Tóm lại, đầu tư và tăng trưởng phát triển kinh tế là những vấn đề kinh tế quan trọng của đất nước. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế, không chỉ được đặt ra đối với nền kinh tế của một quốc gia mà còn phải đặt ra cho từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế và từng đơn vị kinh tế.
Đầu tư trong những năm qua đã thực sự góp phần quan trọng vào tăng trưởng phát triển kinh tế và trở thành một bộ phận không thể thiếu trong chính sách thúc đẩy kinh tế theo chiều rộng và sâu của Chính Phủ. Trong điều kiện mới, thời đại kinh tế quốc tế, đầu tư đạt ra những yêu cầu mới cho sự phát triển mỗi quốc gia nói chung, mỗi thành phần kinh tế nói riêng phải có những định hướng đúng cho tương lai của mình.
Việc đổi mới cơ chế đầu tư thông thoáng hơn đặc biệt là sau năm 1986, đã thu được những thành tựu quan trọng, thể hiện rõ nhất là tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng lên rõ rệt, đưa nước ta từ một nước lạc hậu lên một nước công nghiệp hóa hiện đại hóa theo dự kiến vào năm 2020. Luật đầu tư và sửa đổi luật đầu tư cho phù hợp sẽ làm cho đầu tư có hiệu quả hơn, nhất là việc đầu tư vào một số ngành trọng điểm.
Tuy nhiên trong công tác đầu tư những năm qua còn có nhiều vướng mắc là do nhiều nguyên nhân như cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu, thủ tục pháp lý còn rườm rà hay do cơ chế chưa minh bạch Do đó, để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng đã đặt ra, chúng ta còn rất nhiều việc phải làm để gia tăng vốn và hiệu quả đầu tư. khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, không hiệu quả, cải cách cơ chế, minh bạch hóa đầu tư là những việc rất cần trên con đường phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
41 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1526 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riển kinh tế.
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế là một khái niệm rộng hơn tăng trưởng. Nếu tăng trưởng được xem là quá trình biến đổi về lượng thì phát triển là quá trình biến đổi cả về lượng và chất của nền kinh tế. Đó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của cả hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế bao gồm có tăng trưởng, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tiến bộ (thường xét đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành: sự gia tăng tỉ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp), sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội (xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, tăng tuổi thọ bình quân, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, nước sạch của người dân, đảm bảo phúc lợi xã hội, giảm thiểu bất bình đẳng trong xã hội…).
Một mặt trái của đầu tư phát triển, bên cạnh việc làm tăng sản lượng của nền kinh tế, đầu tư phát triển còn gây nên một số tác động tiêu cực như ô nhiễm, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Hiện nay, ở nhiều quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, người ta đã chú ý tới những ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai do tăng trưởng nhanh gây ra. Trên thế giới đã xuất hiện khái niệm mới về phát triển, đó là phát triển bền vững. Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới WB: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Nói cách khác, phát triển bền vững là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ, hợp lý cả về ba mặt: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
CHƯƠNG II
VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ QUA PHÂN TÍCH CỦA CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ
Chúng ta đều biết rằng đầu tư là một yếu tố nằm trong tổng cầu của nền kinh tế. Trong khi đầu tư nhỏ hơn rất nhiều so với tiêu dùng trong GDP, nhưng nó lại rất quan trọng bởi vì đây là thành tố trong GDP biến động mạnh nhất và phản ánh rõ nét nhất hình mẫu biến động theo chu kỳ mà các nền kinh tế thị trường phải đối mặt. Trong yêu cầu của đề tài chúng ta phải nghiên cứu ảnh hưởng của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế nhưng dưới góc độ vận dụng các lý thuyết kinh tế về đầu tư để giải thích . Do đó chúng ta phải nghiên cứu vấn đề trên phương diện lý luận, vận dụng các lý thuyết đầu tư là chủ yếu. Có rất nhiều lý thuyết kinh tế về đầu tư, mỗi lý thuyết nghiên cứu một khía cạnh khác nhau của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Dưới đây trình bày một số lý thuyết tiêu biểu sau.
1. Số nhân đầu tư
Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư tới sản lượng.
ΔY
Công thức tính
ΔI
k=
Trong đó : ΔY là mức gia tăng sản lượng
ΔI là mức gia tăng đầu tư
k là số nhân đầu tư
Ta có ΔY= k*ΔI với k>1
Như vậy việc gia tăng đầu tư có tác dụng khếch đại sản lượng tăng lên số nhân lần.
Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn, do đó, độ khếch đại của sản lượng càng lớn. Sản lượng càng tăng, công ăn việc làm càng gia tăng.
Thực tế, gia tăng đầu tư, dẫn đến gia tăng cầu về các yếu tố tư liệu sản xuất (máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…) và qui mô lao động. Sự kết hợp hai yếu tố này làm cho sản xuất phát triển, kết quả là, gia tăng sản lượng của nền kinh tế.
Mô hình số nhân đầu tư phản ánh quan hệ giữa gia tăng thu nhập với gia tăng đầu tư, theo Keynes mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo sự gia tăng nhu cầu bổ sung công nhân, nâng cao cầu về tư liệu sản xuất, do vậy làm tăng cầu về tiêu dùng, tăng giá hàng, làm tăng việc làm cho công nhân. Tất cả điều đó làm cho thu nhập tăng lên, đến lượt mình thu nhâp lại là tiền đề cho sự gia tăng đầu tư mới, tăng đầu tư mới lại làm tăng thu nhập mới. Cứ như vậy, đầu tư quyết định thu nhập, thu nhập lại tạo tiền đề để gia tăng đầu tư.
2. Lý thuyết gia tốc đầu tư.
2.1. Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc đầu tư .
Nếu số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa việc gia tăng đầu tư với gia tăng sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng. Như vậy đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu. Theo Keynes, đầu tư cũng được xem xét dưới góc độ tổng cung, nghĩa là mỗi sự thay đổi của sản lượng làm thay đổi đầu tư như thế nào. Các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư để đưa mức tư bản đạt mức mong muốn. Lượng tư bản mong muốn phụ thuộc vào mức sản lượng là điều dễ dàng chấp nhận được. Khi mức sản lượng cao hơn, các hãng có nhu cầu lớn hơn về tư bản vì tư bản là một trong nhiều nhân tố để tạo ra sản lượng. Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc dựa trên mối quan hệ đơn giản này.
2.2. Nội dung của lý thuyết gia tốc đầu tư .
Mô hình gia tốc giả thiết rằng lượng tư bản mong muốn là bội số của mức sản lượng :
K dt= α .Yt α>0 (1)
Ở dạng đơn giản nhất của mô hình gia tốc, đầu tư ròng đúng bằng chênh lệch giữa lượng tư bản mong muốn với lượng tư bản hiện có vào cuối thời kì trước. Nếu tạm thời bỏ qua hao mòn tư bản trong quá trình sử dụng, chúng ta có mối liên hệ sau:
I n,t = K dt - K dt -1 (2)
Lượng tư bản có được vào cuối thời kỳ trước chính là lượng tư bản mong muốn phụ thuộc vào thu nhập của thời kỳ đó.
Kt-1 = Kt-1d = α .Yt-1 (3)
Vì vậy, chúng ta có thể viết lại phương trình (2) như sau:
In,t = K dt - Kt-1= α .Yt - α .Yt-1= α.( Yt - Yt-1 )
In,t= α.Δ Yt (4)
Mức đầu tư phụ thuộc vào sự thay đổi của sản lượng.
