Chuyên đề Giải pháp góp phần phát triển hoạt động cho vay người nghèo tại Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam

Chuyên đề: “ Giải pháp góp phần phát triển hoạt động cho vay người nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam” đã đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong hoạt động, nâng cao hiệu quả của hoạt động cho vay người nghèo tại Ngân hàng.

doc76 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1607 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp góp phần phát triển hoạt động cho vay người nghèo tại Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn. Số tiền giảm lãi tiền vay thấp hơn hoặc bằng số tiền tương đương với 50% số lãi tiền vay tính trên toàn bộ thời gian cho vay trong hạn, tuy nhiên, chính sách miễn, giảm lãi tiền vay được áp dụng căn cứ vào số tiền nợ lãi tại Ngân hàng đến ngày đề nghị xử lý. Cụ thể: đối với khách hàng được miễn lãi tiền vay khi khách hàng có số tiền nợ lãi tại Ngân hàng đến ngày đề nghị xử lý thấp hơn hoặc bằng số tiền tương đương với số lãi tiền vay tính trên toàn bộ thời gian cho vay trong hạn; đối với khách hàng được giảm lãi tiền vay khi khách hàng có số tiền nợ lãi tại Ngân hàng đến ngày đề nghị xử lý thấp hơn hoặc bằng số tiền tương đương với 50% số lãi tiền vay tính trên toàn bộ thời gian cho vay trong hạn. 2.2.5. Đánh giá thực trạng cho vay người nghèo tại NHCSXH 2.2.5.1. Thành tựu đạt được Một là, cùng với những thành tựu về kinh tế - xã hội đạt được sau 20 năm đổi mới, công cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta được thế giới đánh giá cao và thừa nhận Việt Nam đạt được kết quả sớm hơn thời hạn do Liên hợp quốc đề ra trong chương trình mục tiêu thiên niên kỷ. Kết quả hoạt động của NHCSXH đã thể hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; chúng ta chấp nhận cơ chế kinh tế thị trường, nhưng cũng không chấp nhận sự phân hoá giàu nghèo; chúng ta chấp nhận chuyển đổi hệ thống NH sang hạch toán kinh doanh, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình, nhưng chúng ta cũng kiên quyết không để một bộ phận dân cư không đủ điều kiện tiếp cận với tín dụng NH trong kinh tế thị trường phải đi vay nặng lãi, tái diễn loại hình tín dụng nặng lãi là nhân tố triệt tiêu lực lượng sản xuất xã hội. Hai là, chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác đã thực sự đi vào lòng dân, được nhân dân phấn khởi và tin tưởng vào Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Người nghèo và các đối tượng chính sách là một bộ phận trong cộng đồng dân cư có nhiều khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, nơi đây cơ sở hạ tầng yếu kém, đời sống thấp, điều kiện phát triển kinh tế hàng hoá để hoà nhập và tiếp cận với cơ chế kinh tế thị trường chưa hình thành, những đối tượng này nếu không được hỗ trợ của Nhà nước sẽ ngày càng khó khăn hơn trong đời sống khi xã hội ngày càng phát triển. Nếu cho rằng việc cho vay vốn ưu đãi lãi suất thấp đối với người nghèo và các đối tượng chính sách là đi ngược lại với cơ chế kinh tế thị trường, trở lại cơ chế bao cấp, thủ tiêu động lực phát triển kinh tế, thì đó là điều hoàn toàn xa rời với thực tế cuộc sống hiện tại, đồng thời cũng quên rằng vai trò cân bằng và điều tiết cơ chế kinh tế thị trường của Nhà nước là rất quan trọng để bảo đảm phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, ổn định chính trị - xã hội, đó là bản chất và tính ưu việt của Đảng và Nhà nước và sự mong