Chuyên đề Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của VIệt Nam sau khủng hoảng tài chính toàn cầu

Qua nghiên cứu đề tài “ Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sau khủng hoảng tài chính toàn cầu” tôi rút ra được một số kết luận sau: Thứ nhất, đó là xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là đối với một nền kinh tế đang phát triển phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu như Việt Nam. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam. Ngoài ra, xuất khẩu còn góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân và là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại của một quốc gia. Do đó, đẩy mạnh xuất khẩu là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với phát triển kinh tế của Việt Nam nhất là trong điều kiện xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá dang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới và nó là chính là cơ hội cho mỗi quốc gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Thứ hai, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ cuối năm 2008 đầu năm 2009 đã làm cho nền kinh tế toàn cầu suy giảm, tác động đến thương mại toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng. Đối với Việt Nam xuất khẩu bị giảm mạnh do bị ảnh hưởng của cầu suy giảm và sự xuất hiện nhiều hơn các hàng rào phi thuế quan và các biện pháp bảo hộ mới từ các nước nhập khẩu, đồng thời cũng do giá cả của nhiều mặt hàng chủ lực của ta như dầu thô, lúa gạo, café đều giảm sút.Trong 6 tháng đầu năm 2009 xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt 27,57 tỷ USD, giảm 10% so với cùng kì năm 2008, trong đó hầu hết các thị trường chủ lực như Nhật Bản, Trung Quốc, Australia, đều có xu hướng giảm sút. Như vậy, đẩy mạnh xuát khẩu trong giai đoạn hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới vẫn đang gánh chịu những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là một khó khăn thách thức lớn với nền kinh tế của Việt Nam nhưng là con đường tất yếu phải đi đê thực hiện mục tiêu CNH – HĐH đất nước, đưa nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020.

doc100 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1566 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của VIệt Nam sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đoạn 2006 -2010 và 4%/năm giai đoạn 2010 – 2020 thì thương mại thế giới giai đoạn 2006 – 2010 được dự báo tăng nhanh hơn sản lượng thế giới, đạt tốc độ khoảng 6,9% - 7,0%/năm và đạt khoảng 7,5%/năm giai đoạn 2010- 2020, dự đoán đến năm 2020, kim ngạch xuất nhập khẩu toàn cầu chiếm hơn 45% GDP thế giới. Tỷ trọng xuất khẩu/GDP của toàn thế giới năm 2010 dự báo là 27%, năm 2015 là 30% và đến năm 2020 là 34%. Cũng theo dự báo của WB, trong giai đoạn này tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của các nước phát triển dự báo đạt 5,8% trong giai đoạn 2006 – 2010 và 6,5% trong giai đoạn 2011 -2020. Tốc độ tăng xuất khẩu của các nước đang phát triển đạt 9,5%/năm trong giai đoạn 2006 – 2010 và 11,2%/năm trong giai đoạn 2011 – 2020. Với tốc độ tăng trưởng nói trên, kim ngach xuất khẩu của các nước này được dự báo sẽ tăng từ mức 3000 tỷ USD năm 2006 lên hơn 4000 Tỷ USD năm 2010, đạt 7000 tỷ USD năm 2015 và 12000 tỷ USD năm 2020, do sản lượng của các nước này tăng mạnh. ( không tính đến sự giảm giá ). Bảng 3.1. Tốc độ phát triển thương mại thế giới từ năm 1995 đến 2006 và dự báo đến năm 2020 Đơn vị : % Chỉ tiêu 1995-2002 2003-2006 2007-2010 2011-2015 2016-2020 I. GDP thực tế toàn cầu 3.6 4.4 4.3 4.0 4.0 Các nước phát triển 2.8 2.6 2.9 2.5-3 2.5-3 Các nước đang phát triển 4.7 6.6 5.8 5.5-6.5 5.5-7 II. Thương mại toàn cầu 6.6 7.4 6.9 7.0 7.5 1. Nhập khẩu Các nước phát triển 6.5 6.0 5.5 5.8 6.2 Các nước đang phát triển 7.2 13.2 9.9 10.5 11.2 2. Xuất khẩu Các nước phát triển 6.0 5.8 5.7 5.8 6.5 Các nước đang phát triển 8.3 11.5 9.2 9.5 10.5 Nguồn: Tổng hợp theo “ Global Economic Prospect”, WB, 2006 Xu hướng các nước phát triển ngày càng nhập khẩu nhiều các sản phẩm chế tác từ các nước đang phát triển. sẽ ngày càng gia tăng. Dự báo đến năm 2020, nhập khảu hàng chế tác từ các nước đang phát triển sẽ chiếm khoảng 60% tổng kim ngạch nhập khẩu của các nước phát triển trong đó chủ yếu là từ Trung Quốc ( 25%), các nước đang phát triển Châu Á ( 12%), châu Mỹ LA Tinh ( 8%) ( những dự báo này của WB được đưa ra dựa trên giả thiết là chính sách thương mại các nước không thay đổi nhiều so với hiện nay). 3.2.1.2. Quá trình hội nhập kinh tế thế giới tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và đầu tư quốc tế phát triển và cùng với nó là sự đa dạng hoá các nguồn đầu tư cũng như các hình thức thương mại Tự do hoá thương mại gia tăng, chi phí vận tải và viễn thông giảm, các luồng vốn di chuyển giữa các quốc gia ngày càng dễ dàng hơn tạo điều kiện thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển nói chung và hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nói riêng.Hội nhập quốc tế về thương mại tăng mạnh, gắn kết các quốc gia với nhau về thương mại và đem lại lợi ích cho các quốc gia nhiều hơn. Cạnh tranh giúp người tiêu dùng mua được hàng hoá nhập khẩu với chất lượng tốt hơn và giá rẻ hơn. Người sản xuất cũng có cơ hội để tiếp cận và khai thác nhiều hơn với các nguồn lực từ bên ngoài. Bên cạnh đó, nền sản xuất trong từng quốc gia sẽ phát triển theo xu hướng chung của thế giới là nâng cao tỷ trọng của các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao và giảm tỷ trọng các ngành sơ chế có hàm lượng công nghệ thấp. Do đó cũng đỏi hỏi phải có đội ngũ lao động có trình độ và tay nghề tốt hơn. Thương mại dịch vụ ngày càng khẳng định vai trò của mình, và sẽ trở thành một trong những nhân tố chính thúc đẩy phát triển kinh tế ở các quốc gia nói riêng và sự phát triển của kinh tế thế giới nói chung trong giai đoạn tới. Một đặc điểm nữa là trong giai đoạn tới sẽ xuất hiện nhiều hình thức thương mại mới, như thương mại điện tử, dự báo sẽ chiếm từ 10% -15% kim ngạch thương mại toàn thế giới. 3.2.1.3. Các rào cản thương mại quốc tế tuy được dự báo tiếp tục giảm xuống nhưng vẫn còn ở mức cao Trong bối cảnh hậu khủng hoảng, nhằm bảo hộ nền sản xuất trong nước, các rào cản thương mại có thể được áp dụng dưới nhiều hình thức khác, tinh vi hơn như: thuế chống bán phá giá, các tiêu chuẩn về kỹ thuât, lao động, an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường…gây khó khăn hơn cho việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam khi mà công nghệ sản xuất của Việt Nam còn đang ở trình độ thấp hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, tiến trình mở cửa thị trường ở cấp độ quốc tế sẽ gặp một số trở ngại, nhưng ở cấp độ quốc gia vẫn sẽ tiếp tục được đẩy mạnh thông qua các thoả thuận và các hiệp định thương mại song phương và đa phương. 