Dạng đơn giản này cho ta thấy một đặc điểm quan trọng của mô hình gia tốc. Từ phương trình (1), α có thể được coi là tỷ lệ giữa mức tư bản mong muốn so với sản lượng:
α =Ktd / Yt (5)
Ví dụ, giả sử rằng tỷ lệ này là 2. Trong trường hợp này, cứ mỗi đồng sản lượng thay đổi thì mức bổ sung tương ứng là 2 đồng. Trong bối cảnh đó, đầu tư sẽ biến động rất mạnh trong chu kỳ kinh doanh. Theo mô hình giao điểm của Keynes cho thấy sự thay đổi của đầu tư có tác dụng số nhân đến sản lượng. Vì vậy cùng với hiệu ứng số nhân, lý thuyết gia tốc đơn giản chỉ có thể giải thích sự biến động theo chu kỳ của sản lượng. Một cú sốc đối với sản lượng sẽ làm thay đổi mức đầu tư và sự thay đổi này sẽ làm mức sản lượng cân bằng thay đổi thông qua hiệu ứng số nhân, và tác động thêm vào đầu tư thông qua hiệu ứng gia tốc. Tuy nhiên cũng giống như lý thuyết đơn giản về số nhân của Keynes, chúng ta cần phải điều chỉnh lý thuyết gia tốc về đầu tư trước khi có thể sử dụng nó để giải thích cho quá trình đầu tư trong nền kinh tế thực.
Điều chỉnh đầu tiên mà chúng ta cần làm để mô hình gia tốc đơn giản trở nên
thực tế hơn bằng cách cho rằng lượng tư bản thực tế sẽ điều chỉnh dần đến mức mong muốn. Gỉa sử rằng chúng ta sử dụng mô hình cho một năm nào đó. Cũng giả sử rằng, do sản lượng tăng lên nên lượng tư bản mong muốn cũng tăng theo. Các dự án đầu tư sẽ được thực hiện nhằm đưa lượng tư bản tiến tới mức mong muốn. Bên cạnh những chi phí mà ta gọi là chi phí trực tiếp của đầu tư, chúng ta cần tính đến những chi phí điều chỉnh, và việc coi chi phí này tăng lên khi mức đầu tư tăng cũng là điều hợp lý. Những ví dụ về chi phí điều chỉnh như phải đóng cửa nhà máy hoặc thuê thêm công nhân làm việc ngoài giờ để lắp đặt thiết bị, chi phí tăng thêm do muốn tăng tiến độ xây dựng nhà máy và hoạt động sản xuất có thể bị đình trệ do bộ máy quản lý phải tập trung vào việc triển khai các dự án đầu tư. Nếu chi phí điều chỉnh tăng mạnh, thì quyết định tối ưu đối với doanh nghiệp sẽ là điều chỉnh dần lượng tư bản thực tế đến mức mong muốn. Khi đó chênh lệch giữa hai lượng tư bản này chỉ bị triệt tiêu một phần trong từng thời kỳ.
Để phản ánh được độ trễ điều chỉnh này, chúng ta có thể viết (2) như sau:
I n,t= λ.( Kdt-Kt-1) 0< λ<1 (6)
Sử dụng (1), ta có:
I n,t= λ.( α.Yt - Kt-1) (7)
Trong đó, thông thường, Kt-1 khác K dt -1 do lượng tư bản thực tế khác với lượng tư bản mong muốn trong mỗi thời kỳ. Phương trình (7) xác định cơ chế điều chỉnh một phần mà ở đó hệ số λ thể hiện phần của chênh lệch giữa lượng tư bản mong muốn với lượng tư bản thực tế được thực hiện thông qua đầu tư. Do chỉ một phần sự thay đổi của lượng tư bản mong muốn được thực hiện trong mội thời kỳ nên trong một thời kỳ nhất định nào đó đầu tư sẽ phản ứng với những thay đổi của thu nhập trong một số thời kỳ trước đó. Phương trình (7) hàm ý rằng, đầu tư phản ứng chậm hơn với sự thay đổi của thu nhập hiên tại, và vì thế mà cũng hàm ý rằng đầu tư không thay đổi nhiều trong ngắn hạn như mô hình gia tốc đơn giản dự báo (ở phương trình 4). Phương trình (7) được gọi là mô hình gia tốc linh hoạt- có thể thích hợp hơn với những biến động của đầu tư trong thực tế. Mặc dù đầu tư là nhân tố dễ biến động, nhưng nó không biến đông nhiều như dự đoán của mô hình gia tốc đơn giản.
Mô hình gia tốc linh hoạt cũng có thể được điều chỉnh nhằm thể hiện sự biến động về tốc độ thay đổi của đầu tư nhằm lấp đầy lỗ hổng giữa lượng tư bản thực tế với lượng tư bản mong muốn (tham số λ). Đây chính là biến lựa chọn đối với hãng kinh doanh và có thể bị tác động bởi các điều kiện tín dụng, bao gồm lãi suất, thuế và các biến số khác. Ví dụ, chúng ta có thể kỳ vọng rằng, trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, có ít đầu tư hơn sẽ được thực hiện để triệt tiêu lỗ hổng giữa lượng tư bản thực tế với lượng tư bản mong muốn khi lãi suất cao hơn và ngược lại.
2.2. Nhận xét về lý thuyết gia tốc đầu tư.
2.2.1 Ưu điểm.
Lý thuyết gia tốc đầu tư phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư.Nếu α không thay đổi trong kỳ kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá chính xác.
Lý thuyết phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế dẫn đến đầu tư. Khi kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn, dẫn đến tiết kiệm tăng cao và đầu tư nhiều.
2.2.2 Nhược điểm.
Lý thuyết giả định quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định. Thực tế đại lượng này (α) luôn biến do sự tác động c ủa nhiều nhân tố khác.
Thực chất lý thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ không phải sự biến động của tổng đầu tư do sự tác động của thay đổi sản lượng. Vì từ công thức K dt= α.Yt có thể viết:
Tại thời điểm t : K dt= α.Yt (8)
Tại thời điểm (t-1): Kt-1d= α.Yt-1d (9)
Lấy (8) trừ đi (9), ta có :
K dt - Kt-1d = α.Yt -α.Yt-1d = α.( Yt -Yt-1d) (10)
Trong đó:
K dt - Kt-1d : Đầu tư ròng và bằng (It-D) với D l à khấu hao
Do đó:
It-D= K dt - Kt-1d = α.( Yt -Yt-1d)= α.ΔY ()
và đầu tư ròng ΔI= α.ΔY
Như vậy theo lý thuyết này đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản lượng đầu ra. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng(lớn hơn α lần). Nếu sản lượng giảm, đầu tư thuần sẽ âm. Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không đổi, đầu tư ròng sẽ bằng 0 (khi ΔY=0 thì ΔI=0 )
Tuy nhiên khi sản lượng không thay đổi giữa hai thời kỳ đầu tư thuần bằng 0 nhưng tổng đầu tư là một số dương vì các doanh nghiệp vẫn phải đầu tư thay thế máy móc thiết bị đã hao mòn hết.
c. Theo lý thuyết này toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện ngay trong cùng một thời kỳ. Điều này không đúng vì nhiều lý do, chẳng hạn do việc cung cấp các yếu tố có liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng, do cầu vượt qúa cung…do đó lý thuyết gia tốc đầu tư tiếp tục được hoàn thiện qua thời gian. Theo lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được xác định như là một hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ, nghĩa là quy mô đầu tư mong muốn được xác định trong dài hạn.
