Cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, Đảng và nhà nước thường xuyên chăm lo đổi mới và phát triển DNNN. CPH DNNN được coi là một trong những chủ trương, giải pháp hữu hiệu trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại DNNN. Tuy nhiên CTCP và quá trình CPH ở nước ta vẫn là những vấn đề khá mới, bởi một thời kì dài bao cấp đã thủ tiêu động lực trong nhiều DNNN. Chính vì vậy nhà nước đã rất thận trọng trong quá trình tổ chức thực hiện, nhằm tránh các hậu quả do quá trình thực hiện không tốt đem lại.
Thực hiện chủ trương CPH DNNN của Đảng và Nhà nước, thời gian qua thành phố HN đã thu được nhiều thành công công tác CPH DNNN do thành phố quản lý. Tuy nhiên quá trình thực hiện còn bộc lộ một số vướng mắc cần tháo gỡ, khắc phục để tiến trình CPH đạt kết quả cao hơn. Trong thời gian tới thành phố cần tiếp tục duy trì tốc độ CPH, đảm bảo vẫn là thành phố đạt số lượng DN CPH nhiều nhất cả nước, xứng đáng với địa vị thủ đô ngàn năm văn hiến, luôn đi đầu trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Các biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN hiện nay cần làm thất tốt để đạt mục tiêu cuối cùng là nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNNN trong nền kinh tế, cải tạo vị thế của đất nước trên thế giới, làm cho bộ mặt của thành phố nói riêng và đất nước nói chung ngày càng giàu đẹp.
100 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1620 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa các DNNN của thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấu hợp lý của khu vực DNNN, huy động thêm vốn thúc đẩy DN làm ăn có lãi.. là những nhiệm vụ chính cần hoàn thành.
- Mục tiêu cụ thể: theo dự kiến đến hết năm 2010, cả nước sẽ phải thực hiện sắp xếp và CPH trên 1500DN và 71 tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ, riêng các Dn thành viên của tổng công ty Nhà nước phải hoàn thành trong năm 2008. Như vậy, đến cuối năm 2010 cả nước sẽ chỉ còn 554 DN 100% vốn Nhà nước, trong đó có 26 tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn, 178 DN hoạt động trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ thiết yếu; 200 nông, lâm trường; 150 DN thành viên các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước. Trong khi chưa thực hiện được CPH tổng công ty thì tiến hành CPH tất cả các DN thành viên và chuyển sang hoạt động theo mô hình mẹ-con.
Chủ trương cổ phần hóa của thành phố Hà Nội giai đoạn 2008-2010
Là một địa phương có lực lượng lớn các DNNN trên địa bàn, lại được Nhà nước giao trách nhiệm quản lý nhiều DNNN, trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cùng việc khuyến khích và tạo điều kiện phát triển mạnh các thành phần kinh tế của nhà nước, thành phố Hà nội đã nhận thức sâu sắc vai trò của các DNNN và sự cần thiết phải sắp xếp lại và đổi mới quản lý các DNNN do địa phương quản lý. Công tác sắp xếp lại và đổi mới quản lý DNNN được coi là một trong những trọng tâm công tác của các cấp ủy Đảng và chính quyền từ thành phố đến các quận huyện và doanh nghiệp. Tiếp tục sắp xếp lại các cơ sở kinh tế Nhà nước, giảm bớt các cơ sở không cần duy trì hình thức DNNN, những cơ sở không quan trọng, làm ăn thua lỗ kéo dài. Thành phố cần tập trung nguồn lực phát triển kinh tế Nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng bảo hiểm, những cơ sỏ sản xuất và thương mại dịch vụ then chốt. Bỏ cơ chế quản lý “cấp chủ quản”, nâng lực chất lượng quản lý của các Sở chuyên ngành. Đổi mới và tăng cường vai trò của Nhà nước và kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực phân phối lưu thông. Phát triển đẩy mạnh CPH DNNN, trừ một số DN đặc biệt quan trọng cần duy trì 100% vốn Nhà nước, nói chung Nhà nước chỉ nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, còn lại chủ yếu bán ra ngoài DN. Quá trình CPH phải làm cho phần vốn của Nhà nước tăng lên. Mở rộng các hình thức huy động vốn và các hình thức liên doanh, liên kết, góp cổ phần giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân cả trong và ngoài nước. Xây dựng một số tổng công ty mạnh hoặc hiệp hội sản xuất- kinh doanh theo ngành nghề, liên kết các thành phần kinh tế, các cơ sở sản xuất- kinh doanh của TW và địa phương trên địa bàn.
Chủ trương này của Đảng bộ thành phố là cơ sở định hướng cho việc xác định phương án và chỉ đạo thực hiện sắp xếp lại và đổi mới quản lý các DNNN của Hà Nội.
Phương hướng cổ phần hóa DNNN giai đoạn 2008-2010
Tình hình DNNN hiện tại
Tính đến thời điểm hiện nay Thành phố Hà Nội có 77 DN 100% vốn nhà nước, gồm :
5 công ty mẹ thuộc các tổng công ty nhà nước hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con (TCT Vận tải, TCT Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, TCT Du lịch, TCT Thương mại và TCT Đầu tư phát triển nhà).
3 công ty nhà nước hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con ( Công ty Điện tử Hà Nội; Công ty Sản xuất kinh doanh đầu tư và dịch vụ Việt Hà; Công ty Sản xuất và xuất nhập khẩu Hà Nội).
40 công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước 1 thành viên (1 công ty chuyển đổi năm 2003, 6 công ty chuyển đổi năm 2004 và 28 công ty chuyển đổi năm 2005 và 5 công ty chuyển đổi trong 6 tháng đầu năm 2006).
29 CT NN đang thực hiện sắp xếp theo phương án tổng thể được chính phủ phê duyệt
Ngoài các công ty 100% vốn Nhà nước, thành phố Hà nội còn có 111 CTCP có vốn Nhà nước tham gia với tổng giá trị cổ phần là 520.9 tỷ đồng.
Phương hướng cổ phần hóa DNNN thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội từ nay đến năm 2010
Ngày 25/4/2007 Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định số 479/QĐ-TTg phê duyệt phương án sắp xếp, đổi mới DNNN thuộc thành phố HN. Theo quyết định này, lộ trình CPH từ năm 2008 đến 2010 như sau:
Biểu 3.1. Kế hoạch cổ phần hóa của thành phố Hà Nội
giai đoạn 2008-2010
TT
Tên DN
Số lao động (người)
Vốn nhà nước (triệu đồng)
Thời điểm CPH
1.
CT khai thác điểm đỗ xe HN
644
50466
2008
2
CT mẹ (tổng công ty du lịch HN)
850
353942
2008
3
CT quản lý bến xe HN
342
34348
2008
4
CT sản xuất-NXK tổng hợp HN
2500
130429
2008
5
CT TM và ĐT PT HN
150
8550
2008
6
CT TNHH NN 1TV khảo sát đo đạc HN
250
4930
2008
7
CT TNHH NN 1TV 18/4
370
25650
2008
8
CT TNHH 1TV chiếu sáng và TB ĐT
528
42000
2008
9
CT TNHH 1 TV cung ứng năng lượng và TMQT
128
70000
2008
10
CT TNHH 1 TV dệt 19/5
710
33561
2008
11
CT TNHH 1 TV dệt Minh Khai
800
34974
2008
12
CT TNHH 1 TV Địa chính HN
360
7784
2008
13
CT TNHH 1 TV Điện cơ thống nhất
782
37387
2008
14
CT TNHH 1 TV Giầy thượng đình
1813
57712
2008
15
CT TNHH 1 TV giầy Thụy Khuê
1076
30240
2008
16
CT TNHH 1 TV mai động
650
18542
2008
17
CT TNHH 1 TV Sách HN
344
35000
2008
18
CT TNHH 1 TV Thống nhất
550
78973
2008
19
CT XNK và xây dựng nông lâm nghiệp
260
13400
2008
20
TCT vận tải HN
798
603395
2008
21
CT mẹ- TCT kinh doanh nước sạch
1983
449388
2009
22
CT SXKDĐT dịch vụ Việt Hà
385
295423
2009
23
CT TNHH 1 TV giống gia súc
248
61000
2009
24
CT TNHH 1 TV bao bì 27/7
707
31567
2009
25
CT TNHH 1 TV cơ điện công trình
173
59000
2009
26
CT TNHH 1 TV công trình giao thông
450
21776
2009
27
CT TNHH 1 TV Đầu tư và phát triển nông thôn
792
31031
2009
28
CT TNHH 1 TV Hồ tây
118
26000
2009
29
CT TNHH 1 TV nghe nhìn HN
78
9306
2009
30
TCT thương mại HN (CT mẹ)
1827
195925
2009
Tổng
Nguồn: Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển DN thành phố
Như vậy, sau khi hoàn thành kế hoạch CPH vào cuối năm 2009, thành phố chỉ còn giữ lại 12 DN 100% vốn nhà nước hoạt động theo mô hình CT TNHH 1 TV đối với các DN công ích hoặc quản lý nhiều nhà cửa, đất đai với diện tích lớn và nhạy cảm.
