Đổi mới và phát triển các HTX NN theo Luật HTX năm 2003 là một nội dung quan trọng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các HTX NN huyện Nam Trực nói riêng và các HTX NN cả nước nói chung.
Thực tế qua quá trình thực tập tại Phòng NN & PTNT huyện Nam Trực tỉnh Nam Định, em nhận thấy rằng sau khi Luật HTX năm 2003 được ban hành đã có một tác động to lớn đến bộ máy quản lý các HTX NN trong toàn huyện về cơ chế quản lý và tổ chức các hoạt động kinh doanh dịch vụ của các HTX NN huyện. Các HTX NN đã tiến hành đổi mới và phát triển trên mọi mặt của quá trình hoạt động của nó như: về xã viên HTX, về tình hình vốn, sở hữu tài sản, về đội ngũ cán bộ HTX Sự đổi mới trên các mặt đó đã mang lại những hiệu quả thiết thực, bộ máy quản lý được kiện toàn, số lượng xã viên gia tăng, vốn quỹ HTX được bảo toàn và ổn định góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các HTX NN trong huyện.
92 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1663 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đổi mới và phát triển các Hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã năm 2003 ở huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àn giao quản lý điện về cho chi nhánh điện Nam Trực). Sau khi bàn giao trạm biến áp các HTX NN sử dụng vốn hoàn trả và vốn tự có đầu tư nâng cấp lưới điện, hạ thế tăng cường công tác quản lý điện. đến nay có 21 HTX cung ứng trực tiếp điện đến hộ xã viên. Còn 13 HTX có giá điện sinh hoạt trên 700 đồng ( Nam Điền, Đại An, Nam Nghĩa, Nam Hồng, Nam Hoa, Nam Hùng, Nam Minh, Nam Sơn, Đồng Quỹ, Tân Trào, trần Phú, Nam Hải, Nam Lợi), có 9 HTX lỗ dịch vụ điện, nguyên nhân chủ yếu là do đường dây hạ thế xuống cấp, trạm biến áp không đủ công suất, công tác quản lý lỏng lẻo nên tổn thất lớn ( Nam Điền, Nam Xá, Đại An, lạc Hồng, Nam Cường, Nam Minh. Nam Hải, Nam Quan, Nam Ninh).
* Dịch vụ làm đất:
HTX giữ vai trò trong chỉ đạo thời vụ. Hiện nay toàn huyện có 4 HTX còn máy kéo MTZ 50 còn lại các HTX ký hợp đồng với Công ty Cổ phần Cơ khí Nam Trực và tư nhân ở những hình thức khác nhau, đảm bảo phục vụ kịp thời cho xã viên, không có HTX nào lỗ ở dịch vụ này.
* Sản xuất và cung ứng lúa giống:
Có 5 HTX sản xuất lúa giống đáp ứng từ 20-30% lượng giống vụ mùa cho toàn huyện, tuy nhiên các HTX vẫn vòn gặp nhiều khó khăn trong bao tiêu sản phẩm.
Về cung ứng giống, cho đến nay đã có 16/36 HTX NN làm dịch vụ cung ứng giống cho xã viên ở mức độ khác nhau. Trong đó có 13 HTX cung cấp giống thường xuyên, giống HTX cung cấp đảm bảo chất lượng, giá thấp hơn thị trường 500-1000đ/kg tạp giao(giống lúa chiếm ưu thế trong cơ cấu gieo cấy). Bên cạnh đó là sự hoạt động có hiệu quả của các thành phần kinh tế tư nhân cũng tham gia vào thị trường này, tuy nhiên sự hoạt động của các thành phần đó đặt dưới sự giám sát của các cơ quan chuyên môn trong huyện nhằm đảm bảo ổn định thị trường các yếu tố đầu vào giúp người dân yên tâm sản xuất. Các thành phần kinh tế đó như: CTCP giống cây trồng Nam Ninh hàng năm đáp ứng khoảng 35% nhu cầu về giống, CTCP giống cây trồng Hồng Long đáp ứng khoảng 20% giống các loại phục vụ sản xuất…
* Dịch vụ nước sạch:
Nằm trong chương trình dự án quốc gia về cung cấp nước sạch cho hộ ở nông thôn nhằm nâng cao sức khoẻ cho người dân, tuy nhiên cho đến nay trong huyện mới chỉ có 3 HTX tổ chức xây dựng và quản lý khai thác công trình nước sạch ( HTX Nam Ninh, Nam Long, Hồng Thái). Đây là mô hình mới đòi hỏi phải có vị trí thuận lợi về địa hình và kinh phí đầu tư lớn, do vậy quá trình nhân rộng vẫn dưới dạng tiềm năng. Số lượng các HTX làm dịch vụ này tuy ít nhưng chất lượng dịch vụ lại cao, góp phần vào thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.
* Dịch vụ vật tư:
Đây là dịch vụ mang tính chất thoả thuận là chủ yếu, nguyên nhân là do sự xuất hiện của các tổ chức kinh tế tư nhân cũng tham gia vào thị trường này. Có 16/36 HTX hoạt động cung ứng giống vật tư và phân bón phục vụ sản xuất, hàng năm đáp ứng khoảng 35% nhu cầu của hộ xã viên. Để thị trường này hoạt động có hiệu quả thì Ban quản trị các HTX có trách nhiệm ký kết với Công ty cung ứng, đảm bảo về số lượng, chất lượng, giá cả thoả thuận có bảo hành sau khi thu hoạch, thanh toán. Trên mỗi địa bàn HTX NN đều có các cơ sở cung cấp trực tiếp cho nhu cầu sản xuất của hộ nông dân, đặc biệt HTX NN Nam Thượng và HTX NN Nam Giang mỗi xã có 4 cở sở phục vụ và bán cho dân với hiệu quả cao. Trong 3 năm (2003-2005), doanh thu của toàn huyện về dịch vụ này lên tới 4.031.369.000 triệu đồng, và thu được mức lãi là 58.467.000 triệu đồng.
Kết quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của các HTX NN huyện Nam Trực được thể hiện qua bảng biểu sau:
Biểu 7: Số HTX kinh doanh dịch vụ có lãi (lỗ) ở huyện Nam Trực năm 2006
Chỉ tiêu
Tổng số HTX điều tra
Trong đó
Số HTX kinh doanh có lãi
Số HTX kinh doanh bị lỗ
SL (HTX)
(%)
SL (HTX)
(%)
SL (HTX)
(%)
1.DV khuyến nông
36
100
35
97,2
1
2,8
2.DV BVTV
36
100
35
97,2
1
2,8
3.DV tưới tiêu
36
100
29
80,6
7
19,4
4.DV thú y
11
100
8
72,7
3
27,3
5.DV điện
36
100
25
75
9
0,25
6.DV làm đất
36
100
36
100
-
-
7.SX lúa giống
5
100
5
100
-
-
8.DV nước sạch
3
100
3
100
-
-
9.DV vật tư
16
100
16
100
-
-
(Nguồn: Phòng NN &PTNT huyện Nam Trực )
Qua bảng trên ta thấy, các HTX tham gia hoat động dịch vụ nhìn chung đều có lãi, tuy trong một số dịch vụ vẫn còn HTX lỗ như dịch vụ điện có tới 9 HTX bị lỗ chiếm 25% trong tổng số, dịch vụ tưới tiêu có 7 HTX bị lỗ chiếm 19,4%, nguyên nhân là do cơ chế quản lý về giá và chất lượng dịch vụ gây ra thiệt hại cho các HTX. Các dịch vụ khuyến nông, bảo vệ thực vật, làm đất đều mang lại lãi cao cho các HTX, cao nhất là dịch vụ làm đất, 100% HTX có lãi, đối với các loại dịch vụ mới sau khi chuyển đổi HTX đều làm ăn có lãi do được hưởng cơ chế của nhà nước Dịch vụ thú y tuy mới có 8 HTX hoạt động nhưng số HTX làm ăn lỗ chiếm 27,3%, nguyên nhân do xuất hiện dịch bệnh nên mặc dù các HTX trong huyện đã có kế hoạch đề phòng nhưng vẫn xảy ra tình trạng lỗ ở một số HTX.
