Ngày nay khi kinh doanh trên thị trường quốc tế thường xuyên biến động, cạnh tranh gay gắt, đòi hỏi các cán bộ kinh doanh phải năng động sáng tạo, có khả năng dự báo ứng phó kịp thời với những biến động của thị trường. Để có thể phát triển tốt các doanh nghiệp cần phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ có trình độ, tinh thông nghiệp vụ, năng động sáng tạo, đáp ứng được yêu cầu của công việc trong lĩnh vực đảm trách. Đội ngũ cán bộ phải có kinh nghiệm, có tầm nhìn chiến lược, có khả năng đưa ra các kế hoạch, các quyết định đúng đắn, sử dụng tốt các nguồn lực của các doanh nghiệp . Các cán bộ nghiệp vụ cần hiểu biết rõ về công tác phát triển thị trường, về mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh, biết nắm bắt thông tin và sử dụng thông tin có hiệu quả.Do đó, các doanh nghiệp cần có kế hoạch phát triển nguồn lực đúng đắn, nâng cao trình độ đội ngũ lao động thông qua việc :
- Cử các cán bộ, các nhân viên có năng lực đi nghiên cứu, học tập tại các lớp đào tạo cán bộ kinh doanh trong và ngoài nước.
- Đào tạo nghiệp vụ kinh doanh và môn bổ trợ cho những cán bộ mới, giúp họ nhanh chóng làm quen với công việc.
- Cử các đoàn ra nước ngoài để nắm bắt nhu cầu thị trường kinh nghiệm làm ăn, tạo dựng các mối quan hệ bạn hàng vững chắc.
Bên cạnh đó đội ngũ thiết kế cũng rất quan trọng quyết định sống còn tới việc xuất khẩu của công ty.Để phát triển đội ngũ này chúng ta có thể áp dụng các biện pháp sau:
-Cho các đội ngũ thiết kế đi tham gia các hội chợ triển lãm ,tham khảo các xu hướng thiết kế mới,phù hợp với model hiện nay và thẩm mỹ quốc tế
-Cử nhân viên thiết kế đi đào tạo tại các nước có ngành TCMN phát triển
-Thành lập các phòng thiết kế quy mô ở các doanh nghiệp,có thể cùng nhau tạo ra các khóa học,các trung tâm giảng dạy chuyên nghiệp đào tạo thiết kế
Mặt khác với đội ngũ Maketting cũng cần thực hiện tuyển chọn những ngừoi năng động và đặc biệt am hiểu về ngàng nghề TCMN cũng như từng loại mặt hàng.trong thời đại ngày nay,đối với bất kỳ một ngàng sản xuất nào ,Maketting tốt đều làm tăng giá trị cảu sản phẩm và thúc đẩy việc bán hàng tốt hơn.Các doanh nghiệp nên có các phòng Maketting .
Nhìn chung yếu tố con người luôn chiếm mọt vị trí quan trọng trong mọi doanh nghiệp,mọi tổ chức cho nên đây là một giải pháp cần được quan tâm và đầu tư thích đáng.
59 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1728 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng sơn mài tại công ty Việt C&C, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh.
3. Vốn điều lệ; cách thức tăng và giảm vốn điều lệ.
4. Họ, tên, địa chỉ, quốc tịch và các đặc điểm cơ bản khác của các cổ đông sáng lập.
5. Số cổ phần của cổ đông sáng lập, loại cổ phần, mệnh giá cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại đối với công ty cổ phần.
6. Quyền và nghĩa vụ của cổ đông.
7. Cơ cấu tổ chức quản lý.
8. Người đại diện theo pháp luật.
9. Thể thức thông qua quyết định của công ty; nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ.
10. Căn cứ và phương pháp xác định thù lao, tiền lương và thưởng cho người quản lý và thành viên Ban kiểm soát hoặc Kiểm soát viên.
11. Những trường hợp cổ đông có thể yêu cầu công ty mua lại cổ phần.
12. Nguyên tắc phân chia lợi nhuận sau thuế và xử lý lỗ trong kinh doanh.
13. Các trường hợp giải thể, trình tự giải thể và thủ tục thanh lý tài sản công ty.
14. Thể thức sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty.
15. Họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật, của người đại diện theo pháp luật, của các cổ đông sáng lập, người đại diện theo uỷ quyền của cổ đông sáng lập.
16. Các nội dung khác do cổ đông thoả thuận nhưng không được trái với quy định của pháp luật.
3.Cơ cấu tổ chức công ty:
Mô hình tổ chức bộ phận theo quá trình:
Tổ chức theo quá trình là phương thức hình thành bộ phận trong đó các hoạt động được hợp nhóm trên cơ sở các giai đoạn của dây chuyền công nghệ.Việc hình thành bộ phận theo quá trình là phương thức khá phổ biến
đối với các tổ chức có dây chuyền hoạt động chặt chẽ ,có thể phân chia thành những cung đoạn mang tính độc lập tương đối ,rất thích hợp với phân hệ sản xuất:
Giám đốc
Phó giám đốc sản xuất
Phó giám đốc kinh doanh
Phó giám đốc tài chính
Phòng kinh doanh
Phân xưởng sản xuất
Phòng tài chính_kế toán
Ở đây giám đốc là người quản lý và chỉ đạo vĩ mô. Là người liên kết các quá trình hoạt động độc lập thành một quá trình thống nhất và có sự ràng buộc lẫn nhau.
Phó giám đốc kinh doanh là người quản lý toàn bộ quá trình kinh doanh của công ty. Từ đầu vào, đầu ra, và các nhân viên trong bộ phận kinh doanh.Phó giám đốc kinh doanh chịu trách nhiệm trong việc chỉ đạo,thúc đẩy doanh thu và các hoạt động kinh doanh của công ty Việt C&C.
Phó giám đốc sản xuất là người quản lý toàn bộ quá trình sản xuất của công ty,các công nhân trong xưởng sản xuất.Là người am hiểu kỹ thuật cũng như các quá trình tạo nên sản phẩm của công ty.Ở ViệtC&C ,phó giám đốc sản xuất cũng là người hướng dẫn đội ngũ thiết kế và sáng tạo ra các sản phẩm mới .
Phó giám đốc tài chính:Là người quản lý và theo sát toàn bộ tình hình tài chính của công ty.Làm việc với kế toán,các ngân hàng,và các đối tác,các nhà đầu tư.
Công việc của các phòng ban:
a. Phòng kinh doanh :
- Gồm 2 cán bộ có trình độ đại học có nhiệm vụ triển khai kế hoạch kinh doanh của công ty , tổng hợp tình hình sản xuất của công ty từng gia đoạn
b. Phòng kế toán :
- Gồm có 3 người 1 trưởng phòng và 2 nhân viên trong đó có 1 người có trình độ đại học ,2 có trình độ trung cấp , thực hiện công việc hạch toán kế toán tính giá thành sản phẩm, phân tích thống kê các số liệu tài chính
c. Xưởng sản xuất:
_Xưởng làm mẫu:gồm 1 thiết kế và 7 công nhân làm mẫu(Tay nghề cao)
_Xưởng sản xuất chính: Gồm 1 quản lý ,và 15 công nhân lao động trực tiếp.
4 .1. Thống kê lao động tại Việt C&C:
Trình độ
Đơn vị
2008
Trên đại học
Người
1
Đại học
-
6
công nhân KT
-
22
Trung cấp phục vụ
-
2
Tổng số
-
31
Việc tuyển chọn, đào tạo cán bộ là một công việc được ban giám đốc thường xuyên quan tâm . Ngành thủ công mỹ nghệ có đặc thù riêng do vậy cán bộ có trình độ chuyên ngành về thủ công mỹ nghệ mới thật sự phù hợp với công việc của công ty . Lực lượng cán bộ này thường xuyên được đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, công ty Việt C&C đã không ngừng trau dồi kiến thức ngành thủ công mỹ nghệ, đào tạo kết hợp với tích luỹ kinh nghiệm, trưởng thành trong thực tế dần dần công ty đã đứng vững trong cơ chế thị trường.
Với qui mô tổ chức sản xuất , tổ chức quản lý như trên, công ty có điều kiện quản lý chặt chẽ về mặt kinh tế, kỹ thuật tới từng đội sản xuất, từng công trình do đó làm tăng hiệu quả sản xuất thi công tạo uy tín nhất định trong ngành .
