụ các tác phẩm văn học in trong sách được chuyển thành kịch bản sân khấu, điện ảnh, hoặc kịch bản văn học in trong sách được dàn dựng thành vở diễn; công trình khoa học phổ biến dưới hình thức sách được áp dụng vào cuộc sống. Từ đó các gía trị mới được hình thành. Vì vậy, xuất bản là một trong những ngành có tính chất xã hội hoá cao.
Như vậy, xuất bản là một bộ phận hợp thành của văn hoá thông tin, chịu sự tác động và ảnh hưởng của các phương tiện văn hoá - thông tin, có tác động và ảnh hưởng lớn tới các hoạt động khác. Xuất bản cùng các phương tiện văn hóa - thông tin khác thực hiện nhiệm vụ cao cả trong việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quan điểm này đòi hỏi sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật về văn hoá - thông tin và việc quản lí điều hành của Nhà nước trên lĩnh vực này.
5. Mở rộng giao lưu quốc tế về văn hoá, phát triển xuất bản là hoà nhập vào pháp luật và thông lệ quốc tế
Bản thân mỗi nền văn hoá dân tộc đã hàm chứa trong mình nhu cầu giao lưu, hào nhập. Mặt khác, trong thời đại văn minh trí tuệ, sự tiến bộ vượt bậc của các ngành khoa học đã làn cho các nền văn hoá xích lại gân nhau hơn. Con người vốn là động lực, nhân tố quyết định sự phát triển văn hoá. Giao lưu văn hoá là chiếc cầu nối liền sự hiểu biết, thông cảm giữa con người, giữa các quốc gia, dân tộc, là động lực ngoại sinh kích thích động lực nội sinh phát triển trong sự thích ứng với đặc trưng tâm lý và hoàn cảnh lịch sử của dân tộc. Đó là nhu cầu khách quan cần mở rộng quan hệ quốc tế về văn hoá phát triển xuất bản. Trên tinh thần đổi mới, văn kiện Đại Hội VIII Đảng ta đã ghi rõ: “Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, lãnh thổ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi...”. Điều này có nghĩa giao lưu văn hoá nói chung, xuất bản nói riêng, trước hết phải gắn với sự ổn định của đất nước, với nền văn hoá dân tộc phát triển lành mạnh, đúng hướng. Phát triển văn hoá dân tộc gắn liền với mở rộng giao lưu với nước ngoài, tiếp thu tinh hoa văn hoá, khoa học nhân loại, làm giầu thêm nền văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa trong di sản văn hoá, khoa học của nhân loại, bên cạnh việc bảo vệ và nâng cao các giá trị văn hoá dân tộc. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”.
Chúng ta trân trọng sự trường tồn của văn hoá dân tộc gắn với bản sắc dân tộc Việt Nam, còn giữ được những giá trị riêng, không lai căng mất gốc. Chúng ta tự hào có nền Văn hoá hiện đại vào loại tiến bộ của loài người: độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thống nhất lãnh thổ và đang vươn tới các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đồng thời cũng phải nhận thức sâu sắc rằng, nền văn hoá Việt Nam còn mang nhiều tàn tích lạc hậu của văn minh lúa nước kéo dài hàng ngàn năm. Biết rõ chỗ đứng của mình thì sẽ tự tin trong giao lưu quốc tế, biết lựa chọn và loại trừ. Tiếp thu những gì phải có lợi cho phát triển một nền văn hoá có định hướng, có mục đích và mục tiêu rõ ràng. Đồng thời loại bỏ, ngăn chặn những độc tố văn hoá ảnh hưởng đến các giá trị thẩm mỹ và nhân văn. Chưa bao giờ tính phức tạp trong giao lưu văn hoá được đặt ra mạnh mẽ như hiện nay.
Mở rộng giao lưu văn hoá là nhu cầu, nhưng phải cảnh giác với âm mưu “diễn biến hoà bình”. Giao lưu văn hoá, xuất bản trước hết phải từ sự ổn định, vì sự ổn định và nền văn hoá phát triển đúng hướng, lành mạnh. Kiên quyết loại trừ sự thâm nhập của các loại sản phâm văn hoá, xuất bản phẩm xấu, độc hại bất lợi. Có nghĩa phải chọ lọc trong tiếp thu. Nếu thiếu sự nhìn nhận tỉnh táo, trí tuệ, thiếu quan điểm giao lưu đúng đắn sẽ tạo ra một kiểu văn hoá thực dụng, thô lậu.
Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương hoá không dừng lại ở các cấp chính phủ mà còn với các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, tổ chức văn hoá, xuất bản.Việc tham gia các quan hệ quốc tế về văn hoá, xuất bản phải phù hợp với các hiệp định song phương, liên quốc gia mà Việt Nam đã ký kết. Tôn trọng các luật quốc tế và thông lệ quốc tế. Nhưng như vậy Việt Nam ta vẫn chưa có thể tham gia sâu rộng, bình đẳng và có vị thế trên trường quốc tế. Khi hoà nhập vào cộng đồng quốc tế là tham gia vào các quan hệ quốc tế ở đó các lợi ích quốc tế và quốc gia được đặt ra. Vì vậy đòi hỏi phải xử sự phù hợp với các quy tắc mang tính bắt buộc chung trong cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên trước tiên phải xuất phát từ lợi ích quốc gia, lợi ích khu vực mà lựa chọn việc xử sự phù hợp. Quan điểm này đòi hỏi việc thể chế hoá các hoạt động quốc tế trong lĩnh vực văn hoá nói chung xuất bản nói riêng, nhằm mở rông giao lưu, hội nhập, đồng thời bảo vệ quyền lợi công dân, giữ vững chủ quyền, bản sắc dân tộc.
6. Đổi mới tư duy pháp lý trong quản lý nhà nước bằng pháp luật về xuất bản ở Việt Nam hiện nay
Khi đề cập tới bản chất giai cấp của pháp luât, Mác-Ăngghen đã viết trong tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” về pháp luật tư sản:” pháp luật của các ngài chỉ là ý chí của giai cấp các ngài để lên thành luật, cái ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ngài quyết định”. Luận điểm này thể hiện vấn đề cốt tử về bản chất giai cấp của pháp luật: pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị và bản thân nội dung ý chí của giai cấp thống trị do quan hệ vật chất quy định. Ngoài ra, Mác- Ăng ghen còn chỉ ra dấu hiệu khác biệt của pháp luật với các hiện tượng ý chí của giai cấp thống trị ở chỗ ý chí pháp luật phải thể hiện và tồn tại dưới hình thức xác định là “đề lên thành luật”.
Như vậy việc định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thể hiện mạnh mẽ ý chí của nhân dân lao động, bảo vệ lợi ích của mọi thành viên trong xã hội và “bắt nguồn trong các quan hệ vật chất” của chế độ xã hội chủ nghĩa. Suy cho cùng, pháp luật do cơ sở kinh tế quyết định. Luận điểm của Mác- Ăng ghen bác bỏ những luận thuyết cho rằng luật đứng trên kinh tế, hoặc pháp luật là sự bày tỏ ý tưởng tự do của nhà làm luật. Sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của các kiểu pháp luật như là một quá trình tất yếu khách của sự thay đổi các phương thức sản xuất. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thay thế các kiểu pháp luật trước đó là phù hợp với quy luật phát triển. Nó thể hiện ý chí công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác còn tồn tại trong xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với quan hệ kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước.