Ngoài ra, thành phố còn kiến nghị đề xuất hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý trong tổ chức và hoạt động của DN nhằm phát huy tối đa hiệu quả sử dụng các nguồn lực của DN. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần kinh tế trên địa bàn thành phố. Tiếp tục rà soát, dánh giá hiệu quả hoạt động của các CTCP có vốn nhà nước tham gia, thực hiện bán đấu giá cổ phần nhà nước tại các CTCP mà nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ vốn, đặc biệt là các CTCP nhà nước chi phối vốn.
Các biện pháp chủ yếu đẩy mạnh CPH DNNN của thành phố Hà Nội
Các giải pháp về tài chính
* Ý nghĩa của giải pháp tài chính đối với vấn đề CPH: Một trong những khó khăn lớn làm chậm tiến trình CPH như đã phân tích ở trên chính là vấn đề giải quyết tài chính của DN trước CP, để hoàn thiện hồ sơ, phương án kinh doanh cũng như định giá DN để tiến hành CPH. Vì vậy, có thể nói, giải pháp tài chính là giải pháp quan trọng nhất trong các giải pháp nhằm thúc đẩy CPH DNNN. Vấn đề tài chính luôn là vấn đề phức tạp nhất trong các DN, nhất là các DNNN, hoạt động theo cơ chế cũ, nay phải chuyển sang hạch toán kế toán theo phương pháp mới để có bản kê khai tài chính minh bạch nhằm thực hiện chuyển đổi thành CTCP thành công. Đã có rất nhiều các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính về vấn đề xử lý tài chính của các DN. Song mỗi một địa phương, một DN,mỗi một ngành nghề khác nhau lại có những nhận thức, thói quen làm việc khác nhau nên xử lý tài chính quả là một vấn đề vô cùng phức tạp. Nhưng nếu thực hiện tốt giải pháp này, phù hợp với xu thế mới thì chắc chắn tốc độ CPH sẽ đạt nhanh hơn nữa, và những rắc rối gây ra trong vấn đề định giá DN sẽ không còn nghiêm trọng như hiện nay.
Đẩy nhanh tốc độ xử lý các khoản nợ trong DNNN của thành phố Hà Nội
Cho đến nay không có báo cáo chính thức cũng như không có số liệu chính xác dư nợ vốn vay của các DNNN tại các NHTM. Tuy nhiên, bản thân chính từng ngân hàng có được số liệu khá đầy đủ về công nợ vốn vay của từng DN, song số liệu đó không được công bố. Hiện nay, các NHTM đều có sự chỉ đạo trong toàn hệ thống chi nhánh toàn quốc, có chiến lược lựa chọn khách hàng để cho vay vốn. Thông qua chiến lược đó có thể phân chia các DNNN hiện nay về thực trạng nợ quá hạn với các ngân hàng thương mại theo một số nhóm chủ yếu như :
Với các TCT: Đây là nhóm DN có số nợ xấu khá lớn. Số nợ vốn vay này tập trung chủ yếu ở các ngân hàng như Ngân hàng công thương, ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt nam.. Số nợ ước tính hiện nay lên đến 12300 tỷ đồng, chủ yếu là nợ xấu, đã được các ngân hàng thương mại xử lý dự phòng rủi ro.
Với các DN xuất nhập khẩu thương mại, dịch vụ công trình giao thông xây dựng, chế biến nông sản, may mặc, cung ứng vật tư nông nghiệp, in ấn.. cũng có số nợ lên đến 2500-3000 tỷ đồng.
Việc thu nợ quá hạn tại các DNNN của NHTM gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khoản nợ rơi vào tình trạng khê đọng. Đây là lực cản khá lớn cho quá trình CPH, vì tài chính và định giá công ty khó có thể chính xác và nhanh chóng nếu có quá nhiều khoản nợ đọng như vậy. Như vậy, xử lý nợ xấu là một trong những vấn đề quan trọng đặt ra trong quá trình CPH hiện nay. Một số hướng giải quyết cụ thể đối với các khoản nợ như sau:
Nếu là các khoản nợ khó đòi do nguyên nhân khách quan, như DN phá sản, giải thể, thua lỗ không có khả năng trả nợ và các khoản nợ khác đã quá hạn từ 3 năm trở lên thì được hạch toán vào kết quả kinh doanh (nếu DN hoạt động có lãi) hoặc giảm giá trị DN (nếu DN hoạt động không có lãi).
Nếu là các khoản nợ khó đòi do nguyên nhân chủ quan đã quy được trách nhiệm cá nhân hoặc tập thể thì phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật hiện hành, phần tổn thất còn lại được xử lý như các khoản nợ do nguyên nhân khách quan nêu trên. Ngoài ra DN được quyền bán nợ cho các tổ chức mua bán nợ. Các khoản nợ được xử lý nói trên giao cho công ty mua bán nợ theo dõi và thu hồi cho nhà nước.
Nếu là các khoản nợ ngân sách mà DN đã đầu tư vào tài sản cố định thì được coi như phần vốn nhà nước để lại DN để chuyển đổi sở hữu, nếu DN do thua lỗ không có khả năng trả nợ thì cho xóa nợ.
Với các DN vay nợ ngân hàng quốc doanh thì:
Nếu các DNNN gặp khó khăn trong thanh toán, không cân đối được nguồn để thanh toán các khoản nợ thì được khoanh các khoản nợ quá hạn có đến thời điểm quyết định chuyển đổi sở hữu trong thời gian từ 3 đến 5 năm .
Nếu các DNNN bị thua lỗ, mất khả năng thanh toán thì cho phép xóa nợ lãi vay ngân hàng, nếu vẫn còn bị lỗ thì tiếp tục xem xét xử lý nợ gốc tương ứng với phần lỗ của DN sau khi xử lý nợ ngân sách. Phần nợ gốc quá hạn còn lại, DN phối hợp với ngân hàng chủ nợ và các tổ chức mua bán nợ thuộc ngân hàng để xử lý theo hướng bán nợ (trước khi CPH).
Các khoản tổn thất của Ngân hàng thương mại quốc doanh do khoanh nợ hoặc xóa nợ cho DNNN trước khi thực hiện chuyển đổi sở hữu được hạch toán vào chi phí hoạt động kinh doanh, quỹ bù đắp rủi ro của ngân hàng, giảm trừ vào nợ vay của ngân hàng nhà nước hoặc được ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần khi các NHTM không đủ nguồn để bù đắp.