Về hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của các HTX NN huyện Nam Trực được thể hiện thông qua các chỉ tiêu về mức doanh thu, chi phí, lãi(lỗ) của các HTX , điều đó được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Biểu 8: Doanh thu, chi phí, lãi (lỗ) bình quân sản xuất kinh doanh dịch vụ
của một HTX NN ở huyện Nam Trực tỉnh Nam Định`
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2003
Năm 2006
SL
(Triệu đ)
SL
(Triệu đ)
% so với năm 2000
SL
(Triệu đ)
% so với năm 2003
1.DT BQ/1HTXNN
265,291
387,429
46,1
634,914
63,9
2.Chi phí BQ/1HTXNN
253,080
369,324
45,9
605,203
63,86
3. Lãi (lỗ): (1-2)
12,211
18,168
48,4
27,111
49,3
( Nguồn: Phòng NN & PTNT huyện Nam Trực)
Từ Biểu trên ta thấy so với trước khi thực hiện đổi mới và phát triển các HTX NN theo luật HTX năm 2003 thì tổng doanh thu hoạt động kinh doanh của các HTX trong tỉnh có mức tăng với tỷ lệ cao: doanh thu bình quân 1 HTX NN năm 2003 tăng 122.201 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng thêm là 46,1% so với năm 2000, năm 2006 sau một thời gian thực hiện đổi mới và phát triển các HTX NN theo luật 2003 thì mức tăng này đạt 247,422 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng thêm là 63,9% so với năm 2003. Mặc dù chi phí của các HTX trong tỉnh cũng tăng liên tục nhưng tốc độ tăng chậm hơn so với tốc độ tăng của docnh thu nên các HTX đã thu được mức lãi đáng kể. Mức lãi bình quân 1 HTX NN trước khi thực hiện theo luật 2003 tăng từ 12,211 triệu đồng năm 2000 lên 18,168 triệu đồng năm 2003, và 27,111 triệu đồng năm 2006 tương ứng với mức độ tăng là 49,3% so với năm 2003. Nguyên nhân là do doanh thu từ dịch vụ điện và dịch vụ cung ứng vật tư của các HTX đối với hộ xã viên, tương ứng lần lượt là 51.670.984.000 đồng và 4.031.396.000 đồng trong 3 năm (2004 –2006),Chứng tỏ các HTX NN trong huyện hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng có lãi và quy mô doanh thu ngày càng tăng, đó là kết quả của việc thực hiện đổi mới và phát triển các HTX theo luật HTX năm 2003.
3.6 Về tình hình phân phối, trả công, lập quỹ HTX sau khi thực hiện đổi mới và phát triển các HTX NN huyện Nam Trực theo Luật HTX năm 2003
Khác với HTX NN kiểu cũ, HTX NN kiểu mới có trình tự và nguyên tắc phân phối hợp lý và phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường. Các HTX NN chỉ tiến hành phân phối lãi chứ không phân phối tổng thu nhập như HTX NN trước đây. Lãi còn lại sau khi nộp thuế nhà nước, bù đắp chi phí sản xuất, trả công lao động thì được phân bổ như sau: bù lỗ năm trước, trích lập các quỹ, chia theo mức độ sử sụng dịch vụ của hộ xã viên, và chia theo vốn góp cổ phần khi tham gia vào HTX, các quỹ bao gồm quỹ phát triển sản xuất, quỹ dự phòng. Với việc phân bổ nguồn tổng thu nhập theo cơ chế HTX kiểu mới đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất của các HTX, bảo toàn được nguồn vốn tái sản xuất mở rộng kinh doanh. Bên cạnh đó, bảo đảm hài hoà lợi ích giữa HTX và xã viên HTX.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI VÀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC HTX NN HUYỆN NAM TRỰC
1. Những kết quả đạt được
1.1 Tác động của việc đổi mới và phát triển HTX NN theo Luật đến sự phát triển kinh tế xã hội của huyện Nam Trực.
Sự đổi mới của các HTX trong huyện theo luật HTX đã mang lại những kết quả to lớn, tác động tới sự phát triển kinh tế xã hội của huyện. Công tác kiện toàn bộ máy quản lý theo luật HTX đã phat huy được hiệu quả, thể hiện trong công tác điều hành các dịch vụ kinh doanh của HTX. Kinh tế hộ, trang trại nhờ đó mà có những bước phát triển vượt bậc,và hoạt động luôn luôn có lãi trên cơ sở sự giúp đỡ của các HTX kinh doanh dịch vụ, góp phần nâng cao gía trị sản xuất nông nghiệp và tỷ suất sản xuất hàng hoá cao đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường. Trong huyện đã xuât hiện thêm nhiều loại hình HTX mới hoạt đông kinh doanh ngoài nông nghiệp, như HTX với những ngành nghê truyền thống dệt, may, cơ khí, chế tạo phụ tùng máy móc...Giải quyết một phần lượng lao động dư thừa trong nông thôn, thông qua phát triển mới các ngành nghề có nhu cầu lao động tại chỗ cao. Mức sống của người dân được cải thiên về vật chất lẫn tinh thần. Sự chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành theo hướng phù hợp với sự phát triển, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp nhưng giá trị sản lượng trong ngành nông nghiệp vẫn tăng mạnh.
Sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp diễn ra mạnh, thể hiện ở bảng dưới đây.
Biểu 9: Giá trị cơ cấu giá trị SX NN huyện Nam Trực.
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
SL
(Trđ)
%
SL
(Trđ)
%
SL
(Trđ)
%
SL
(Trđ)
%
Trong đó:
Trồng trọt
264.041
74,2
277.134
73,8
291.200
73,2
299.400
70,01
Chăn nuôi
88.133
24,8
94.396
25,2
102.200
25,7
122.700
28,7
Dịch vụ nông nghiệp
3.620
1
3640
1
4.320
1,1
4.950
1,2
(Nguồn: Phòng NN &PTNT huyện Nam Trực )
Từ bảng trên ta thấy giá trị và cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp có sự thay đổi liên tục qua 4 năm. Trong đó, giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi từ năm 2003 đến 2005 mức độ tăng còn chậm dưới 0,1% qua các năm, nhưng từ năm 2005-2006 đã có sự tăng đột biến, mức tăng gấp khoảng 3 lần so với các năm trước là 3%. Nguyên nhân là do sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành nông nghiêp đã có hiệu quả cao, chuyển sang chăn nuôi những loại cây, con có giá trị kinh tế cao, mặc dù tình hình dịch bệnh xuất hiện nhưng các HTX đã tổ chức tốt công tác tiêm phòng theo định kỳ nên đã ngăn chặn được nguy hại. Tốc độ tăng của ngành dịch vụ nông nghiệp so với cơ cấu giá trị ngành cũng chưa có biểu hiện rõ rệt với mức tăng ít và chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu giá trị ngành nông nghiệp. Tỷ trọng giá trị của ngành trồng trọt mặc dù có giảm giữa các năm song vẫn chiếm một tỷ lệ cao trong tổng giá trị ngành,chỉ giảm 4% từ năm 2003(74,2%) xuống còn 70,01% năm 2005, nhưng giá trị sản xuất của ngành trồng trọt liên tục tăng qua các năm. Điều đó thể hiện sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp phù hợp với yêu cầu của quy luật phát triển, và là kết quả tất yếu của việc không ngừng áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới vào trong sản xuât nông nghiệp của huyện
Biểu 10: Diện tích và năng suất một số cây trồng chính của huyện
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
DT (ha)
NS (tạ/ha)
DT (ha)
NS (ta/ha)
DT (ha)
NS (tạ/ha)
Lúa
17522
116,3
17245
123,12
16954
125,8
ngô
329
42,5
465
43
411
43.5
Khoai Tây
205
142,5
100,4
143
992
139,5
Lạc
1253
34,2
132,6
34,8
1330
35
Đậu tương
878
16
883
18,9
890
19
(Nguồn: Phòng NN &PTNT huyện Nam Trực)
Nhìn vào bảng trên ta thấy diện tích và năng suất của các cây trồng chính tăng liên tục qua các năm, đặc biệt là cây đậu tương năng suất tăng từ 16ta/ha (2003) đã lên 19ta/ha (2005), tăng 1,19 lần, trong khi đó năng suất của cây khoai tây đã có sự giảm, năm 2005 giảm 0,89 lần so với năm 2003. Còn năng suất của các cây ngô, lạc, lúa mức tăng đều qua các năm . Như vậy nền sản xuât nông nghiệp trong huyện đã giữ được mức tăng trưởng ổn định và có hiệu quả, và xu hướng phát triển chính của ngành đã có sự gắn kêt với thị trường tiêu thụ giảm những cây trồng chứa nhiều tinh bột, tăng diện tích những cây trồng có năng suât chất lượng cao, phù hợp với thị trường .