3.2.1.4. Các nước thuộc Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng của thương mại thế giới Theo hội nghị của Liện hợp Quốc về hợp tác và phát triển ( UNCTAD), các nước thuốc khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng của thương mại thế giới. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, từ chỗ chỉ chiếm gần 21% tỷ trọng thương mại quốc tế vào năm 1990, đến nay đã được coi là khu vực phát triển sôi động nhất thế giới và chiếm tới gần 35% thị phần trong xuất nhập khẩu toàn cầu. Trong đó Mỹ tiếp tục dẫn đầu về thương mại, mặc dù tỷ trọng của Mỹ trong giá trị xuất nhập khẩu của toàn thế giới có xu hướng sụt giảm từ 14% năm 2005 đến 12% đến năm 2020 ( theo dự báo của cơ quan tình báo kinh tế Anh – “ Foresight 2020”- EIU, 2006). Đồng thời Trung Quốc và Ấn Độ đang nổi lên trở thành những quốc gia có vị thế và có tầm ảnh hưởng không nhỏ đến nền thương mại thế giới. Trung Quốc sẽ thay thế Đức ơ vị trí thứ 2 và có khả năng bắt kịp Mỹ vào năm 2020. Với thế mạnh về tỷ lệ vốn/lao động được nâng cao và phát triển cả về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, dự báo xuất khẩu các mặt hàng có hàm lượng kĩ thuật cao của Trung Quốc sẽ tăng mạnh. Đến năm 2020 các mặt hàng điện tủ dệt may hoá chất và thiết bị dầu khí sẽ là những mặt hàng xuất khẩu chính của Trung Quốc. Ấn Độ có khả năng sẽ nhảy vọt từ vị trí 24 như hiện nay ( 2006) lên vị trí thứ 10, tuy nhiên cũng chỉ chiếm 3% tổng thương mại toàn cầu. Những mặt hàng xuất khẩu chính của Ẫn Độ được dự báo là dệt may, phụ tùng ô tô, dược phẩm và các sản phầm ICT nhờ lợi thế là đội ngũ lao động có trình độ kỹ thuật cao. Kinh tế các nước đang phát triển ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ và một số nền kinh tế đang nổi ở Châu Á sẽ tăng trưởng mạnh cũng góp phần thúc đẩy thương mại thế giới phát triển trong thời gian tới. Sản lượng của các nền kinh tế này cũng không ngừng tăng lên, làm tăng gía trị xuất khẩu của toàn thế giới. Ngược lại để phục vụ cho xuất khẩu, cầu của các nền kinh tế này về hàng hoá trung gian, năng lượng, công nghệ và tư liệu sản xuất từ các nước phát triển và đang phát triển cũng tăng mạnh, làm tăng kim ngạch xuất khẩu của toàn thế giới. Bên cạnh đó mức sống của người dâ ở các nền kinh tế đang nổi được nâng cao nên cầu nhập khẩu hàng tiêu dùng và dịch vụ của thế giới cũng tăng mạnh, vì đa số các nền kinh tế này đều là các quốc gia và khu vực đông dân cư và có nhiều tiềm năng 3.2.2. Dự báo tình hình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 5 năm 2011 - 2015 3.2.2.1. Định hướng chung Theo “dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015”thì mục tiêu tổng quát của giai đoạn này là : Phát triển kinh tế với tốc độ nhanh và bền vững trên cơ sở tiếp tục chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và chủ động hội nhập quốc tế. Tạo nền tảng đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có trình độ phát triển trung bình vào năm 2020; tăng nhanh hàm lượng khoa học và công nghệ cao trong sản phẩm…” Theo đó, để đạt được những mục tiêu trên, trong giai đoạn 2011 – 2015 cần quán triệt một số quan điểm chỉ đạo sau: Thứ nhất, phát triển nhanh và bền vững nhằm đáp ứng các yêu cầu thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước, vừa bảo đảm sự phát triển ổn định của nền kinh tế Thứ hai, Phát triển kinh tế đi đôi với việc bảo đảm an ninh xã hội. Thứ ba, phát triển kinh tế gắn với quản lý tài nguyen và bảo vệ môi truờng, nhằm phát triển bền vững. Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực phải được coi là quốc sách hàng đầu và là một trong những nhân tố quan trọng nhất tạo động lực phát triển đát nước. Thứ năm, phải tao mọi điều kiện để huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, phát huy tiềm năng thúc đẩy phát triển. Cuối cùng, cần tăng cường hợp tác, hội nhập quốc tế và sức mạnh của thời đại nhằm phát huy mạnh mẽ nội lực để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, bền vững. 3.2.2.2. Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu. Tóc độ tăng trưởng kinh tế GDP bình quân 5 năm 2011 – 2015 tăng 7 – 8%/năm, trong đó: giá trị gia tăng ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2.7 – 3.7%; giá trị gia tăng ngành công nghiệp và xây dựng tăng 7,5 – 8,5%; giá trị gia tăng ngành dịch vụ tanưg 8 – 9%. Quy mô GDP theo giá hiện hành đến năm 2015 đạt khoảng 4130 – 4170 nghìn tỷ đồng, xấp xỉ 175 tỷ USD. GDP bình quân đầu người đạt khoảng 1900 US, gấp 1,6 lần so với năm 2010. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2015: ngành nông nghiệp à thuỷ sản đạt 18 – 19%, công nghiệp và xây dựng khoảng 40 -41%, dịch vụ 40 – 42%. Kiềm chế lạm phát trong giới hạn an toàn cho phép. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình quân 5 năm 12,1%/năm, đến năm 2015 kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt khoảng 1180USD/người, gấp gần 1,7 lần so với năm 201. Kiểm soát nhập siêu ở mức cho phép. Phấn đấu đến năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu. Tỷ trọng đầu tư toàn xã hội 5 năm 2011 – 2015 bằng khoảng 40 -41% GDP. Tỷ lệ huy động vào NSNN bình quân 5 năm 2011 – 2015 đạt 24 -25% GDP, giảm mức bội chi NSSN xuống còn 4.5% năm 2015. 3.2.3. Định hướng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2015. 3.2.3.1. Mục tiêu Phát triển xuất khẩu một cách bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ; kiểm soát nhập siêu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình quân giai đoạn 2011 – 2015 đạt 12.1%/năm, đạt mức 108 tỷ USD vào năm 2015; Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 2011 – 2015 đạt khoảng 440 tỷ USD. Giảm dần chênh lệch nhập siêu hàng hoá, mỗi năm bình quân nhập siêu dưới 14 tỷ USD, bằng 15,9% tổng kim ngạch xuất khẩu. Bảng 3.2. Một số chỉ tiêu về xuất khẩu giai đoạn 2011 – 2015 Chỉ tiêu Đơn vị tính Mục tiêu kế hoạch 2011-2015 2011 2012 2013 2014 2015 1. Tổng KNXK hàng hoá Tỷ USD 440,0 68,0 78,0 88,0 98,0 108,0 2. Tốc độ tăng % 12,1 11,5 14,7 12,8 11,4 10,2 3.KNXK của Doanh nghiệp có vốn ĐTNN Tỷ USD 190,0 29,0 33,5 38,0 42,5 47,0 4. Các Mặt hàng chủ yếu - Gạo Triệu tấn 25.0 5.0 5.0 5.0 5.0 5.0 - Cà phê Nghìn tấn 5.500 1000.0 1050.0 1100 1150.0 1200.0 - Cao su Nghìn tấn 4730 800.0 870.0 940 1020.0 1100.0 - Hàng thuỷ sản Triệu USD 28000 5200.0 5400.0 5600 5800.0 6000.0 - Hàng dệt may Triệu USD 80000 12000 14000 16000 18000 20000 - Hàng Giầy dép Triệu USD 34200 5300 6000 6800 7600 8500 - Hàng điện tử và linh kiện Triệu USD 30000 5000 5500 6000 6500 7000 - Dầu thô Triệu tấn 49 9.5 9.5 10.0 10.0 10.0 - Than đá Triệu tấn 54 18.0 15.0 9.0 7.0 5.0 Nguồn: Bộ kế hoạch và Đầu tư 3.2.3.2. Định hướng Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến và chế tạo; sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng xuất khẩu hàng thô như: dầu thô, than đá…Hạn chế dần xuất khẩu dầu thô cho nhà máy Dung Quất phục vụ sản xuất trong nước, tạo giá trị gia tăng cao hơn. Thúc đẩy phát triển xuất khảu nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản , đặc biệt là những sản phẩm có lợi thế, năng suất cao; đảm bảo chất lượng quốc tế và giá trị gia tăng cao. Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu hai mặt hàng chủ lực là Dệt may và giầy dép, đồng thời tăng cường phát triển xuất khẩu các mặt hàng mới như tàu biển, sản phẩm cơ khí, điện; các sản phẩm có nhiều tiềm năng như thủ công mý nghệ; thực phẩm chế biến; sản phẩm gỗ; hoá phẩm tiêu dùng; sản phẩm nhựa…Đẩy mạnh xuất khẩu hàng điện tử, tin học và các sản phẩm phần mềm. Tích cực mở rộng thi trường, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ với các đối tác; tận dụng mọi khả năng để tăng mức xuất khẩu trên tất cả các thị trường đẫ có, song song với việc đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có sức mua lớn nhưng hiện còn chiếm tỷ trọng thấp; tìm kiếm, mở ra các thị trường mới. Các thị trường chủ lực trong giai đoạn 2011 -2015 vẫn là Châu Á (Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông), châu Âu (chủ yếu là EU), Bắc Mỹ (Hoa kỳ, Canada). Ngoài ra tiếp tục khai thác, thâm nhập một số thị trường truyền thống hoặc thị trường mới như Nga, Trung Đông, Mỹ La tinh, châu Phi. Đối với khu vực thị trường Châu Á: ASEAN vẫn là thị truờng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam do có gần gũi vè mặt địa lý cũng như có nhiều thuận lợi về hợp tác thương mại nội khối. Các mặt hàng trọng tam xuất khẩu vào thị trường này vẫn tiếp tục là các loịa hàng hoá tiêu dùng, gạo, thực phẩm, nông sản chế biến và một số laọi sản phẩm điện, điện tử. Nhật Bản, thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam sau Hoa Kì, cần chú trọng vào xuất khẩu các mặt hàng như thuỷ sản, dệt may, dây điện và cáp điện, điện tử và lnh kiện, sản phẩm gỗ, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ và một số mặt hàng nông sản như café, cao su, rau quả. Trung Quốc, thi trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam và còn rất nhiều tiềm năng để khai thác. Cơ cấu nhập khẩu hàng Việt Nam của Trung Quốc khá đa dạng song vẫn tập trung vào một số nhóm hàng chủ yếu là cao su, thuỷ sản, hạt điều, rau quả và các loại khoảng sản thô. Đối với khu vực thị trường Châu Âu: EU, với 25 quốc gia thành viên, sẽ là thi trường đầy tiềm năng để xuất khẩu các mặt hàng nông - thuỷ sản chế biến, các mặt hàng công nghiệp nhẹ như dệt may, giày dép, và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên yếu tố tiêu chuẩn chất lượng cần được đặt lên hàng đầu khi xuất khẩu vào thị trường khó tính này. Nga và các nước Đông Âu là những thị trường lớn và không quá khó tính. Viêc khai thác các thị trường này trong thời gian tới cần được đẩy mạnh và cần được coi là một nôi dung cơ bản trong chiến lược phát triển thị trường. Các mặt hàng chủ yếu đưa vào thị trường này là cao su, chè, thực phẩm, rau quả, hoá mỹ phẩm, dệt may và giày dép. Đối với khu vực thị trường Châu Mỹ: Hoa Kì vẫn là một trong những thị trường quan trọng nhất của Việt Nam. Do đó cần tích cực khai thác để có thể mở rộng quy mô xuất khẩu, đặc biệt là đối với những mặt hàng như Dệt may, giày dép, tjỷ san, đồ gỗ, máy móc, thiết bị điện, điện tử hạt điều, cao su, đồ gốm sứ ... Đối với khu vực thị trường Châu Phi: . Tập trung ưu tiên phát triển một số thị trường trọng điểm có sự ổn định cao và còn có nhiều tiềm năng như Nam Phi, Ai Cập, Marốc, Tanzania, coi Nam Phi là thị trường trọng tâm trong khu vực để thâm nhập sang các quốc gia khác. Một số mặt hàng cần tập trung khai thác trong thời gian tới là thuỷ sản, đồ gỗ, hàng cơ khí, máy móc, động cơ điện, thủ công mỹ nghệ, hoá mỹ phẩm, công sản, cafe, hạt điều....Tuy nhiên, những khó khăn về vận chuyển và thanh toán vẫn là rào cản lớn nhất ảnh hưởng đễn xuất khẩu của Việt Nam vào khu vực thị truờng này. Đối với khu vực thị trường Châu Đại Dương: Đối với khu vực này, trọng tâm vẫn là hai thị trường Australia và Newzealand. Các mặt hàng xuất khẩu chính cần tập trung khai thác là Dệt May, giày dép, thuỷ sản, xe đạp, đồ chơi, đồ nội thất, hàng thủ công mỹ nghệ, gồm sứ, cafe, hạt điều. Đối với hoạt động xuất khẩu tại chỗ: Tập trung vào khai thác hoạt động chi tiêu và mua sắm hàng hoá của khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam . Phấn đấu đến năm 2010, doanh thu từ hoạt động xuất khẩu hàng hoá tại chỗ của Việt Nam có thể đạt 1,5 – 1,7 tỷ USD. 3.2.3.3. Dự báo một số chỉ tiêu xuất khẩu trong năm 2010 Theo nhiều dự báo thì năm 2010 kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, nhưng sẽ có cải thiện và chuyển biến tích cực hơn. Cụ thể, nếu năm 2009 kinh tế thế giới tăng trưởng âm 1,1% theo dự báo của IMF thì sang năm 2010 cũng theo tổ chức này sẽ tăng 3,1%. Theo đó hoạt động đầu tư và thương mại cũng từng bước phục hồi và phát triển. Tuy nhiên, quá trình phục hồi này còn chứa đựng nhiều rủi ro, nhất là những vấn đề về biến động giá cả, khan hiếm nguyên liệu, các chính sách và rào cản mang tính bảo hộ...Do đó để góp phần đạt tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước năm 2010 đề ra khoảng 6,5%, ngành công thương phấn đấu Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 60,54 tỷ USD, tăng 7%, trong đó: khu vực 100% vốn trong nước tăng 11,4%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài kể cả dầu thô tăng 2,3%. Bảng 3.3. Dự báo kim ngạch và tốc độ tăng trưởng các nhóm hàng xuất khẩu năm 2010 (Đơn vị tính: Kim ngạch: triệu USD, Tăng %) NỘI DUNG Năm 2009 KH năm 2010 Tăng giảm (%) Tỷ trọng 2009 (%) Tỷ trọng 2010 (%) Tổng kim ngạch 56.584 60.544 7,0 100,0 100,0 Nhóm nông sản, thủy sản 12.147 12.980 6,9 21,5 21,4 Nhóm nhiên liệu, khoáng sản 8.513 7.514 -11,7 15,0 12,4 Nhóm công nghiệp chế biến 29.390 32.365 10,1 51,9 53,5 Nhóm hàng hoá khác 6.534 7.685 17,6 11,5 12,7 Nhóm hàng nông sản, thuỷ sản: Do hạn chế về diện tích, thời tiết, nguồn nước, năng suất và do lượng xuất khẩu năm 2009 đạt khá cao, nên năm 2010 khó có khả năng tăng trưởng cao, thậm chí một số sẽ đến ngưỡng nếu không có những biện pháp tích cực.Vì vậy, muốn tăng trưởng xuất khẩu chủ yếu phải nâng cao chất lượng hàng hóa để nâng giá bán. Cụ thể: Thủy sản: Theo Bộ Nông nghiệp và PTNT và Hiệp hội Thủy sản, xuất khẩu năm 2010 sẽ có khả năng tăng khá khoảng 9 - 10%, đạt 4,6 tỷ USD, tăng gần 400 triệu USD so với năm 2009. Gạo: Lượng xuất khẩu dự kiến 5,5 triệu tấn, giảm 8,4% so với năm 2009 với giá dự kiến đạt 520 USD/tấn, tăng 14% so với mức bình quân 2009, nên kim ngạch năm 2010 