4.2. Tổ chức bộ máy kế toán
Để đáp ứng nhu cầu của công tác quản lý và hạch toán, bộ máy kế toán của Công ty được xắp xếp bố trí gọn nhẹ, kiêm nhiện nhiều nhằm đáp ứng với yêu cầu biên chế gọn nhẹ và quản lý tập trung. Bộ máy tài chính kế toán của công ty bao gồm 4 người và một số nhân viên thống kê tại xưởng sản xuất.
Giám đốc tài chính là người chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và cấp trên về mọi mặt hoạt động kinh tế , là người chịu trách nhiệm hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra các công việc do nhân viên kế toán thực hiện tròn toàn bộ hoạt động tài chính kế toán của Công ty Việt C&C .
Kế toán trưởng hướng dẫn và kiểm tra các báo cáo trước khi trình giám đốc tài chính, theo dõi tình hình thực hiện công việc của các kế toán viên
Kế toán tổng hợp thực hiện công việc tập hợp chi phí sản xuất, tính giá thành thực hiện kết quả và lập biểu báo cáo biểu kế toán hàng quý. 6 tháng và quyết toán năm .
Thủ quỹ tiến hành các công việc thu chi tiền mặt, ngân phiếu trên cơ sở các chứng từ hợp lệ hợp pháp, thực hiện các qun hệ giao dịch với ngân hàng, rút tiên mặt ngân phiếu về quỹ của Công ty để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu hàng ngày của Công ty.
Tại phòng kế toán sau khi nhận được các chứng từ ban đầu, theo sự phân công công việc, kế toán sẽ tiến hành kiêm tra phân loại, xử lý chứng từ . từ đó ghi sổ chi tiết và tổng hợp, cung cấp thông tin cho việc phân tích tình hình tài chính, kinh tế của công ty .
2.Tình hình xuất khẩu sơn mài của công ty:
Trước khi xem xét thực trạng của công ty Việt C&C chúng ta hãy xem qua một báo cáo mới nhất về tình hình xuất khẩu hàng mỹ nghệ Việt Nam sau một năm gia nhập WTO:
· Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam sau 1 năm gia nhập WTO
Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã và đang giúp cho cộng đồng các doanh nghiệp trong và ngoài nước mở rộng cơ hội giao thương, thúc đẩy phát triển kinh tế quốc tế. Không những thế hội nhập WTO là một ngoại lực giúp các doanh nghiệp Việt Nam hoà mình nhanh hơn vào nhịp đập của nền kinh tế thế giới. Sau một năm hội nhập, nhìn chung kết quả đạt được là thắng lợi. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ - một trong số ngành được đánh giá là có nhiều tiềm năng phátt riển bền vững, xuất khẩu lớn và có tỷ suất lợi nhuận cao vì thủ công mỹ nghệ là ngành hàng xuất khẩu có tỷ lệ ngoại tệ thực thu bằng 95-97% giá trị xuất khẩu, hơn hẳn các ngành nghề khác, do chủ yếu sản xuất từ nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước.
Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt khoảng 750 triệu USD, tăng 19% so với năm 2006. Mục tiêu đến năm 2010, Việt Nam phấn đấu tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở mức 20-22% năm và kim ngạch xuất khẩu đạt 1,5 tỷ USD. Tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn còn những thách thức,hạn chế và khó khăn:
-Việc khắc phục nhược điểm về thiết kế được xem là cách cần thiết nhất, các doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN nên đầu tư nhiều hơn cho thiết kế kiểu dáng, khách hàng sẵn sàng trả giá cao cho những sản phẩm đáp ứng yêu cầu của họ, nhu cầu thị hiếu về thẩm mỹ của con người luôn biến đổi theo thời gian, chúng ra đưa ra những sản phẩm độc đáo mà các nhà sản xuất của nước khác không có được. Yếu tố sức nặng văn hoá kết tinh trong sản phẩm là đặc biệt quan trọng, việc sao chép, rập khuôn kiểu dáng, giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau hoặc của người nước ngoài thì sẽ gặp phải hậu quả không tốt, những vấn đề rắc rối cả về mặt pháp lý và sở hữu trí tuệ. Những nguyên nhân làm giảm cạnh tranh của hàng TCMN còn do chúng ta đầu tư quá ít cho nghiên cứu thị trường, nhất là thị trường dành riêng cho tạo mẫu và thiết kế hàng vừa có tính tiêu dùng, mang tính thẩm mỹ cao mà còn phải thể hiện được tính đa dạng, phong phú, truyền thống vốn có của dân tộc Việt Nam.
-Nguồn tài nguyên cạn kiệt do không có chiến lược, mạnh ai nấy làm, chính sách tái đầu tư trồng mới và khai thác không có kế hoạch, dẫn đến phát triển nguồn nguyên liệu không đồng bộ, ảnh hưởng khá trầm trọng đến tương lai của ngành hàng, về nguyên liệu tre, gỗ, song mây là ví dụ điển hình, phải nhập khẩu chiếm tới 50% (sản lượng tre nguyên liệu) từ nước ngoài, mặc dù vị trí địa lý của Việt Nam khá thuận lợi cho việc tái trồng trọt, trong khi đó nguyên phụ liệu nhập ước tính chỉ khấu hao chiếm từ 3-3,5% giá trị xuất khẩu, giá trị thường đạt từ 95% trên sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
-Sự nhỏ lẻ manh mún, thiếu tập trung giữa các cơ sở sản xuất của ngành hàng không đủ năng lực sản xuất để đáp ứng yêu cầu của khách hàng dẫn đené không thể đáp ứng được những đơn đặt hàng lớn của khách hàng nước ngoài, bạn hàng phải tìm đén các đối tác khuác khu vực nước khác mạnh hơn về quy mô, vốn, công nghệ và năng lực tổ chức sản xuất. Mô hình công nghiệp tập trung thuộc nhóm hàng chưa được định chế hoá nhằm tạo ra những tổ hợp, tập đoàn, theo đúng nghĩa của nó.
-Đào tạo nguồn nhân lực quản lý, phục vụ cho ngành hàng cần phải đạt tới trình độ đẳng cấp quốc tế, các chủ Doanh nghiệp được đại diện cho phần vốn sở hữu của nhà nước, chuyên đem hàng thủ công mỹ nghệ và trang trí nội thất Việt Nam ra nước ngoài buôn bán, vẫn không xác định được rõ ràng hàng hoá của mình đang nằm ở đẳng cấp nào, khả năng thẩm mỹ hạn chế, tính thích ứng thị hiếu thuần tuý…
-Cần xét đến 3 nguyên tắc cơ bản:
Tính truyền thống: xét ở yếu tố truyền thống, không ít những ý kiến vội vã cho rằng hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có truyền thống hàng từ lâu đời, mặc dù thế, nếu so với sân chơi chung của thế giới và tốc độ phát triển của nó trong giai đoạn hiện đại ngày nay thì những vật liệu, mẫu mã được thể hiện từ nguyên liệu truyền htống, cổ truyền như gốm sứ, sơn mài… chưa thể so sánh hết với những yêu cầu ứng dụng tiến bộ của con người đương đại bởi còn thiếu tính giản đơn hoá nhưng phải mang đậm tinh tú và ẩn chứa tính văn hoá và trị giá tuyệt đối về kinh tế của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên thế giới.
Về tiềm lực, đội ngũ thiết kế tài giỏi: đào tạo đội ngũ thiết kế cũng được xem như là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu để cho nền công nghiệp hàng thủ công mỹ nghệ thực sự có đẳng cấp, ngành tạo mẫu phù hợp thời trang, đối với ngành tạo mẫu cho hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam, vẫn còn là một lĩnh vực khá mới mẻ.
Hình thức đa dạng và phong phú: Tại những hội chợ trưng bày tầm cỡ thế giới, đẳng cấp cũng được phân chia khá rõ rệt. Doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp trong khu vực cùng các nước có nền thủ công mỹ nghệ tầm tầm giống nhau được đưa chung vào một nơi. Đẳng cấp ở đây không chỉ thể hiện ở sự mơi slạ, phong phú của các mẫu mã chủng loại hàng hoá ,mà còn là mức chi phí để trưng bày các gian hàng tương xứng với tầm cỡ và chỗ đứng cần được tôn vinh.
-Những khó khăn mà Việt Nam phải đối mặt:
Nguồn nguyên liệu tại các địa phương đã bị khai thác bừa bãi, thiếu quy hoạch và đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu dẫn đến tình trạng thiếu trầm trọng nguồn: gỗ, tre, trúc, giang, nứa, mây… dần cạn kiệt phải nhập khẩu khoảng 50% mây từ Lào, Cămpuchia và Indonesia… Giá thành của loại nguyên liệu này cũng tăng từ 100.000 đ đến 200.000 đ/cây.