1.2 Tác động đổi mới HTX NN đối với sự phát triển của HTX
* Về đánh giá phân loại HTX
Về căn cứ hướng dẫn số 10/2006/TT-BKH ngày 19/11/2005 của bộ KHĐT, kết quả sản xuất kinh doanh của các HTX, sở NN & PTNT đã cụ thể hoá các chỉ tiêu đánh giá và phân loại HTX
+ Nhóm một là các HTX loại khá: các HTX này thể hiện rõ vai trò chỉ đạo sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, làm tốt các dịch vụ thiết yếu, cung ứng 70% giống, 30% phân bón, thuốc trừ sâu, kinh doanh có lãi, không có nợ đọng, có ý thức tham gia xây dựng HTX, loại khá gồm 8 HTX.
+ Nhóm hai là những HTX trung bình gồm 16 HTX: nhóm HTX này làm được các dịch vụ thiết yếu, vốn quỹ được bảo toàn, có mức tăng trưởng, các dịch vụ thoả thuận không là đựơc hoặc tỷ lệ cung ứng thấp.
+ Nhóm ba là các HTX yếu có 12 HTX là những HTX không làm được dịch vụ thoả thuận hoặc hiệu quả thấp không có vốn lưu động hoạt động.
* Cơ chế quản lý: tất cả các HTX trong huyện đã chuyển sang mô hình HTX hoạt động theo cơ chế thị trường, quản lý dân chủ bình đẳng, tôn trọng quyền của các xã viên, phát triển với mục tiêu hỗ trợ có hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh tế là thành viên của HTX. Các mô hình HTX hoạt động theo luật HTX năm 2003 đã khẳng định được vị trí của kinh tế hộ xã viên, họ là những đơn vị kinh tế tự chủ, tự đề ra phương hướng hoạt động sản xuất kinh doanh, tự hoạch toán thu chi trên cơ sở sự hỗ trợ có hiệu quả của các HTX.
* Bộ máy quản lý: bộ máy quản lý đã được kiện toàn theo hướng tinh giảm, gọn nhẹ, cơ chế hoạt động mềm dẻo, linh hoạt, đã phân định rõ chức năng nhiệm vụ của từng thành viên trong bộ máy quản lý. Trình độ của người cán bộ được nâng lên rõ rệt thông qua các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý của HTX, đáp ứng được nhu cầu phát triển của kinh tế nông thôn.
* Hình thức sở hữu trong HTX: đã xác định được hình thức phù hợp có sự tham gia quản lý giám sát của hộ xã viên và HTX, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh. Không còn tình trạng sử dụng vốn lãng phí, tình trạng thất thoát vốn xay ra ít, đảm bảo vốn hoạt động sản xuất kinh doanh.
2. Những tồn tại yếu kém
2.1 Chỉ đạo sản xuất
Việc quy hoạch vùng sản xuất chưa đồng bộ, chuyển dịch cơ cấu cây trồng còn chậm, nhiều nơi mang tính tự phát, một số diện tích chuyển đổi chưa phát huy tác dụng, chưa phát huy được lợi thế vùng màu để sản xuất cây có giá trị hàng hoá cao, sản xuất hạt lúa lai F1 không mở rộng được, việc chỉ đạo đưa diện tích cây vụ đông xuống chân 2 lúa còn chậm, công tác tiêm phòng đạt tỷ lệ thấp, chuyển giao khoa học kỹ thuật tới hộ xã viên còn đơn điệu, ngành nghề kém phát triển
2.2 Trong hoạt động dịch vụ, vốn quỹ HTX
* Vai trò của hoạt động dịch vụ HTX đối với hộ xã viên:
Hầu hết các HTX mới làm được những dịch vụ mang tính cộng đồng, ngay ở những dịch vụ này vai trò HTX còn hạn chế: ở một số HTX không quy hoạch được vùng sản xuât, chuyển giao kỹ thuật tới các hộ xã viên còn đơn điệu, dự thính, dự báo sâu bệnh chưa bám sát đồng ruộng, thuỷ nông HTX để đọi hoặc tư nhân làm, dịch vụ điện còn để khoán thầu, giá điện tới hộ xã viên cao, chất lượng điện không đảm bảo. Đối với những dịch vụ mang tính thương mại còn trên 50% HTX không làm được, ở những HTX làm dịch vụ thì tỷ lệ cung ứng vật tư chỉ đạt trên 30% chủ yếu là do tư nhân làm, vai trò hỗ trợ phát triển ngành nghề, tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế.
Chưa thực hiện được việc giao khoán giữa HTX với các đội tổ cung cấp dịch vụ, vấn đề giá cả các loại dịch vụ còn tuỳ tiện thiếu căn cứ khoa học và thực tiễn
Một số HTX chưa coi hoạt động dịch vụ là một loại hoạt động hỗ trợ cho hộ xã viên, mà còn mang nặng tính kinh doanh, nhất là những loại dịch vụ mang tính chất thương mại, độc quyền dễ kiếm lời như dịch vụ giống, điện, thuỷ nông…
Vấn đề thù lao cho cán bộ HTX NN nói, tổ chung và cán bộ trực tiếp quản lý các đội tổ dịch vụ cũng như lao động ở các đội, tổ dịch vụ chưa có căn cứ tin cậy. Mức thù lao nhìn chung chưa thoả đáng 90 –100 nghìn đồng/tháng/người.
Với mục tiêu hỗ trợ kinh tế hộ gia đình phát triển, không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, song trên thực tế hầu hết các HTX NN đều muốn hoạt động có lãi,vì vậy dễ làm cho các HTX đi chệch mục tiêu kiểu mới. Khi hoạt động kinh doanh dịch vụ có lãi, vấn đề phân phối lãi cũng rất khác nhau, mặc dù phân phối lãi là do xã viên quyết định, nhưng nếu không có những quy định chặt chẽ hơn thì rất dễ dẫn đến việc vi phạm những nguyên tắc tài chính, cũng như làm tăng nguy cơ tham ô trong HTX.
* Hiệu quả kinh tế đối với tập thể
Do không làm được các dịch vụ thoả thuận, nên lãi dịch vụ chỉ là tiết kiệm chi phí, lợi nhuận trên doanh thu thấp đạt 0,7%, trích khấu hao từ tài sản phục vụ dịch vụ mới đạt gần 1% giá trị tài sản.
Tình trạng nợ đọng sản phẩm ở một số HTX vẫn còn chiều hướng gia tăng. Tất cả những yếu tố trên làm vốn quỹ HTX hầu như không tăng trưởng, HTX không có vốn làm dịch vụ nên vai trò đối với hộ xã viên trở nên mờ nhạt.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh dịch vụ còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng của huyện.