đợi của nhân dân. Ba là, kết quả đạt được trong 3 năm hoạt động của NHCSXH thể hiện chính sách của Nhà nước về tập trung nguồn lực tài chính do Nhà nước huy động để cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác vay ưu đãi đã thực sự đi vào cuộc sống rất kết quả, phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống; góp phần thực hiện mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội. Kết quả đó được thể hiện: - Qua 4 năm chính thức đi vào hoạt động, NHCSXH đã thiết lập mạng lưới giao dịch trên phạm vi cả nước, trở thành một hệ thống NH hoạt động nhất quán và hiệu quả với 64 chi nhánh cấp tỉnh và Sở giao dịch, 592 Phòng giao dịch cấp huyện và 8.076 Điểm giao dịch cấp xã. Chính sách tín dụng đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác đã đến với 100% số xã trong cả nước. Vốn tín dụng góp phần giúp 999.260 hộ thoát nghèo, dư nợ bình quân cho vay hộ nghèo từ 2,9 triệu đồng/hộ năm 2003 tăng lên 4,9 triệu đồng/hộ năm 2006, thu hút được 1.262.764 lao động có việc làm. NHCSXH với sự quan tâm, chỉ đạo của Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan, sự nỗ lực phấn đấu của tập thể cán bộ NH và với kinh nghiệm 7 năm hoạt dộng trong lĩnh vực cho vay ưu đãi hộ nghèo của NHNg trước đây đã đạt được những kết quả khả quan, từng bước khẳng định vai trò và vị trí của loại hình tín dụng chính sách phù hợp với thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Tổng nguồn vốn tính đến tháng 12 năm 2006 là 24.976 tỷ đồng, tổng dư nợ đạt 24.076 tỷ đồng. NHCSXH thực thi các chính sách tín dụng áp dụng phương pháp giải ngân chủ yếu uỷ thác qua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức tín dụng nhằm đã đưa vốn đến đúng đối tượng cần vay. Hiện nay, NHCSXH chỉ uỷ thác cho các hội, đoàn thể một số công đoạn như: hướng dẫn việc thành lập Tổ và tổ chức họp để thành lập Tổ tiết kiệm và vay vốn theo quy chế quy định; tổ chức họp Tổ để bình xét danh sách hộ nghèo xin vay vốn NHCSXH trình Ban xoá đói giảm nghèo và UBND xã, phường xét duyệt để gửi NHCSXH cấp huyện; thông báo kết quả phê duyệt đến từng hộ gia đình; kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và đôn đốc người vay trả nợ gốc và lãi tiền vay theo kỳ hạn thoả thuận; thực hiện thu tiết kiệm của Tổ tiết kiệm và vay vốn do NHCSXH và tổ chức hội lựa chọn, thoả thuận theo chế độ quy định; phối hợp cùng NHCSXH hướng dẫn hộ vay lập hồ sơ đề nghị xử lý nợ rủi ro (nếu có), còn các công đoạn cho vay, thu nợ, thu lãi vẫn do NHCSXH đảm nhiệm, do vậy mà đồng vốn không thể thất thoát được, mặt khác các tổ chức hội thực hiện đúng các công đoạn đã được NHCSXH uỷ thác thì nguồn vốn cho vay hộ nghèo đến tay hộ nghèo là lẽ đương nhiên. - Với cơ cấu quản trị đặc thù, trong Ban Đại diện Hội đồng quản trị là những lãnh đạo Bộ, Ngành, Hội đoàn thể,.... điều này một mặt phát huy được sức mạnh tổng hợp của tất cả các tổ chức chính quyền và đoàn thể trong huy động tập trung nguồn vốn theo các chương trình trên địa bàn về một đầu mối để cho vay ưu đãi, mặt khác, công tác giám sát nguồn vốn tín dụng ưu đãi cũng đa chiều hơn, từ khâu xét duyệt đối tượng cho vay vốn, mức cho vay, cách thức giải ngân vốn, kiểm soát tình hình sử dụng vốn vay cũng như chấp hành trả nợ cho NH. Hơn nữa, điều này cũng tạo nên sự gắn kết lớn hơn, trách nhiệm cao hơn giữa từng cá nhân với các Hội đoàn thể, chính quyền các cấp trong thực hiện quyền lợi cũng như nghĩa vụ gắn với các khoản tín dụng ưu đãi. Qua