Nếu gọi Ktd và Kt-1d là vốn đầu tư thực hiện ở thời kì t và t-1
Kt*t –Kt-1d là vốn đầu tư mong muốn
λ là một hằng số (0< λ <1)
Thì: Kt –Kt-1= λ .(Kt*t –Kt-1)
Có nghĩa là sự thay đổi vốn đầu tư thực hiện giữa hai kỳ chỉ bằng một phầm của chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kỳ t và vốn đầu tư thực hiện thời kỳ t-1. Nếu λ =1 thì Kdt=Kt*t .
Và lý thuyết gia tốc đầu tư hoàn thiện sau này cũng đã đề cập đến tổng đầu tư.
Theo lý thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thì đầu tư thuần ∆I=It- Dt=Ktd-Kt-1d. Theo lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì
Ktd - Kt-1d= λ(Kt*t –Kt-1) và do đó ∆I= λ(Kt*t –Kt-1)
Để xác định tổng đầu tư, chúng ta giả định: Dt=δ.Kt-1
δ là hệ số khấu hao v à 0< δ <1. Do đó
It- Dt= It- δ Kt-1d= λ(Kt*t –Kt-1) hoặc
It= λ .(Kt*t –Kt-1) + δ Kt-1d
It chính là tổng đầu tư trong kỳ và là hàm của vốn mong muốn và vốn thực hiện.
3. Lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư.
Theo lý thuyết này, đầu tư có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận thực tế:
I ~ f (lợi nhuận thực tế ). Do đó , dự án đầu tư nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi nhuận cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn hơn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn cho đầu tư có thể huy động bao gồm: Lợi nhuận giữ lại, tiền trích khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu bán cổ phiếu là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả nợ, trường hợp nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp có thể không trả được nợ và lâm vào tình trạng phá sản. Do đó, việc đi vay không phải là điều hấp dẫn, trừ khi được vay ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư bằng phát hành trái phiếu cũng không phải là biện pháp hấp dẫn. Còn bán cổ phiếu để tài trợ cho đầu tư chỉ được các doanh nghiệp thực hiện khi hiệu quả của dự án đầu tư là rõ ràng và thu nhập do dự án đem lại trong tương lai sẽ lớn hơn các chi phí đã bỏ ra.
Chính vì vậy theo lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư, các doanh nghiệp thường chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và các sự gia tăng của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn.
Sự khác nhau giưa lý thuyết gia tốc đầu tư và lý thuyết này dẫn đến việc thực thi các chính sách khác nhau để khuyến khích đầu tư. Theo lý thyết gia tốc đầu tư chính sách tài khoá mở rộng sẽ làm cho mức đầu tư cao hơn và do đó sản lượng thu được cũng sẽ cao hơn. Còn việc giảm thuế lợi tức của doanh nghệp không có tác dụng kích thích đầu tư. Ngược lại theo lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư thì việc giảm thuế lợi tức của doanh nghiệp sẽ làm tăng lợi nhuận từ đó tăng đầu tư và tăng sản lượng, mà tăng lợi nhuận cũng có nghĩa là tăng quỹ nội bộ. Quỹ nội bộ là một yếu tố quan trọng để xác định lượng vốn đầu tư mong muốn, còn chính sách tài khoá mở rông không có tác dụng trực tiếp làm tăng đầu tư theo lý thyết này.
4. Lý thuyết tân cổ điển.
4.1. Sự ra đời của lý thuyết tân cổ điển .
Cuối thế kỷ 19 là thời kỳ đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học – kỹ thuật. Hàng loạt các phát minh khoa học về ang loạt các nguồn tài nguyên được khai thác phục vụ cho quá trình sản xuất. Sự chuyển biến này đã có những ảnh hưởng rõ rệt trong các trào lưu chính của tư tưởng kinh tế. Sự phát triển của trào lưu này hình thành một trường phái kinh tế mới, đứng đầu là Alfred Marshall (1842 – 1924), tác phẩm chính của ông là “Các nguyên lý của kinh tế học” xuất bản 1890, do đó thời gian này được coi như điểm mốc đánh dấu sự ra đời của trường phái tân cổ điển.
Những tư tưởng cơ bản của trường phái này có những điểm mới so với các nhà kinh tế cổ điển nhưng cúng có những quan điểm thống nhất với họ.
4.2. Nội dung của lý thuyết tân cổ điển .
Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng trưởng thông qua hàm sản xuất. Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa sự tăng lên của đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào: vốn, lao động, tài nguyên và khoa học – công nghệ.
Y=f (K, L, R, T)
Trong đó: Y: Đầu ra (ví dụ GDP)
K: Vốn sản xuất
L: Số lượng lao động
R: Nguồn tài nguyên thiên nhiên
T: Khoa học – công nghệ
Một dạng của kiểu phân tích này là hàm Cobb-Douglas, hàm này có dạng:
Y=T.Kα..Lβ.Rγ
Ở đây α, β, γ là các số luỹ thừa, phản ánh tỷ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào.
(α + β + γ = 1)
Sau khi biến đổi Cobb-Douglas thiết lập được mối quan hệ theo tốc độ tăng trưởng của các biến số.
g = t + αk + βl + γr
Trong đó: g: Tốc độ tăng trưởng của GDP
K, l, r: Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào.
T: Phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ.
Như vậy hàm sản xuất Cobb – Douglas cho biết có 4 yếu tố cơ bản tác động đến tăng trưởng kinh tế và cách thức tác động của 4 yếu tố này là khác nhau giữa các yếu tố K, L, R với yếu tố T. Họ cũng cho rằng khoa học – công nghệ có vai trò quan trọng nhất với sự phát triển kinh tế.
4.3.Nhận xét về mô hình tân cổ điển .
4.3.2. Những nội dung mới của mô hình tân cổ điển.
a. Trong mô hình tân cổ điển các nhà kinh tế học bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỷ lệ nhất định về lao động và vốn, họ cho rằng vốn có thể thay thế được nhân công, và trong quá trình sản xuất có thể có nhiều cách khác nhau trong việc kết hợp các yếu tố đầu vào. Ví dụ, cần 10 tỷ đồng và 100 lao động để sản xuất 100 nghìn tấn xi măng, nếu xí nghiệp muốn tăng sản lượng lên gấp đôi, tức là 200 nghìn tấn thì có thể lựa chọn các phương án khác nhau với cách kết hợp các yếu tố đầu vào khác nhau.
Cách lựa chọn phương án với việc kết hợp các yếu tố đầu vào khác nhau (xem Sơ đồ).
Sơ đồ 1. Đường đồng sản lượng là các đường cong
10
20
100
C
B
A
200
Y(nghìn tấn)
D
Y=f(K,L)
L (người)
K(tỷ đ)
I(100.000tấn)
II(200.000tấn)
- Tại B: Sự gia tăng vốn phù hợp với gia tăng lao động.
- Tại D: Công nghệ sử dụng nhiều lao động.