Việc chuyển đổi HTX theo Luật HTX còn nhiều tồn tại
* Xã viên: hai yếu tố cơ bản để xác định tư cách xã viên( tính tự nguyện và góp vốn) đã có nhưng khi thực hiện còn nhiều HTX vẫn còn lúng túng do vậy xã viên ít quan tâm đến kết quả hoạt động của HTX nhưng lại đòi hỏi quyền lợi.
* Sở hữu tài sản vốn quỹ: tư liệu quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp là đất đai hiện nay đã giao ổn định cho hộ xã viên, HTX chỉ là người dịch vụ. Tài sản hiện nay của HTX là tài sản sở hữu chung chung do vậy hiệu quả quản lý và sử dụng thấp. Do những tồn tại trên nên việc đỏi mới tổ chức, quản lý HTX theo luật HTX năm 2003 vẫn còn nhiều khó khăn.
* Quản lý vốn quỹ của HTX: hàng năm HTX đều tổ chức khoán vốn quỹ cho chủ nhiệm thông qua đại hội xã viên. Song kỳ đại hội sau không thể xử lý được các khoản thiếu hụt vốn phần do giám sát của trưởng kiểm soát chưa chặt chẽ, công tác quản lý vốn quỹ còn nhiều bất cập, vai trò giám sát của hộ xã viên còn mang tính hình thức.
3. Nguyên nhân của những vấn đề trên
3.1 Nguyên nhân của những kết quả đạt được
+ Chính sách của đảng và nhà nước: có đường lối đúng đắn của đảng, được sự quan tâm chỉ đạo của tỉnh ủy - hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và các sở ban ngành của tỉnh, huyện đó là nhân tố tăng thêm sức mạnh để Đảng bộ và nhân dân huyện nhà giành thắng lợi trên tất cả các lĩnh vực.
+ Đội ngũ cán bộ từ huyện đến cơ sở đã được kiện toàn và củng cố, có phẩm chất chính trị, đoàn kết thống nhất, trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ tôn trọng kỷ cương pháp luật, có năng lực trình độ quản lý điều hành và tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị do nghị quyết đại hội đảng bộ đề ra.
+ Bản thân HTX: đã có sự nhất trí đồng lòng giữa xã viên và HTX, cùng nhau vượt qua nhưng trở ngại, biết khai thác phát huy thế mạnh vào phục vụ hoạt động kinh tế, các HTX đã làm tốt vai trò hỗ trợ của minh cho kinh tế hộ và trang trại. các thành phần kinh tế trong HTX cũng không ngừng tìn mọi biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Họ đã biết gắn sản xuất với thị trường, và sự vận động của các quy luật khách quan từ đó mà hiệu quả hoạt động luôn cao.
3.2 Nguyên nhân của những tồn tại yếu kém
* Nguyên nhân khách quan
+ Trong chỉ đạo, điều hành của một số cấp uỷ đảng chính quyền, các ngành ở một số lĩnh vực chưa khẩn trương và thiếu kiên quyết. Trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý và điều hành của một số bộ phận cán bộ, đảng viên còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
+ Điểm xuất phát về kinh tế của huyện còn thấp, kinh tế hàng hoá thị trường chậm phát triển. Vốn tích luỹ từ sản xuất kinh doanh và nguồn thu từ kinh tế trên địa bàn còn hạn hẹp, chưa đáp ứng các yêu cầu đầu tư cho phát triển.
+ Kinh tế hộ xã viên còn là sản xuất nhỏ, chủ yếu độc canh cây lúa, ngành nghề chưa phát triển, ruộng đất manh mún khó cho việc tổ chức sản xuất tập trung quy mô lớn, chuyển dịch cơ cấu.
+ Chính sách cho phát triển kinh tế HTX còn nhiều bất cập chưa thực sự tạo điều kiện cho các HTX phát triển.
+Thay đổi vấn đề nhận thức trong xã viên HTX còn gặp nhiều khó khăn.
* Nguyên nhân chủ quan
+ Về nhận thức chưa thấy hết được tính tất yếu của kinh tế tập thể trong nền kinh tế quốc dân nên chưa tạo điều kiện cho HTX đơi mới phát triển theo luật HTX
+ Chính sách cán bộ: chức năng nhiệm vụ cán bộ HTX rất nặng nề nhưng tiền lương thấp, mặc dù đã có chế độ bảo hiểm nhưng hoạt động chưa có hiệu quả cao, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX chưa được quan tâm đúng mức. Tất cả những yếu tố đó làm người cán bộ chưa yên tâm, gắn bó với HTX.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN CÁC HTX NN THEO LUẬT HTX NĂM 2003 Ở HUYỆN NAM TRỰC
I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CẦN QUÁN TRIỆT TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN CÁC HTX NN THEO LUẬT HTX NĂM 2003
1. Phải từng bước đổi mới HTX theo đúng luật HTX, xây dựng HTX thành tổ chức kinh tế phát triển bền vững có năng lực sản xuất kinh doanh đa dạng, hỗ trợ có hiệu quả kinh tế hộ xã viên, đảm bảo lợi ích của người lao động, kết hợp hài hoà lợi ích HTX và lợi ích xã hội.
2. Khuyến khích xây dựng HTX kiểu mới: HTX cổ phần hoạt động đa ngành, chuyên ngành, HTX liên xã và đa thành phần kinh tế.
3. Nâng cao hiệu quả của các HTX NN trong các dịch vụ hỗ trợ kinh tế hộ xã viên.
4. Nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của HTX có khả năng tự tích luỹ đến hết nhiệm kỳ 2006-2009 vốn lưu động hoạt động của HTX tối thiểu phải đạt từ 50 triệu đồng trở lên.
5. Quá trình đổi mới và phát triển HTX theo luật trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn phải đặt ra trong mối quan hệ mật thiết với quá trình đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ HTX và lao động nông thôn, coi trọng vai trò tác động của khoa học công nghệ đối với sự phát triển sản xuất nông nghiệp.
6. Phát triển các mối liên kết, hợp tác theo vùng, địa phương, quan hệ với các nước trong khu vực và quốc tế thông qua hệ thông tổ chức Liên minh HTX Việt Nam và tổ chức kiên minh HTX quốc tế nhằm nâng cao nhân thức về kinh tế hợp tác, học hỏi kinh nghiệm, tăng cường quan hệ hỗ trợ giúp đỡ, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác và bảo vệ quyền lợi của người lao động.
7. Nâng cao vai trò, hiệu quả sự giúp đỡ của nhà nước đối với vấn đề đổi mới và phát triển các HTX theo luật, đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả, tôn trọng nguyện vọng của nông dân. Bên cạnh đó xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa kinh tế hợp tác và kinh tế nhà nước.
8.Trong vấn đề quản lý cần:
- Đổi mới vấn đề về xã viên theo luật HTX năm 2003 để phát huy ý thức tham gia xây dựng HTX của xã viên.
- Đổi mới về sở hữu tài sản của HTX: chuyển hoạt động của HTX sang thực hiện hoạch toán kinh doanh để vừa phục vụ xã viên vừa phát triển kinh tế hợp tác.