Với các DN vay nợ nước ngoài mà có bảo lãnh của các Bộ, ngành, UBND thì cơ quan bảo lãnh chủ trì đàm phán với các chủ nợ để giảm số nợ đến mức thấp nhất và bố trí ngân sách để trả nợ, DN có trách nhiệm hoàn trả ngân sách.
Với các DNNN nợ bảo hiểm xã hội của người lao động đang làm việc cho DN thì DN có trách nhiệm thanh toán dứt điểm trước khi chuyển đổi sở hữu, trường hợp DN không có khả năng thanh toán thì được dùng tiền thu từ chuyển đổi sở hữu chi trả, nếu còn thiếu sẽ do quỹ sắp xếp và CPH DNNN chi trả.
Hoàn thiện việc xác định giá trị DN khi tiến hành CPH
1.2.1. Hoàn thiện phương pháp định giá DN
Vướng mắc lớn nhất trong quá trình CPH là việc xác định giá trị DN, cả theo phương pháp tài sản và phương pháp dòng tiền chiết khấu. Mấu chốt của vấn đề chính là việc xác định giá trị đất đai và các lợi thế vế thương hiệu…
Vì vậy, hoàn thiện việc xác định giá trị DN đang là vấn đề cấp bách. Theo thông tư hướng dẫn xác định giá trị DN khi chuyển DNNN sang CTCP có quy định hai phương pháp xác định giá trị DN là xác định theo giá trị tài sản và xác định theo dòng tiền chiết khấu.
* Theo phương pháp tài sản thì giá trị thực tế của DN CPH là toàn bộ tài sản hiện có của DN tại thời điểm CPH có tính đến khả năng sinh lời của DN mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Giá trị thực tế vốn Nhà nước tại DN là giá trị thực tế của DN sau khi đã trừ đi các khoản nợ phải trả, số dư quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp. Phương pháp này về cơ bản phù hợp với nguyên tắc thị trường nhưng còn mang nặng tính hình thức. Dù đã thay đổi một số quy định mang tính kĩ thuật qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung quy định pháp lý về CPH, nhưng bản chất vẫn là đánh giá trên sổ sách. Do đó, để hoàn thiện hơn phương pháp này cần quan tâm đến các nội dung sau :
- Thứ nhất : định giá tài sản hữu hình cần tham khảo giá thị trường của tài sản tương tự hoặc cùng loại và có phát hành thành tài liệu chính thức. Bên cạnh đó cần xem xét đến sự hao mòn vô hình của tài sản hữu hình. Bổ sung hướng dẫn về xác định giá trị tài sản vô hình trong trường hợp trên thực tế tài sản cố định đã hết khấu hao thu hồi nhưng trong thực tế DN vẫn tiếp tục sử dụng có hiệu quả, mang lại thu nhập cho DN, đặc biệt với những DN có tỷ trọng giá trị tài sản lớn.
- Thứ hai : định giá tài sản vô hình phải dựa vào chi phí và khả năng sinh lời. Đối với tài sản vô hình xác định được chi phí thì xác định chi phí dựa vào chi phí để tạo lợi thế và khả năng sinh lời. Đối với tài sản vô hình không xác định được chi phí thì việc định giá phải dựa vào khả năng sinh lời. Trong đó, có một loại tài sản vô hình là lợi thế của loại hình DN không dựa dẫm vào bao cấp về vốn và tài chính của Nhà nước, mà tự chủ về tài chính, tự huy động vốn và kinh doanh có lãi, tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh luôn ở mức cao. Hiện nay nên điều chỉnh lại quy định về căn cứ xác định lợi thế của DN, thay vì lấy tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước chuyển sang dùng lợi nhuận trên vốn kinh doanh để xác định lợi thế DN.
* Định giá theo phương pháp dòng tiền chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định. Phương pháp này tuy vẫn dựa trên nền tảng xác định giá trị vốn nhà nước nhưng tiềm ẩn hai mối lo ngại đối với các nhà đầu tư: Một là giá trị vốn nhà nước dựa trên khả năng sinh lời trong tương lai, trong khi rất khó xác định khả năng này trong điều kiện Việt Nam, đặc biệt đối với DN CPH từ DNNN. Hai là, khi tính giá trị thực tế của DN lại bao hàm luôn cả các khoản nợ, số dư quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp (nếu có). Vì vậy, giải pháp cho việc định giá theo phương pháp này là phải tiến hành xác định rõ các khoản nợ, dự đoán và phân tích tình hình kinh tế, tài chính của đất nước trong tương lai sẽ có ảnh hưởng thế nào đến khả năng kinh doanh và cạnh tranh của DN, để xác định được một cách gần chính xác khả năng sinh lời của DN. Từ đó sẽ xác định được giá trị của DN thuận lợi hơn và ít rủi ro hơn.
1.2.2. Hoàn thiện cơ chế định giá DN CPH.
Cơ chế định giá DN hiện nay còn mang nặng tính chủ quan của Hội đồng thẩm định, vì vậy kết quả định giá thiếu khách quan, chưa phản ánh đúng giá trị thật. Phương pháp phổ biến trước đây là phương pháp đấu thầu. Phương pháp này áp dụng cho DN nhỏ, yêu cầu về phía DN phải chuẩn bị đầy đủ thông tin về DN minh, tiếp thị rộng rãi để thu hút các nhà đầu tư dự thầu. DN còn phải đặt ra và sắp xếp các tiêu chí đánh giá đấu thầu công khai và rõ ràng. Đối với các nhà đầu tư tham gia đấu thầu phải có trình độ quản lý; có thực lực tài chính; có phương án hoạt động kinh doanh khả thi nhằm khôi phục, phát triển DN trong tương lai. Cơ chế định giá này phụ thuộc nhiều vào nhận định chủ quan của Hội đồng xét duyệt. Vì vậy, hướng khắc phục hiện nay là chuyển từ cơ chế định giá DN thông qua đấu thầu sang niêm yết cổ phần thông qua thị trường chứng khoán để tăng cường hình thức định giá theo cơ chế thị trường, sát với giá thị trường và giá trị thực tế của DN. Phương pháp này áp dụng được cho cả các DN khó định giá, bằng hình thức phát hành cổ phiếu bán ra thị trường và nhờ vào giá trị của cổ phiếu được chấp nhận mua bán giao dịch trên thị trường để định giá DN. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi yêu cầu cao hơn đối với DN so với phương pháp trên, đó là : DN phải cung cấp thông tin công khai về tình trạng tài chính như công nợ, tình trạng tài sản để người tham gia mua bán có thể đánh giá đúng tài sản và khả năng sinh lời của DN; DN cũng cần phải có tính chuyên môn hóa cao trong việc bán cổ phần. Mặt khác, hình thức niêm yết cổ phần cũng có một số hạn chế, cụ thể là không thu hút được các nhà đầu tư chiến lược, có khả năng quản lý và tiềm lực tài chính lớn trong khi số cổ phần bán ra bị phân tán.
1.2.3. Đổi mới công tác tổ chức định giá DN CPH
Cần có cơ chế và thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát định giá DN, kiểm tra các đơn vị tham gia thực hiện định giá DN như qui trình hoạt động, chất lượng dịch vụ, nhân sự chứ không khoán trắng như hiện nay. Cơ quan có thẩm quyền kiểm tra giám sát là cơ quan qui định trong pháp lệnh thẩm định giá đã ban hành. Cơ quan này có nhiệm vụ thực hiện một số điều kiện tiền đề cho việc tổ chức định giá DN cho CPH, cụ thể là quy chuẩn hóa các báo cáo của các tổ chức định giá theo mẫu quy định chung, nâng cao năng lực và chất lượng của định giá viên, các nhà quản lý. Các cơ quan chức năng cần tổ chức những lớp bồi dưỡng chuyên môn cho người làm nhiệm vụ này ở các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tư vấn.