Phải nhập khẩu rất nhiều loại nguyên liệu mới và phụ trợ từ nước ngoài, các loại vải có chất lượng cao cho sản xuất hàng thêu ren như tơ lụa, lanh, cotton khổ rộng tối đa 2,4m trở lên theo tiêu chuẩn mà ở Việt Nam vẫn chưa thể có nhà máy để sản xuất ra chúng…..hầu như phải nhập khẩu hoàn toàn kể cả nhãn mác, bao bì, etequette và các chi phí nguyên liệu khác từ các nước phát triển chiếm từ 6-80% chi phí sản xuất.
Mẫu mã còn đơn điệu, có tới 90% mẫu hàng TCMN hiện nay vẫn sản xuất dựa theo đơn đặt hàng theo yêu cầu mẫu từ người mua, hơn nữa nhiều năm qua các sản phẩm thủ công mỹ của Việt Nam đa phần đều có vẻ bề ngoài khá giống nhau cả về kiểu dáng lẫn màu sắc cho dù các doanh nghiệp có xuất sứ nhóm hàng và vị trí sản xuất khá xa nhau.
Mạng lưới sản xuất kinh doanh hàng TCMN đa số nhỏ lẻ, nhiều cơ sở không có điều tham gia xuất khẩu trực tiếp, hạ tầng kỹ thuật sơ sài.
Vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh hàng TCMN nói chung không lớn, tuy nhiên để tiếp cận với nguồn tài chính về thủ tục vay vốn ngắn hạn của các doanh nghiệp, khu vực nông thôn và người nghèo mất quá nhiều thời gian. Doanh nghiệp rất khó đáp ứng được những điều kiện bảo đảm thế chấp, mặt bằng để mở rộng sản xuất thì bị hạn chế, điều kiện về cơ sở hạ tầng rất thấp kém; chi phí vận chuyển quá cao…
-Tính bền vững của ngành hàng còn chưa cao
-Phải chiếm giữ thị trường chủ lực: Thị trường Hoa Kỳ, mỗi năm nhập khẩu tới 13 tỉ USD, Việt Nam không chỉ hciếm ở con số 1,5% kim ngạch nhập khẩu của nước này mà phải là 400 triệu USD vào năm 2010; thị trường EU, mỗi năm nhập khẩu khoảng 7 tỉ USD, Việt Nam cũng chỉ chiếm 5,4% trong số kim ngạch đó, đến năm 2010 Việt Nam phấn đấu xuất khẩu vào thị trường này 600 triệu USD.
Đối với thị trường Nhật Bản được xếp thứ hạng cao trong số những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Mục tiêu lớn hiện nay vẫn được xem là thị trường có sức tăng trưởng ấn tượng trong thế kỷ 21 với nhiều tiềm năng tăng trưởng hứa hẹn trong tương lai. Mỗi năm Nhật Bản nhập khẩu khoảng 2,9 tỉ USD, kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam sang Nhật Bản đạt khoảng 54 triệu USD/năm, chiếm 3% kim ngạch nhập khẩu hàng TCMN của Nhật Bản. Nhu cầu nhập khẩu hàng TCMN của Nhật Bản rất lớn (khoảng 2 tỷ USD/năm) vì người Nhật có thói quen tặng quà cho nhau vào cá dịp lễ hội. Hàng gỗ và sản phẩm TCMN xúât khẩu sang Nhật, chưa phát triển mạnh được ở thị trường này trước sự cạnh tranh của hàng TCMN của Trung Quốc, Thái Lan cùng nhiều nước ASEAN cả về giá cả và mẫu mã. Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm TCMN xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản không ổn định và chưa đạt ngưỡng 1 triệu USD.
(28/01/2008)
(Nguồn: Vinanet)
Như vậy có thể thấy cùng với việc tham gia vào WTO,trong thời kỳ đất nước mở cửa đã cho các doanh nghiệp Việt Nam,trong đó có Việt C&C rất nhiều cơ hội cũng như các nguy cơ rủi ro cao.
ViêtC&C đã có nhiều hoạt động kinh doanh và phát triển cùng với thời kỳ hội nhập của đất nước ,sau đây là một số thực trạng sản xuất và kinh doanh mặt hàng sơn mài của công ty:
*Những kết quả bước đầu:
Tuy mới thành lập (trên nền tảng xưởng hoạt động đã lâu),nhưng công ty đã có nhiều khởi đầu thuận lợi.Trong quý I năm 2008 công ty quyết định tập trung sản xuất vào mặt hàng sơn mài bao gồm gốm sơn mài và tre sơn mài. Công ty đã thành công trong việc tuyển mộ và xây dựng thành công một xưởng sản xuất sơn mài quy mô bên Bát Tràng.Xưởng rộng hơn 300 m2 và có gần hai mươi công nhân lao động chính thức và hàng chục công nhân hợp động thời vụ.Trong quý một năm 2008,công ty đã đón nhận và ký hợp đồng làm mẫu với hai đối tác,một ở Ý và một ở Hà Lan.
Trong tháng 4/2008,vào ngày 21-24 ,công ty đã đăng ký và tổ chức một gian hàng ở hội chợ Hồng Kông Houseware .Công ty đã gặp gỡ và làm việc với hơn 20 đối tác và nhiều khách hàng.Trong đó có 2 khách hàng đặt mẫu ,một ở Mỹ và một ở Tây Ban Nha.
Như vậy có thể thấy ,trong quý một năm 2008,công ty đã ký kết được 4 hợp động đặt mẫu trực tiếp,khoảng 2 container ,trị giá lô hàng khoảng 30 000 USD.
Về doanh thu lẻ:
Công ty có 9 cửa hàng làm đối tác bán hàng tại Hà Nội:Tại hàng Gai,hàng Trống,hàng Hòm,Văn Miếu,…
Doanh thu tháng 1:22tr
Doanh thu tháng 2:15tr
Doanh thu tháng 3:18,5tr
Doanh thu tháng 4 :12tr
Tình hình doanh thu tháng 1 và đầu tháng 2 cao do người tiêu dùng mua nhiều làm quà tặng,đặc biệt du khách hoặc những người tại các tỉnh đi công tác mua làm quà,đồ trang trí cho Tết.Doanh thu tháng 2 và tháng 4 giảm sút do trong tháng 2 là tết,và tháng 4 có hội chợ,công ty không tập trung vào mảng lẻ nhiều được.
Về doanh thu cho hàng mẫu cho các công ty thương mại:
Do nhu cầu sử dụng mẫu cho hội chợ và làm hàng lẻ nên trong quý I công ty không có doanh thu về mặt này.
*Các đối tác khách hàng tiềm năng :
Về bán lẻ:
Qua quá trình hoạt động trong quý I,có thể thấy các cửa hàng trên phố,đặc biệt là cửa hàng lẻ bán lẻ cho các du khách du lịch quốc tế tại các phố cổ Hà Nội đều là các cơ sở tốt để tiêu thụ và làm đại lý cho công ty.
Bên cạnh đó ,qua các mục đích sử dụng cũng như liên hệ của khách có thể thấy ,hầu hết các vật dụng sang trọng,nhưng muốn gọn và tinh tế tại các hãng hàng không như bát tre sơn mài,hay các đồ dùng tại các khách sạn,nhà hàng,đều có thể triển khai bán hàng của công ty.
Các công ty thương mại trước kỳ hội chợ đều muốn mua hàng để tăng sự phong phú của hàng mẫu bên họ nên cũng là các khách hàng tiềm năng rất có giá trị.
Bên cạnh đó bộ phận dân chúng có thu nhập khá và cao ,hộ dân tại các khu đô thị mới ,hay các nhà gia đình mang tính mỹ thuật cao cũng đều có sự quan tâm nhất định tới mặt hàng công ty.
Về hợp đồng xuất khẩu,khách buôn:
Thị trường tiềm năng và khá dễ tính là thị trường Mỹ.Hiện công ty đã có một hợp động làm mẫu cho thị trường này,tuy nhiên đây là thị trường chịu rất nhiều cạnh tranh cũng như các vấn đề thủ tục xuất khẩu còn nhiều khó khăn.
Thị trường Châu Âu ,nổi bật là khách hàng tại Italia cũng rất quan tâm tới các mẫu mã của công ty.
Còn tại thị trường Châu Á ,Hàn Quốc cũng có rất nhiều khách quan tâm và chú ý tới sản phẩm sơn mài của công ty.