ước khoảng 2,85 tỷ USD. Cà phê: Lượng xuất khẩu dự kiến 1,1 triệu tấn, giảm 5,8% so với năm 2009, tuy nhiên giá dự kiến đạt 1.550 USD/tấn, tăng trên 5% so với mức bình quân 2009, nên kim ngạch năm 2010 ước khoảng 1,71 tỷ USD, bằng năm 2009. Cao su: Lượng xuất khẩu dự kiến 680 ngàn tấn, giảm 6,3% so với năm 2009, tuy nhiên giá dự kiến đạt 1.900 USD/tấn, tăng 15,8% so với mức bình quân 2009, nên kim ngạch năm 2010 ước khoảng 1,3 tỷ USD, tăng 8,4% so với năm 2009. Hạt điều: Lượng xuất khẩu dự kiến 175 ngàn tấn xấp xỉ năm 2009, tuy nhiên giá dự kiến đạt 5.100-5.300 USD/tấn, tăng khoảng 7 - 10% so với mức bình quân 2009, nên kim ngạch năm 2010 ước khoảng 900 triệu USD, tăng 6% so với năm 2009. Nhóm hàng khoáng sản: Kim ngạch xuất khẩu trong năm 2010 dự báo giảm 11,7% so với năm 2009, chủ yếu do giảm lượng dầu thô xuất khẩu (còn 9 triệu tấn so với 13,4 tấn năm 2009) với kim ngạch xuất khẩu đạt 5,1 tỷ USD, giảm 32,4%; lượng than đá xuất khẩu còn 21 triệu tấn với kim ngạch khoảng 1,2 tỷ USD, giảm 9,5% so với năm 2009. Nhóm hàng công nghiệp chế biến: Chiếm tỷ trọng 53,5% tổng kim ngạch xuất khẩu, dự kiến đạt gần 32,4 tỷ USD, tăng 10,1% so với năm 2009, cụ thể như sau: Dệt may: Theo Hiệp hội Dệt may và các doanh nghiệp xuất khẩu lớn, kim ngạch xuất khẩu năm 2010 có khả năng tăng trưởng 10 - 16% do nhu cầu từ thị trường nhập khẩu chính là Mỹ, EU, Nhật Bản hồi phục. Dự kiến, phấn đấu kim ngạch đạt khoảng 10,5 tỷ USD, tăng 15,6% so với năm 2009. Giầy dép: Mặt hàng này tiếp tục chịu thuế chống bán phá giá từ thị trường EU, tuy nhiên khi kinh tế phục hồi thì nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng, vì vậy khả năng tăng trưởng khoảng 13 - 15% so với năm 2009, kim ngạch dự kiến đạt 4,6 tỷ USD. Điện tử và linh kiện máy tính: Mặt hàng này có khả năng tăng trưởng cao do các dự án lớn của Samsung, Intel, Foxcon… đi vào hoạt động trong năm 2010. Riêng Samsung có thể xuất khẩu khoảng 500 - 600 triệu USD/năm. Nếu dự án của Intel hoàn thành sớm thì khả năng xuất khẩu trong năm 2010 có thể đạt 500 - 700 triệu USD. Dự kiến, cả nhóm hàng năm 2010 xuất khẩu đạt 3,7 tỷ USD, tăng 33,4% so với năm 2009. Đồ gỗ: Theo Hiệp hội Gỗ, năm 2010 sẽ khả quan hơn nhiều so với năm 2009 do nhu cầu về các mặt hàng nội ngoại thất tại 2 thị trường chủ lực Hoa Kỳ và EU đang cải thiện. Nhiều đơn hàng lớn đã được ký kết cho năm 2010 nên dự kiến xuất khẩu đạt 3 tỷ USD, tăng 17,6% so với năm 2009. Sản phẩm chất dẻo: Dự kiến về thị trường vẫn có khả năng tăng trưởng tốt do yêu cầu về các sản phẩm giá trị thấp, phục vụ nhu cầu tiêu dùng vẫn cao, nên xuất khẩu năm 2010 dự kiến đạt 1 tỷ USD, tăng 24,7% so với năm 2009. Máy móc, thiết bị phụ tùng khác: Đây là nhóm hàng có nhiều tiềm năng và có tốc độ tăng trưởng cao trong giai đoạn vừa qua. Năm 2009 xuất khẩu tăng 9,1%, đạt kim ngạch trên 2 tỷ USD. Dự kiến năm 2010, xuất khẩu đạt 2,4 tỷ USD, tăng 18,3% so với năm 2009. 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 3.3.1. Các giải pháp vĩ mô 3.3.1.1. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu các mặt hàng thô. Việc cải thiện cơ cấu mặt hàng xuất - nhập khẩu không thể thực hiện trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, cần xây dựng lộ trình cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa sản xuất trong nước, đặc biệt là các sản phẩm xuất khẩu truyền thống, đồng thời tìm thị trường cho các sản phẩm xuất khẩu mới. Ví dụ trong năm 2010, có nhiều mặt hàng có khả năng phát triển xuất khẩu, như 80% lượng cao su tự nhiên được dùng cho ngành công nghiệp lắp ráp ôtô, trong khi dự báo cho thấy thị trường ôtô sẽ có nhiều khởi sắc trong năm 2010. Hiện, khả năng cung cấp cao su của nhiều nước trên thế giới đang giảm, nên nhiều dự báo cho thấy giá cao su sắp tới tương đối tốt. Mặt hàng gạo cũng có khả năng phát triển, vấn đề là chúng ta làm thế nào bán ở giá tốt nhất, lựa chọn đơn hàng và đấu thầu một cách khôn khéo để chọn được giá tốt. Đồng thời, quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cần phải đảm bảo khai thác được các sản phẩm có lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Như độ tinh xảo của các sản phẩm thủ công mỹ nghệ cũng như nông sản là các sản phẩm có thế mạnh của Việt Nam. Vì vậy, cần phải đặc biệt chú trọng, phát huy và cải tiến các sản phẩm truyền thống có hàm lượng giá trị nghệ thuật, văn hoá, tay nghề thủ công cao bằng cách đầu tư phát triển có trọng điểm những làng nghề truyền thống, vùng nguyên liệu đặc sản để có đơn hàng ổn định với khối lượng lớn. Đối với nông, hải sản cần đẩy mạnh công nghệ chế biến sau thu hoạch để nâng cao tỷ trọng hàng công nghệ chế biến, giảm tỷ lệ hàng sơ chế nhằm tránh ảnh hưởng của quy luật giá cánh kéo. Ngoài ra để hỗ trợ tốt cho quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, cần triển khai xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên – nhiên liệu, đóng vai trò là các đầu mối tổ chức nhập khẩu và cung ứng nguyên - phụ liệu cho các DN sản xuất hàng xuất khẩu trong nước, đặc biệt là một số lĩnh vực như sản xuất hàng dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhưa...nhằm nâng cao khả năng cung nguyên liệu cho sản xuất một cách kịp thời với chi phí thấp hơn. Hợp tác với các nước khác có cùng mặt hàng xuất khẩu ( như gạo với Thái Lan, cafe với Indonesia, Braxin, đồ gỗ với Malaysia...) để tăng cường hiệu quả xuất khẩu, nhất là các mặt hàng nông sản có thế mạnh của Việt Nam. 3.3.1.2. Chiến lược chuyển dịch và mở rộng cơ cấu thị trường - hạt nhân của chiến lược thúc đẩy xuất khẩu trong thời điểm hiện nay Suy thoái kinh tế toàn cầu và thực hiện lộ trình cam kết Việt Nam gia nhập WTO vẫn còn là những thách thức lớn đối vớ nềni kinh tế của Việt Nam nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Cơ cấu thị trường xuất - nhập khẩu của nước ta cho thấy, thị trường xuất - nhập khẩu của Việt Nam tập trung cao độ vào một số thị trường trọng điểm đang chịu ảnh hưởng của cơn bão khủng hoảng tài chính thế giới. Các thị trường nhạp khẩu của Việt Nam đều có xu hướng thu hẹp nhập khảu, bảo vệ sản xuất trong nước: tại Mỹ tổng thống Obama chủ trương người Mỹ dùng hàng Mỹ, Trung Quốc thì cấm nhập khẩu các mặt hàng trong nước sản xuất được. Trong khi đó, xuất khẩu của Việt Nam vào 3 thị trường chính là Hoa Kỳ, EU và Nhật bản thường chiếm tỷ trọng 70% kim ngạch nhập khẩu. Trong khi đó, 30% thị trường còn lại có sức mua lớn nhưng chưa được quan tâm hoặc còn thiếu thông tin để có chiến lược thâm nhập hiệu quă. Để giải quyết được bài toán xuất khẩu, vấn đề cốt lõi chính là phát triển được thị trường mới trên cơ sở củng cố, chuyên môn hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu tại các thị trường truyền thống. Do vậy, cần huy động các cơ quan ngoại giao và mạng lưới doanh nghiệp Việt Nam trên toàn thế giới để phát triển, mở rộng thị trường mới như Trung Đông, châu Phi, châu Đại Dương và Mỹ La-tinh, đồng thời khôi phục lại những thị trường cũ như Đông Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập... Hình 3.1. Định hướng lại thị trường xuất khẩu Việt Nam Nguồn: Tổng cục thống kê Đối với các thi trường truyền thống cần nắm chắc bài toán sản phẩm nào phù hợp với thị trường nào. Cụ thể như sau: Hoa Kỳ - thị trường lớn nhất cho mặt hàng dệt may: Kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ năm 2008 đạt 12 tỷ USD. Theo Bộ Công Thương, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường này sẽ tăng lên 12% vào năm 2010. Với các mặt hàng cụ thể, chẳng hạn dệt may, Hoa Kỳ vẫn là thị trường lớn nhất. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu đến năm 2010 đạt trên 6 tỷ USD. Mặt hàng giày dép phấn đấu năm 2010 đạt 1,25 tỷ USD. Ngoài ra, nhu cầu của thị trường Hoa Kỳ với những sản phẩm gỗ khoảng 60 tỷ USD/năm. Việt Nam phấn đấu đến năm 2010 đạt kim ngạch 1,3 tỷ USD. Hoa Kỳ cũng là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn thứ ba của Việt Nam. Nhu cầu nhập khẩu những năm gần đây của Hoa Kỳ khoảng 14 tỷ USD/năm, và nước ta phấn đấu năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 1,2 tỷ USD. Không chỉ thế, Hoa Kỳ còn là nước nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới. Việt Nam phấn đấu năm 2010 kim ngạch xuất khẩu cà phê sang Mỹ đạt 250 triệu USD. Các mặt hàng khác như túi xách, ví, va li, ô dù... là những mặt hàng mới và có nhiều tiềm năng xuất khẩu vào Hoa Kỳ, phấn đấu đạt 420 triệu USD vào năm 2010. EU - thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam Đây là thị trường mà Bộ Công Thương đề ra mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu 12,1 tỷ USD vào năm 2010. Năm 2008, EU bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc, điều này làm ảnh hưởng đáng kể đối với xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào thị trường này. Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với hàng dệt may Trung Quốc, vốn có sức cạnh tranh cao, chủ động được nguyên phụ liệu và có khả năng đáp ứng nhiều loại sản phẩm hàng hóa. Bộ Công Thương đề ra mục tiêu phấn đấu. EU là thị trường nhập khẩu giày dép lớn thứ 2 sau Hoa Kỳ, nhu cầu nhập khẩu những năm gần đây khoảng trên 36 tỷ USD/năm. Phấn đấu đến năm 2010 nước ta đạt được 3 tỷ USD xuất khẩu giày dép vào thị trường này. Bên cạnh đó, EU là thị trường tiêu thụ thủy sản lớn trên thế giới, nhập khẩu nhiều nhất philê cá đông lạnh, chủ yếu là cá tuyết, cá tuyết vàng và cá tra, sau đó là tôm đông lạnh và cá ngừ. Hàng năm kim ngạch nhập khẩu của thị trường này vào khoảng 40 tỷ USD. Việt Nam phấn đấu kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này năm 2010 đạt 1,45 tỷ USD. EU cũng là thị trường tiêu thụ lớn nhất đối với cà phê của Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 45% trong xuất khẩu của nước ta. Phấn đấu đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 850 triệu USD. Ngoài ra, sản phẩm gỗ cũng có tiềm năng xuất khẩu vào EU do thị trường này tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới. Đồ gỗ của nước ta đã thâm nhập được vào hầu hết thị trường các nước EU trong đó những nước nhập khẩu chính là Anh, Pháp, Đức, Đan Mạch. Mục tiêu xuất khẩu mặt hàng này năm 2010 là đạt kim ngạch 900 triệu USD. ASEAN - thị trường quan trọng với xuất khẩu gạo Cơ cấu hàng hóa của nước ta và ASEAN có nhiều điểm giống nhau, ta lại ở trình độ phát triển thấp hơn nên thời gian qua hàng hóa của nước ta chưa thâm nhập được nhiều vào thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu của ta vào ASEAN có xu hướng tăng chậm, trong khi kim ngạch nhập khẩu từ ASEAN tương đối nhanh nên nhập siêu từ khu vực này đang có xu hướng tăng mạnh. Các mặt hàng xuất khẩu của ta hiện nay vẫn là dầu thô, một số mặt hàng nông sản, thủy sản, linh kiện điện tử, vi tính và hàng bách hóa trong đó chiếm tỷ trọng cao nhất là gạo và dầu thô. ASEAN là thị trường quan trọng đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam. Dự kiến đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này đạt 1,6 tỷ USD. Trong khi đó, mục tiêu đối với mặt hàng cà phê là 180 triệu USD, với thủy sản là 320 triệu USD và hàng dệt may là 360 triệu USD.Với mặt hàng điện tử và linh kiện, chủ yếu do các công ty liên doanh tại Việt Nam xuất khẩu sang các nước Philippines, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, và phấn đấu đạt 2,6 tỷ USD vào năm 2010. Nhật Bản - khoảng 92% hàng hóa sẽ được miễn thuế trong vòng 10 năm: Nhật Bản hiện là thị trường xuất khẩu nhiều mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam, ngoài dầu thô, khoáng sản thì các mặt hàng thủy sản, dệt may, đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ, các mặt hàng chế tạo của Việt Nam đang được người Nhật ngày càng ưa chuộng.Mới đây, ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản về Đối tác kinh tế (VJEPA) , một thỏa thuận song phương mang tính toàn diện bao gồm các lĩnh vực như thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh, di chuyển lao động, hợp tác về tiêu chuẩn kỹ thuật…Theo Hiệp định này, trong vòng 10 năm, khoảng 92% hàng hóa sẽ được miễn thuế khi vào thị trường của mỗi bên. Hàng nông sản, may mặc và thủy sản của Việt Nam sẽ được miễn thuế khi vào thị trường Nhật Bản. Ngược lại hàng công nghiệp, gồm cả phụ tùng ôtô và sản phẩm điện tử của Nhật khi vào Việt Nam sẽ được miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu.  Do vậy, việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào Nhật Bản giai đoạn tới sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn. Trung Quốc - cơ hội mới cho hàng nông sản và hải sản Theo nhận định của Bộ Công Thương, giai đoạn 2011 - 2015 tình hình kinh tế Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng trưởng cao, kéo theo nhu cầu nhập khẩu các nhóm hàng nguyên nhiêu liệu như cao su, than đá và đặc biệt là dầu thô. Ngoài ra, nếu triệt để tận dụng cơ hội thì các mặt hàng nông sản và hải sản của Việt Nam có khả năng tăng khá do tác động của việc thực hiện Chương trình Thu hoạch sớm giữa Trung Quốc và các nước ASEAN. Ngoài ra cần tăng cường mở rộng và tìm kiếm các thị trường mới và tiềm năng như Châu Phi. Đối với các nuớc Châu Phi, do sự gắn kết của thị trường tài chính của các nước này với thị trường tài chính thế giới còn tương dối long rlẻo nên tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng đối với kinh tế các nước Châu Phi là không lớn. Theo dự báo mới nhất của Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng GDP của Châu Phi sẽ giảm từ mức 4,9% năm 2008 xuống còn 2.4% năm 2009 và sẽ phục hồi ở mức 4,1% năm 2010. Bảng 