Cơ chế định giá DN thông qua niêm yết cổ phần trên thị trường chứng khoán hiện nay dặt ra vấn đề cần có những báo cáo tài chính chính xác và minh bạch của các DN tham gia niêm yết. Một phương tiện giúp đưa ra các báo cáo tài chính là hoạt động kiểm toán. Kiểm toán có một ý nghĩa rất lớn đối với việc định giá DN :
- Thứ nhất, kiểm toán độc lập giúp cho việc định giá DN phù hợp hơn, khách quan hơn, sát hơn với giá trị thị trường của DN.
- Thứ hai, kiểm toán độc lập báo cáo tài chính hàng năm giúp loại bỏ yếu tố chủ quan của kế toán và người quản lý DN. Do đó, báo cáo tài chính năm có thể phản ánh đúng thực trạng của tài sản và kết quả kinh doanh thực của DN.
- Thứ ba, kiểm toán làm tăng cường chất lượng công tác kiểm tra giám sát việc định giá DN.
Vì vậy cần chú trọng công tác kiểm toán và nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm toán để nâng cao hiệu quả của cơ chế định giá DN hiện nay.
1.2.4. Cải cách hành chính trong định giá DN
- Quy định rõ ràng, cụ thể và minh bạch hóa về tiêu chuẩn, điều kiện, qui trình và thủ tục xóa nợ thuế và khoản nợ khó đòi về sử dụng lãi phát sinh để bù lỗ các năm trước, bù đắp các khoản tổn thất về tài sản, công nợ phát sinh trong quá trình xử lý tài chính.
- Việc quy định thời gian cho định giá DN không nên cứng nhắc là tối đa không quá 30 ngày đối với DN và 60 ngày đối với toàn tổng công ty. Quy định này chỉ nên có tính chất hướng dẫn chứ không nên có tính chất cưỡng chế, đặc biệt trong trường hợp DN định giá theo phương pháp dòng tiền chiết khấu.
- Cần tránh các biểu hiện gây khó khăn cho các DN CPH tại các cơ quan có thẩm quyền quyết định phương án CPH. Tìm cách tạo điều kiện thuận lợi và giải quyết nhanh chóng cho các DN, cùng các DN tìm hiểu các khó khăn và tháo gỡ các khó khăn đó.€
Tăng cường vai trò lãnh đạo và nâng cao nhận thức về CPH
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với công tác CPH DNNN
- Sự lãnh đạo của Đảng với các DNNN là một vấn đề có tính nguyên tắc. Thực tiễn cho thấy, DN nào có đảng bộ vững mạnh, chấp hành luật pháp, đảng viên gương mẫu, lãnh đạo DN và đảng ủy đoàn kết nhất trì thì nơi đó sản xuất kinh doanh phát triển. Và ngược lại, DN càng phát triển và tăng trưởng thì càng có điều kiện vật chất để tổ chức Đảng phát huy vai trò lãnh đạo của mình trong DN. Củng cố và hoàn thiện tổ chức Đảng để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng phù hợp với đặc điểm tổ chức quản lý DN trong điều kiện mới.
- Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với các DNNN theo hướng: cơ quan Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh, chỉ tập trung vào việc hoạch định chiến lược, đề ra cơ chế, chính sách để định hướng và dẫn dắt DN hoạt động có hiệu quả. Cán bộ quản lý ngành thực hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành với mọi thành phần kinh tế, không phân biệt các loại hình DN, đặc biệt tạo điều kiện cho các DN thuộc các loại hinh khác nhau được tiếp cận với nguồn tín dụng một cách thuận lợi nhất. Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý theo hướng không phân biệt sở hữu, tạo môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng. Quy định cụ thể về nhà đầu tư tiềm năng và tổ chức mời họ mua cổ phần. Mở rộng đối tượng cổ phần hóa, đẩy mạnh công tác cải cách hành chính trong quy trình CPH DNNN, đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian thực hiện trong các bước.
- Việc tiến hành CPH phải trên cơ sở phương án đầu tư phát triển kinh doanh, để xác định rõ nhu cầu vốn đầu tư, số cổ phần bán cho người lao động và số cổ phần bán ra ngoài. Việc bán cổ phiếu phải được thực hiện công khai trong DN và trên thị trường, kiên quyết chống CPH khép kín trong nội bộ DN. Xây dựng cơ chế chính sách mở rộng quyền mua cổ phần, tham gia góp vốn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các DNNN và người lao động về chủ trương, chính sách và giải pháp đổi mới và phát triển DNNN
* Đối với các cấp, các ngành, các DNNN cần tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến chủ trương chính sách mới của nhà nước về sắp xếp, CPH cho cán bộ và những người liên quan của các sở, ngành, tổng công ty, DN 100% vốn nhà nước thực hiện sắp xếp để nâng cao nhận thức, tạo điều kiện triển khai tốt công tác sắp xếp, CPH như Nghị định số 109/2007/NĐ-CP, nghị định số 110/2007/NĐ-CP…
- Làm cho mọi người hiểu đúng, những yêu cầu, mục tiêu của quá trình CPH. Thực hiện công tác tư tưởng trong đào tạo, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ chủ chốt của DNNN, cán bộ quản lý các ban ngành, các cấp của UBND thành phố. Thực tiễn đã chỉ ra rằng cán bộ quản lý quyết định sự thành bại trong sản xuất kinh doanh của DN. Kết quả của CPH phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ, tiến hành CPH khiến quyền lợi và vị trí của từng cá nhân cán bộ bị ảnh hưởng, nên họ chưa vội thực hiện chủ trương CPH. Vì vậy, phải tạo ra sự nhất trí về tư tưởng bằng các biện pháp như : có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để bố trí, sắp xếp hợp lý đội ngũ cán bộ chủ chốt ở DN và cấp trên trong quá trình thực hiện các phương án sắp xếp DN và đổi mới bộ máy quản lý nhà nước cấp thành phố. Bên cạnh đó cần có chính sách bố trí, sử dụng, đãi ngộ cân bộ DNNN do CPH phải nghỉ hưu, chuyển công tác mới. Đổi mới công tác đào tạo cán bộ, xây dựng và ban hành chế độ quyền lợi giám đốc gắn với kết quả và hiệu quả kinh doanh, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kế cận. Ngoài ra, cần duy trì, củng cố và phát huy vai trò của ban đổi mới DN của thành phố, kiện toàn các tổ công tác sắp xếp theo các mảng công việc chuyên sâu, có cơ chế huy động tối đa các nhà kế hoạch, nhà quản lý tham gia vào tổ công tác sắp xếp. đề xuất giúp lãnh đạo có những chủ trương, quyết định phù hợp, kịp thời. HN với ưu thế là thủ đô, bao gồm các cơ quan đầu não của cả đất nước, rất cần có sự phối hợp thường xuyên vói các cơ quan TW như Ban đổi mới DN TW, Bộ tài chính, Bộ kế hoạch đầu tư, Ban kinh tê TW để kịp thời nắm bắt chủ trương chính sách cũng như đưa ra những kiến nghị đề xuất.
* Riêng đối với người lao động trong CTCP, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ cập rộng rãi kiến thức cơ bản về CTCP, quyền và nghĩa vụ của cổ đông.
Kinh nghiệm cho thấy vấn đề thống nhất tư tưởng và ủng hộ của nhân dân là rất quan trọng, vì vậy, phải tiến hành tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân, kiên trì với những nội dung và hình thức thiết thực, ngắn gọn, phù hợp với đối tượng, tránh phô trương hình thức, quan trọng, phức tạp hóa. Trên cơ sở phát huy tối đa vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, phát thanh, truyền hình và các phương tiện thông tin khác; tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học giữa các nhà khoa học và DN- người lao động- nhân dân trao đổi về mặt cơ sở lý luận, kinh nghiệm của các nước; tổ chức tọa đàm, phỏng vấn giữa các đồng chí lãnh đạo thành ủy, UBND với quần chúng nhân dân, người lao động quan tâm vấn đề sắp xếp đổi mới và CPH DNNN để phổ biến chủ trương, giải đáp thắc mắc về những suy nghĩ, tư tưởng phát sinh trong quá trình thực hiện.