3. Đánh giá chung
a.Những kết quả đạt được,tiềm năng:
Hàng sơn mài thật sự là một mặt hàng tiềm năng và thế mạnh của công ty.Trong đó thị trường xuất khẩu là nguồn doanh thu mạnh và có giá trị cao nhất trong các nguồn thu.Để có thể nâng cao khả năng xuất khẩu ,trong thời gian vừa qua,từ khi chỉ là một xưởng nhỏ tới khi thành lập một công ty,Việt C&C đã có được những thành tựu nhất định:
Công ty đã gia nhập và là một thành viên của Hiệp hội xuất khẩu thủ công mỹ nghệ Việt Nam.
Công ty đã bước đầu thâm nhập và giới thiệu được sản phẩm tới những thị trường khó tính nhưng có tiềm năng đem lại nguồn doanh thu khổng lồ tại Mỹ và Châu Âu
Công ty đã có đơn hàng làm mẫu cho khách hàng Italia và Mỹ
Công ty đã đem và giới thiệu hơn 100 mấu hàng tại hôị chợ Hồng Kông tháng 4,là một trong những hội chợ quy mô nhất Châu Á về đồ gia dụng trong nhà,bao gồm cả hàng Deco.có hơn 20 khách hàng đã chú ý và đặt vấn đề liên hệ với công ty
Như vật có thể thấy tiềm năng của công ty về mặt hàng sơn mài là rất to lớn.Đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu với rất nhiều đối tác quan tâm tại những thị trường giàu tiềm năng và giá trị.
b.Những tồn tại:
Tuy đã đạt được những kết quả nhất định nhưng có thể thấy các con số cụ thể doanh thu của công ty là không được tốt và chưa thực sự đạt được mục tiêu kinh doanh đề ra.
Bảng kế hoạch và chỉ tiêu cho quý I năm 2008 của công ty :
Lợi nhuận của ngành nghề kinh doanh sơn mài :20%_30% doanh thu
Doanh thu:
Hàng bán lẻ:
3 cửa hàng thương gia khoảng 30 tr/tháng
Cửa hàng Trường Hàng Trống 15 tr/tháng
116 hàng Gai 10tr/tháng
118 hàng Gai 3 tr/tháng
20 hàng Hòm 10 tr/tháng
43 Văn Miếu 5 tr/tháng
5 cửa hàng nội thất (Kim Mã,Lý Nam Đế,Phan Đình Phùng.,Cát Linh)
Các cửa hàng ở Mã Mây ,Nhà Thờ ,Nhà Chung,Tô Tịch,Hàng Bạc
Các của hàng Bát Tràng:20 tr/tháng
Hàng mẫu bán cho hội chợ tháng 4:
*Nhật Thắng:60tr
*Ban Mai:40 tr
*Barotex:30tr
_____________________________________________
Doanh thu: 123 tr /tháng.,Lũy kế trong quý I khoảng 430 tr
Về xuất khẩu :
Làm kịp hàng mẫu và nhận hai hợp động của khách Italia và Hà Lan.Giá trị hai đơn hàng khoảng 120 000 USD.
Nhưng đến đầu tháng tư ,doanh thu thực của công ty chỉ khoảng 70 tr,
Trong đó xuất khẩu không có được một hợp đồng mà vẫn trong giai đoạn làm mẫu.
Như vậy rõ ràng ,tuy có rất nhiều tiềm năng,nhưng việc thực hiện kế hoạch sản xuất và kinh doanh của công ty đang gặp vấn đề.Chúng ta có thể khái quát ở một số vấn đề chính như sau:
Trong khâu sản xuất có trục trặc,vấn đề có thể do những yếu tố :
Do cơ sở vật chất còn yếu kém
Do đội ngũ thợ chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất
Do nguyên liệu mua không đáp ứng được tiêu chuẩn
Do người quản lý chất lương làm chưa chặt chẽ
Do khâu kinh doanh chưa nhận định đúng thế mạnh của công ty nên chưa có chọn lọc đơn hàng cũng như cách tiếp cận những khách hàng tiềm năng
Do ban lãnh đạo nóng vội,chưa nhận định đúng tình hình của công ty tại thời điểm hiện tại cho nên còn nhiều hạn chế trong khâu vạch kế hoạch không sát với thực tiễn ,gây ra sai lệch mục tiêu.
Tất nhiên rất khó có thể nêu ra chính xác tuyệt đối một nguyên nhân hay một vấn đề chủ chốt nào đó ,vì nguyên nhân ,kết quả là tổng hòa của rất nhiều yếu tố tạo nên.Có thể mỗi một yếu tố đều góp phần tạo nên nguyên nhân đó.
Cho nên chúng ta có thể tìm hiểu một chút và có cái nhìn tổng quan về doanh nghiệp thông qua mô hình ma trận SWOT(Mô hình điểm mạnh , điểm yếu ,cơ hội và đe dọa)
Đánh giá điểm mạnh ,điểm yếu hay còn gọi là phân tích bên trong trên các giác độ như nhân sự ,tài chính ,công nghệ ,uy tín ,tiếng tăm ,mối quan hệ,văn hóa ,truyền thống của tổ chức.
Việc đánh gía này chỉ mang tính chất tương đối,chủ yếu có sự so sánh mặt bằng chung trong ngành .
Phân tích về cơ hội,đe dọa hay còn gọi là phân tích bên ngoài vì những nhân tố đó đến từ bên ngoài.Nếu như việc phân tích này được thực hiện một cách kỹ lưỡng và sáng suốt ,các chiến lược cấp ngành đề ra sẽ có thể nắm bắt được các cơ hội và sẵn sàng đối phó với các đe dọa có thể xẩy ra.Trong thực tế,mô hình SWOT được sử dụng rộng rãi và được coi là mô hình phân tích hiệu quả.
Mô hình ma trận SWOT:
Công ty cổ phần
Việt C&C
(O)Cơ hội:
Nhiều thị trường tiềm năng
Có nhiều tổ chức ,hiệp hội giúp đỡ
Chính sách mở cửa của nhà nước,thành viên WTO
(T)Đe dọa
Nhiều doanh nghiệp cạnh tranh
Các tiêu chuẩn khắt khe của khách hàng
Các luật ,quy tắc quốc tế,trong thời kỳ hội nhập
(S)Điểm mạnh
Khả năng tạo dáng,thiết kế sản phẩm
Có truyền thống,kinh nghiệm sản xuất
Nắm bắt được nhiều thông tin
(S,O)
_Xúc tiến quảng cáo mẫu mã sang các thị trường tiềm năng
_Tích cực tham gia các hiệp hội ,các tổ chức
_Nhanh nhạy hơn đẻ tìm kiếm cơ hội ,tham gia các hội chợ quốc tế
(S,T)
_Tạo ra các sản phẩm có sự khác biệt,sáng tạo,cạnh tranh
_Tận dụng kinh nghiệm sản xuất ,đáp ứng nhu cầu khách hàng
_Nắm bắt thông tin,thành thạo các quy tắc,luật lệ quốc tế để thực hiện hiệu quả
(W)Điểm yếu
Đội ngũ nhân lực chưa hoàn thiện
Cơ sở vật chất còn chưa quy mô
Thiếu vốn
(W,O)
_Nhanh chóng đào tạo,tuyển mộ nhân lực,cả sản xuất và kinh doanh
_Lập kế hoạch kinh doanh,nhận tài trợ
_Huy động nguồn vốn cho sản xuất từ các quỹ đầu tư,trong nước và quốc tế
(W,T)
_Liên kết các doanh nghiệp ,cùng tham gia các chương trình đào tạo,học hỏi hoàn thiện đội ngũ lẫn nhau.
_Nhận thức được các khó khăn để có chiến lược phát triển phù hợp.
Như vậy có thể thấy công ty Việt C&C có nhiều điểm mạnh cũng như điểm yếu,có cơ hội và cũng đi kèm nhiều rủi ro.
Về cơ hội,điềm mạnh của doanh nghiệp,qua thời gian vừa rùi có thể nhận thấy,công ty VIệt C&C có một thế mạnh về thiết kế,khả năng tạo dáng sản phẩm.Thiết kế chính của công ty,ông Hà Huy Chiến là một người đã từng nhận được giải thưởng thiết kế của Nhật,bên cạnh đó ,với 10 năm phát triển cùng ngành
Sơn mài Việt Nam,ngân hàng dữ liệu mẫu mã công ty qua các thời kỳ là con số không nhỏ.Cùng với mẫu mã là xu hướng thị hiếu của thị trường qua các năm tháng.Từ đó cũng cho công ty ít nhiều thấy được sự phát triển của thị hiếu thị trường,dự báo được sự thay đổi qua các năm.