- Tại C: Sử dụng vốn thay thế lao động.
b. Từ quan điểm trên đây các nhà kinh tế học tân cổ điển cũng đưa ra khái niệm “Sự phát triển kinh tế theo chiều sâu”, có nghĩa là gia tăng số lượng vốn cho một đơn vị lao động trong sản xuất còn sự gia tăng vốn phù hợp với sự gia tăng về lao động được gọi là “phát triển kinh tế theo chiều rộng”.
c. Các nhà kinh tế tân cổ điển còn cho rằng tiến bộ kỹ thuật là yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Ví dụ, bằng cải tiến trong các phương pháp sản xuất sẽ gia tăng khối lượng sản phẩm. Một khía cạnh khác đáng lưu ý của các nhà kinh tế tân cổ điển về xu hướng thay đổi trong kỹ thuật là đa số các sáng chế đều có khuynh hướng dùng vốn để tiết kiệm nhân công.
4.3.3. Những quan điểm giống mô hình cổ điển.
a. Các nhà kinh tế cổ điển cho rằng nền kinh tế có hai đường tổng cung: AS-RL phản ánh sản lượng tiềm năng của nền kinh tế, còn AS-SR phản ánh khả năng thực tế. Mặc dù vậy các nhà kinh tế tân cổ điển vẫn cho rằng nền kinh tế luôn luôn đạt được sự cân bằng ở mức sản lượng tiềm năng.
b. Cũng giống như các nhà kinh tế cổ điển, các nhà kinh tế tân cổ điển cũng cho rằng trong điều kiện thị trường cạnh tranh, khi nền kinh tế có biến động thì sự linh hoạt về giá cả và tiền công là nhân tố cơ bản khôi phục nền kinh tế về vị trí sản lượng tiềm năng với việc sử dụng hết nguồn lao động. Họ cho rằng chính sách kinh tế của Chính phủ không thể tác động vào sản lượng, nó chỉ có thể ảnh hưởng đến mức giá của nền kinh tế, do đó, vai trò của Chính phủ là mờ nhạt trong phát triển kinh tế (xem sơ đồ 2).
Sơ đồ 2. Các nhà kinh tế tân cổ điển cho rằng nền kinh tế đạt được mức sản lượng tiềm năng (Y=Y*).
Yo
GDP
AS-LR
AS-SR
AD
PL
PLo
AS-LR: Tổng cung dài hạn
AS-SR: Tổng cung ngắn hạn
5. MÔ HÌNH HARROD - DOMAR.
5.1. Sự ra đời của mô hình .
Dựa vào tư tưởng của Keynes, vào những năm 40 với sự nghiên cứu một cách độc lập, hai nhà kinh tế học là Roy Harrod ở Anh và Evsay Domar ở Mỹ đã cùng đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa sự tăng trưởng và thất nghiệp ở các nước phát triển. Mô hình này cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn
Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ một đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một nghành công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó.
5.2. Nội dung của mô hình Harrod - Domar .
Mô hình Harrod- Domar giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư.
Để xây dựng mô hình, các tác giả đưa ra 2 giả định:
Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế đối với cung lao động
Sản xuất tỷ lệ với khối lượng máy móc.
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng được thể hiện thông qua hệ số ICOR(Incremental Captital Output Ratio). Hệ số ICOR là tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng trưởng (còn gọi là hệ số đầu tư tăng trưởng). Hệ số ICOR cho biết muốn có một đồng tăng trưởng thì phải cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư.
Hệ số ICOR biểu hiện mối quan hệ giữa mức tăng sản lượng đầu ra (kỳ t) và mức đầu tư của kỳ (t-1) và được tính bằng công thức:
I = ∆K/∆y
Trong đó: ∆K - Mức thay đổi của vốn
∆y - Mức thay đổi của sản lượng
Hệ số ICOR phụ thuộc vào nguồn dự trữ và công nghệ sản xuất. ICOR càng cao chứng tỏ đầu tư càng đắt. Hệ số ICOR ở một số nước có xu hướng tăng và ICOR ở các nước phát triển thường cao hơn các nước đang phát triển.
Số liệu thống kê cho thấy hệ số ICOR thường nằm trong khoảng 3 và 4 trong Thế kỷ 19, nhưng hệ số ICOR khác nhau đáng kể giữa các ngành kinh tế. Mức tăng trưởng tiềm năng được tính bằng cách chia tỷ lệ đầu tư cho hệ số ICOR. Ví dụ một nước dùng 12% tổng thu nhập vào đầu tư mới và cần 3 đồng đầu tư để tăng 1 đồng kết quả/1năm, khi đó tốc độ tăng trưởng sẽ là 4%. Nếu hệ số ICOR cao hơn, giả dụ cần 4 đồng đầu tư mới để tăng 1 đồng kết quả/năm, khi đó mức tăng trưởng sẽ là 3%. Cần lưu ý rằng một nền kinh tế mạnh thường “sống bằng” 80% kết quả, 20% còn lại có thể dùng đầu tư mới và làm tăng mức tăng trưởng. Vì vậy một trong số nhân tố quyết định mức tăng trưởng là quy mô và sử dụng thặng dư xã hội.
Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao hơn tốc độ tăng dân số thì sản lượng bình quân đầu người không tăng. Nếu ta muốn tính tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đầu người thì phải trừ đi mức tăng dân số từ mức tăng trưởng kinh tế. Vì vậy theo ví dụ trên mức tăng trưởng 4%, mức tăng dân số là 2%/năm sẽ có mức tăng trưởng trên 1 đồng vốn đầu tư chỉ là 2%.
Tăng trưởng kinh tế hoạt động như lợi ích cận biên. Một nền kinh tế có sản lượng bình quân đầu người tăng ở mức 2%/năm sẽ gấp đôi sản lượng bình quân đầu người trong vòng 36 năm. Nếu tốc độ tăng giảm xuống còn 1,5% sẽ cần 48 năm để gấp đôi sản lượng. Nếu tốc độ tăng trưởng tăng lên 2,5%/năm sẽ cần khoảng 29 năm. Vì vậy, việc tăng hoặc giảm tốc độ tăng trưởng có ý nghĩa khi xét tác động của nó trong vòng 3 hoặc 4 thập kỷ (nguyên tắc 72 là phương pháp nhanh nhất để tính tác động của tăng trưởng tích luỹ. Đơn giản lấy 72 chia cho mức tăng trưởng hàng năm ta sẽ có kết quả là số năm cần để gấp đôi mức sản lượng bình quân đầu người).
Vì vậy, quá trình phát triển kinh tế bắt đầu khi có đầu tư đủ để chuyển mức tăng trưởng kinh tế trên mức tăng dân số và duy trì được sự tăng trưởng. Rostow, một sử gia kinh tế đã phát triển thuyết “giai đoạn” phát triển kinh tế, ông gọi điểm bắt đầu quan trọng là giai đoạn “cất cánh” và từ cất cánh được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên Rostow đã cố gắng để chứng tỏ rằng phần còn lại của quá trình phát triển kinh tế chắc chắn sẽ xảy ra (ít hoặc nhiều) khi giai đoạn “cất cánh” đã xảy ra, một gợi ý cho rằng từ “cất cánh” không hoàn toàn phù hợp với thực tế của lịch sử. Một nhà kinh tế khác gọi giai đoạn bắt đầu này là “sự đâm chồi” - bằng chứng của các dấu hiệu tăng trưởng đầu tiên.