đó, những hộ nghèo sẽ được giúp đỡ có hiệu quả hơn, không chỉ đơn thuần là sự thụ hưởng tín dụng ưu đãi, mà quan trọng hơn người nghèo còn được tư vấn về kỹ thuật sản xuất, kinh doanh, giúp đỡ đầu vào, đầu ra cho sản xuất. Nhờ đó mà nghèo đói mới được giải quyết triệt để. Điều này được khẳng định trong thực tế trên địa bàn cả nước những năm qua, số hộ nghèo giảm nhanh, một số hộ đã vươn lên trở thành giàu có. - Cơ chế cho vay của NH ngày càng được hoàn thiện theo hướng đơn giản hoá về thủ tục. Những thủ tục hành chính không phù hợp đã được cắt giảm, phù hợp với thực tế cho vay hộ nghèo, tạo điều kiện cho các hộ nghèo và các đối tượng chính sách ngày càng gần gũi hơn với tín dụng ưu đãi. NHCSXH ngày càng khẳng định là người bạn đồng hành gần gũi và giúp đỡ đắc lực cho người nghèo từng bước thoát nghèo. Đây chính là nền tảng để người nghèo trở thành khách hàng chiến lược của NHCSXH trong tương lai trong những món vay có tính thương mại. - Thông qua vốn tín dụng ưu đãi không những góp phần thực hiện tốt chính sách, chủ trương xoá đói giảm nghèo, từng bước giúp các hộ nghèo làm quen với kinh tế thị trường, mà đồng thời cũng trở thành một yếu tố quan trọng chuyển đổi cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng tích cực, phát huy tốt các thế mạnh của từng vùng, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế cả nước. Đây chính là kết quả lớn nhất của vốn tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo mang lại trong những năm qua. 2.2.5.2. Một số hạn chế và nguyên nhân 2.2.5.2.1. Hạn chế Thứ nhất, Vốn cho vay chưa đáp ứng được đầy đủ và kịp thời nhu cầu của các hộ nghèo trên địa bàn cả nước. Như chúng ta đều biết, các hộ nghèo hầu như không có tích luỹ nên muốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh họ lệ thuộc gần như hoàn toàn vào vốn vay. Tuy nhiên, thủ tục xét duyệt để cấp vốn vay hiện nay còn khá rườm rà, tốn nhiều thời gian. Hơn nữa, nguồn vốn của NH ít nhiều còn bị hạn chế, lại phải cho vay các đối tượng chính sách khác nên chưa thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu hợp lý cho sản xuất kinh doanh của các hộ nghèo. Mặt khác, việc xác định thời hạn tín dụng cũng còn có những bất cập, chưa phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của đối tượng vay vốn. Do vậy, mặc dù vốn tín dụng ưu đãi những năm qua đã giúp giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn cả nước, nhưng so với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị đặt ra cho NH thì cũng chưa được thực hiện tốt, làm giảm hiệu quả của tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Thứ hai, cơ chế cấp vốn vay cho các hộ nghèo tiềm ẩn rủi ro cao. Hơn nữa, cách giải ngân vốn tín dụng ưu đãi hiện nay khá cồng kềnh, chi phí cao, từ đó làm giảm hiệu quả vốn tín dụng ưu đãi. Thứ ba, Năng lực, trình độ của cán bộ, nhân viên trong NH còn nhiều bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ. Để đảm bảo vốn tín dụng cấp ra đúng đối tượng, đúng hướng, phù hợp với khả năng sử dụng vốn của hộ nghèo thì đòi hỏi trình độ năng lực của cán bộ tín dụng phải được nâng cao, không chỉ ở năng lực chuyên môn trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, mà còn phải chú ý đến cả trình độ kinh tế tổng hợp. Trong khi đó, phần đông cán bộ tín dụng còn yếu về trình độ kinh tế tổng hợp. Điều này tất yếu ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng bởi đa số các hộ nghèo thiếu kinh nghiệm trong kinh doanh. Thứ tư, Cơ sở vật chất hầu như còn ở điểm xuất phát. Điều này làm hạn chế khả năng mở ra các dịch vụ NH để đáp ứng nhu cầu của khách hàng là các hộ nghèo, nhất là ở các vùng nông thôn ở các vùng sâu vùng xa . Cơ sở vật chất thiếu thốn khiến NHCSXH không thể mở rộng và phát triển các dịch vụ NH. 2.2.5.