Bên cạnh đó ,do xưởng sản xuất nằm ở Bát Tràng,công ty cũng có lợi thế về thiết kế mẫu mã.Khi có một ý tưởng mới nào,với hệ thống các cơ sỏ làm khuôn ,tạo dáng dày đặc ở Bát Tràng,công ty luôn có thể tạo ra kiểu dáng ,khuôn cốt sản phẩm một cách nhanh nhất có thể,kịp thời đáp ứng thời gian làm mẫu cho khách hàng,cũng như triển khai hợp đồng sản xuất.
Là một công ty mới thành lập ,nhưng không thể nói Việt C&C là một công ty non trẻ,vì công ty được hình thành trên nền tảng một xưởng sản xuất đã có từ 10 năm nay.Đội ngũ cán bộ cũng như ban lãnh đạo công ty đều có sự am hiểu tường tận và rất nhiều kinh nghiệm cho sản xuất và kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ nói chung cũng như mặt hàng sơn mài nói riêng.
Bên cạnh đó , do có sự quan tâm nhất định cũng như hiểu được giá trị của hệ thống thông tin trong thời buổi hiện tại,Việt C&C cũng có một bộ máy giao dịch và nắm bắt thông tin tốt.
Đi cùng với điểm mạnh,tất nhiên không thể không nhắc tới điểm yếu của Việt C&C :
Thứ nhất ,đội ngũ của công ty là chưa hoàn thiện.Việt C&C không đơn thuần là một công ty thương mại chuyên kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ.Việt C&C là một công ty bao gồm từ sản xuất đến kinh doanh.Nhưng hiện tại ,ở mỗi khâu ,nhân sự của công ty còn thiếu.Có nhiều vị trí phải kiêm nhiệm.
Về cơ sỏ ,của Việt C&C cũng chưa được quy mô,khó cạnh tranh với các công ty lớn khác về các hợp đồng lớn.
Về vốn,nhiều khi do chưa có sự chuẩn bị kỹ cành về tài chính,nên khi gặp vấn đề khó khăn,đặc biệt là khó khăn về vốn,công ty thường giải quyết khá chậm,dẫn đến nhiều vấn đề khúc mắc,khó gải quyết.Như khi làm mẫu,khi triển khai bán lẻ.
Đó là các yếu tố bên trong của công ty ,các yếu tố bên ngoài cũng bao gồm rất nhiều cơ hội và rủi ro đối với Việt C&C:
Về các cơ hội,do thời kỳ đất nước hội nhập,ngày càng có nhiều thị trường đầy tiềm năng và hấp dẫn với các doanh nghiệp Việt Nam. Các khách hàng liên hệ với công ty ngày càng đa dạng hơn và đến từ nhiều thị trường khác nhau.Nổi lên trong đó là thị trường Châu Âu(Italia,Hà lan…) Đem lại nhiều cơ hội mới cho công ty.
Bên cạnh đó ,tuy mới thành lập nhưng công ty cũng nhận được sự hỗ trợ nhiệt tình từ phía các hiệp hội ,các tổ chức khác ,như Hiệp hội xuất khẩu thủ công mỹ nghệ Việt Nam,hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ,….Trong đợt đi hội chợ ở Hồng Kông tháng 4 năm 2008, Hiệp hội xuất khẩu thủ công mỹ nghệ cũng đã hỗ trợ Việt C&C tiền gian hàng hội chợ và giàn dựng gian hàng.
Bên cạnh các hiệp hội ,tổ chức ,thì trong thời gian vừa rồi,với chế độ mở cửa của đất nước ,các thủ tục cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ cũng gặp nhiều thuận lợi.Các doanh nghiệp nhanh chóng có thể triển khai các chương trình kinh doanh,như giấy tờ mặt bằng,giấy tờ kinh doanh.
Tuy nhiên đi kèm với các cơ hội thì công ty cũng gặp không ít rủi ro.
Cùng sự phát triển của ngành nghề ,của các cơ hội kinh doanh là sự bùng nổ doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh doanh mặt hàng này.Do đó vấn đề sản xuất và kinh doanh của công ty càng khó khăn hơn,vì chịu sự cạnh tranh khốc liệt gay gắt .
Cũng từ đó mà doanh nghiệp sẽ càng vấp phải sự chọn lựa khắt khe của khách hàng..và các tiêu chí về giá cả, chất lượng cũng khắt khe hơn.
Bên cạnh đó ,thời kỳ hội nhập quốc tế sẽ làm các doanh nghiệp phải tập trung hơn trong vấn đề tìm hiểu các luật pháp ,quy tắc quốc tế.Nếu không chúng ta nhất định sẽ vấp phải các rào cản,các vụ kiện quốc tế.
III.Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng sơn mài tại công ty cổ phần Việt C&C:
Sau đây là mốt số giải pháp được tổng hợp và kiến nghị ,em xin phép được đưa ra không chỉ nói chung cho công ty Việt C&C mà hy vọng nó là một số giải pháp hữu ích cho cả các doanh nghiệp đang kinh doanh hàng hóa thủ công mỹ nghệ nói chung và mặt hàng sơn mài nói riêng:
1.Phát triển nguồn nhân lực,đặc biệt duy trì,đâo tạo ,tuyển chọn những công nhân tay nghề cao :
Đối với bất cứ công ty nào,trong lĩnh vực nào,nhân lực luôn là nguồn động lực quan trọng nhất cho các hoạt động và sự phát triển.Đặc biệt với Việt C&C ,trong lĩnh vực sản xuất sơn mài lại càng quan trọng hơn.Trong thời gian vừa qua ,có thể thấy hợp đồng công ty nhận được qua rất nhiều khâu và công đoạn khó khăn,từ khâu maketting,khâu giao dịch,cho tới đội ngũ sản xuất,và đối với mỗi khâu lại cần những con người xuất sắc ,am hiểu công việc và tận tụy làm việc.Chỉ cẩn một khâu làm không tốt lập tức ảnh hưởng tới toàn công ty.
Và trong quá trình sản xuất cũng vậy,từ khâu mài,bả,tới khâu phun sơn.Nếu có được những người thợ tốt thì sẽ tiến hành công việc rất nhanh và dễ dàng.
Bên cạnh đó,ngày càng có nhiều công ty tham gia vào sản xuất và kinh doanh loại hàng hóa này,vì vậy,sẽ rất khó khăn nếu công ty không có một đội ngũ mạnh hơn,vững chắc hơn để có thể theo kịp cũng như vượt lên các doanh nghiệp cùng ngành.
2,Phát triển các làng nghề và các vùng nguyên vật liệu :
Nguyên liệu luôn là vấn đề sống còn với các doanh nghiệp sản xuất,đối với loại mặt hàng sơn mài lại càng cần thiết vì nguyên liệu để sản xuất hàng sơn mài tuy rất phong phú nhưng lại phụ thuộc vào tự nhiên khá nhiều,như vùng tre,nứa,gỗ,…
Làng nghề nước ta là “cái nôi” chủ yếu sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, cho nên, để phát triển hàng thủ công mỹ nghệ, nhất thiết phải quan tâm củng cố và phát triển làng nghề. Đó là các giải pháp như: quy hoạch sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng của làng nghề, bảo vệ và phát triển môi trường, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường nhất là tại các làng nghề chế biến thực phẩm), tổ chức lại sản xuất, cải tiến quản lý, v.v...
Theo quy định hiện hành của Bộ NN và PTNT, được công nhận nghề truyền thống là những nghề (1) đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đên thời điểm được công nhận; (2) tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc; (3) gắn với tên tuổi của một hoặc nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề. Được công nhận làng nghề là những làng có đủ các tiêu chí (1) có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn; (2) hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm được đề nghị công nhận và (3) chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước. Làng nghề truyền thống là những làng đạt được tiêu chí làng
nghề và có ít nhất một nghề truyền thống (với một số làng tuy chưa đạt đầy đủ các tiêu chí làng nghề nhưng nếu có ít nhất một nghề truyền thống thì cũng được công nhận là làng nghề truyền thống).