II. MỘT SỐ GIẢI PÁP CHỦ YẾU NHẰM TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN CÁC HTX NN THEO LUẬT HTX NĂM 2003 Ở HUYỆN NAM TRỰC
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh cao thì đòi hỏi kinh tế HTX phát triển phải có hiệu quả để hỗ trợ cho kinh tế hộ nông dân và các nông trại nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của các loại hình kinh tế này trên thị trường. Tuy đã xác định rõ phương hướng phát triển song nhiều HTX trong huyện vẫn còn gặp phải nhiều lúng túng trong công việc quản lý và điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy vấn đề đặt ra đối với sự phát triển của nền nông nghiệp huyên là phải làm gì và làm như thế nào để thúc đẩy kinh tế HTX phát triển trên cơ sở đường lối mà đảng và nhà nước đã ban hành nhằm phát huy hơn nữa vai trò hỗ trợ các hộ xã viên trong HTX. Để giải quyết được vấn đề đó thì ban lãnh đạo huyện và các phòng ban chuyên môn giải quyết đồng bộ một số giải pháp sau:
1. Giải pháp về đường lối chính sách của đảng và nhà nước
1.1 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến luật HTX
Từ thực tiễn cho thấy một chủ trương chính sách của đảng đề ra muốn thực hiện thành công, đem lại hiệu quả phải làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng thông suốt và có nhận thức rõ ràng đúng đắn, trên cơ sở đó phải được trang bị đầy đủ kiến thức đối với vấn đề đặt ra và cuối cùng là phải có các biện pháp tổ chức thực hiện cụ thể. Điều đó có nghĩa là phải không ngừng nâng cao nhận thức về kinh tế hợp tác và HTX thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến luật HTX, các chủ trương chính sách của đảng, các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành.
Để phát huy tác dụng to lớn của công tác này huyện nhà đã phối hợp nhiều hình thức tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng đến từng loại đối tượng, từng địa phương. Mục đích là để người dân nắm bắt được sự cần thiết khách quan phải đổi mới và phát triển các HTX trong nền nông nghiệp hàng hoá, mối quan hệ biện chứng giữa trình độ phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp với quá trình hình thành và phát triển HTX trong NN. Nhận thức đúng đắn vị trí vai trò tác dụng của HTXNN trong quá trình CNH _ HĐH nông nghiệp nông thôn .
Từ thay đổi nhận thức về HTX NN, cần sớm khắc phục những mặc cảm, định kiến với mô hình HTX NN kiểu cũ và đổi mới cơ chế chính sách, chỉ đạo thực tiễn phát triển HTX NN trong mối liên hệ hợp tác với các thành phần kinh tế và các loại hình tổ chức sản xuất khác trong nông nghiệp nhằm nâng cao hiêuh quả kinh tế xã hội.
Bên cạnh đó các cơ quan chuyên môn cũng cần phải coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, từ đó tuyên truyền những mô hình HTX điển hình làm ăn giỏi có hiệu quả để nhân rộng mô hình tạo ra sự phát triển đồng đều đa dạng trong địa phương.
Trên cơ sở thông qua theo dõi, tổng kết tình hình phát triển các HTX để kiến nghị với cơ quan cấp trên từ đó kịp thời có những điều chỉnh phù hợp nhăm nâng cao hơn nữa hiệu quả của các HTX trong thời gian tới.
1.2 Xác lập môi trường thể chế thuận lợi tạo điều kiện cho kinh tế hợp tác và HTX phát triển.
Thể chế ở đây là nhẵng văn bản chhính sách pháp luật của các cơ quan nhà nước có tính hiệu lực cao đối với sự phát triển của ngành, đóng vai trò là hành lang pháp lý dựa vào đó mà xác định được phương hướng và những kế hoạch cụ thể để tiến hành xây dựng và đổi mới các HTX NN nhằm mang lại hiệu qủa kinh tế cao. Với những cơ chế chính sách thông thoáng phù hợp với các đặc điểm của sự phát triển trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy luật kinh tế khách quan sẽ tạo điều kiện thức đẩy sự phát triển và ngược lại.
Muốn vậy nhà nước cần ban hành những chính sách ở cả tầm vi mô và vĩ mô để tác động đến các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các HTX như: chính sách đất đai. chính sách tín dụng. chính sách thị trường, chế độ đối với cán bộ HTX ... cùng với nó là các chế tài tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh, kiểm tra giám sát việc thi hành các văn bản đó.
2. Giải pháp đối với nội bộ HTX
Yêu cầu đổi mới và phát triển các HTX NN là một tất yếu khách quan thể hiện sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật phát triển đó được đảng ta vận dụng và quán triệt thể hiện là các chính sách kinh tế vi mô và vĩ mô có tác động dến sự phát triển của các HTX . Tuy nhiên để quá trình đổi mới đó thực sự có hiệu quả thì một mặt các HTX cụ thể hóa các văn bản luật cho phù hợp với điều kiện phát triển của mình, mặt khác cũng phải từng bước giải quyết những tồn tại ngay trong nội bộ HTX. Thực trạng từ các HTX cho thấy những vấn đề về xã viên HTX, sở hữu tài sản HTX, nguồn vốn công quỹ của HTX, cán bộ HTX... đã có những chính sách điều chỉnh nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, và chưa phát huy hiệu quả thiết thực. Để phát huy sức mạnh nội lực tạo điều kiện phát triển toàn diện HTX thì đỏi hỏi các HTX NN cần phải thực hiện đồng bộ những giải pháp sau đây:
2.1 Giải pháp về tài chính
Xử lý triệt để nợ tồn đọng trong HTX bao gồm các khoản phải thu, xã viên đọng sản phẩm và các khoản phải trả của HTX. Đây là nguồn vốn của HTX do xã viên còn nợ do đó cần phải xác minh đối chiếu, phân loại nợ, đối tượng nợ đưa ra đại hội xã viên bàn bạc, quyết định những loại nợ phải trả ngay loại nợ trả dần, loại nợ miễn giảm. Các hồ sơ về các khoản nợ phải thu phải trả cần được hoàn thiện rõ ràng theo hướng dẫn của Sở NN & PTNT, có biện pháp thu nợ đối với các đối tượng có khả năng thanh toán.
Đối với các khoản HTX nợ nhà nước và các tổ chức cá nhân khác thì tiến hành đối chiếu, xác minh và có biện pháp giải quyết. Đề nghị nhà nước có nhứng chính sách cụ thể đối với các loại nợ lâu ngày của các HTX khi giải thể.
Tổ chức cho xã viên góp vốn kinh doanh với HTX nhằm làm tăng thêm tính độc lập của HTX về mặt tài chính trên cơ sở khai thác nguồn lực sẵn có để phục vụ mục tiêu phát triển của các HTX.
2.2 Về xã viên HTX
Xác định tư cách xã viên khi tham gia HTX với 2 nội dung chính đó là tính tự nguyện và góp vốn theo điều lệ của HTX. Chuyển sang mô hình HTX kiêu mới trên cơ sở sự tham gia tự nguyện của các tổ chức cá nhân, pháp nhân và hộ gia đình theo quy định của pháp luật để đem lại hiệu quả thiết thực. Phải tôn trọng quyền bình đẳng của xã viên, coi họ thực sự là những người chủ bình đẳng trong HTX, là những người đồng tham gia giải quyết những vấn đề chung và được hưởng lợi như nhau. Phải không ngừng nâng cao nhận thức của các xã về các quyền và lợi ích mà họ được hưởng, phá vỡ tâm lý sản xuất khép kín do chế độ cũ để lại để họ nhiệt tình hơn trong vấn đề tham gia phát triển HTX.
2.3 Sở hữu tài sản và vốn quỹ HTX
Khi tham gia vào HTX xã viên phải gốp vốn theo điều lệ, như vậy trong HTX vừa có vốn của các xã viên vừa có phần vốn chung mà trong quá trình hoạt động tạo ra. Vì vậy cần phải phân định rõ nguồn vốn để thuận lợi cho quá trình quản lý và sử dụng trong quá trình hoạt động cũng như khi HTX giải thể và dựa vào đó đảm bảo lợi ích cho xã viên và HTX trong việc phân định các kết quả sản xuất kinh doanh.