- Riêng đối với người lao động trong DNNN, suốt một thời kì dài các thế hệ người lao động đều có nhận thức mình là người nhà nước, biên chế nhà nước, hưởng những đãi ngộ theo một chế độ tương đối thống nhất. Điều này làm người lao động có tư tưởng băn khoăn, thiếu tin tưởng khi DN giải thể, sáp nhập, CPH vì sợ mất việc, ngại thay đổi; dẫn đến tư tưởng cục bộ, trông chờ ỷ lại, cản trở việc thực hiện các chủ trương đổi mới. Cần làm tốt công tác vận động để người lao động nhận thức rõ tính đúng đắn của chủ trương là làm cho DN tồn tại và phát triển. Bên cạnh đó, cấn phải khuyến khích va đãi ngộ thỏa đáng đến cống hiến của từng người, từ đó có chính sách, chế độ ưu đãi phù hợp phát huy vai trò của tổ chức công đoàn để vận động người lao động chấp hành chủ trương. Thực hiện chính sách ưu đãi với người lao động trong DN CPH phù hợp với tình hình thực tế, trong chính sách ưu đãi với lao động nghèo thay vì quy định tiêu chuẩn chung cho tất cả các vùng cần có tiêu chuẩn riêng cho từng vùng vì mức giá sinh hoạt của các vùng là khác nhau; phân biệt mức độ ưu đãi cho người lao động theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, khắc phục tình trạng dàn trải có tính chất bình quân.
Nâng cao hiệu quả của công tácquản trị công ty cổ phần
Hoàn thiện cơ chế thực thi đảm bảo các quyền của các cổ đông trong các DN CPH, nhất là cổ đông thiểu số.
Quản trị CTCP có hiệu quả là phải bảo đảm các quyền hạn tối thiểu của cổ đông bao gồm: Quy định về việc đăng kí quyền sở hữu cổ phần của cổ đông; quyền chuyển nhượng, chuyển giao cổ phần; quyền nhận những thông tin quan trọng về hoạt động của công ty; quyền tham gia và bỏ phiếu tại đại hội cổ đông; quyền bầu cử và miễn nhiệm thành viên HĐQT và quyền được chia sẻ lợi nhuận của công ty.
Nhìn chung, các quy định hiện hành đã đảm bảo các quyền hạn tối thiểu trên, tuy nhiên, vẫn còn những quy định chưa rõ rang, chưa đày đủ khiến hiệu quả thực thi trong thực tiễn chưa cao.
Thứ nhất, nên có giới hạn về các cổ đông có quyền ưu đãi biểu quyết. Để đảm bảo một cơ chế quản trị DN CPH có hiệu quả, trước hết phải đối xử công bằng giữa các cổ đông, những người chủ sở hữu DN. Trong các DN CPH, giữa các cổ đông hoặc nhóm cổ đông còn có sự khác biệt về quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm đối với DN. Nguyên nhân của sự khác biệt nằm ở đặc tính cổ phần và số lượng cổ phần mà các cổ đông nắm giữ. Đặc tính của cổ phần xuất phát từ các quy định pháp luật, còn số lượng cổ phần chủ yếu do khả năng về tài chính của cổ đông quyết định. Theo đặc tính của cổ phần, pháp luật hiện hành quy định có loại cổ phần ưu đãi và cổ phần phổ thông. Vì vậy, nhìn từ giác độ bảo đảm công bằng các quyền tối thiểu của các cổ đông trước hết nên hạn chế tới mức tối đa sự có mặt của các cổ phần ưu đãi biểu quyết, trừ những lĩnh vực đặc biệt.
Thứ hai, phải đảm bảo tối đa quyền được cung cấp thông tin của các cổ đông. Cần bổ sung các quy định cụ thể bảo đảm cho các cổ đông được quyền tiếp cận tất cả các thông tin, hồ sơ, tài liệu của công ty; được đảm bảo quyền xem xét sổ sách kế toán, biên bản họp Đại hội cổ đông HĐQT.
Thứ ba phải bảo đảm thực thi có hiệu quả quyền được tham gia vào cơ quan quyết định cao nhất của DN CPH. Các quy định hiện hành còn dừng lại ở những vấn đề có tính nguyên tắc, chưa chỉ rõ về quy trình, thủ tục và điều kiện thực hiện các quyền của cổ đông thiểu số nên trong thực thi vẫn còn vướng mắc, nhất là quyền đề cử người vào HĐQT, Ban kiểm soát, yêu cầu triệu tập đại hội đồng cổ đông, kiến nghị các vấn đề đưa vào chương trình họp đại hội đồng cổ đông. Vì vậy, cần cụ thể hóa hơn nữa các quy định về quyền của các cổ đông thiểu số trong đề cử người vào HĐQT, Ban kiểm soát và quyền triệu tập Đại hội cổ đông, nhất là quy định về nguyên tắc xác định số lượng người mà họ được cử, cũng như hình thức và nội dung của việc yêu cầu triệu tập Đại hội cổ đông nhằm đảm bảo các quyền này có thể thực thi có hiệu quả trong thực tế. Tương tự là cơ chế bảo đảm quyền của cổ đông thiểu số nước ngoài.
Thứ tư phải bổ sung và làm rõ các quy định có liên quan đến cổ đông sáng lập. Vấn đề cổ đông sáng lập vẫn gây nhiều tranh cãi do sự thiếu rõ ràng trong các quy định hiện hành, cụ thể : trong 3 năm đầu thành lập, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần được quyền chào bán và cổ đông sáng lập chỉ có thể chuyển nhượng cho người không phải cổ đông nếu được sự chấp nhận của Đại hội đồng cổ đông.
Thứ năm là sửa đổi một số quy định để minh bạch hóa việc chuyển nhượng và mua cổ phần của các cổ đông. Về thanh toán tiền mua cổ phần, theo các quy định hiện hành thì cổ phần của công ty sau khi bán phải được thanh toán đủ một lần theo đúng cam kết nhưng chưa có quy định rõ về thời hạn thanh toán cam kết. Đồng thời chưa có điều khoản nào quy định chế tài đối với trường hợp thanh toán một lần, ví dụ khoản chưa thanh toán được coi là nợ của công ty hay coi như cổ phần đó chưa được bán. Một số quy định hiện hành còn bất hợp lý và tạo nên gánh nặng đối với các cổ đông. Ví dụ khi mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông và mua lại cổ phần theo quy định của công ty thì Đại hội cổ đông phải là người quyết định. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó sau khi mua lại cổ phần trong hai trường hợp trên mà công ty không bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty thì tất cả các cổ đông phải hoàn trả số tiền hoặc tài sản khác đã nhận. Nếu không hoàn trả được phải liên đới chịu trách nhiệm cùng thành viên HĐQT về khoản nợ của công ty.
Điều quan trọng nhất là phải đảm bảo hài hòa lợi ích của cổ đông và lợi ích lâu dài của DN CPH. Quy định hiện hành về sử dụng lợi nhuận và trả cổ tức chưa khuyến khích việc nâng cao vốn tích lũy cho các DN CPH. Việc không nhắc đến hoặc không lưu ý các DN về khoản lợi nhuận sau thuế được giữ lại thành vốn tích lũy ( có thể được sử dụng linh hoạt cho các quyết định đầu tư cũng như trả cổ tức cho cổ đông kể cả trong trường hợp DN hoạt động kém hiệu quả, không có lãi hoặc ít lãi trong những năm sau đó) khiến cho rất nhiều DN thực hiện theo cơ chế : mọi khoản lợi nhuận ròng thu được sau khi đã phân bổ vào các quỹ của công ty ( chủ yếu các quỹ liên quan đến người lao động ) được chia thành cổ tức cho các cổ đông, như vậy còn lại rất ít cho việc đầu tư phát triển. Để khắc phục vấn đề này cần phải có quy định pháp lý về việc hinh thành vốn tích lũy từ phần lợi nhuận để lại.