Cần xét đến một số khía cạnh ít mang tính số lượng hơn của việc tăng trưởng. Một thời kỳ của tăng trưởng bền vững dẫn đến sự tăng trưởng bình thường. Các nhà lập chính sách hy vọng sẽ có tăng trưởng liên tục và sẽ sửa đổi chính sách nếu không tăng trưởng. Nếu thặng dư xã hội, hệ số ICOR và mức tăng trưởng kinh tế kết hợp mang lại cho xã hội tốc độ tăng trưởng 0,5%/năm/vốn đầu tư tăng trưởng, điều chắc chắn là không một ai muốn có tốc độ tăng trưởng này. Nếu tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức 0,5%/năm thì phải cần tới 144 năm để gấp đôi thu nhập từ 1 đồng vốn.
Ở góc độ toàn nền kinh tế, hệ số ICOR biểu hiện tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng trưởng GDP, ở nước ta tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP còn thấp so với các quốc gia trong khu vực. Vấn đề đặt ra là phải có các chính sách và biện pháp để tăng huy động vốn (cả về số lượng và tỷ lệ) và đặc biệt quan trọng là phải nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư.
Hệ số ICOR năm 1991 của Việt Nam là 0,39, tức là để có 1 đồng tăng trưởng cần phải đầu tư 0,39 đồng vốn. Đến năm 2001, số liệu này là 3,82. Thực tế cho thấy càng tiếp cận sâu rộng với thị trường Thế giới thì lợi thế cạnh tranh ban đầu sẽ giảm đi (tài nguyên phong phú, lao động rẻ). Nếu không phát huy được lợi thế cạnh tranh ban đầu và không tạo được những lợi thế cạnh tranh mới thì khó có thể đạt được mức tăng trưởng mong muốn.
Đầu tư vốn cho khoa học công nghệ là một hướng đầu tư quan trọng và mang tính đặc thù. Vốn đầu tư cho công nghệ sẽ mang lại hiệu quả cao trong phát triển dài hạn, tuy nhiên đây cũng là lĩnh vực đầu tư có nhiều rủi ro, ở các nước mới thực hiện công nghiệp hoá, chính phủ đóng vai trò hỗ trợ chính trong phát triển khoa học và công nghệ. Hiện nay ở nước ta quy định sử dụng 2% tổng ngân sách cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, nhưng trong thực tế chỉ đạt 1%, (chiếm 0,2% GDP). Đây là một tỷ lệ rất thấp và bất hợp lý so với tỷ lệ 2,5-3% ở các nước công nghiệp phát triển.
Theo phân tích của Báo đầu tư [5] thì nguyên nhân của đầu tư kém hiệu quả ở nước ta hiện nay, trước hết là do việc chọn và quyết định dự án đầu tư. Nếu thời kỳ 1991-1997, hệ số ICOR là 2,6 thì hiện nay đã tăng lên khoảng 5,0.
Cùng một đơn vị vốn có thể tạo ra những mức sản lượng rất khác nhau, phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu suất của một đơn vị vốn có thể giảm nếu việc quản lý lực lượng làm việc không hiệu quả hoặc không bảo đảm đủ nguyên vật liệu cho sản xuất, đồng thời cũng bị những rang buộc về lực lượng lao động. Vì những lý do này mà mức sản lượng thu được từ một lượng vốn sẽ rất khác nhau giữa các nước. So sánh mang tính quốc tế về hệ số ICOR sẽ gặp khó khăn trong việc tính sự thay đổi về vốn. Ví dụ, trong liên doanh liên kết đầu tư ở nước ta phần góp vốn đầu tư của nước chủ nhà thường tính bằng giá trị đất đai, nhà xưởng và thực tế ở nước ta giá đất quá đắt và thay đổi rất nhanh. Hoặc trong đầu tư xây dựng cơ bản thì chi phí cho giải phóng mặt bằng chiếm một phần rất lớn và chi phí này tăng lên theo giá đất đai…do vậy cũng gây khó khăn cho việc xác định giá trị đầu tư. Mặc dù có những khó khăn trong việc tính vốn đầu tư cũng như các yếu tố thuộc lĩnh vực quản lý, thì hệ số ICOR vẫn được sử dụng là một số đo hiệu quả đầu tư và so sánh hiệu quả đầu tư ở các nước khác nhau.
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế, không chỉ được đặt ra đối với nền kinh tế của một quốc gia mà còn phải đặt ra cho từng mục lĩnh vực, từng ngành kinh tế và từng đơn vị kinh tế. Việc đầu tư vào đâu, đầu tư bao nhiêu và đầu tư vào thời điểm nào để đạt được hiệu quả kinh tế cao là những vấn đề mà các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách, xây dựng dự án đầu tư phải nghiên cứu kỹ.
Đầu tư và tăng trưởng đang trở thành vấn đề kinh tế quan trọng hiện nay của đất nước. Tăng thêm vốn đầu tư và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đầu tư và tăng trưởng sẽ mang lại hiệu quả nếu có những giải pháp thích hợp.
CHƯƠNG III
XU HƯỚNG ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY ĐẾN NĂM 2020, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ĐẦU TƯ, THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ.
I. Xu hướng đầu tư Việt Nam đến năm 2020
1 Lĩnh vực đầu tư
Từ đầu thập kỉ 90 cho đến những năm 2005-2006, nhờ đẩy mạnh công nghiệp hóa, Việt Nam đã tập trung tương dối thỏa đáng cho công nghiệp(35 - 41% tổng đầu tư toàn xã hội), dịch vụ (48 - 50%), nông nghiệp(8,5 - 15%).
Cùng với những xu hướng chung của toàn thế giới và những điều kiện riêng, cụ thể của nước ta, các lĩnh vực đầu tư đang cónhững thay đổi theo chiều hướng tốt. Các nhà đầu đã tư đầu tư vào các ngành dịch vụ, đặc biệt là các khu vui chơi giải trí, các công trình bất động sản đã tăng mạnh. Có thể lí giải điều này là do tốc đọ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt mức cao và ổn định trong thời gian qua, vì vậy các nhà đầu tư sau khi điều tra thực tế đã thấy một hướng đầu tư đầy hứa hẹn nên đã cam kết đưa vốn đầu tư vào khu vực này.
Bên cạnh đó việc đầu tư vào khu vực công nghiệp cũng có những kết quả khả quan, do vậy xu hướng đầu tư vào các ngành công nghiệp vẫn là ưu tiên của các nhà đầu tư trong tương lai, mà chủ yếu là đầu tư vào các ngành công nghiệp sử dụng lao động có hàm lượng kĩ thuật cao,như điện tử viễn thông, các phần mềm…
Nhiều dự án có quy mô lớn được các địa phương cấp phép, đặc biệt là các dự án bất động sản ngày càng nhiều như xây dựng khu nghỉ dưỡng, căn hộ bán và cho thuê, xây dựng khách sạn cao cấp…
Tuy nhiên đầu tư vào lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp lại giảm, công nghiệp chế biến tăng nhưng không đáng kể.
2. Đầu tư vào vùng lãnh thổ
Các vùng, khu vực đều phát huy lợi thế để phát triển, tạo nên thế mạnh của mình theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Nhà nước tiếp tục thúc đẩy các vùng kinh tế trọng điểm phát huy vai trò đầu tàu tăng trưởng nhanh, đồng thời tạo điều kiện và đầu tư thích đáng hơn cho vùng nhiều khó khăn. Thống nhất quy hoạch phát triển trong cả nước, giữa các vùng, tỉnh, thàh phố, tạo sự liên kết trực tiếp về sản xuất, thương mại, đầu tư, giúp đỡ kỹ thuật vè nguồn nhân lực, Nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng và khu vực, gắn chặt phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ, cải thiện môi trường và quốc phòng an ninh.