Thực tiễn cho thấy, việc phát triển làng nghề, nhất là phát triển các nghề thủ công mỹ nghệ có ý nghĩa và tác dụng rất quan trọng trong nhiệm vụ phát triển nông thôn, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Không những thế, khôi phục và phát triển làng nghề còn có ý nghĩa sâu sắc về văn hóa và du lịch, là đề cao giá trị văn hóa truyền thống trong các sản phẩm làng nghề, trong các làng nghề có làng tồn tại hàng trăm năm, là giới thiệu và tôn vinh tinh hoa văn hóa nước ta bằng những sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách từ nhiều nước đến Việt Nam để “khám phá Việt Nam”...
ý nghĩa cấp bách trước mắt trong việc phát triển làng nghề, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, đó là việc tạo thêm nhiều việc làm cho hàng chục triệu lao động nông nghiệp, những người
đang chưa có việc làm gồm nông dân trong những ngày nông nhàn; nông dân trong các vùng đô thị hóa mà ruộng đất được chuyển đổi sang các mục đích phi nông nghiệp đang di chuyển về các thành phố, tạo ra sức ép về việc làm, nhà ở và nhiều nhu cầu khác về kinh tế, xã hội; đó là những thanh niên nông thôn hàng năm đến tuổi lao động; đó cũng là những lao động trong các doanh nghiệp nhà nước nay dôi ra do sắp xếp lại doanh nghiệp, v.v... Phát triển làng nghề sẽ góp phần vào quá trình đô thị hóa, hình thành nhiều đô thị nhỏ làm vệ tinh cho các thành phố lớn. Với hệ thống đường giao thông, hệ thống điện cho sản xuất và sinh hoạt, phương tiện thông tin liên lạc, trường học, bệnh viện, v.v... tất cả sẽ tạo nên bộ mặt nông thôn mới văn minh, hiện đại. Sản phẩm làng nghề, thủ công mỹ nghệ sẽ được sản xuất vừa tập trung vừa phân tán trong các khu, cụm công nghiệp nhỏ và vừa, cũng như trong các gia đình. Để thúc đẩy các công việc nói trên, rất cần xúc tiến triển khai quy hoạch phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn gắn với bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, giúp cho thủ công mỹ nghệ có cơ sở phát triển, mở rộng thêm sản xuất và nâng cao thêm giá trị sản phẩm.
Làng nghề nước ta đang từ truyền thống tiến lên hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó, nhu cầu đòi hỏi tổ chức lại sản xuất trong mỗi cơ sở sản xuất, mỗi doanh nghiệp và trong phạm vi từng làng nghề là có thật. Mỗi làng nghề hiện có nhiều loại hình sản xuất kinh doanh; đó là các tổ sản xuất, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH, hợp tác xã, v.v... rất phong phú, đa dạng, có thể ví dụ như Xã Dương Liễu (huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây) hiện có 25 công ty TNHH và công ty cổ phần, 1.938 hộ trong số 2.652 hộ của toàn xã tham gia sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Thế nhưng, hầu hết các cơ sở này vẫn kinh doanh riêng lẻ, nhà nào biết nhà ấy; quản lý sản xuất kinh doanh một cách đơn giản, có nơi còn tùy tiện theo kiểu gia đình. Việc liên kết, liên doanh giữa các cơ sở trong cung ứng nguyên liệu, vật tư, trong đổi mới công nghệ cũng như trong tiêu thụ hàng hóa hầu như chưa được tổ chức. Để nâng cao chất lượng hàng thủ công mỹ nghệ, tăng thêm sức mạnh cho các cơ sở, giải pháp hàng đầu hiện nay chính là tổ chức lại công tác quản lý ngay trong mỗi cơ sở sản xuất.
Bên cạnh việc tập trung phát triển các làng nghề, việc quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu cũng là một biện pháp tốt nhằm giải quyết tình trạng khan hiếm nguyện liệu cho sản xuất của các doanh nghiệp..song song với đó là ý thức khai thác và sử dụng nguyên liệu của các nhà cung cấp nguyên liệu và các doang nghiệp cần hiệu quả và tiết kiệm hơn.Sử dụng hợp lý nhất với nguồn nguyên liệu hiện có.Tránh tình trạng khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí tài nguyên.
3,Thu hút thêm vốn , mở rộng quy mô sản xuất:
Cũng giống như nhiều doanh nghiệp khác của Việt Nam,một trong những nhược điểm lớn của Việt C&C là quy mô của doanh nghiệp vẫn còn hạn chế ,nhiều khi không đáp ứng được với yêu cầu của khách hàng về thời gian và số lượng.
Mặt khác ,đối với những thị trường khách hàng khó tính như Châu Âu và Mỹ,đôi khi yêu cầu về nhà xưởng sản xuất của họ là rất khắt khe với các tiêu chuẩn ngặt nghèo.Trước khi ký hợp đồng,khách hàng thường phải kiểm tra và thị sát tận nơi khu vực sản xuất của các công ty.Chính vì vậy,để đạt được các hợp đồng lớn ,và đủ tiêu chuẩn sản xuất ,tránh tình trạng thiếu hụt nguồn vốn chúng ta cần phải tập trung thu hút thêm vốn và mở rộng quy mô sản xuất.
4,Liên kết với các làng nghề,các công ty khác,các hiệp hội và sự trợ giúp của nhà nước:
Tuy thời gian vừa qua.công ty đã bước đầu thành công khi tham gia và nhận được sự giúp đỡ của Hiệp hội xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nhưng cũng từ sự thành công đó có thể thấy sự giúp đỡ của các hiệp hội và sự liên kết giữa các công ty ,doanh nghiệp là hết sức quan trọng.Liên kết được với nhau chúng ta sẽ tránh được các tình trạng ,các vấn đề như cạnh tranh nhau không công bằng giữa các doanh nghiệp và tình trạng ăn cắp mẫu mã lẫn nhau.
Không giống như các doanh nghiệp nước ngoài ,có sự liên kết chặt chẽ với nhau giữa các doanh nghiệp ,doanh nghiệp Việt Nam luôn nhiều sự cạnh tranh không công bằng.,về giá cả cũng như sản xuất.
5,Đẩy mạnh khâu thiết kế ,sáng tạo sản phẩm mới:
Đây rõ ràng là một bài toán khó đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung cũng như Việt C&C.Các sản phẩm vẫn còn mang tính thô sở và máy móc,chưa ghi được dấu ấn của tính sáng tạo cũng như sự tinh tế ,cái riêng của các doanh nghiệp khi tham gia sản xuất và chào hàng.
Để có được điều này ,các doanh nghiệp cần phối hợp với các trung tâm thiết kế ,các trường đào tạo mỹ thuật một cách bài bản.Cử các chuyên gia design đi học tập và đào tạo tại các nước có thế mạnh về thiết kế.Cũng như các doanh nghiệp cũng nên trao đổi và học tập lẫn nhau.
6.Tăng cường phát triển thị trường cho mảng sơn mài:
Trên cơ sở thực trạng xuất khẩu hàng sơn mài ở công ty VIệt C&C ,em xin đưa ra một số biện pháp nhằm phát triển thị trường theo cả chiều rộng và chiều sâu:
Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường :
Do dặc tính của sơn mài là lọai hàng hóa thủ công nhưng lại có rất nhiều tính chất riêng ,và là một trong những hàng hóa khó tính,cách dùng rất cẩn thận và có yêu cầu cao.Cho nên khi tìm hiểu và nghiên cứu cần tỉ mỉ và chi tiết nhu cầu sử dụng cũng như môi trường sử dụng sản phẩm của khách hàng để có những cách dùng phù hợp.
2. Xây dựng chính sách phát triển phù hợp với từng thị trường
3. Phân bổ ngân sách thoả đáng cho công tác phát triển thị trường.
Để phát triển thị trường, các doanh nghiệp cần phải tiến hành một loạt các hoạt động nghiên cứu, quảng cáo, xúc tiến thị trường và các hoạt động này đòi hỏi một nguồn ngân sách tương đối lớn.
Các thông tin về thị trường thu thập qua các phương tiện thông tin đại chúng như sách báo, vô tuyến, mạng Internet...thường không tốn kém nhưng nhiều khi chung chung, chưa chính xác. Để có các thông tin chính xác hơn, các doanh nghiệp sẽ phải bỏ tiền ra mua hoặc cử người sang thu thập nghiên cứu tại thị trường. Cách này đòi hỏi chi phí cao và nếu ngân sách dành cho công tác nghiên cứu thị trường quá nhỏ thì các doanh nghiệp không thể thực hiện được.