Bảo đảm sự vận hành có hiệu quả của bộ máy quản lý và điều hành của DN CPH
Dường như các quy định về tổ chức quản lý nội bộ của công ty cổ phần nói chung và DN CPH nói riêng trong các quy định hiện hành còn quá đơn giản. chưa tương xứng với tính chất phức tạp của quản lý nội bộ của loại hình CTCP. Vì vậy, các vấn đề sau cần được quan tâm một cách rộng rãi hơn nữa:
Nâng cao vai trò quản lý của HĐQT. HĐQT hiện nay mới tập trung vào chức năng nhân danh công ty quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích quyền lợi của công ty trừ những vấn đề thuộc Đại hội cổ đông, trong khi đó quyền về quản lý lại chưa được đề cập đúng mực. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan này, cần tạo ra sự cân đối giữa quyền hạn và trách nhiệm của các thành viên HĐQT, trong đó, ít nhất về mặt hình thức phải quy định tiêu chuẩn thành viên HĐQT. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng nhất là đối với các DN CPH có cổ phần nhà nước ở tỷ lệ cao. Cần chú ý là trong các thông lệ về quản trị DN trên thế giới, vấn đề tiêu chuẩn thành viên HĐQT luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu, nhất là các CTCP được hình thành từ DNNN. Bên cạnh đó cần bổ sung các quy định về thành viên độc lập trong HĐQT của các DN CPH, nhất là trong điều kiện nhiều DN tổ chức theo mô hình kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và Giám đốc công ty. Cuối cùng là cần quy định cụ thể về cơ chế triệu tập các cuộc họp của HĐQT, trong đó mở rộng đối tượng có thẩm quyền ngoài Chủ tịch HĐQT. Bởi vì trong thực tế ở những công ty cổ phần có nhiều lộn xộn thời gian qua, hiện tượng phổ biến là Chủ tịch đã trì hoãn hoặc từ chối triệu tập họp HĐQT ngay cả khi có yêu cầu của các thành viên khác. Hậu quả tiềm ẩn của việc này là các thành viên không có cùng quan điểm với Chủ tịch HĐQT không thể hoàn thành nghĩa vụ, trách nhiệm của mình theo luật định, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quản trị công ty. Còn nếu Chủ tịch HĐQT kiêm luôn vai trò của người đại diện theo pháp luật (Giám đốc) thì chức năng của HĐQT không được đảm bảo…
Đảm bảo đúng vai trò của Ban kiểm soát. Trong thực tế các DN CPH, Ban kiểm soát có vai trò tương đối mờ nhạt. Có nhiều nguyên nhân, trong đó quy định hiện hành về năng lực của ban kiểm soát chưa đủ để đảm bảo khả năng hoàn thành nhiệm vụ của Ban Kiểm soát. Điều kiện hoạt động của Ban kiểm soát cũng chưa được bảo đảm. Cơ quan này chỉ được tiến hành việc kiểm tra tình hình quản lý, điều hành và tài chính với điều kiện không cản trở hoạt động binh thường của HĐQT và không gây gián đoạn điều hành kinh doanh hàng ngày của công ty. Quy định như vậy tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý dễ dàng từ chối hoạt động của ban kiểm soát. Về quy trình hoạt động, hiện nay Ban kiểm soát phải thường xuyên thông báo với HĐQT về kết quả hoạt động và tham khảo ý kiến của HĐQT trước khi báo cáo, kết luận, kiến nghị lên Đại hội cổ đông. Vì vậy, trong thực tế thì HĐQT không phải là đối tượng kiểm soát của ban kiểm soát nữa.
Một số vấn đề khác cũng cần được quan tâm như :
Quy định cụ thể về vấn đề ủy quyền chủ sở hữu. Đối với các công ty cổ phần lớn hoặc các công ty cổ phần có vốn của Nhà nước hình thành từ CPH DNNN, tình trạng phổ biến là người trực tiếp thực hiện các quyền cổ đông không phải là cổ đông thực sự, mà chỉ là người đại diện. Người đại diện có thể được chỉ đạo và giám sát chặt chẽ từ cổ đông thực sự, nhưng cũng có thể không, dẫn đến tình trạng người được ủy quyền lạm dụng vì mục đích tư lợi. Vì vậy, các văn bản pháp quy cần dự liệu các tình huống này.
Có các quy định cụ thể để hạn chế những bất ổn và vướng mắc do tình trạng can thiệp của câc cơ quan hành chính nhà nước bên ngoài vào CTCP có vốn chi phối của Nhà nước.
Tăng cường tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng cho người lao động và cán bộ quản lý DN CPH về quyền của cổ đông, của các cơ quan quản lý trong công ty nhằm làm cho cổ đông, đặc biệt là cổ đông là người lao động nắm được các quy định pháp lý, tránh tình trạng xung đột trong nội bộ DN hoặc làm chủ hình thức của người lao động và các cổ đông thiểu số trong DN sau chuyển đổi do không hiểu pháp luật để đảm bảo hiệu quả hoạt động của DN sau CPH.
Cải thiện môi trường hoạt động của DN CPH
Xóa bỏ sự phân biệt trong các chính sách và thực hiện các chính sách giữa các DNNN và DN sau chuyển đổi về tín dụng, đầu tư, đất đai, xuất nhập cảnh, cán bộ.
Quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc tiếp tục cung cấp thông tin, phổ biến chế độ chính sách cho DN CPH. Hoàn thiện hệ thống cơ quan đăng kí kinh doanh và thông tin DN thuộc các cơ quan kế hoạch và đầu tư để kết hợp đăng kí kinh doanh đối với các DN CPH và cung cấp thông tin cho DN sau CPH.
Giao rõ trách nhiệm cho các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến quy trình CPH để giải đáp các vướng mắc của DN trong và sau CPH.
Phát triển một số tổ chức chuyên môn thực hiện nghiệp vụ tư vấn, đầu tư cổ phần, bao gồm: tư vấn xây dựng phương án CPH, dịch vụ phát hành cổ phiếu mới, chuyển nhượng cổ phần, niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, xây dựng điều lệ công ty cổ phần, môi giới vay vốn đầu tư cổ phần, tư vấn quản lý DN sau CPH, dịch vụ liên quan đến cổ đông như tổ chức Đại hội cổ đông, tư vấn lập và hoạt động các ban chức năng của CTCP, phân chia cổ tức, chuyển nhượng cổ phần…
Chuyển hẳn chức năng quản lý cổ phần nhà nước của các DN trực thuộc Bộ, địa phương đã CPH toàn bộ DN cho Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước. Tổ chức này sẽ thực hiện việc quản lý, đầu tư, kinh doanh cổ phần
Một số giải pháp khác
4.1. Về xử lý giá trị quyền sử dụng đất khi CPH
Về xử lý giá trị quyền sử dụng đất khi CPH. Việc tháo gỡ vướng mắc cần được đặt trong bối cảnh của toàn bộ hệ thống pháp luật hiện hành, đồng thời phải phù hợp với thực tiễn của thành phố, bảo đảm sự bình đẳng về chính sách, quyền lợi giữa các DN của thành phố với các DN TW đóng trên địa bàn khi thực hiện CPH, đặc biệt trong điều kiện các tỉnh thành phố chưa thể công bố khung giá đât theo sát giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường tại cùng thời điểm. Các phương án xử lý điều này như sau:
Bước 1 : Rà soát quỹ đất, nhà từng DN CPH đang quản lý sử dụng, giao CTCP quản lý sử dụng quỹ đất phù hợp quy mô phương án sản xuất kinh doanh sau CPH. Đối với quỹ đất còn lại thì thu hồi để sử dụng vào mục đích có hiệu quả hơn. Khi xây dựng và thẩm định phương án CPH đối với DNNN TW, các Bộ, ngành, tổng công ty phải phối hợp với UBND thành phố nơi DN có đất đai, nhà xưởng phối hợp rà soát và xử lý quỹ nhà đất theo đúng quy định hiện hành.