3. Giải pháp về cơ chế chính sách của của đảng và nhà nước
Đây là những chính sách ở tầm vĩ mô của đảng và nhà nước để tác động và tạo các điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các HTX trên cơ sở phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ và các nông trại trong huyện. Cụ thể:
3.1 Chính sách xoá nợ đối với HTX
Đã có rất nhiều nghị định về chính sách xoá nợ đối với các HTX như: hỗ trợ tài chính phục vụ cho công tác chuyển đổi HTX, các chế độ miễn giảm... song vẫn còn nhiều bất cập vì vậy cần:
+ Cần có các chính sách bổ sung cho phép xoá các khoản nợ đọng quá lâu của các HTX yếu kém bao gốm cả nợ ngân hàng, nợ thuế, nợ các doanh nghiệp nhà nước... trên cơ sở phân loại, xem xét cụ thể từng đối tượng từ đó có những chính sách phù hợp.
+ Các khoản nợ phải được làm rõ trước đại hội xã viên và Uỷ ban nhân dân huyện thẩm định.
+ Đồng thời với việc nhà nước xoá nợ cho HTX, các HTX cần xem xét xoá nợ cho hộ xã viên đối với các khoản nợ liên quan đến khoản nợ mà nhà nước miễn giảm cho các HTX.
3.2 Chính sách về ruộng đất
Ruộng đất là tư liệu sản xuất chính chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp. Mặc dù Luật đất đai năm 1993 đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng sử dụng đất, nhưng trong qua trình thực hiện đã nảy sinh ra nhiều vấn đề cần có giải pháp giải quyết kịp thời. Thực hiện đường lối CNH_HĐH nông nghiệp nông thôn trên cơ sở thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá, hiệp tác hoá trong sản xuất thì đòi hỏi có quy mô ruộng đất và các điều kiện sản xuất khác tương đối lớn để có thể áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến đem lại hiệu quả cao cho sản xuất nông nghiệp. Mục đích là tạo ra khối lượng sản phẩm lớn chất lượng cao và đồng đều, để có thể làm được điều đó thì cần:
+ Địa phương cần có cơ chế kiểm tra giám sát các cơ sở về tình hình thực hiện chính sách giao đất đến từng hộ nông dân, cần thể chế hoá các quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật nhằm thúc đẩy các hộ và nông trại sản xuất hàng hoá.
+ Có chính sách miễn giảm tiền thuê đất đối với các HTX NN đã được cấp giấy phép kinh doanh.
+ Ban hành các cơ chế khuyến khích người lao động sử dụng có hiệu quả tiêt kiệm đất đai, và có các biện pháp cải tạo đất nhằm nâng cao độ phì nhiêu phục vụ sản xuất.
3.3 Chính sách tài chính tín dụng
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi các HTX phải có vốn, đối với các HTX nguồn vốn bao gồm: vốn góp của xã viên và nguồn vốn chung của HTX, tuy nhiên do nguồn vốn nay còn nhỏ so với yêu cầu phát triển nên trong quá trình hoạt động các HTX luôn luôn tận dụng để huy động các nguồn vốn từ bên ngoài, đặc biệt là từ các tổ chức tín dụng của nhà nước. Mặc dù có nhiều chính sách ưu tiên về vốn cho các hộ xã viên và một hệ thống các các tổ chức có liên quan đến cấp tín dụng cho người sản xuất như Ngân hàng thưong mại, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng nông nghiệp... nhưng để họ tiếp cận được với nguồn vốn lại là một quá trình, nguyên nhân là do tính pháp lý của họ trước các cơ quan pháp luật chưa cao, vốn thế chấp của họ không đáp ứng được yêu cầu của bên cho vay nên họ vẫn rơi vào tình trạng thiếu vốn sản xuất. Để giải quyết được điều đó cần phải có những cơ chế chính sách phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho HTX và các hộ xã viên vay vốn. Cụ thể:
+ Đối với những HTX có số vốn góp không lớn (<50 triêu đồng), nếu HTX có dự án phát triển sản xuất kinh doanh khả thi, được UBND xã giám định thì có thể được vay số tiền tương đương số vốn của HTX mà không cần thế chấp.
+ Đồng thời, cần coi trọng việc củng cố và phát triển HTX, quỹ tín dụng nông thôn theo tinh thần chỉ thị của Bộ chính trị ngày 13-10-2000. Tăng cường hình thức tín chấp thông qua các đoàn thể quần chúng và chính quyền cấp xã để các hộ có khó khăn vay vốn sản xuất. Cho phép HTX huy động và cho vay nội bộ.Tăng cường kiểm tra giám sát, chấm dứt tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn.
+ Nhà nước cần giành một tỷ lệ thích đáng ngân sách Nhá nước đầu tư cho kinh tế hợp tác xã như: đầu tư cho cán bộ HTX, kết cấu hạ tầng, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ...
3.3 Chính sách khuyến nông khoa học công nghệ
Cơ giới hoá nền nông nghiếp đó là việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong sản xuất như các loại cầy bừu, máy kéo máy gặt, máy tuôt lúa, các loại giống mới với năng suất chất lượng cao... Việc sử dụng các loại may thay thế lao đông thủ công là cơ sở để nâng cao năng suất lao động, giảm hao phí lao động sống trong giá trị của sản phẩm từ đó tiết kiệm được chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thu được lợi nhuận cao. Lao động nông nghiệp được giải phóng sẽ tạo ra sự dịch chuyển về lao động giữa các ngành trong nền kinh tế từ đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng của nhà nước ta.
Nhận thức được tầm quan trọng đó Ban lãnh đạo huyên đã từng bước cụ thể hoá đường lối của đảng như Chỉ thị của BCT số 63CT-TC/TƯvề đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và cộng nghệ phục vụ CNH_HĐH nông thôn nhằm tạo nên những bước đột phá về cả số lượng, chất lượng sản phẩm nông sản tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Các giải pháp cần thực hiện là:
+ Tăng cường nghiên cứu, áp dụng các thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ và nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tại chỗ, cung cấp kịp thời các tri thức skhoa học và công nghệ hiện đại vào trong các quy trình của sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp.
+ Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế, mức lãi suất tín dụng đối với các nguồn thu do ứng dụng khoa học công nghệ , giảm lãi suất tín dụng đối với nguồn vay đầu tư cho việc ứng dụng khoa học công nghệ. Miễn giảm thuế cho các hoạt động ứng dụng khoa học công nghệ.
+Đối với các chủ thể sản xuất và chế biến tiêu thụ nông sản được hỗ trợ kinh phí, hoặc trợ giá một phần cho việc đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào trong sản xuất.
+ Miễn giảm một phần hoặc toàn bộ chi phí đào tạo, bồi dưỡng huấn luyện cán bộ làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ HTX, cán bộ quản lý cấp xã về kiến thức khoa học công nghệ để triển khai có hiệu quả các chương trình dự án về ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ ở nông thôn
+ Tăng cường đầu tư kinh phí cho các hoạt động nghiên cứa khoa học công nghệ phục vụ nông nghiệp từ khâu giống đến phương pháp canh tác, sản xuất và sử dụng phân bón thuốc trừ sâu phù hợp với yêu cầu phát triển trên cơ sở phát huy các lợi thế ở nước ta.
3.4 Chính sách về thị trường
Thị trường ở đây bao gồm thị trường các yếu tố đầu vào sản xuất và thị trường các yếu tố đầu ra sản phẩm, không những thị trường trong địa bàn huyện mà bao gồm thị trưòng trong nước và thị trường thế giới rộng lớn.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường thì thị trường là yếu tố cơ bản quan trọng để người sản xuất dựa vào đó mà quyết định sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào chứ không phải chỉ sản xuất với những cái mà mình có. Số lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào... đều do thị trường quyết định.
Xuất phát từ thực trạng các HTX NN để có thể kinh doanh có hiệu quả thi đòi mỗi HTX phải có những biện pháp cụ thể khả thi tác động vào thị trường nông nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX trong nền kinh tế hàng hoá. Để làm được điều đó cần:
+ Nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho quá trình hình thành đồng bộ các thị trường bao gồm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra sản xuất, có sự thống nhất giữa thị trường địa phương, thị trường trong nước và thi trường quốc tế.