Pháp luật hình thành từ các nhu cầu kinh tế - xã hội khách quan, nhưng bản thân các nhu cầu đó lai thông qua tư duy chủ quan từ hoạt động sáng tạo pháp luật của cơ quan lập pháp. Như vậy, pháp luật không đơn thuần phản ánh hiện thực khách quan mà còn thể hiện mong muốn tích cực của Đảng, Nhà nước nhằm tác động vào trật tự của các quan hệ xã hội về xuất bản. Một mặt sẽ phản ánh về pháp lý các quan hệ xuất bản để củng cố quan hệ sở hữu, phân phối, trao đổi xuất bản phẩm, chống lại hành vi lộng quyền của những con người tham gia các quan hệ đó. Mặt khác, nó còn thể hiện mong muốn chủ quan nhằm hoàn thiện và phát triển quan hệ xuất bản. Nhưng chính mong muốn chủ quan đó lại chứa đựng khả năng dẫn tới yếu tố duy ý chí, cần đề phòng. Song dù sao thì “khoảng trống “chủ quan thể hiện trong pháp luật xuất bản cũng đòi hỏi phải phản ánh đầy đủ nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội. Tức phải xác định định những quan hệ xã hội về xuất bản cần điều chỉnh về pháp luật không những chỉ thực hiện ý chí của giai cấp công nhân mà còn phải đăng tải trong nó các nhu cầu nội tại cuả con người, của các tầng lớp xã hội khác nhau. Nếu xác định đúng đắn, chính xác thì pháp luât sẽ là phương tiện điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội về xuất bản.Như vậy, chỉ trong quan hệ xã hội, thuộc tính điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật xuất bản mới thực sự trở thành phương tiện hữu hiệu của giai cấp và của nhà nước.
Là phương tiện quản lý của Nhà nước, pháp luật xuất bản phải chứa đựng giá trị xã hội. Giá trị của pháp luật xuất bản đối với xã hôi trước hết của quá trình “chọn lọc tự nhiên” trong xã hội, để có được những chuẩn mực mang các đặc tính ổn định. Do đó, tính chuẩn mực là đặc điểm chính phản ánh chẩn lý khách quan. Vì thế các quy phạm pháp luật xuất bản vừa là thước đo để kiểm nghiệm các quá trình xuất bản, vừa là phương tiện chứa đựng các giá trị xã hội đưa lại cho con người những thông tin nhất định về các yêu cầu, các giá trị mà xã hội có, xã hôi cần và xã hôi ủng hộ. ích lợi của pháp luật xuất bản ở chỗ nó là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội về xuất bản, không sáng tạo ra các quan hệ đó, nhưng bảo đảm cho các quan hệ xã hội về xuất bản phát triển đúng quy luật, phù hợp với xu thế ohát triển. Vì vậy, việc ban hành được các quy phạm pháp luật xuất bản đúng đắn, kịp thời sẽ có được “cỗ máy điều chỉnh” các hành vi ứng xử hợp quy luật.
Pháp luật với những thuộc tính cơ bản là tính quy phạm đã được điển hình hoá, chuẩn mực hoá, là chân lý được nhận thức sau khi đã vượt lên và gạt bỏ tất cả những yếu tố ngẫu nhiên, giả tạo, nhất thời. Với ý nghĩa đó pháp luật là một đại lượng bằng nhau đối với những người khác nhau. Nó là thước đo chung là mẫu số chung đối với mọi người, là la bàn định hướng cho các hành vi xử sự hợp quy luật. Giá trị xã hội của pháp luật xuất bản còn bắt nguồn từ thuộc tính điều chỉnh các quan hệ xã hội về xuất bản. Nào là phương tiện để loại bỏ các yếu tố bạo lực không có tổ chức từ phía người khác, từ phía nhà nước. Vì vậy, nó là phương tiện tự do của con người, pháp luật còn là phương tiện ổn định hoá, chính thức hoá, chính thức hoá các giá trị xã hội.
II. Phương hưỚng và giẢi pháp đỔi mỚi hoàn thiỆn pháp luẬt trong quẢn lý nhà nưỚc về xuẤt bẢn
1. Phương hướng đổi mới, và hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước về xuất bản
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật xuất bản, đồng thời tổ chức tốt việc thi hành, kiểm tra xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm, đấu tranh kiên quyết kịp thời để loại trừ tội phạm xuất bản là phương hướng chung nhằm đổi mới và hoàn thiện pháp luật xuất bản trong quản lý nhà nước về xuất bản, lâu dài vừa là cấp bách. Đúng như văn kiện đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã chỉ ra: “tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”. Hiến pháp 1992 cũng đã ghi tại điều 12: “nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế, xã hội chủ nghĩa”. Sau đây là những phương hướng cụ thể :
Thứ nhất: hoàn thiện hệ thống pháp luật về xuất bản nhằm tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động xuất bản theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền.
Một là: Mở rộng quyền xuất bản đồng thời đề cao trách nhiệm xuất bản.