Bước 2 : Do DN CPH chỉ được tiếp tục quản lý sử dụng số lượng địa điểm đất đai phù hợp phương án sản xuất kinh doanh, vì thế đối với những diện tích đất đai CTCP tiếp tục quản lý sử dụng, giá trị quyền sử dụng đất khi CPH được xử lý như sau:
Tôn trọng quyền lựa chọn hình thức sử dụng đất của DN CPH (thuê đất hoặc giao đất có thu tiền sử dụng đất).
Do khung giá đất tại thành phố công bố chưa sát giá trị quyền sử dụng đất chuyển nhượng trên thực tế nên có thể đề nghị Chính phủ xem xét khi CPH các DNNN chỉ được lựa chọn hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, không được lựa chọn hình thức thuê đất. Sử dụng giá đất do thành phố công bố hàng năm làm giá tính giá trị quyền sử dụng đất giao cho DN khi CPH.
* Nếu DN sử dụng hình thức thuê đât, trường hợp này sẽ không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN CPH, DN CPH được tiếp tục kí hợp đồng thuê đất và trả tiền thuê hàng năm cho thành phố theo mức giá cho thuê hiện hành của thành phố ứng với từng mục đích sử dụng đất. Sau khi CPH nếu DN thay đổi mục đich sử dụng đât thì phải được UBND thành phố cho phép và phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính có liên quan theo quy định hiện hành.
* Nếu DN lựa chọn phương thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, trường hợp này sẽ tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN CPH, song đề nghị Bộ tài chính báo cáo chính phủ cho phép lấy giá đất do thành phố công bố hàng năm làm giá tính giá trị quyền sử dụng đất giao.
Về xử lý lao động dôi dư khi CPH
- Đa phần các DN nằm trong kế hoạch CPH giai đoạn 2008-2010 đều đã thực hiện chuyển đổi (chuyển sang công ty TNHH 1 TV, chuyển sang công ty mẹ- công ty con) và đã thực hiện giải quyết lao động dôi dư một lần. Quá trình CPH các DN này trong thời gian tới dự kiến vẫn xuất hiện một lực lượng lao động dôi dư lớn khoảng 2500 người và số lao động này sẽ không được xử lý theo quy định tại Nghị định 110/2007/NĐ-CP, vì vậy, công tác chỉ đạo CPH của thành hố sẽ gặp khó khăn. UBND Thành phố Hà Nội đã đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép xử lý số lao động dôi dư này theo quy định tại Nghị định số 110/2007/NĐ-CP với kinh phí dự kiến khoảng 60 tỷ đồng hoặc cho phép Thành phố sử dụng một phần tiền thu từ bán đấu giá các địa điểm DN sử dụng không hiệu quả và thu hồi được khi CPH DN để giải quyết chính sách cho số lao động này.
- DN chịu trách nhiệm hoàn toàn về tuyển dụng lao động và thực hiện các chế độ cho người lao động theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện CPH DN cần hết sức chú ý phương án đầu tư và phát triển sản xuất- kinh doanh để có thể thu hút tối đa người lao động có việc làm ở DN. Trong trường hợp cần đào tạo lại mà DN thiếu kinh phí thì Nhà nước bổ sung thêm. Ngoài việc hỗ trợ cho người lao động bằng tiền cần đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia. Nguồn tiền để giải quyết chính cho lao động dôi dư và không có việc làm thì ngoài phần lấy từ Qũy hỗ trợ sắp xếp và CPH DNNN còn được cung cấp thêm từ ngân sách và các nguồn tài chính có thể khác. Cùng với chính sách hỗ trợ cho nguời lao động trong thời gian đào tao lại, tìm việc phải có chính sách để họ tự tạo việc làm mới. Vì vậy, cần có sự phối hợp giữa sử dụng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm và quỹ hỗ trợ và sắp xếp CPH DNNN.
4.3. Công khai hóa thông tin tài chính cho mọi đối tượng
Công khai hóa thông tin tài chính cho mọi đối tượng được hiểu là cung cấp các bản báo cáo tài chính, các báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường chứng khoán, trên các phương tiện thông tin. Việc làm này có ý nghĩa quan trọng là làm tăng long tin, tăng tính minh bạch và tình hình tài chính của DN đối với các nhà đầu tư, các cổ đông. Yêu cầu này đòi hỏi DN phải thông báo kịp thời, bảo đảm tính chính xác những thông tin quan trọng về tình hình tài chính để các nhà đầu tư xem xét, đánh giá giá trị công ty, bảo đảm tính công bằng trong mua bán. Điều này góp phần bảo vệ nhà đầu tư, hình thành nên giá cổ phần của DN.
III. Một số kiến nghị
1. Đối với thành phố Hà Nội
1.1. Quyết định nắm giữ một số cổ phần chi phối
- Theo tiêu chí, danh mục phân loại DN 100% vốn Nhà nước tại Quyết định số 38/2007/QĐ-TTg ngày 20/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ, nhiều DN thuộc diện CPH giai đoạn 2008-2010 của Thành phố không thuộc đối tượng Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ khi CPH.
Các cơ chế, chính sách về CPH hiện nay đang ở trong quá trình hoàn thiện, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế (cơ chế xử lý các vấn đề đất đai khi CPH; phương pháp xác định giá trị thương hiệu, lợi thế kinh doanh…), để đảm bảo thận trọng trong triển khai công tác CPH, tạo điều kiện cho các DN sau khi chuyển sang cổ phần giữ được ổn định và phát triển, hạn chế tối đa sự thất thoát tài sản và vốn Nhà nước, UBND thành phố Hà Nội cần có quyết định nắm giữ trên 50% vốn điều lệ trong giai đoạn đầu tại một số DN cần thiết khi CPH, đó là các DN có quy mô lớn, quản lý nhiều địa điểm đất đai có giá trị lợi thế cao,…). Sau khi CTCP hoạt động ổn định một thời gian, cơ chế chính sách hoàn thiện hơn, khả năng thất thoát tài sản và vốn Nhà nước thấp, Thành phố có thể tiến hành xem xét quyết định bán đấu giá số cổ phần này.
1.2. Các kiến nghị khác
- Thời điểm xác định giá trị DN CPH : hiện nay thời gian xác định giá trị DN đến khi công bố giá trị DN theo quy định của Bộ tài chính là dưới 6 tháng. Trong thời gian tới, để phù hợp hơn với thời gian thực tế triển khai CPH có thể nâng khoảng thời gian xác định giá trị DN lên 12 tháng.
- Một điều hết sức quan trọng nữa là do đặc thù của DN thuộc thành phố HN là quản lý nhiều địa điểm mạng lưới đất đai, nhà xưởng tại các vị tri đẹp, nhạy cảm, tham gia thực hiện nhiệm vụ mang tính chiến lược phát triển kinh tế của thủ đô nên thời gian qua có hiện tượng tư nhân thâu tóm cổ phần của các DNNN CPH, làm ảnh hưởng xấu đến việc làm, quyền lợi của người lao động, gây kiện cáo, dư luận xấu..việc bán đấu giá cổ phần công khai trên sàn giao dịch chứng khoán đã xuất hiện một sô tiêu cực. Vì vậy, thời gian tới, UBND thành phố cần xấy dựng kế hoạch, lộ trình CPH, sắp xếp DNNN đảm bảo thận trọng, vững chắc, trước mắt nắm cổ phần chi phối tại những DN có vai trò, vị trí quan trọng trong định hướng chiến lược và nhiệm vụ kinh tế xã hội của thủ đô và một số DN nắm giữ nhiều địa điểm, mạng lưới kinh doanh tại những vị trí đẹp, nhạy cảm để đảm bảo CPH không đi chệch hướng thành tư nhân hóa, DN sau CPH ổn định, phát triển theo mục tiêu của thành phố.