3.4. Tăng trưởng GDP của Châu Phi Đơn vị: % 2008 2009 2010 Thế giới 1,9 -1,7 2,3 Châu Phi 4,9 2,4 4,1 Ai Cập 7,2 4,0 4,8 Angieria 3,2 2,2 2,5 Kenya 2,4 2,0 3,4 Nigeria 6,1 2,9 4,2 Nam Phi 3,1 1,0 3,1 Nguồn: Ngân hàng Thế giới Về thương mại, năm 2008 đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của Châu Phi, xuất khẩu đạt 561 tỷ USD và nhập khẩu đạt 466 tỷ USD, tăng lần lượt là 29% và 27% so với năm 2007. Do tác động lan rộng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Tổ chức Thương mại thế giới ước tính thương mại của Châu Phi sẽ chỉ tăng khoảng 3% trong năm 2009. Tuy nhiên, đây là con số khả quan so với sự suy giảm 10% của thương mại toàn cầu. Khủng hoảng kinh tế được cho là không ảnh hưởng nhiều đến nhu cầu nhập khẩu của Châu Phi, lý do là các nước này chủ yếu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu như nhiên liệu và lương thực, thực phẩm. Mặc dù vậy, khả năng thanh toán của các nước Châu Phi sẽ bị ảnh hưởng bởi sự suy giảm nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, viện trợ và kiều hối. Như vậy xuất khẩu sang Châu Phi sẽ là hướng đi có triển vọng đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn tới. Năm 2008, xuất khẩu của Việt Nam sang Châu Phi đã có bước phát triển vượt bậc, đạt 1,33 tỷ USD, tăng 95% so với năm 2007. Đây là lần đầu tiên xuất khẩu của ta sang lục địa đen vượt mốc 1 tỷ USD. Hàng hoá của Việt Nam đã được xuất khẩu tới toàn bộ 53 quốc gia ở Châu Phi. Trong đó, một số thị trường đã đạt mức kim ngạch cao như Ai Cập (167 triệu USD), Ăng-gô-la (đạt 152 triệu USD), Nam Phi (147 triệu USD), Xê-nê-gan (104 triệu USD)...Tuy nhiên với 53 quốc gia, Châu Phi là một khu vực thị trường rất rộng lớn, với trình độ phát triển không đồng đều. Để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động xuất khẩu vào thị trường này, ta cần xác định được các địa bàn trọng điểm, tạo bước đột phá xuất khẩu và làm bàn đạp để xâm nhập vào thị trường các quốc gia láng giềng trong khu vực. Các địa bàn trọng điểm được xác định là những quốc gia có triển vọng phát triển tốt, có nhu cầu cao với các mặt hàng là thế mạnh của Việt Nam, có kim ngạch buôn bán hai chiều tương đối và có cơ quan đại diện của Việt Nam để thuận tiện cho các hoạt động giao thương và xúc tiến thương mại. Các thị trường trọng điểm ở khu vực Bắc Phi là Ai Cập, An-giê-ri và Ma-rốc, ở khu vực Đông Phi là Tan-da-ni-a và Kê-ni-a, ở khu vực Nam Phi là Nam Phi và Ăng-gô-la và ở khu vực Tây Phi là Ni-giê-ri-a, Cốt-đi-voa và Xê-nê-gan 3.3.1.3. Tăng cường đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến xuất khẩu( XTXK). Để tăng cường hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế sau khủng hoảng, thì một trong các giải pháp quan trọng đó là tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại. Cụ thể như sau: Cần tăng cường quản lý nhà nước về xúc tiến xuất khẩu và hoàn thiện các văn bản pháp luật về xúc tiến xuất khẩu. Nhà nước cần kết hợp hoạt động xúc tiến xuất khẩu với hoạt động xúc tiến đầu tư. Hoàn thiện môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh cảu Việt Nam đã có nhiều cải thiện đáng kể, tuy nhiên vẫn cần thiết phải xây dựng hệ thống pháp luật rõ ràng, cải cách và đơn giản các thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Thực hiện chương trình hiện đại hoá và cải cách thủ tục hải quan; xây dựng lộ trình rút ngắn thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá XNK để giảm bớt thời gian của Việt Nam xuống đạt mức trung bình của ASEAN thông qua việc tăng cường áp dụng các biện pháp để tiến hành hải quan điện tử, hải quan một cửa…Rà soát, bãi bỏ một số thủ tục đối với việc nhập khẩu nống sản từ các nước có chung biên giới với Việt Nam, tạo thuận lợi cho việc nhập khẩu NVL sản xuất hàng xuất khẩu và xem xét cho thông quan hàng xuất khảu ttừ các cửa phụ. Hoàn thiện mạng lưới XTXK. Đồng thời tiếp tục duy trì việc chi hỗ trợ hoạt động XTXK thông qua “ Chương trình XTXK trọng điểm quốc gia”. Tăng cường đối thoại giữa các cơ quan Chính phủ với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thu hồi các thông tin phản hồi chính xác từ phía DN để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DN trong hoạt động kinh doanh. Tạo điều kiện thuận lựoi về lãnh sự cho các thương nhân trong nước và nước ngoài. Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ cho hoạt động XTXK. Xây dựng và nâng cao uy tín sản phẩm quốc gia. Đây là vấn đề chiến lược khi mà sản phẩm của Việt Nam đã xuất hiện tại nhiều thị trường lớn trên thế giới nhưng Việt Nam lại chưa được biết đến như một nguồn cung cấp hàng xuất khẩu. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm XTXK địa phương và vai trò của các hiệp hội, ngành hàng. Tăng cường sử dụng thương mại điện tử trong hỗ trợ các hoạt động XTXK. 3.3.1.4. Một số giải pháp chính sách nhà nước khác. Chính sách tỷ giá: Trong thời gian qua, Chính phủ đã điều hành chính sách tỷ giá theo hướng tích cực: mở rộng biên độ dao động lên ± 5% và cho phép tỷ giá VND/USD biến động theo hướng phù hợp với thực trạng cung, cầu ngoại hối trên thị trường. Trong giai đoạn tới, Chính phủ cần tiếp tục điều chỉnh phá giá dần dần tiền đồng, tránh gây sốc, nhưng bảo đảm theo khuynh hướng tăng/giảm giá trị của đồng USD trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh tỷ giá cần cân nhắc theo một giỏ tiền tệ các ngoại tệ mạnh, tự do chuyển đổi (USD, EUR, JPY, GBP) theo tỷ trọng thương mại của Việt Nam với các nước/khối nước liên quan. Chính sách hỗ trợ tín dụng xuất khẩu: Nguồn kinh phí của gói kích cầu 1 tỉ USD cần được sử dụng đúng nơi, đúng chỗ nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Ví dụ, nếu chỉ tài trợ cho các khoản tín dụng liên quan trực tiếp tới xuất khẩu như cho phép doanh nghiệp xuất khẩu chiết khấu các loại hối phiếu thanh toán trả chậm, hoặc cấp tín dụng ngay cho các doanh nghiệp có thể chứng minh đã hoàn thành việc giao hàng và đang làm thủ tục thanh toán trên cơ sở bảo đảm thanh toán bằng chuyển giao chứng từ sở hữu hàng hóa cho ngân hàng. Chính phủ có thể bảo lãnh các khoản thanh toán này. Chính sách hỗ trợ chi phí xuất khẩu: Hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu để giảm các loại chi phí liên quan tới xuất khẩu như chi phí tại cảng biển, sân bay và chi phí vận tải, bến bãi; giảm tối đa thủ tục hành chính gây phiền hà cho doanh nghiệp xuất - nhập khẩu (có thể tài trợ chi phí cho doanh nghiệp xuất - nhập khẩu để thực hiện các thủ tục này được thuận tiện, thông qua bộ máy hành chính nhà nước phục vụ xuất khẩu như thuế, hải quan). Chính sách thưởng xuất khẩu và giảm thuế cho các doanh nghiệp xuất khẩu: Có cơ chế thưởng xuất khẩu xứng đáng, đồng thời giảm thuế thu nhập cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp giải quyết nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Các chính sách tài khóa khác: Để giảm tác động tiêu cực của suy giảm sản xuất xuất khẩu, đặc biệt là vấn đề công ăn việc làm và thu nhập cho công nhân sản xuất hàng xuất khẩu, Chính phủ cần nghiên cứu chế độ trợ cấp thất nghiệp cho công nhân của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu bị mất việc làm, song song với các biện pháp hỗ trợ tạo công ăn việc làm cho công nhân mất việc trên cả nước nhằm tránh vòng xoáy suy thoái kinh tế - thất nghiệp, không có thu nhập, giảm tiêu dùng, buộc doanh nghiệp phải cắt giảm sản xuất và sa thải công nhân dẫn tới thất nghiệp trầm trọng hơn. Chính sách tiền tệ: Cần nới lỏng chính sách tiền tệ một cách từ từ, nhằm tạo thanh khoản và huy động nguồn lực cho chính sách tài khóa của Chính phủ. Tuy nhiên, việc nới lỏng chính sách tiền tệ cần được tiến hành thận trọng trên cơ sở giám sát chặt chẽ tỷ lệ lạm phát và thực hiện nghiêm túc các biện pháp giám sát cẩn trọng, minh bạch trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Ngoài ra, cần thúc đẩy kí kết các hiệp định song phương và đa phương thiết lập các khu vực mậu dịch tự do để tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu, qua đó giảm nhập siêu. Thực hiện quyền yêu cầu cân bằng thương mại lẫn nhau của WTO để trao đổi với các đối tác thương mại mà Việt Nam nhập siêu; phối hợp tìm giải pháp giảm nhập và tăng xuất từ Việt Nam. Đẩy mạnh đàm phán với các nước để triển khai kí kết các thoả thuận song phương và công nhận lẫn nhau về kiểm dịch thực vất, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực vất, nhất là các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Australia, New zealand… Nghiên cứu và phát triển hình thức xúc tiến doanh nghiệp nhằm kêu gọi các doanh nghiệp, tập đoàn lớn trên thế giới vào đầu tư sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu tại Việt Nam…. Xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên - phụ liệu, đóng vai trò là đầu mối tổ chức nhập khẩu và cung ứng nguyên - phụ liệu cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trong nước, đặc biệt là một số lĩnh vực như sản xuất hàng Dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa….nhằm nâng cao khả năng cung ứng nguyên liệu cho sản xuất một cách kịp thời và với chi phí thấp hơn. 3.3.2. Các giải pháp phát triển đối với doanh nghiệp 3.3.2.1. Nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm, chuyển từ cạnh tranh bằng giá rẻ sang cạnh tranh bằng chất lượng và sáng tạo, nâng cao và mở rộng chuỗi giá trị. Đa số các DNVN đều là các DN nhỏ và vừa. So với DN các nước khác thì quy mô DNVN rất nhỏ. Đa số còn thiếu và yếu về các nguồn lực quan trọng như vốn, nhân lực, mặt bằng, thiết bị công nghệ…phụ thuộc nhiều vào nguồn cung bên ngoài nhưng lại khó tiếp cận với các nguồn cung đó. Do đó năng lực cạnh tranh của các DN còn nhỏ trên thị trường quốc tế. Vì vậy, trong bối cảnh kinh tế như hiện nay, vấn đề đặt ra đối với các DNVN nói chung, DN xuất nhập khẩu nói riêng, đó chính là nâng cao sức cạnh tranh của DN. Trong đó, các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của DN bao gồm: Chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt; sự hiểu biết và đáp ứng đúng và kịp thời nhu cầu khách hàng; giảm giá thành, nâng cao giá trị gia tăng của DN ; Xây dựng và phát triển thương hiêu, uy tín của DN; Đổi mới công nghê, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; phát triển nguồn nhân lực, nâng cao trình độ chuyên môn và cần sự linh hoạt, thích ứng khi điều kiện thị trường thay đổi. Trong đó, các yếu tố do DN chi phối là: Chiến lược kinh doanh của DN, dựa trên phân tích thị trường, lợi thế so sánh của DN, định hướng vào một mảng thị trường nhất định, tập trung vào những sản phẩm, dịch vụ, có khả năng cạnh tranh. Trình độ khoa học công nghệ, khả năng tiếp cận công nghệ và đổi mới công nghệ hiện có, chi phí cho R & D, đầu tư phát triển, kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm ( quyết định chất lượng, tính năng, sự khác biệt của sản phẩm). Trình độ phát triển các quan hệ hợp tác, chuyên môn hoá, qua hình thành những “ chùm/cụm” các sản phẩm, dịch vụ liên kết với nhau. Như vậy, một trong những công việc DN cần làm trong điều kiện khủng hoảng chính là nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá, nâng cao và mở rộng chuỗi giá trị thông qua các giải pháp công nghệ, thị trường, sản phẩm, liên kết… Những biện pháp đê nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam chính là: Tiếp tục đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ điều chỉnh hợp lý cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng hàng xuất khẩu qua chế biến có giá trị gia tăng cao, giảm tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm khoáng sản và nông sản thô ở dạng sơ chế trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo cơ sở vững chắc cho việc gia tăng hàng xuất khẩu. Thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu thông qua việc tạo liên kết và nâng cấp các nhóm công nghiệp vè các mặt: ngành sản xuất cốt lõi, công nghiệp phụ trợ, dịch vụ hỗ trợ, nguồn nhân lực, phương tiện và dịch vụ hậu cần, nghiên cứu & phát triển. Hình 3.2: Nâng cao và mở rộng chuỗi giá trị R&D Thiết kế sản phẩm Lắp ráp và sản xuất Phân phối Marketing Nguồn : Kenichi Ohno, Hoạch định chính sách công nghiệp ở Thái Lan, Maylaysia và Nhật Bản, NXB Lao động xã hội 2006 Nâng cao chất lượng và mẫu mã sản phẩm đi đôi với giảm chi phí đầu vào và hạ giá thành sản phẩm. Đa dạng hoá thị trường để vùa đẩy mạnh xuất khẩu, vừa có thể tránh được các cú sốc mạng tính khu vực. Quan tâm đến việc đăng kí và bảo vệ thương hiệu hàng hoá của Việt Nam trên thị trường thế giới nhằm tạo uy tín cho hàng hoá của Việt Nam, qua đó đầy mạnh xuất khẩu hàng hoá. Đẩy mạnh hợp tác liên doanh với nước ngoài trong sản xuất và xuất khẩu hàng hoá. 3.3.2.2. Tận dụng cơ hội từ khủng hoảng để đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong giai đoạn khủng hoảng, giá máy móc thiết bị, công nghệ của thế giới trở nên rẻ hơn rất nhiều. Ngay cả ở khu vực thì nhiều công nghệ trước đây doanh nghiệp Việt Nam khó có điều kiện để đầu tư, chuyển giao thì đến thời điểm hiện nay đã rẻ hơn một phần ba hoặc một nửa. Do đó, doanh nghiệp cần tận dụng cơ hội này, sử dụng nguồn lực hiện có, tận dụng gói kích cầu của Chính Phủ, vay bảo lãnh từ các ngân hàng để đầu tư đổi mới công nghệ nhằm đói đầu kinh tế hồi phục, đồng thời góp phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu nhằm nâng cao các mặt hàng XK có hàng lượng công nghệ cao. Doanh nghiệp cũng cần tận dụng cơ hội từ khủng hoảng để thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao từ nước ngoài để phục vụ cho quá