+ Nhà nước cần đầu tư cho việc hình thành hệ thống các cơ quan nghiên cứu, dự báo nắm bắt nhu cầu thị trường nông sản trong địa bàn huyện và các vùng khác để lmà nhiệm vụ tư vấn, xây dựng chiến lược phát triển sản xuất nông sản hàng hoá, tạo ra những nông sản chủ lực, đáp ứng như cầu địa phương và để xuất khẩu. Đồng thời các cơ quan này còn có nhiệm vụ thông tin tư vấn giúp đỡ kinh tế hộ và kinh tế trang trại gia đình - hạt nhân trong các HTX NN hình thành thói quen sản xuất hàng hoá.
+ Phát triển mạng lưới chợ nông thôn, các trung tâm triển lãm giới thiệu các mặt hàng nông sản, đặc biệt là phát triển đa dạng các hình thức tiêu thụ nông sản. Trước hết, đó là phát huy vai trò của HTX làm dịch vụ tiêu thụ nông sản hàng hoá cho kinh tế hộ kinh tế trang trại.
+ Cần phải tạo ra các mối liên kết giữa các HTX và các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là Liên minh HTX Việt Nam và quốc tế, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường cho các tổ chức kinh tế này trên cở sở có sự hợp tác.
3.5 Chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông thôn
Tư liệu sản xuất của các hoạt động sản xuất nông nghiệp đó chính là ruộng đất và các giống cây trồng vật nuôi, nhưng để chúng phát huy được hiệu quả thì cần phải có sự tác động của con người thông qua các biện pháp kinh tế kỹ thuật, mà cơ sở để tiến hành các biện pháp kinh tế đó chính là hệ thống kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp. Đó chính là các trung tâm khuyến nông, các cơ quan nghiên cứu khoa học, kho tàng bảo quản nông sản sau khi thu hoạch. Để phát huy được hiệu quả của các cơ sở đó thì cần:
+ Tăng cường đầu tư kinh phí về xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm các trang thiêt bị phục vụ công tác nghiên cứu triển khai các kế hoạch dự án từ khâu giống đến phương pháp canh tác, sản xuất và sử dụng phân bón ... phù hợp với yêu cầu phát triển nền nông nghiệp bền vững trên cơ sở phát huy các lợi thế của nền nông nghiệp.
+Sắp xếp củng cố hệ thống cơ quan nghiên cứu khoa học từ trung ương đến địa phương sao cho có hiệu quả.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện để các HTX xây dưng các cơ sở bảo quản nông sản trước và sau thu hoạch nhằm làm giảm tổn thất do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp gây ra như thời tiết, đằc điểm sinh lý...Và xây dựng các cơ sở chế biến nhằm làm tăng giá trị nông sản phẩm trên thị trường, từ đó nâng cao sức cạnh tranh cho các mặt hàng nông sản.
3.6 Chính sách về đào tạo và sử dụng cán bộ HTX và đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Với vai trò là trung tâm là động lực của sự phát triển, con người đã không ngừng trau dồi những kiến thức, kinh nghiệm sản xuất để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả cao. Thực trang đội ngũ người lao động và các cán bộ của các HTX trong toàn huyện đạt ra một bài toán khó cho quá trình phát triển. Tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học cao đẳng trong các HTX còn ít. Có HTX còn xảy ra tình trạng cán bộ chưa qua một trường lớp đào tạo nào, chỉ đạo sản xuất còn dựa vào kinh ngiệm chủ quan là chính, họ chưa phân tích được tình hình thực tiễn, các quy luật khách quan do vậy công tác sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên.
Trong huyện đã xuất hiện nhiều hình thức đào tạo nhằm nâng cao trình độ chuuyên môn cho đội ngũ cán bộ, song kết quả còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó là chế độ đãi ngộ đối với tri trức trẻ khi ra trường trở về địa phương công tác chưa được quam tâm đúng mức, gây ra tình trạng thiêu cán bộ có trình độ chuyên môn cao, kinh nghệm sản xuất của nguời dân còn thiếu đối với những vấn đề phát triển cơ bản...Trước tình hình đó có một số giải pháp cần phải thực hiện ngay để nâng cao hiệu quả chỉ đạo từ các cán bộ HTX:
+ Từ cấp trung ương đến cấp địa phương cần có đề án cụ thể về công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ HTX. Trước hết đó là chủ nhiệm HTX, Kế toán trưởng và Trưởng ban kiểm soát HTX. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý HTX NN đồng bộ, có đủ năng lực đảm đương nhiệm vụ.
+Nhà nước có thể hỗ trợ 100% phí đào tạo hoặc miễn giảm tuỳ vào từng điều kiện cụ thể. Đồng thời, có sự phân cấp đào tạo từ cấp Trung ương đến cấp địa phương. Cùng với công tác đào tạo cán bộ HTX, cần coi trọng khâu sử dụng cán bộ HTX phù hợp với trình độ năng lực của họ nhằm đảm bảo tính thiết thực có hiệu quả.
+ Cần coi trọng đúng mức khâu đào tạo lao động nông thôn, có thể bằng ngân sách nhà nước kết hợp với các chương trình dự án quốc gia để nhanh chóng nâng cao trình độ tay nghề của người lao động nông thôn
4. Một số giải pháp khác
4.1 Đẩy mạnh sản xuât hàng hoá trong nông nghiệp và kinh tế hộ gia đình nói riêng để tạo nhu cầu đổi mới phát triển HTX NN
Trong nền kinh tự cung tự cấp nhu cầu về hợp tác giữa các cá thể sản xuất đã xuất hiện, nguyên nhân là do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp đòi hỏi người lao động phải có sự hợp tác tương trợ nhau. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, sản xuất không chỉ với mục đích để cung cấp lương thực cho nhu cầu của chính người sản xuất mà còn mục đích sản xuất để bán ra thị trường, hay đó chính là nền nông nghiệp hàng hoá. Nhu cầu của thị trường ngày càng khắt khe về số lượng, chất lượng sản phẩm, chủng loại phải đa dạng, phù hợp thị hiếu và thu nhầp của người tiêu dùng. Những yêu cầu đó một cá nhân sản xuất không thể đáp ứng được, để có thể đứng vững được trên thị trường đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa cá nhân những người sản xuất để nâng cao hiệu quả. Vì vậy cần phải thúc đẩy sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp để nảy sinh nhu cầu hợp tác, từ đó thúc đẩy các HTX phát triển và luôn đổi mới cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Ngược lại. kinh tế HTX phát triển có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển. Như vậy các giải pháp phát triển kinh tế hợp tác không thể tách rời các giải pháp phát triển kinh tế hàng hoá nông nghiệp trong đó bao gồm cả phát triển kinh tế nông hộ và kinh tế trang trại gia đình. Bởi vì, phát triển kinh tế trang trại, kinh tế nông hộ vừa là mục tiêu vừa là giải pháp để thức đẩy sự ra đời và phát triển của HTX kiểu mới trong nông nghiệp.
4.2 Mở rộng và phát triển các ngành nghề nông thôn và dịch vụ khác ngoài kinh doanh dịch vụ nông thôn
Giải pháp này dựa trên cơ sở khai thác các tiềm năng nội lực, thế mạnh của vùng, nhằm tạo ra sự phát triển toàn diện trong nông thôn. Đó là các ngành nghề truyền thống, các dịch vụ phục vụ cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân. Nhà nước nên có có biện pháp khuyến khích phát triển các mô hình HTX trong các ngành nghề này nhằm tạo ra cung về lao động khi sửn xuất nông nghiệp có sự dư thừa vế lao động chân tay.