Mặt khác, để bán được hàngcác doanh nghiệp không chỉ cần có chất lượng hàng hoá tốt, giá cả hợp lý mà còn cần những hoạt động quảng cáo, tiến hành các hoạt động xúc tiến nhằm cung cấp thông tin cho người mua, thu hút lôi cuốn họ. Khả năng tài chính mạnh sẽ cho phép các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động quảng cáo, xúc tiến một cách đồng bộ hơn, tiếp cận thị trường tốt hơn.
Hiện nay, ngân sách dành cho hoạt động phát triển thị trường của các doanh nghiệp vẫn còn hạn chế, mới đủ cho các chương trình quảng cáo nhỏ như in cataloge giới thiệu. Việc tham dự các triển lãm quốc tế cón ít. Ngoài ra, cơ chế khoán lãi đến từng phòng tuy có ưu điểm góp phần nâng cao tính năng động trong kinh doanh nhưng để hoàn thành chỉ tiêu, các phòng nghiệp vụ sẽ khó gánh nổi chi phí nghiên cứu, quảng cáo, các hoạt động xúc tiến thị trường nhiều khi bị cắt bỏ...
7. Tổ chức tốt công tác tạo nguồn và thu mua hàng cho xuất khẩu.
Đối với một doanh nghiệp thương mại, mua và bán luôn gắn liền với nhau. Việc bán hàng có được hay không phụ thuộc rất nhiều vào công tác mua hàng, vì nó sẽ quyết định đến chất lượng, chủng loại, giá cả hàng hoá.
Khác với sản phẩm công nghiệp khác, hàng thủ công mĩ nghệ được sản xuất chủ yếu ở các làng nghề, các hộ gia đình có qui mô nhỏ và rải rác. Nếu mua với số lượng lớn, các doanh nghiệp phải thu mua từ nhiều nguồn khác nhau mới đủ tiến độ giao hàng. Do đó, công tác thu mua được tổ chức không hợp lý sẽ ảnh hưởng không tốt đến chi phí kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Các nguồn hàng cung ứng cho các doanh nghiệp phải đảm bảo được chất lượng ổn định. Các sản phẩm phải đáp ứng được tiêu chuẩn xuất khẩu như không biến dạng, xuống cấp khi thay đổi thời tiết, các sản phẩm mây tre đan không bị nấm mốc, mối mọt,... Vì thế, trong khâu thu mua, các doanh nghiệp phải giám định chất lượng sản phẩm một cách chặt chẽ và có yêu cầu cao đối với các cơ sở sản xuất.
Do mặt hàng thủ công mỹ nghệ được sử dụng để đáp ứng yêu cầu thẩm mỹ nên khách hàng thường mua với số lượng ít, nhưng lại chọn nhiều loại sản phẩm khác nhau. Vì thế, các doanh nghiệp cần chú trọng lựa chọn các nguồn hàng có mẫu mã đa dạng, phù hợp với yêu cầu của thị trường. Khi đó, các doanh nghiệp sẽ có khả năng tiêu thụ nhiều hơn.
Nguồn hàng cung ứng cũng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh bằng giá cả. Giá thu mua cao thì giá xuất chắc chắn sẽ cao. Đối với các doanh nghiệp , tìm được nguồn hàng rẻ là điều quan trọng nhưng không nên quá chú ý đến yếu tố giá mua mà bỏ qua chất lượng sản phẩm . Giá mua qúa rẻ thì người sản xuất sẽ không chú ý, chất lượng sản phẩm sẽ giảm, các doanh nghiệp sẽ mất khách hàng. Nhất là trong điều kiện hiện nay và đặc điểm của mặt hàng này cạnh tranh bằng giá không phải là phương thức hữu hiệu nhất.
Các doanh nghiệp có thể tiến hành việc tạo nguồn và thu mua dưới hình thức mua theo đơn đặt hàng và hợp đồng ký trước, nhận hàng uỷ thác và thuê gia công. Các doanh nghiệp sử dụng các mẫu mã của đơn vị sản xuất để chào hàng và nếu được khách hàng chấp thuận thì các doanh nghiệp ký hợp đồng đặt hàng tại chính cơ sở đó. Đối với những mẫu hàng do phía khách hàng đưa ra, các doanh nghiệp có thể nghiên cứu thuê các đơn vị gia công hàng hóa. Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng hàng tốt, đúng tiến độ giao hàng các doanh nghiệp cần cử người giám sát, đốc thúc họ thực hiện tốt hợp đồng. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có thể tạo nguồn bằng cách nhận uỷ thác xuất khẩu để hưởng phí dịch vụ.
Nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng tốt hơn, ngoài việc lựa chọn những nguồn hàng có chất lượng ổn định, các doanh nghiệp nên phối hợp với họ để đưa ra thị trường những sản phẩm phù hợp. Trên cơ sớ những thông tin thu thập được,các doanh nghiệp cần kết nối nhu cầu của khách hàng với người sản xuất, góp ý cho họ yêu cầu của từng thị trường và giới thiệu những mẫu mã mới để hàng hoá được cải tiến theo hướng đó. Phối hợp với người sản xuất, các doanh nghiệp không những duy trì phát triển được thị trường mà còn giúp họ hoạt động tốt hơn.
Một số công ty kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ trong nước đã thành lập một đội ngũ cán bộ chuyên nghiên cứu và sáng tác mẫu mã rồi đặt hàng cho các cơ sở sản xuất. Đó cũng là một giải pháp hay cần khuyến khích.
8. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến, quảng cáo, mở rộng phương thức bán hàng phù hợp
Trong thời gian vừa qua các doanh nghiệp đã tiến hành nhiều hoạt động quảng cáo nhằm mở rộng thị trường. Hàng năm, các doanh nghiệp thường cử người đi tham dự các hội chợ quốc tế để giới thiệu sản phẩm mặc dù chi phí cho các đợt tham dự này thường không nhỏ. Nhằm nâng cao hiệu quả, các doanh nghiệp nên tham dự các hội chợ mang tính chuyên ngành hơn là các hội chợ tổng hợp vì qua các hội chợ này các doanh nghiệp sẽ nắm bắt được nhu cầu sát thực hơn và gặp gỡ được nhiều khách hàng hơn.
Bên cạnh biện pháp trên, các doanh nghiệp nên tiến hành các hoạt động quảng cáo qua các phương tiện thông tin như báo chí trong và ngoài nước, đặc biệt là quảng cáo trên mạng Internet. Với cách thức này, các doanh nghiệp sẽ giới thiệu được về mình và về các hàng hoá kinh doanh với số lượng rất lớn các bạn hàng, nhờ đó cơ hội tìm kiếm thị trường tiêu thụ sẽ tăng lên.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cần chủ động chào hàng hơn nữa nhất là đối với các bạn hàng đã từng cộng tác chứ không nên ngồi chờ các đơn hàng đến với mình. Việc chào hàng có thể được chủ động tiến hành khi các doanh nghiệp có các sản phẩm mới, mẫu mã mới hoặc khi giá cả của hàng hoá giảm xuống. Ngoài ra các doanh nghiệp cũng nên gửi các cataloge tới các nhà nhập khẩu trong cùng lĩnh vực...
Tiếp tục mở rộng mối quan hệ với các tham tán thương mại, các đại sứ nước ta tại nước ngoài và các tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài tại Việt Nam. Thiết lập quan hệ tốt không chỉ giúp các doanh nghiệp thu thập được các thông tin về thị trường, về đối thủ cạnh tranh mà nhiều khi còn được giới thiệu các đầu mối tiêu thụ sản phẩm. Vì thế, các doanh nghiệp phải có chính sách khuyến khích vật chất như tiền thù lao, tiền hoa hồng, môi giới cho các cá nhân tổ chức khi họ tìm được thị trường. Đây là một biện pháp rất hiệu quả khi mà các doanh nghiệp chưa có khả năng mở các văn phòng đại diện tại thị trường nước ngoài như trước đây.
Tiếp cận thị trường, các doanh nghiệp cũng có thể sử dụng biện pháp gửi hàng trưng bày. ở Osaka Nhật bản, Việt nam có một trung tâm xúc tiến thương mại "Việt Nam Square" và Công ty có thể gửi hàng trưng bày tại đây. Còn đối với thị trường khác chưa có phòng trưng bày hàng hoá Việt nam thì Công ty có thể liên kết để mở Showroom hoặc tự gửi hàng cho Showroom. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ phải giải quyết một loạt vấn đề về phí, phương thức phương thức phân chia ... Nếu không muốn trưng bày ở Showroom công ty cũng có thể liên kết với bạn hàng để họ làm đại lý bán cho các doanh nghiệp ..