Về quyền xuất bản của các tác giả có tác phẩm:
Theo luật xuất bản ngày 7/7/1993. Thì các tác giả có quyền phổ biến tác phẩm của mình dưới hình thức xuất bản phẩm thông qua nhà xuất bản. Điều đó có nghĩa tác giả không được phép đứng ra xuất bản tác phẩm của mình.
Dưới ánh sáng của quan điểm đổi mới, Nhà nước nên có chế độ riêng đối với các trường hợp tác giả muốn tự xuất bản tác phẩm của mình. Thực hiện vấn đề này xuất phát từ những yêu cầu sau:
- Khuyến khích những công dân bằng lao động của mình đã sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học. Đảm bảo các quyền lợi vật chất và tinh thần của tác giả phát sinh từ việc công bố và phổ biến các tác phẩm của mình dưới hình thức xuất bản phẩm.
Hiện nay lao động sáng tạo của các văn nghệ sĩ, chi thức chưa được bù đắp thoả đáng. Nhuận bút là quyền lợi vật chất của tác giả trong nhiều trường hợp là quá ít ỏi so với lợi nhuận có được từ việc xuất bản. Những mối lợi trong khả năng đối với nhiều tác phẩm, được những người làm sách tư nhân bỏ vốn in, phát hành để hốt bạc, trong khi người sáng tạo ra chỉ được trả nhuận bút 10% giá bán..
Quá trình nghiên cứu, xây dựng dự án luật xuất bản đã có nhiều ý kiến về sự cần thiết để tác giả tự xuất bản tác phẩm của mình, nếu tác giả có nhu cầu. Tại văn bản bảo lưu mộ số vấn đề về dự án luật xuất bản trước khi kết thúc nhiệm kỳ Quốc hội khoá VIII, Uỷ ban văn hoá - Giáo dục của Quốc hội cũng đã đề nghị ghi vào luật: “Việc xuất bản tác phẩm của cá nhân hoặc cá nhân đứng ra xuất bản tác phẩm của người khác không qua tổ chức xuất bản chuyên nghiệp, cũng coi như hoạt động của một nhà xuất bản và phải tuân theo các quy định của luật này”.
Tuy nhiên, để thực hiện cần có biện pháp ngăn chặn việc lợi dụng pháp luật để trao lại quyền xuất bản cho người khác, cũng như các cá nhân lợi dụng tác giả để nhận quyền xuất bản kiếm lời. Chỉ những tác giả thực sự muốn tự xuất bản lấy tác phẩm của mình thì các cơ quan quản lý nhà nưóc có thẩm quyền mới xem xét cấp giấy phép xuất bản. Khi phát hiện tác giả trao quyền xuất bản cho người khác, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy phép xuất bản và sử phạt tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm. Đề xuất này chỉ thực hiện với điều kiện giữ vững ổn định chính trị; các cơ quan quản lý nhà nước phải chứng tỏ năng lực và hiệu lực quản lý của mình.
Hai là: đa dạng hoá loại hình, quy mô tổ chức xuất bản; chống độc quyền trong hoạt động xuất bản.
Về việc lập ngừng hoạt động và đóng của nhà xuất bản:
Việc lập nhà xuất bản, ngừng hoạt động, và đóng cửa nhà xuất bản phải được quan niệm đầy đủ dưới ánh sáng của các cơ quan điểm đổi mới và nhằm tạo ra cơ hội tăng trưởng nhanh, hình thành một số tập đoàn xuất bản mạnh, có vị trí trong khu vực và quốc tế.
Với tinh thần đó, việc ra đời một chủ thể xuất bản mới việc ngừng hoạt động và đóng cửa chủ thể xuất bản là những hiện tượng xã hội bình thường. Điều đó diễn ra không tuỳ thuộc vào ý chí muốn của các cá nhân ở các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền. Lý do đầu tiên và cơ bản là các điều kiện và tiêu chuẩn được hình thành từ các quy phạm pháp luật về xuất bản. Nếu một cơ qua Nhà nước, tổ chức chính trính trị - xã hội có đủ điều kiện, thì không thể từ chối cấp giấy phép thành lập về xuất bản. Cũng như một nhà xuất bản đang hoạt động mà thiếu điều kiện, thì phải tạm ngừng hoạt động. Nếu vi phạm pháp luật, thì tuỳ theo tính chất và mức độ có thể phải đa dạng hoá các loại hình, quy mô tổ chức xuất bản. Pháp luật về xuất bản phải được bổ sung hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý để hình thành các loại hình, quy mô tổ chức xuất bản theo hướng sau:
- Lập các nhà xuất bản chuyên sản xuất các trương trình băng âm nhạc, thanh đĩa âm thanh, băng đĩa hình; nhà xuất bản chuyên sản xuất các loại điện tử thuộc loại hình xuất bản phẩm ghi tại điều 4 Luật xuất bản.