trình tái cấu trúc. Bên cạnh đó, một vấn đề không mới nhưng cần được DN quan tâm là chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, giữ và thu hút lao động “ chất xám”, đặc biệt là lao động quản lý và lao động kỹ thuật. Tình trạng khó tuyển dụng lao động, đặc biệt là lao động có trình độ, kĩ thuật cao sau khủng hoảng là vấn đề khó khăn mà các DN sẽ phải đối mặt trong thời gian tới. 3.3.2.3. Tiết kiệm chi phí, chi tiêu hợp lý, tái cấu trúc chuẩn bị cho một quá trình phát triển mới. Tái cấu trúc là việc cần làm ngay để phát triển sau suy thoái vì những khó khăn mà DN gặp phải ngoài những nguyên nhân khách quan còn xuất phát từ sự yếu kém trong cơ cấu tổ chức, trong điều hành DN và quan hệ với khách hàng. Vì vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của DN trên trường quốc tế cần tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp tái cẩu trúc lại DN ở cả hai cấp độ: tái cấu trúc gắn liền với thay đổi cơ cấu chủ sở hữu và tái cấu trúc không gắn liền với thay đổi cơ cấu chủ sở hữu. Tái cấu trúc gắn liền với thay đổi cơ cấu chủ sở hữu thông thường dưới các hình thức: mua, bán, sát nhập DN…đây là xu hướng đang diễn ra nhiều trên thế giới nhằm hình thành các DN mới đủ mạnh đồng thời vẫn duy trì được các mặt tích cực, các dòng sản phẩm, thương hiệu của DN cũ. Tái cấu trúc không gắn liền với thay đổi cơ cấu chủ sở hữu bao gồm các hoạt động cải tổ nội bộ DN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của một số bộ phận cho phù hợp với chiến lược phát triển chung của DN như: xây dựng và điều chỉnh chiến lược kinh doanh; phát triển những kĩ năng mới, tạo sự tìm tòi và đổi mới trong nội bộ DN; cam kết với khách hàng, cộng đồng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ và xây dựng văn hoá DN… KẾT LUẬN Qua nghiên cứu đề tài “ Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sau khủng hoảng tài chính toàn cầu” tôi rút ra được một số kết luận sau: Thứ nhất, đó là xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là đối với một nền kinh tế đang phát triển phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu như Việt Nam. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam. Ngoài ra, xuất khẩu còn góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân và là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại của một quốc gia. Do đó, đẩy mạnh xuất khẩu là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với phát triển kinh tế của Việt Nam nhất là trong điều kiện xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá dang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới và nó là chính là cơ hội cho mỗi quốc gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Thứ hai, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ cuối năm 2008 đầu năm 2009 đã làm cho nền kinh tế toàn cầu suy giảm, tác động đến thương mại toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng. Đối với Việt Nam xuất khẩu bị giảm mạnh do bị ảnh hưởng của cầu suy giảm và sự xuất hiện nhiều hơn các hàng rào phi thuế quan và các biện pháp bảo hộ mới từ các nước nhập khẩu, đồng thời cũng do giá cả của nhiều mặt hàng chủ lực của ta như dầu thô, lúa gạo, café… đều giảm sút.Trong 6 tháng đầu năm 2009 xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt 27,57 tỷ USD, giảm 10% so với cùng kì năm 2008, trong đó hầu hết các thị trường chủ lực như Nhật Bản, Trung Quốc, Australia, đều có xu hướng giảm sút. Như vậy, đẩy mạnh xuát khẩu trong giai đoạn hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới vẫn đang gánh chịu những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là một khó khăn thách thức lớn với nền kinh tế của Việt Nam nhưng là con đường tất yếu phải đi đê thực hiện mục tiêu CNH – HĐH đất nước, đưa nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Cuối cùng, xuất phát từ thực trạng phát triển của hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta thấy răng nhiệm vụ đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu không chỉ thuộc về Chính phủ mà còn cần sự nỗ lực của bản thân các Doanh nghiệp xuất khẩu. Về phía chính phủ cần chú trọng vào hai giải pháp vĩ mô quan trong là Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu các mặt hàng thô và Chiến lược chuyển dịch và mở rộng cơ cấu thị trường - hạt nhân của chiến lược thúc đẩy xuất khẩu trong thời điểm hiện nay. Ngoài ra cần tăng cường đẩy mạnh các hoạt động XTXK, đa phương hoá, đa dạng các quan hệ kinh tế đối ngoại….Về phía doanh nghiệp cần chủ động nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm, chuyển từ cạnh tranh bằng giá rẻ sang cạnh tranh bằng chất lượng và sáng tạo, nâng cao và mở rộng chuỗi giá trị của bản thân doanh nghiệp. Đồng thời, tận dụng cơ hội từ khủng hoảng để đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... Trên đây là một số kết luận chính mà tôi rút ra từ quá trình nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên bài viết còn nhiều hạn chế và thiếu sót, rất mong được sự đóng góp của thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PSG.TS. Ngô Thắng Lợi, Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển KT- XH , NXB Đại học Kinh Tế Quốc Dân. GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng, Giáo trình Kinh Tế Phát Triển, NSX Lao Động- Xã hội GS.TS Đặng Đình Đào, Giáo trình Kinh tế và quản lý ngành thương mại dịch vụ , NXB Thống kê. TS. Phạm Thu Hương, sách chuyên khảo Xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam cơ hội và thách thức khi hội nhập WTO, NXB Lý luận chính trị , 2007. TS. Nguyễn Văn Hồng, sách chuyên khảo Doanh Nghiệp và chiến lược xuất khẩu, NXB Lý luận chính trị, 2007. Dự thảo phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 – 2015, Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương, Sách tham khảo Kinh tế Việt Nam 2008, NXB Tài Chính, 2009. Điểm lại Báo cáo cập nhập tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam, báo cáo của Ngân hàng thế giới - Hội nghị tư vấn các nhà tìa trợ cho Việt Nam , Hà Nội, 12/2009. Báo cáo “ Những giải pháp thương mại sau khủng hoảng ( giải pháp phát triển thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu), Ông Nguyễn Cẩm Tú, Thứ trưởng Bộ Công Thương. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm 2008 và triển khai kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009, Bộ Kế hoạch và đầu tư. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm 2007 và triển khai kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2008, Bộ Kế hoạch và đầu tư. Các trang Web của Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương, Tổng cục thống kê, Tổng cục hải quan Việt Nam, và các trang khác có liên quan.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25676.doc
Tài liệu liên quan