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại Thứ nhất, Do nguồn vốn hoạt động của NH có tính phụ thuộc cao, trong tổng nguồn vốn hoạt động thì nguồn vốn huy động trên thị trường là chủ yếu. Nhưng nguồn vốn này lại phụ thuộc vào việc cấp bù chênh lệch lãi suất, mà việc cấp bù này thường là rất chậm, làm cho NH rất khó khăn về nguồn vốn hoạt động. Đây chính là nguyên nhân khiến NH khó khăn trong mở rộng qui mô cho vay vốn đối với các hộ nghèo. Hơn nữa, do nguồn vốn hoạt động bị hạn chế lại phải phục vụ nhu cầu vay vốn cho đối tượng khách hàng lớn, dẫn đến buộc NH phải tìm biện pháp tăng nhanh vòng quay của vốn ưu đãi để phục vụ được nhiều đối tượng khách hàng hơn. Điều này tất yếu ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ưu đãi của NH. Thứ hai, Do cơ chế cho vay vốn hộ nghèo hiện nay còn khá nhiều bất cập. Cụ thể: - Việc giải ngân vốn phải thông qua các cơ quan chính quyền địa phương, các hội đoàn thể. Điều này vừa tạo ra sự cồng kềnh về bộ máy giải ngân vốn, tăng chí phí hoạt động, vừa rất khó kiểm soát các dự án cấp vốn. - Chưa có quy định thực sự ràng buộc trách nhiệm của các Chủ tịch Tỉnh, Thành phố trong giải ngân vốn vay ưu đãi. - Cách thức giải ngân vốn hiện nay chưa thực sự chú ý đến hiệu quả, bởi vì các món cho vay được thực hiện liên tục đối với mỗi hộ nghèo. Chỉ cần một hộ nghèo trả xong món nợ cũ là sẽ tiếp tục được vay món mới (nếu chưa thoát nghèo). Điều này làm cho tín dụng tiềm ẩn rủi ro cao, đồng thời NH sẽ rất khó nhận biết rủi ro tín dụng. Thứ ba, Năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, nhân viên trong NH còn bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ. Như đã phân tích thì đa số các hộ nghèo thiếu kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh, nên sự tư vấn cho các khách hàng này là rất cần thiết để vốn ưu đãi được đầu tư đúng hướng. Có như thế mới phát huy được hiệu quả của vốn tín dụng. Tuy nhiên, năng lực trình độ chuyên môn của các cán bộ tín dụng tại NH nhìn chung còn có những hạn chế nhất định, nhất là về trình độ kinh tế tổng hợp. Điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng thẩm định chính xác các dự án xin vay vốn, khả năng tư vấn cho khách hàng. Thứ tư, tuy được sự quan tâm của Chính phủ, các cơ quan liên quan, các Bộ, ngành nhưng NHCSXH vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong tìm kinh phí để xây dựng các văn phòng làm việc cũng như mua sắm trang thiết bị cần thiết cho sự hoạt động của NH. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN ỔN ĐỊNH CHO VAY NGƯỜI NGHÈO TẠI NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VIỆT NAM 3.1. Phương hướng phát triển hoạt động kinh doanh của NHCSXH Việt Nam Ngày 07/11/2006, Việt Nam chính thức gia nhập WTO và theo lộ trình đến năm 2008 thì Nhà nước sẽ cổ phần hoá xong 05 NHTM Quốc doanh (NHNT, NHNĐBSCL, NHCT, NHĐT&PT, NHNo&PTNT). Hiện nay, việc triển khai các sản phẩm dịch vụ, huy động vốn trên thị trường đã và đang cạnh tranh rất khốc liệt. Các Ngân hàng thương mại đua nhau đưa ra các sản phẩm dịch vụ mới, nâng lãi suất huy động kết hợp với các hình thức khuyến mại để thu hút vốn nhàn rỗi