- Về hình thức của tổ chức nhà xuất bản có thể là công ty đối với hoạt động xuất bản băng đĩa âm thanh, băng và đĩa hình, sách điện tử. Cũng có thể là nhà xuất bản có nhiều thành viên trực thuộc gồm xuất bản và các tạp chí chuyên ngành in, dịch vụ về vật tư, kỹ thuật bản in, phát hành.
- Bổ sung nhiệm vụ xuất nhập khẩu xuất bản phẩm cho một số công ty kinh doanh phát hành xuất bản phẩm. Cho phép tư nhân hoạt động xuất khẩu xuất bản phẩm, nhằm tạo đối tác, mở rộng hoạt động xuất nhập khẩu đáp ứng công tác tuy truyền đối ngoại, giao lưu văn hoá với các nước, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Tạo điều kiện pháp lý cho các nhà xuất bản nước ngoài đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam, các nhà xuất bản tại Việt Nam đặt văn phòng đại diện tại nước ngoài, nhằm đầy mạnh quá trình đổi mới công nghệ, thiết bị, đón đầu các công nghệ cao, nâng cao chất lượng ấn phẩm.
Về vịêc chống độc quyền trong xuất bản.
Trong kinh tế thị trường cạnh tranh là thuộc tính vốn có nó đảm bảo đẩy nhanh các quá trình phát triển. Hoạt động xuất bản sẽ đơn điệu và trì trệ khi thiếu các đối trọng lành mạnh. Vì vậy, pháp luật xuất bản phải tại ra cơ sở pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các chủ thể cạnh tranh phát triển. ở môi trường đó, các chủ thể xuất bản hoà mình trong không khí dân chủ, tụ do, hoạt động kinh doanh. Nó kích thích năng lực chủ động, sáng tạo trong việc khai thác các tiềm năng, rút ngắn thời gian xuất bản, nâng cáo chất lượng và hạ giá thành xuất bản phẩm. Đồng thời nó bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng xuất bản phẩm. Vấn đề này đặt ra phù hợp với tư tưởng chỉ đạo của Đảng ghi tại văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII: “nghiên cứu ban hành luật bảo đảm cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, chống cạnh tranh không lành mạnh và chống hạn chế thương mại”.
Hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện được phân công theo hướng vừa có loại hình các nhà xuất bản chuyên ngành, vừa có loại hình các nhà xuất bản đề tổng hợp. Như vậy, bản thân các nhà xuất bản tổng hợp đã có những mảng đề tài và nội dung tạo ra sự cạnh tranh. Đối với các nhà xuất bản thuộc loại hình chuyên ngành cũng có các mảng đề tài, nội dung đan xen lẫn nhau. Nó cũng tạo ra cơ hội cho sự cạnh tranh. Từ đó vấ đề đặt ra, pháp luật xuất bản phải được bổ sung, hoàn thiện nhằm tạo lập cơ chế vừa đảm bảo chuyên môn hoá, vừa thúc đẩy cạnh tranh giữa các nhà xuất bản. Đồng thời, pháp luật cũng phải tạo ra cơ chế để thực hiện vai trò cân đối và điều phối xuất bản của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền, nhằm đảm bảo sự lành mạnh có trật tự. Sau đây là một số hướng chính cần mở ra sự cạnh tranh:
- Cho phép cùng xuất bản tại thời điểm nhất định, khi có nhu cầu xuất bản đối với tác phẩm cũng như tác giả khác nhau, có đề tài, nội dung tương đồng, gần gũi nhau; những bản dịch cùng một nguyên bản của các dịch giả khác nhau.