Khu vực đô thị: Phát huy vai trò của các trung tâm hành chính, kinh tế, văn hoá trên từng vùng và địa phương, đi nhanh trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ, đi đầu trong việc phát triển kinh tế tri thức. Tạo vành đai nông nghiệp hiện đại ở các thành phố lớn. Quy hoạch mạng lưới đô thị với một số ít thành phố lớn, nhiều thành phố vừâ và hệ thống đô thị nhỏ phân bố hợp lý trên các vùng, chú trọng phát triển đô thị miền núi. Xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng đồng bộ theo quy hoạch. Đưa việc quy hoạch và quản lý đô thị vào nền nếp, ngày càng xanh sạch văn minh. Hoàn thiện quy hoạch giao thông lâu dài hợp lý ở tất cả các đô thị, khắc phục tình trạng ách tắc giao thông ở các đô thị lớn. Cung cấp đủ nước sạch thoát nước và xử lý hệ thống nước thải, xoá nhà tạm bợ. Đẩy lùi các tệ nạn xã hội, xây dựng đời sống văn hoá, tinh thần lành mạnh.
Khu vực nông thôn đồng bằng: Phát triển nông nghiệp sinh thái đa dạng trên nền cây lúa, cây rau, quả, chăn nuôi, thuỷ sản và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm. Hoàn thành điện khí hoá và thực hiện cơ giới hoá ở những khâu cần thiết. Nâng cao nhanh thu nhập trên một đơn vị diện tích nông nghiệp. Chuyển nhiều lao động sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Phát triển mạnh tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề, mạng lưới công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và các địch vụ.
Khu vực nông thôn trung du miền núi: Phát triển mạnh cây dài ngày, chăn nuôi đại gia súc và công nghiệp chế biến. Bảo vệ và phát triển vốn rừng. Hoàn thành và ổn định vững chắc định canh, định cư. Bố trí lại dân cư, lao động theo quy hoạch đi đôi với xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội để khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên. Phát triển kinh tế trang trại. Giảm bớt khoảng cách phát triển với nông thôn đồng bằng. Có chính sách đặc biệt phát triển kinh tế - xã hội ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, cửa khẩu.
Khu vực biển và hải đảo: Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển và hải đảo, phát huy thế mạnh đặc thù của hơn 1 triệu km2 thềm lục địa. Tăng cường điều tra cơ bản làm cơ sở cho các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế biển. Đẩy mạnh nuôi trồng và khai thác, chế biến hải sản, thăm dò khai thác chế biến dầu khí, phát triển đóng tàu thuyền và vận tải biển , mở mang du lịch, bảo vệ môi trường, tiến mạnh ra biển và làm chủ vùng biển. Phát triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai thác lợi thế của các khu vực cửa biển để tạo thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các vùng khác. Xây dựng căn cứ hậu cần ở một số đảo để tiến ra biển khơi. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh trên biển.
3. Cơ cấu đầu tư của các thành phần kinh tế
Trước cải cách kinh tế, khi nói đến đầu tư thì đó là đầu tư của Nhà Nước nhưng sau đổi mới đã xuất hiện các thành phần kinh tế khác như: Tư nhân, nước ngoài… Mặc dù kinh tế Nhà Nước vẫn đóng vai trò chủ đạo tuy nhiên đóng góp của tư nhân ngày càng rõ nét hơn và đầu tư của nước ngoài cũng ngày càng có nhiều đóng góp hơn vào GDP.
Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng kinh tế nói chung quy mô tổng ngân sách nhà Nước không ngừng tăng thêm nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau. Đi cùng sự mở rộng NSNN mứ chi cho đầu tư phát triển từ NSNN cũng tăng đáng kể. Tuy nhiên trong những năm tiếp theo, vốn đầu tư từ NSNN có chiều hướng tăng về giá trị tuyệt đối nhưng lại có xu hướng giảm tỉ trọng trrong vốn đầu tư toàn xã hội.nguồn vốn tín dụng của Nhà Nước cũng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ, trong những năm tiếp, nguồn vốn này sẽ có xu hướng cải thiện về mặt chất lượng và sẽ có nhiều phương thức tài trợ hơn nhưng tỉ trọng sẽ không có sự gia tăng đáng kể, sẽ tập trung vào nững ngành nghề có hiệu quả về kinh tế hay xã hội. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà Nước chủ yếu là đầu tư chiều sâu,mở rộng sản xuất, đỏi mới công nghệ hóa thiết bị dây chuyền công nghệ hiện đại của doanh nghiệp.
Vốn ODA chuyển vào Việt Nam ngày càng nhiều, trong đó khoản viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 15 - 20% . Việc sử dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả đang là yêu cầu cấp bách của Nhà Nước ta sau những vụ bê bối gần đây. Tuy nhiên cùng với sự nỗ lực của Chính phủ và với sự đôn đốc kiểm tra chặt chẽ của nhân dân thì nguồn vốn này ngày càng được sử dụng một cách hiệu quả, chủ yếu được sử dụng vào các ngành nghề như thủy lợi, thủy sản, nông lâm nghiệp, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, GD - ĐT, y tế…Cùng với sự kiện gia nhập WTO của Việt Nam thì sự gia tăng của FDI là một điều rất dễ thấy, càng có nhiều ngành nghề mà FDI đổ vào hơn.Tuy nhiên việc FDI đổ vào Việt Nam một cách dàn trải đang là bài toán nan giải cho các nhà lãnh đạo, việc cho phép những dự án nào hay phải từ bỏ những dự án nào cũng là những thử thách của nền kinh tế Việt Nam hiện nay và trong tương lai.
II. Xu hướng tăng trưởng và phát triển kinh tế Viêt Nam đến năm 2020
1. Đối với tăng trưởng kinh tế
Theo dự báo của cơ quan tình báo kinh tế Anh(EUI), tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 đạt 7% so với mức bình quân thế giới là 4%. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2011 - 2020 nếu không có những chính sách kinh tế mang tính đột phá thì tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình Việt Nam được dự báo sẽ sụt giảm đáng kể, chỉ đạt 4,6%.Do đó tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2006-2020 chỉ đạt mức 5,4 % mặc dù cao hơn mức trung bình của Châu Á nhưng vẫn thấp hơn Ấn Độ, Pakixtan, Trung Quốc. Trong giai đoạn 2008-2020, mặc dù còn nhiều khó khăn cho cả nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế Việt Nam nhưng với những chính sách phát triển nền kinh tế nội tại, đạt được những kết quả đáng kể và có được vị thế quan trọng nhất định trong tương lai gần.