4.3 Tăng cường mối liên hệ hợp tác giữa HTX và các thành phần kinh tế khác trước hết là kinh tế nhà nước.
Đối với nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và có tính quyết định đến sự phát triển của toàn ngành nông nghiệp. Thông qua các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp trực thuộc mình nhà nước chi phối hoạt động của các tổ chức kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân, tạo ra sự phát triển bình đẳng cân đối giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là trong vấn đề hỗ trợ sự phát triển của các hình thức tổ chức hợp tác. Trong nông nghiệp biểu hiện của kinh tế nhà nước đó là hệ thống các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp như giao thông, thuỷ lợi, cơ sở cung cấp giống vật tư, cơ sở chế biến nông sản, trạm khuyến nông, các trung tâm nghiên cứu khoa học...Trong mối liên hệ này HTX giữ vai trò là người đại diện tiếp nhận sự trợ giúp từ nhà nước tới các nông hộ và trang trại. Khi kinh tế HTX phát triển thì nhu cầu về các vật tư kỹ thuật để mở rộng sản xuất ngày càng cao, tạo điều kiện cho các doạnh nghiệp dịch vụ của nhà nước có thể mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy vấn đề đặt ra là các HTX NN trong huyện phải không ngừng tìm kiếm đối tác để phối hợp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho chủ thể kinh tế mình.
Khi tham gia Liên minh HTX thì các HTX phải tuân theo những điều lệ mà tổ chức đã đặt ra, thực hiện góp vốn sản xuất, xây dựng các điều lệ mẫu phù hợp.
Trên đây là một số những giải pháp cơ bản nhằm giúp các HTX NN huyện Nam Trực hoạt động có hiệu quả trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở của Luật HTX năm 2003. Vấn đề tiếp tục đổi mới và phát triển các HTX NN theo Luật HTX cần phải tiếp tục được quán triệt trong tư tưởng của người dân từ đó mới nâng cao được nhận thức của họ, thức đẩy sự tham gia phát triển HTX NN sâu rộng trong cộng đồng dân cư, Bên cạnh đó nhà nước ta cũng không ngừng thể chế hoá những tư tưởng tiến bộ từ thực tiễn hoạt động để nhằm nâng cao hơn nữa tính pháp lý của các văn bản hiện hành.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Đổi mới và phát triển các HTX NN theo Luật HTX năm 2003 là một nội dung quan trọng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các HTX NN huyện Nam Trực nói riêng và các HTX NN cả nước nói chung.
Thực tế qua quá trình thực tập tại Phòng NN & PTNT huyện Nam Trực tỉnh Nam Định, em nhận thấy rằng sau khi Luật HTX năm 2003 được ban hành đã có một tác động to lớn đến bộ máy quản lý các HTX NN trong toàn huyện về cơ chế quản lý và tổ chức các hoạt động kinh doanh dịch vụ của các HTX NN huyện. Các HTX NN đã tiến hành đổi mới và phát triển trên mọi mặt của quá trình hoạt động của nó như: về xã viên HTX, về tình hình vốn, sở hữu tài sản, về đội ngũ cán bộ HTX… Sự đổi mới trên các mặt đó đã mang lại những hiệu quả thiết thực, bộ máy quản lý được kiện toàn, số lượng xã viên gia tăng, vốn quỹ HTX được bảo toàn và ổn định góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các HTX NN trong huyện.
Mặc dù em đã rất cố gắng để làm rõ những vấn đề nêu trên, nhưng do trình độ và thời gian có hạn cho nên bài viết của em còn có nhiều sai sót, khiếm khuyết và và nội dung trình bày còn chưa thật logic, phân tích chưa sâu, hệ thống số liệu chưa đồng bộ, các giải pháp đề ra chỉ mang tính định hướng so với những mục tiêu đã đặt ra ….Cho nên dù đã được sự giúp đỡ, hướng dẫn rất tận tình của thầy giáo hướng dẫn PGS – TS Vũ Đình Thắng cùng với các bác, các cô chu cùng các anh chị trong Phòng NN & PTNT huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, nhưng bài của em vẫn còn nhiều thiếu sót. Kính mong thầy giáo hướng, và các thầy cô giáo trong khoa cùng toàn thể cán bộ Phòng NN & PTNT xem xét cho em.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI CÁC CƠ QUAN HỮU TRÁCH VỀ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN CÁC HTX NN THEO LUẬT HTX NĂM 2003
+ Cần tăng cường hơn nữa vai trò quản lý nhà nước đối với sự phát triển của các HTX NN nói chung, các văn bản, chính sách có lien quan đến sự đổi mới và phát triển của các HTX NN phải cụ thể rõ ràng, có cơ chế chế tài kiểm tra giám sát chặt chẽ nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của chúng.
+Đối với huyện uỷ - HĐND- UBND huyện Nam trực quan tâm hơn nữa về cơ chế chính sách đối với NN NT nhất là công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất đời sống dân sinh.
u+ Đối với UBND xã tập trung chỉ đạo sâu sát hơn, có biện pháp hỗ trợ thu hồi sản phẩm đối với những hộ dây dưa khê đọng sản phẩm nhiều năm.
+ Đề nghị bàn giao nốt những công việc còn lại giữa ban quản lý cũ cho ban quản lý mới
+ Đối với hộ xã viên thực hiện đúng theo luật HTX, điều lệ mẫu HTX, hàng vụ hàng năm phải giao nộp sản phẩm đầy đủ, đúng thời hạn, chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, tiếp thu các khoa học kỹ thuật chuyển đổi cây con có giá trị kinh tế cao.
+ Thường xuyên mở các lớp đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt của HTX NN, đồng thời nhà nước nên có những có chế chính sách ưu tiên cụ thể đối với công lao hoạt động của họ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế nông nghiệp. Chủ biên: Cố GS.TS Nguyễn Thế Nhã,
PGS.TS Vũ Đình Thắng. Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội – 2004.
2. Giáo trình Quản trị kinh doanh nông nghiệp. Chủ biên: PGS.TS Trần Quốc Khánh. Nhà xuất bản Lao động xã hội. Hà Nội – 2005.
3. Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp nông thôn. Chủ biên: Nguyễn Điền. Nhà xuất bản thống kế. Hà Nội – 1996.
4. Kinh tế hộ nông dân và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Chủ biên: Lâm Quang Huyên. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1995.
5. Phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam. Tác giả: Chu Hữu Quý. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1996.
6. Tạp chí Kinh tế và dự báo số 11/2004.
7. Tạp chí Cộng sản số 15 tháng 8/2005, số 8 tháng 4/2005.
8. Tạp chí Hoạt động khoa học số 8/2004.
9. Tạp chí công nghiệp số 5/2000.
10. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 249 tháng 2/1999.
11. Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc số 6/2000.
12. Tạp chí Nghiên cứu và Trao đổi số 1/2000.
13. Luật HTX năm 1996, Luật HTX sửa đổi năm 2003, Luật đất đai năm 1993 và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và nhà nước về vấn đề phát triển kinh tế HTX trong nông nghiệp nông thôn.
14. Các báo cáo tổng kết tháng, quý, năm về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các HTX NN huyện Nam Trực.
Môc lôc
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT RIÊNG
BVTV :Bảo vệ thực vật
BCHTW :Ban chấp hành trung ương
CNH-HĐH : Công nghiệp hoá- hiện đại hoá
DT : Diện tích
ĐH+CĐ : Đại học+ Cao đẳng
HTX : Hợp tác xã
HTX NN : Hợp tác xã nông gnhiệp
KHĐT : Kế hoạch đầu tư
KTTT : Kinh tế tập thể
NS : Năng suất
NN&PTNT : Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
SL : Số lượng
SX : Sản xuất
CTCP :Công ty cổ phần
DTBQ/1HTXNN: Doanh thu bình quân 1 HTX NN
CPBQ/1HTXNN: Chi phí bình quân 1 HTX NN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32084.doc