- Cho phép xuất bản những đề tài, nội dung gần gũi với chức năng, nhiệm vụ của nhà xuất bản có nhu cầu xuất bản.
- Thiết lập cơ chế mới, phù hợp về hoạt động xuất bản, in và phát hành sách giáo khoa theo hướng có đối trọng, nhằm nâng cao chất lượng phục vụ.
Ba là: tham gia công ước quốc tế về quyền lực tác giả là bảo vệ quyền lợi của các tác giả Việt Nam, hoà nhập bình đẳng trong cộng đồng quốc tế về xuất bản.
Ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới giao lưu và hòa nhập. Mỗi nền văn hoá đều mang trong mình thuộc tính giữ gìn bản sắc dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đảng và Nhà nước ta chủ trương đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ quốc tế.
Bốn là: hoàn thiện pháp luật xuất bản theo hướng cụ thể hoá và lượng hoá các quy định.
Việc lượng hoá và cụ thể hoá các ý chí của Nhà nước trong quản lý hoạt động văn hoá nói chung, xuất bản nói riêng là việc không đơn giản, mặc dù công việc khó khăn và phức tạp những vẫn phải hướng tới yêu cầu này trong quá trình hoàn thiện pháp luật. Chỉ có thể pháp luật mới được hiểu và thi hành đúng không bị lợi dụng, pháp luật mới có sức sống điều chỉnh.
Thứ hai: Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và cơ chế quản lý tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với xuất bản.
Một là: xác lập địa vị pháp lý hệ thống quản lý Nhà nước về xuất bản phù hợp với yêu cầu quản lý theo quy định của pháp luật xuất bản.
Hệ thống quản lý về xuất bản hiện phù hợp với hệ thống quản lý Nhà nước nói chung. ở trung ương, chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, đồng thời là cơ quan hành động xuất bản. Bộ văn hoá - thông tin còn thực hiện việc quản lý Nhà nước nhiều lĩnh vực khác nhau về văn hoá, thông tin. Vì vậy, mọi hoạt động tác nghệp về xuất bản đều giao cho Cục xuất bản, cũng như việc quản lý, xử lý ở tầm vĩ mô Bộ văn hoá - thông tin đều dựa vào Cục xuất bản. Thẩm quyền được giao thì lớn, nhưng địa vị pháp lý chưa tương xứng. Do đó thẩm quyền chưa được thực hiện thi đầy đủ, hiệu lực quản lý thấp. Đây là nguyên nhân chủ quan cơ bản dẫn đến sự trì trệ, hữu khuynh và yếu kém trong hoạt động quản lý Nhà nước về xuất bản. Từ đó phải đặt vấn đề cho việc hình thành một chủ thể quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xuất bản tương xứng với yêu cầu quản lý do pháp luật xuất bản đặt ra. Pháp luật về xuất bản cần được đổi mới, hoàn thiện về địa vị pháp lý của cơ quan tham mưu, có thẩm quyền điều hành tác nghệp, tương xứng thuộc Bộ văn hoá - thông tin, theo hướng hình thành Tổng cục xuất bản. Với địa vị pháp lý đó trong hệ thống quản lý Nhà nước về văn hoá, thẩm quyền quản lý Nhà nước về xuất bản sẽ được đề cao và có hiệu lực trong thực tế, bởi sự đầu tư có chất lượng về đội ngũ quản lý, cơ sở vật chất và phương tiện quản lý.
Hai là: hoàn thiện pháp luật về xác định quyền hạn và cơ chế kiểm soát, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động quản lý xuất bản.
- Cơ quan lập pháp là tổ chức duy nhất có thẩm quyền giám sát việc thi hành pháp luật, vì vậy cần có cơ chế giám sát thường xuyên, định kỳ và đột xuất việc chấp hành pháp luật xuất bản của các chủ thể quản lý và các chủ thể hoạt động xuất bản. Hoạt động này nhằm đảm bảo hiệu lực thực tế của pháp luật xuất bản, phát hiện kịp thời những sơ hở của pháp luật, những vi phạm luật để xử lý phù hợp.