Cũng theo EUI, tốc độ tăng GDP, GDP bình quân đầu người giai đoạn 2006-2020 của một số nước trên thế giới như sau:
Dự báo tốc độ tăng GDP, GDP bình quân đầu người giai đoạn 2006-2020
Đơn vị: %
Nước/Khu vực
Tốc độ tăng GDP
Tốc độ tăng GDP
bình quân đầu người
2006-2010
2011-2020
2006-2020
2006-2010
2011-2020
2006-2020
Thế giới
4,0
3,3
3,5
2,7
2,4
2,5
EU25
2,2
2,0
2,1
2,0
2,0
2,0
EU15
2,0
2,0
2,0
1,7
1,9
1,8
Châu Á
5,5
4,5
4,9
4,5
3,6
3,9
Châu Mỹ Latinh
3,6
3,0
3,2
2,4
2,1
2,2
Trung Đông và Bắc Phi
4,4
3,8
4,0
2,7
2,4
2,5
Cận Xahara
3,5
2,5
2,8
2,0
1,2
1,4
Mỹ
3,0
2,8
2,9
2,0
1,8
1,9
Pháp
2,0
1,8
1,9
1,6
1,6
1,6
Đức
1,8
1,9
1,9
1,7
2,0
1,9
Italia
1,5
0,8
1,0
1,5
1,0
1,2
Thổ Nhĩ Kỳ
4,9
4,1
4,4
3,6
3,3
3,4
Anh
2,1
2,4
2,3
1,7
2,0
1,9
Cộng hoà Séc
4,1
2,4
3,0
4,2
2,6
3,1
Hungary
3,3
3,1
3,2
3,6
3,4
3,5
Ba Lan
4,1
3,0
3,3
4,2
3,0
3,4
Rumani
4,5
3,3
3,7
4,7
3,5
3,9
Nga
4,7
2,6
3,3
5,1
3,0
3,7
Xlôvakia
5,3
3,5
4,1
5,1
3,4
4,0
Ucraina
5,7
3,5
4,2
6,3
3,9
4,7
Nhật Bản
1,1
0,5
0,7
1,2
0,8
0,9
Trung Quốc
7,8
5,1
6,0
7,2
4,5
5,4
Ấn Độ
6,6
5,5
5,9
5,2
4,3
4,6
Inđônêxia
5,6
5,0
5,2
4,2
3,9
4,0
Malaixia
5,3
4,8
5,0
3,4
3,1
3,2
Pakixtan
5,9
5,3
5,5
4,0
3,6
3,7
Philipin
5,2
4,7
4,9
3,4
3,1
3,2
Xingapo
4,5
4,0
4,1
3,6
3,4
3,5
Hàn Quốc
4,0
3,9
4,0
3,6
3,6
3,6
Đài Loan (TQ)
4,5
3,4
3,8
4,2
3,0
3,4
Thái Lan
4,5
4,7
4,7
3,8
4,2
4,1
Việt Nam
7,0
4,6
5,4
5,7
3,4
4,2
Áchentina
3,8
3,4
3,6
2,7
2,7
2,7
Braxin
3,9
2,9
3,2
2,6
2,1
2,3
Côlômbia
3,7
2,8
3,1
2,1
1,6
1,8
Chilê
5,2
4,3
4,6
4,0
3,5
3,7
Mêhicô
2,8
3,0
2,9
1,6
1,9
1,8
Nguồn: Cơ quan tình báo kinh tế Anh (EIU).
2. Đối với thương mại
Trong giai đoạn 2011 - 2020, nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế từng quốc gia phát triển nói riêng là cơ hội tốt cho xuất khẩu Việt Nam do cầu đối với hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam ngày càng cao. Bên cạnh đó, thị trường tiềm năng hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ rất lớn.Tuy nhiên xuất khẩu Việt Nam sẽ gặp sức ép cạnh tranh không nhỏ từ các nước ASEAN và các nước láng giềng Châu Á. Trong điều kiện năng lực cạnh tranh còn thấp, việc mất thị trường sân nhà là hoàn toàn có thể xảy ra, đặc biệt là đối với những hàng hóa có hàm lượng kĩ thuật công nghệ cao, Việt Nam là nước đi sau nên sẽ có nhiều khó khăn thách thức. Trong khuôn khổ WTO, là nước bị coi là có nền kinh tế phi thị trường sau 12 năm gia nhập (2007-2019),Việt Nam chắc chắn sẽ gặp những khó khăn hơn các nước trong cạnh tranh thương mại giải quyết theo luật định của WTO. Do vậy trong tương lai Việt Nam cần chú ý kết hợp hài hòa giữa hợp tác song phương, đa phương, và hợp tác quốc tế, cần chọn những giải pháp, những đối sách cụ thể đúng đắn thích hợp với sự phát triển của các đối tác.
3. Đối với các ngành kinh tế
- Công nghiệp: Tỉ lệ ngành công nghiệp chế tác sẽ tăng lên. Bên cạnh đó xu hướng dịch vụ ngoại biên chuyển công nghệ ra ngoài cũng tác động tích cực đến công nghệ Việt Nam, biến Việt Nam thành cơ sở sản xuất, lắp ráp cho các nước phát triển.
Do đó việc chọn lựa và ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp trọng điểm là rất cần thiết: Việt Nam cần tập trung nguồn lực phát triển một số ngành, lĩnh vực trọng điểm để có thể tạo ra bước phát triển nhảy vọt, phát huy tối đa lợi thế của Việt Nam trong phát triển kinh tế. Các ngành trọng điểm cần là những ngành có thế mạnh, có điều kiện phát triển ở Việt Nam, có khả năng thu hút nhiều lao động, tạo ra giá trị gia tăng cao, áp dụng quy trình công nghệ tiên tiến, hướng ra xuất khẩu. Ngoài ra, việc đánh giá, lựa chọn những ngành, lĩnh vực ưu tiên, mũi nhọn cần tiến hành trên cơ sở áp dụng các phương pháp định lượng, mang tính đo lường cụ thể
- Dịch vụ: Sẽ có thêm nhiều loại hình dịch vụ mới trong các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tham gia rất nhiều vào các lĩnh vực này, do đó, ngành dịch vụ Việt Nam sẽ phát triển rất mạnh, đa dạng về sản phẩm, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020.
Đặc biệt VIệt Nam đang tích cực nỗ lực cho một nền kinh tế tri thức: Cùng với xu thế chung của thế giới, Việt Nam đang hướng tới việc phát triển kinh tế tri thức. Nhiều nước phát triển trên thế giới hiện nay đã đạt đến trình độ phát triển cao, trong đó tri thức, công nghệ trở thành động lực phát triển kinh tế chính, tạo ra sức sản xuất, năng suất lao động vượt trội. Để có thể phát triển nhanh, bền vững và bắt kịp với những nước đó, Việt Nam tất yếu phải phát triển những ngành, lĩnh vực dựa trên tri thức, khoa học và công nghệ cao.
- Nông nghiệp và phát triển nông thôn: tập trung vào các sản phẩm:
+ Đối với trồng trọt tập trung vào lúa gạo đảm bảo an ninh lương thực, mở rộng diện tích trồng cao su
+ Chăn nuôi tập trung vào con lợn, gia cầm, bò thịt;
+Lâm nghiệp tập trung vào công tác khoanh nuôi, bảo vệ và trồng rừng kinh tế
+ Đối với ngành nuôi trồng thuỷ sản tập trung vào nuôi nước lợ, trong đó chủ yếu vẫn là con tôm sú, nuôi nước ngọt chủ yếu là cá tra và ba sa.
+ Đối với ngành khai thác thuỷ sản tập trung khai thác xa kinh tế
III.Thực trạng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư,thúc đẩy tăng trưởng phát triển Việt Nam hiện nay đến năm 2020
1.Thực trạng hiệu quả của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay
2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư,thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay đến năm 2020
2.1. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư:
Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn; tiếp tục đẩy nhanh tiến độ lập quy hoạch chi tiết, lập kế hoạch cụ thể hàng năm để tổ chức tốt việc đấu giá đất, tạo vốn đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm; khai thác tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân; tiếp tục thực hiện và mở rộng cơ chế phân cấp đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với một số công trình hạ tầng để huy động đa dạng các nguồn vốn trong xã hội.