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng nên thay đổi một số điểm trong phương thức bán hàng xuất khẩu. Hàng thủ công mỹ nghệ thường chỉ đi bán hàng theo từng lô hàng nhỏ, hợp đồng nhỏ, do đó,
nhiều khách hàng muốn mua với số lượng ít để bán thử nghiệm mở thị trường và không muốn mua theo phương thức trả tiền ngay. Để đáp ứng yêu cầu của khách hàng, các doanh nghiệp nên xem xét đến khả năng cho trả chậm và nếu khách hàng tiêu thụ tốt hàng hoá thì những đợt bán hàng sau, các doanh nghiệp nên khuyến khích khách hàng ký hợp đồng trả ngay để tránh tình trạng quay vòng vốn chậm.
9,Tiếp tục đào tạo, nâng cao đội ngũ cán bộ có năng lực, hiểu biết về nghiệp vụ
Phát triển nguồn nhân lực cho quản lý kinh doanh ,thiết kế ,maketting:
Ngày nay khi kinh doanh trên thị trường quốc tế thường xuyên biến động, cạnh tranh gay gắt, đòi hỏi các cán bộ kinh doanh phải năng động sáng tạo, có khả năng dự báo ứng phó kịp thời với những biến động của thị trường. Để có thể phát triển tốt các doanh nghiệp cần phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ có trình độ, tinh thông nghiệp vụ, năng động sáng tạo, đáp ứng được yêu cầu của công việc trong lĩnh vực đảm trách. Đội ngũ cán bộ phải có kinh nghiệm, có tầm nhìn chiến lược, có khả năng đưa ra các kế hoạch, các quyết định đúng đắn, sử dụng tốt các nguồn lực của các doanh nghiệp . Các cán bộ nghiệp vụ cần hiểu biết rõ về công tác phát triển thị trường, về mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh, biết nắm bắt thông tin và sử dụng thông tin có hiệu quả...Do đó, các doanh nghiệp cần có kế hoạch phát triển nguồn lực đúng đắn, nâng cao trình độ đội ngũ lao động thông qua việc :
- Cử các cán bộ, các nhân viên có năng lực đi nghiên cứu, học tập tại các lớp đào tạo cán bộ kinh doanh trong và ngoài nước.
- Đào tạo nghiệp vụ kinh doanh và môn bổ trợ cho những cán bộ mới, giúp họ nhanh chóng làm quen với công việc.
- Cử các đoàn ra nước ngoài để nắm bắt nhu cầu thị trường kinh nghiệm làm ăn, tạo dựng các mối quan hệ bạn hàng vững chắc.
Bên cạnh đó đội ngũ thiết kế cũng rất quan trọng quyết định sống còn tới việc xuất khẩu của công ty.Để phát triển đội ngũ này chúng ta có thể áp dụng các biện pháp sau:
-Cho các đội ngũ thiết kế đi tham gia các hội chợ triển lãm ,tham khảo các xu hướng thiết kế mới,phù hợp với model hiện nay và thẩm mỹ quốc tế
-Cử nhân viên thiết kế đi đào tạo tại các nước có ngành TCMN phát triển
-Thành lập các phòng thiết kế quy mô ở các doanh nghiệp,có thể cùng nhau tạo ra các khóa học,các trung tâm giảng dạy chuyên nghiệp đào tạo thiết kế…
Mặt khác với đội ngũ Maketting cũng cần thực hiện tuyển chọn những ngừoi năng động và đặc biệt am hiểu về ngàng nghề TCMN cũng như từng loại mặt hàng.trong thời đại ngày nay,đối với bất kỳ một ngàng sản xuất nào ,Maketting tốt đều làm tăng giá trị cảu sản phẩm và thúc đẩy việc bán hàng tốt hơn.Các doanh nghiệp nên có các phòng Maketting .
Nhìn chung yếu tố con người luôn chiếm mọt vị trí quan trọng trong mọi doanh nghiệp,mọi tổ chức cho nên đây là một giải pháp cần được quan tâm và đầu tư thích đáng.
10,Quản lý chặt chẽ ,hiệu quả hơn trong sản xuất và kinh daonh:
Đây là điều cơ bản nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có thể nhận ra và có sự điều chỉnh cần thiết.Từ trước tới nay,các công ty cũng tại các xưởng sản xuất ở các làng nghề ,vốn được hình thành và phát triển trên nền tảng gia đình và không chú trọng đào tạo cũng như lựa chọn những người lãnh đạo quản lý xuất sắc,đủ khả năng kiểm soát làm hàng để hàng hóa làm ra hiệu quả nhất và có định hướng phát triển lâu dài .
Để làm được điều này,cần có sự quyết tâm cũng như sự phối hợp với các công ty tuyển chọn nhân sự cho các vị trí cao cấp.
Tài liệu tham khảo:
1,Giáo trình Khoa học quản lý tập I
2,Bản kế hoạch kinh doanh công ty Việt C&C năm 2008
3,Báo cáo kết quả kinh doanh công ty Việt C&C quý I năm 2008
4,Tạp chí thời báo kinh tế Việt Nam
5,Website thông tin thương mại Việt Nam (
6,Website Bộ tài chính (
7,Website Bách khoa toàn thư mở Wikipedia ()
8,Website Hiệp hội sản xuất kinh doanh thủ công mỹ nghệ Hà Tây
(
9,Website của công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ArtExport (
10,Website Vietbao.vn(
Kết luận:
Hiện nay trong bối cảnh đất nước hội nhập.Những công ty như Việt C&C không những thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề truyền thống,tạo công ăn việc làm cho mọi người mà còn góp phần phát triển kinh tế đất nước.Sẽ còn rất nhiều khó khăn nhưng với tâm huyết của ban lãnh đạo công ty cũng như toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty,hy vọng công ty sẽ có những bước phát triển bền vững trong thời gian tới ,cùng với toàn thể ngành sản xuất và kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và ngành sơn mài nói riêng.Chuyên đề vừa là nghiên cứu của cá nhân người viết vừa là một chút tổng hợp và góp ý với các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ , cũng như với Việt C&C trong mặt hàng sơn mài nói riêng.
Xin cảm ơn sự công ty Việt C&C trong thời gian vừa qua cũng như các doanh nghiệp ,thầy cô đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài viết chuyên đề này.
Hà nội,4/2008.
LỜI NÓI ĐẦU 1
I..MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ MẶT HÀNG SƠN MÀI: 3
a.Khái quát về ngành nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam 3
I.1 Khái niệm: 3
I.2 Đặc điểm: 3
b.Tổng quan về ngành sơn mài 6
2.Các nhân tố tác động đến sự phát triển của ngành nghề sơn mài Việt Nam 21
3.Vai trò của ngành thủ công mỹ nghệ nói chung và nghề sơn mài nói riêng trong phát triển kinh tế Việt Nam 22
II.THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY VIỆTC&C 25
I. Một số nét khái quát về sự hình thành và phát triển của Công ty cổ phần ViệtC&C 25
1.Giới thiệu công ty cổ phần Việt C&C(Việt Change and Creation): 25
2.ĐIỀU LỆ CÔNG TY CỔ PHẦN 25
A/ NỘI DUNG ĐIỀU LỆ CÔNG TY THEO QUY ĐỊNH LUẬT DOANH NGHIỆP 2005: 25
3.Cơ cấu tổ chức công ty: 26
4 .1. Thống kê lao động tại Việt C&C: 28
4.2. Tổ chức bộ máy kế toán 29
2.Tình hình xuất khẩu sơn mài của công ty: 30
3. Đánh giá chung 37
III.Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng sơn mài tại công ty cổ phần Việt C&C: 44
1.Phát triển nguồn nhân lực,đặc biệt duy trì,đâo tạo ,tuyển chọn những công nhân tay nghề cao : 44
2,Phát triển các làng nghề và các vùng nguyên vật liệu : 45
3,Thu hút thêm vốn , mở rộng quy mô sản xuất: 47
5,Đẩy mạnh khâu thiết kế ,sáng tạo sản phẩm mới: 48
6.Tăng cường phát triển thị trường cho mảng sơn mài: 49
7. Tổ chức tốt công tác tạo nguồn và thu mua hàng cho xuất khẩu. 50
8. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến, quảng cáo, mở rộng phương thức bán hàng phù hợp 52
10,Quản lý chặt chẽ ,hiệu quả hơn trong sản xuất và kinh daonh: 55
Tài liệu tham khảo: 56
Kết luận: 57
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12276.doc