- Thiết lập cơ chế kiểm soát lẫn nhau và phối hợp có hiệu quả giữa những cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong quản lý Nhà nước về xuất bản, chống các hoạt động lộng quyền dễ xảy ra ở cơ quan hành pháp và tư pháp.
- Tập chung hoạt động quản lý Nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ do pháp luật quy định, không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức xuất bản, in và phát hành.
Thứ ba: tăng cường pháp chế chủ nghĩa trong hoạt đông xuất bản – tổ chức thực hiện pháp luật xuất bản, đấu tranh phòng chống tội phạm xuất bản.
Một là: tổ chức thực hiện pháp luật xuất bản.
Tổ chức thực hiện pháp luật là công việc giữ vị trí quan trọng trong quá trình củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, sau khi luật được ban hành. Việc soạn thảo và thông qua pháp luật về xuất bản là bước quan trọng hàng đầu. Nó có ý nghĩa trong viêc tạo ra hình thức pháp lý, làm tiêu đề cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội về xuất bản. Nhưng bản thân nó không mang hiệu lực điều chỉnh, khi thiếu hoạt tổ chức đua vào cụôc sống, biến chúng thành hoạt động thực tiễn. Vì vậy, tổ chức thực hiện pháp luật xuất bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tình trạng pháp chế tốt xấu tuỳ thuộc vào việc pháp luật xuất bản có được chấp hành hay không. Việc chấp hành pháp luật thường xuyên, nghiêm chỉnh trong hoạt động xuất bản là một tiêu chí quan trọng nói lên sự phát triển của pháp chế.
Trong quá tình tổ chức thực hiện pháp luật, Quốc hội phải tiến hành thường xuyên quyền giám sát thi hành pháp luật xuất bản của cá cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân.Chính phủ phải có kế hoạch kiểm tra, đôn đốc vệc tổ chức thực hiện pháp luật xuất bản trong phạm vi cả nước.
Để làm tốt việc tổ chức thực hiện pháp luật xuất bản, cần thiết phải tổ chức tốt công tác pháp chế còn giúp cho việc nghiên cứu xây dựng các văn bản pháp quy, kiểm tra việc thi hành pháp luật.
Hai là: đấu tranh kiên quyết, kịp thời với những hành vi vi phạm pháp luật xuất bản và tội phạm xuất bản.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm kỷ cương, duy trì trật tự xã hội. Vì vậy, việc phát hiện và xử lý kiên quyết, kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật xuất bản là vấn đề có tính nguyên tắc. Việt Nam ta đang hòa nhập sâu rộng vào cộng đồng quốc tế trong điều kiện “diễn biến hoà bình”, vì vậy, việc đề cao cảnh giác, phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm xuất bản được đặt ra thườgn xuyên. Khi phát hiện cơ hội phạm xuất bản xử lý nghiên minh, kịp thời. Kiên quyết mọi biểu hiện nể nang, bao che người phạm pháp dưới bất kì hình thức nào. Đã vi phạm pháp luật thì dù nặng hay nhẹ cũng phải xử phạt theo đúng quy định của pháp luật. Đúng như Lênin đã nói “Hoàn toàn không phải ở chỗ hình phạt đó phải nặng, mà ở chỗ là đã phạm tội thì không thoát khỏi bị trừng phạt”.
Trật tự pháp luật xuất bản là sự thể hiện của pháp chế trong những mối quan hệ xã hội cụ thể do pháp luật xuất bản điều chỉnh trong hệ thống các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia các quan hệ xã hội, là kết quả của việc thực hiện nghiêm chỉnh các điều luật về xuất bản. Nó đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, công chức, Nhà nước và công dân nghiêm chỉnh tuân theo các quy luật phạm pháp. Trật tự pháp luật xuất bản được xác lập và củng cố khi pháp chế được tăng cường. Củng cố và tăng cường pháp chế làm cho trật tự pháp luật được duy trì.
2. Các giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý Nhà nước về xuất bản
Trong điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay, đặc biệt là thực trạng của pháp luật và việc thi hành pháp luật, do đó không thể có được giải pháp duy nhất và hữu hiệu để đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý Nhà nước về xuất bản. Vấn đề vốn phức tạp, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp khác nhau và thực hiện đồng bộ các giải pháp mới hy vọng đạt hiệu quả cao. ở đây chỉ đề cập tới những giải pháp cơ bản.