Phân định rõ trách nhiệm trong quản lý đầu tư xây dựng; tăng cường trách nhiệm của các chủ đầu tư trong chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và thanh quyết toán công trình; qui định rõ vai trò, trách nhiệm của các cấp chính quyền, các ngành chức năng trong việc thanh tra, kiểm tra, giám sát đầu tư; đồng thời tạo điều kiện để người dân tham gia giám sát hoạt động đầu tư xây dựng.
2.2. Đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng
Trong điều kiện kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển tài việc đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng là điều hết sức quan trọng nhất là với những vùng kinh tế mới, cơ sở hạ tầng còn chưa đáp ứng đủ nhu cầu về đầu tư. Việt Nam cần ưu tiên phát triển tất cả các cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước nhưng chú trọng đặc biệt vẫn là hạ tầng giao thông, cụ thể là phát triển đường bộ, đường sắt, cao tốc, tàu điện ngầm…
Bên cạnh đó, cần ưu tiên phát triển cho ngành hàng không phục vụ cho đầu tư, du lịch và thương mại…
2.3. Nâng cao hiệu quả quản lí của Nhà Nước, cải thiện môi trường pháp lí, đơn giản hóa thủ tục hành chính
- Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi, điều chỉnh hoặc loại bỏ các điều kiện không phù hợp cam kết WTO của Việt Nam và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư. Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh
- Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
- Nghiên cứu xây dựng, củng cố hệ thống quản lý kênh thông tin đầu tư nước ngoài , tiến đến dần kết nối các đầu mối quản lý đầu tư trong cả nước địa phương để đảm bảo tốt chính sách hậu kiểm.
- Tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức, nhân sự quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài các cấp đáp ứng nhu cầu tình hình mới. Đồng thời, đẩy mạnh công tác chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí.
- Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý dự án đầu tư giữa Trung ương với địa phương và các Bộ, ngành liên quan.
- Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm soát sau cấp phép nhằm hướng dẫn việc thực hiện đúng pháp luật và ngăn chặn các vi phạm pháp luật. Tiếp tục rà soát các dự án để có hình thức xử lý phù hợp, hỗ trợ dự án nhanh chóng triển khai sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Thực hiện việc thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án không triển khai đúng tiến độ cam kết để dành quỹ đất cho các dự án mới..
- Tổ chức hướng dẫn các địa phương xây dựng Đề án quy hoạch phát triển các khu công nghiệp và phối hợp với các đơn vị nghiên cứu phương án điều chỉnh Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp cả nước với biện pháp bảo vệ môi trường.
- Phối hợp với các đơn vị, cơ quan theo dõi, giải quyết kịp thời các vấn đề đình công, bãi công của công nhân trong khu công nghiệp, đặc biệt là trong các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế ‘liên thong - một cửa’ ở các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư.
- Tăng cường năng lực quản lý đầu tư nước ngoài của các cơ quan chức năng và cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra hoạt động đầu tư; giải quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, thuế, xuất nhập khẩu, hải quan,... nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư nươc ngoài, qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam.
2.4. Khuyến khích đầu tư hiệu quả trên tất cả lĩnh vực
- Tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó ban hành quy chế khuyến khích tư nhân, đầu tư nâng cấp các công trình giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng.
- Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa - y tế - giáo dục, bưu chính - viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu,
2.5. Chú trọng đầu tư nguồn nhân lực
- Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động, bao gồm: (i) Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động; (ii) Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
- Triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, nhất là về nhà ở và điều kiện sinh hoạt của người lao động.
- Tiếp tục tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, kể cả về cán bộ quản lý các cấp và cán bộ kỹ thuật.
- Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành
2.6. Về xúc tiến đầu tư:
Tăng cường phối hợp hoạt động xúc tiến đầu tư giữa TW và địa phương. Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương.
Nhanh chóng ban hành Quy chế phối hợp và triển khai các bộ phận xúc tiến đầy tư ở một số địa bàn trọng điểm. Đổi mới phương thứcấuc tiến đầu tư, chuyển mạnh sang hình thức vận động đầu tư theo dự án và đối tác trọng điểm, tiếp cận và vận động các công ty, tập đoàn lớn có thực lực về tài chính- công nghệ cao đầu tư vào Việt Nam. Tổ chức hiệu quả các hội thảoấuc tiến đầu tư ở trong và ngoài nước.
KẾT LUẬN
Tóm lại, đầu tư và tăng trưởng phát triển kinh tế là những vấn đề kinh tế quan trọng của đất nước. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế, không chỉ được đặt ra đối với nền kinh tế của một quốc gia mà còn phải đặt ra cho từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế và từng đơn vị kinh tế.
Đầu tư trong những năm qua đã thực sự góp phần quan trọng vào tăng trưởng phát triển kinh tế và trở thành một bộ phận không thể thiếu trong chính sách thúc đẩy kinh tế theo chiều rộng và sâu của Chính Phủ. Trong điều kiện mới, thời đại kinh tế quốc tế, đầu tư đạt ra những yêu cầu mới cho sự phát triển mỗi quốc gia nói chung, mỗi thành phần kinh tế nói riêng phải có những định hướng đúng cho tương lai của mình.
Việc đổi mới cơ chế đầu tư thông thoáng hơn đặc biệt là sau năm 1986, đã thu được những thành tựu quan trọng, thể hiện rõ nhất là tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng lên rõ rệt, đưa nước ta từ một nước lạc hậu lên một nước công nghiệp hóa hiện đại hóa theo dự kiến vào năm 2020. Luật đầu tư và sửa đổi luật đầu tư cho phù hợp sẽ làm cho đầu tư có hiệu quả hơn, nhất là việc đầu tư vào một số ngành trọng điểm.
Tuy nhiên trong công tác đầu tư những năm qua còn có nhiều vướng mắc là do nhiều nguyên nhân như cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu, thủ tục pháp lý còn rườm rà hay do cơ chế chưa minh bạch…Do đó, để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng đã đặt ra, chúng ta còn rất nhiều việc phải làm để gia tăng vốn và hiệu quả đầu tư. khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, không hiệu quả, cải cách cơ chế, minh bạch hóa đầu tư… là những việc rất cần trên con đường phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Việc phân tích đánh giá vai trò của đầu tư đối với quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư cho ta thấy được sự quan trọng của đầu tư và những phương hướng giải pháp cần có trong tương lai để đưa nước ta lên thời đại mới, văn minh, hiện đại hơn.
Do khuôn khổ bài làm có hạn và kiến thức còn nhiều thiếu sót, chúng em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Giáo trình kinh tế đầu tư _ NXB Đại học kinh tế quốc dân.
2/ Giáo trình kinh tế phát triển _ NXB Đại học kinh tế quốc dân.
3/ Giáo trình kinh tế vi mô _ NXB Đại học kinh tế quốc dân.
4/ Trang web Đại học kinh tế quốc dân:
5/ Trang web Bộ kế hoạch và đầu tư:
6/ Trang web tổng cục thống k ê:
7/
8/ Hệ số đầu tư tăng trưởng _ Nguyễn Thái Hà.
9/ Một số vấn đề về vốn và đầu tư _ Bùi Bá Cường , Bùi Trinh.
10/
11/
12/
13/
14/ Tạp chí tia sáng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26146.doc