2. Đối với Chính phủ và các Bộ, ngành TW
2.1. Phát triển thị trường chứng khoán
Như đã đề câp đến ở chương 1, thị trường chứng khoán có tác động tích cực đến sự phát triển của CTCP, vì vậy. tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển cũng chính là tạo điều kiện cho quá trình CPH diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn. Vì vậy, cần tạo điều kiện thuận lợi cho DN CPH tham gia vào thị trường chứng khoán thông qua việc hoàn thiện cơ chế, chính sách về kinh doanh chứng khoán,; tạo điều kiện thuận lợi cho các DN phát hành chứng khoán ra công chúng, đặc biệt là phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng; gắn việc phát hành cổ phiếu với công khai niêm yết trên thị trường; phát triển hệ thống trung gian tài chính trên thị trường như các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
Các kiến nghị khác
- Đối với Bộ tài chính trong thời gian tới sẽ phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương có liên quan thực hiện tổng kết thí điểm CPH các DN công ích, nghiên cứu xây dựng cơ chế chuyển từ các đơn vị sự nghiệp có thu thành CTCP để nghiên cứu, xây dựng Nghị định về CPH các đơn vị này.
- Đối với Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển DN phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu trình Chính phủ cơ chế quản lý và đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước, công ty mẹ đã CPH theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng khóa X. Ngoài ra, với chức năng của mình, Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển DN cần phối hợp với Bộ tài chính tổng hợp và công khai tiến độ thực hiện lộ trình sắp xếp, CPH DN của cả nước thuộc các Bộ, ngành giai đoạn tiếp theo. Tổ chức tập huấn cơ chế mới về CPH cho các Bộ, UBND các tỉnh, thành phố và Hội đồng quản trị các tổng công ty. Trực tiếp chỉ đạo việc CPH các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty, công ty mẹ theo đúng tiến độ và lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tăng cường kiểm tra giám sát việc CPH những DN lớn, DN có lợi thế kinh doanh, kịp thời xử lý những vướng mắc trong quá trình CPH DN.
- Với Chính phủ, trong thời gian tới cần phải căn cứ vào các Phương án tổng thể sắp xếp công ty nhà nước được điều chỉnh, bổ sung tập trung chỉ đạo các DN thực hiện xử lý những tồn tại về tài chính trước khi thực hiện sắp xếp, chuyển đổi theo đúng các quy định của nhà nước. Kiên quyết thực hiện giải thể, phá sản những DN làm ăn thua lỗ, hoạt động kinh doanh kém hiệu quả. Cho phép các Bộ, địa phương quyết định việc thực hiện CPH ngay các DN nằm trong kế hoạch những năm sau nhưng đủ điều kiện CPH ngay. Chính phủ cũng sẽ căn cứ các tiêu chí quy định tại Quyết định số 38/2007/QĐ-TTg ngày 20/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ tổ chức rà soát, xem xét quyết định bán tiếp cổ phần Nhà nước tại các CTCP mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối hoặc không cần nắm giữ cổ phần.
- Riêng với các Bộ, địa phương cần khẩn trương xây dựng kế hoạch sắp xếp, CPH DNNN giai đoạn 2008-2010 trình Chính phủ.
KẾT LUẬN
Cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, Đảng và nhà nước thường xuyên chăm lo đổi mới và phát triển DNNN. CPH DNNN được coi là một trong những chủ trương, giải pháp hữu hiệu trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại DNNN. Tuy nhiên CTCP và quá trình CPH ở nước ta vẫn là những vấn đề khá mới, bởi một thời kì dài bao cấp đã thủ tiêu động lực trong nhiều DNNN. Chính vì vậy nhà nước đã rất thận trọng trong quá trình tổ chức thực hiện, nhằm tránh các hậu quả do quá trình thực hiện không tốt đem lại.
Thực hiện chủ trương CPH DNNN của Đảng và Nhà nước, thời gian qua thành phố HN đã thu được nhiều thành công công tác CPH DNNN do thành phố quản lý. Tuy nhiên quá trình thực hiện còn bộc lộ một số vướng mắc cần tháo gỡ, khắc phục để tiến trình CPH đạt kết quả cao hơn. Trong thời gian tới thành phố cần tiếp tục duy trì tốc độ CPH, đảm bảo vẫn là thành phố đạt số lượng DN CPH nhiều nhất cả nước, xứng đáng với địa vị thủ đô ngàn năm văn hiến, luôn đi đầu trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Các biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN hiện nay cần làm thất tốt để đạt mục tiêu cuối cùng là nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNNN trong nền kinh tế, cải tạo vị thế của đất nước trên thế giới, làm cho bộ mặt của thành phố nói riêng và đất nước nói chung ngày càng giàu đẹp.
Với những hiểu biết còn hạn chế, bài viết của em chỉ dừng lại ở việc hoàn thành chương trình thực tập chuyên đề dưới sự chỉ dạy nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn, nêu ra được một vài khó khăn cũng như đưa ra các giải pháp nhỏ nhằm thúc đấy quá trình CPH các DNNN thuộc thành phố HN quản lý. Em xin được kết thúc bài viết tại đây, em rất mong sự góp ý và chỉ bảo của các thầy cô giáo. Em xin trân trọng cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Lê Hồng Hạnh. Cổ phần hóa DNNN - Những vấn đề lý luận và thực tiễn. NXB Chính trị Quốc gia
2. Ngô Quang Minh. Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước. NXB Thống Kê.
3. LeeKangWoo. Quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 1996 - 2000. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội .
4. TS. Vũ Minh Trai chủ biên. Thực trạng và giải pháp sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước của Thành phố Hà Nội. NXB Chính trị Quốc gia năm 2000.
5. PTS. Nguyễn Ngọc Quang. Vai trò công ty Cổ phần. NXB Khoa học xã hội 1996
6. Trang web của Chính phủ Việt Nam
Trang web của UBND thành phố Hà Nội
Trang web của Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế TW
MỤC LỤC
Danh mục bảng biểu
Danh mục các chữ viết tắt
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Biểu 1.1. Số lượng DNNN sắp xếp và đổi mới đến ngày 31/12/1999
Biểu 1.2. Tình hình CPH đến ngày 31/12/1999
Biểu 1.3. Kết quả CPH giai đoạn 2000-2002
Biểu 1.4. Tổng kết tình hình thực hiện CPH từ năm 2003 đến nay
Biểu 2.1. Tổng kết công tác sắp xếp, đổi mới DNNN của Thành phố Hà Nội
Biểu 2.2. Tổng kết công tác CPH của Thành phố Hà Nội giai đoạn 1998-2006
Biểu 2.3. Tình hình cơ cấu vốn điều lệ của một số CTCP
Biểu 2.4. Tình hình CPH các DNNN của Thành phố Hà Nội giai đoạn 1998- 2002 theo các lĩnh vực
Biểu 2.5. Tình hình CPH DNNN của Thành phố Hà Nội giai đoạn 2002 đến nay theo các lĩnh vực
Biểu 2.6. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của một số CTCP thuộc Thành phố Hà Nội sau CPH
Biểu 3.1. Kế hoạch CPH của Thành phố Hà Nội giai đoạn 2008-2010
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CPH : cổ phần hóa
CT : công ty
CTCP : công ty cổ phần
DN : doanh nghiệp
DNNN : doanh nghiệp nhà nước
TNHH NN 1TV : trách nhiệm hữu hạn nhà nước 1 thành viên
TCT : tổng công ty
TW : trung ương
XNK : xuất nhập khẩu
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2008
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2008
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28561.doc