- Quốc hội đưa vào chương trình kế hoạch xem xét, thông qua dự án sửa chữa, bổ sung, điều chỉnh luật xuất bản ngày 7/7/1993, vào năm 1997. Đồng thời có chương trình kế hoạch xem xét, thông qua các dự án luật liên quan đến hợp đồng xuất bản, để đảm bảo nguyên tắc thống nhất của pháp chế.
- Thường xuyên rà soát và hệ thống hoá pháp luật xuất bản. Công tác này được coi là phương thức đặc thù của hoạt động lập pháp, lập quy, phải được tiến hành thường xuyên tại cơ quản quản lý Nhà nước về xuất bản và các cơ quan Nhà nước liên quan từ trung ương tới địa phương. Hình thành đội ngũ chuyên gia pháp luật tại các cơ quan quản lý Nhà nước, để đảm bảo việc thi hành thống nhất pháp luật trong cả nước, kịp thời phát hiện và đề xuất những vấn đề nảy sinh trong quá trình thi hành pháp luật.
- Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công chức Nhà nước quản lý về xuất bản, và những người hoạt động xuất bản có phẩm chất chính trị vững vàng, đồng thời có năng lực và trình độ nghiệp vụ cao phù hợp với yêu cầu quản lý xuất bản bằng pháp luật. Suy đến cùng thì đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, hữu khuynh và buông lỏng quản lý của Nhà nước ta hiện nay. Vì vậy, cần thiết phải đào tạo và đào tạo lại với những nội dung mới, thiết thực đặc biệt là kiến thức về pháp luật, về quản lý hành chính Nhà nước.
- Cải cách hành chính bộ máy quản lý Nhà nước các cấp, đảm bảo các thủ tục hành chính và quy trình hành chính đơn giản, thiết thực, không phiền hà. Đây là vấn đề còn nổi cộm ở quản lý Nhà nước về xuất bản thuộc trung ương.
- Lập Hội xuất bản và Hội dịch thuật để tập hợp những người cùng nghề nghiệp, tham gia giám sát việc thi hành pháp luật xuất bản tại các cơ sở hoạt động xuất bản, in, phát hành. Đồng thời phát huy vai trò kiểm tra, giám sát cả đội ngũ công nhân in trong công đoàn in Việt Nam, về việc thi hành pháp luật tại các cơ sở in, góp phần bảo đảm sự lành mạnh của hoạt động xuất bản, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
KẾt luẬn
Đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý Nhà nước về xuất bản ở Việt Nam hiện nay là đòi hỏi khách quan. Việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý Nhà nước về xuất bản được thực hiện trên cơ sở của hệ thống các quan điểm cơ bản. Đó là các mối quan hệ giữa quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản với tự do sáng tạo, công bố, phổ biến xuất bản phẩm; giữa định hướng xã hội chủ nghĩa với cơ chế thị trường; giữa bình đẳng và tự do trong hoạt động xuất bản ; quan hệ giữa xuất bản với phương tiện văn hoá - thông tin khác; và đó là vấn đề đổi mới tư duy pháp lý trong quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản. Từ hệ thống quan điểm cơ bản đó đề xuất phương hướng và các giải pháp đồng bộ nhằm hoàn thiện pháp luật trong quản lý Nhà nước về xuất bản ở văn hoá hiện nay. Tạo lập môi trường và điều kiện cho hoạt động xuất bản theo định hướng xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước về xuất bản ; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là những phương hướng cơ bản nhằm đổi mới và hoàn thiện pháp luật quản lý Nhà nước về xuất bản trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tài liỆu tham khẢo
1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam.
2) Sắc luật số 003/SLt, về chế độ xuất bản.
3) Luật xuất bản ngày 7/7/1993 - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
4) Giáo trình Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa - Nhà xuất bản tư tưởng và văn hoá.
5) Hiến pháp Việt Nam năm 1992 - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
6) Đại từ điển Kinh tế thị trường - Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức Bách Khoa.
7) Một số tài liệu văn bản pháp luật khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10462.doc