trong xã hội, thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của Ngân hàng mình. Cũng chính vì vậy, việc huy động vốn của NHCSXH cũng gặp khó khăn hơn do có sự chênh lệch và khác biệt về lãi suất, hình thức huy động, màng lưới, cán bộ, trình độ công nghệ, tay nghề.... Mặt khác, khi Việt Nam gia nhập WTO, các tổ chức Ngân hàng, tài chính quốc tế sẽ vào Việt Nam mang theo công nghệ, kinh nghiệm, trình độ quản lý cao, các sản phẩm, dịch vụ phong phú, đa dạng và tiện ích. Các NHTM trong nước còn gặp khó khăn thì việc triển khai các sản phẩm dịch vụ, huy động vốn của NHCSXH đã khó khăn lại càng khó khăn gấp bội. Hơn nữa, việc cổ phần hoá các NHTM phải hoàn thành vào năm 2008 sẽ có tác động không nhỏ đến nguồn vốn của NHCSXH. Vì hiện nay theo quy định của Chính phủ, các tổ chức tín dụng Nhà nước có trách nhiệm duy trì số dư tiền gửi tại NHCSXH bằng 2% số dư nguồn vốn huy động bằng đồng Việt Nam tại thời điểm 31 tháng 12 năm trước. Khi cổ phần hoá, các tổ chức này sẽ không nằm trong đối tượng điều chỉnh của Nghị định 78/2002/NĐ-CP (đến 31/10/2006, số dư tiền gửi 2% của các tổ chức tín dụng tại NHCSXH gần 6.000 tỷ đồng), đây là một khó khăn đối với NHCSXH. Để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 và các năm tiếp theo - cho vay vùng khó khăn, khắc phục được những khó khăn trước mắt, cũng như lâu dài vì mới đáp ứng nhu cầu tín dụng cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách, NHCSXH cần phải có nguồn vốn lớn với lãi suất phù hợp, khi nguồn lực của Nhà nước có hạn. Do vậy, NHCSXH cần có giải pháp chiến lược, đồng bộ mang tính lâu dài và bền vững, cụ thể là việc xác định định hướng phát triển vĩ mô của NH, xác định rõ vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ trong tương lai, làm cơ sở cho việc xác định nhiệm vụ cho từng giai đoạn và xây dựng lộ trình hoàn thành chiến lược hợp lý. Cụ thể: 3.1.1. Định hướng phát triển vĩ mô 3.1.1.1. Vị trí, vai trò hiện tại và tương lai của NHCSXH - Vị trí, vai trò hiện tại: NHCSXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện chính sách cho vay ưu đãi với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. NH là mộ tổ chức tài chính của Nhà nước, là công cụ của Chính phủ thực hiện vai trò điều tiết của Nhà nước cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo. - Vị trí, vai trò tương lai: NHCSXH là một tổ chức tài chính của Nhà nước cung cấp các dịch vụ tài chính quy mô nhỏ cho khách hàng mục tiêu là người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội, với ưu tiên là sự phục vụ tốt nhất các đối tượng khách hàng. Các dịch vụ tài chính quy mô nhỏ bao gồm các hoạt động như: tiết kiệm, cho vay,bảo hiểm, chuyển tiền, dịch vụ thanh toán… cho người nghèo, các hộ gia đình có thu nhập thấp và các doanh nghiệp nhỏ. 3.1.1.2. Chức năng nhiệm vụ hiện tại và tương lai - Chức năng nhiệm vụ hiện tại: + Góp phần xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. + Góp phần duy trì ổn định xã hội ở Việt Nam. + Hỗ trợ bảo vệ môi trường ở Việt Nam. + Cung cấp các khoản vay có ưu đãi lãi suất tới người nghèo và các đối tượng chính sách ở Việt Nam. - Chức năng nhiệm vụ tương lai: + Góp phần xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. + Góp phần duy trì ổn định xã hội ở Việt Nam. + Hỗ trợ bảo vệ môi trường ở Việt Nam. + Cung cấp các dịch vụ tài chính quy mô nhỏ tốt nhất cho các đối tượng khách hàng mục tiêu, thông qua mạng lưới phù hợp, cơ sở hạ tầng kỹ thuật tiên tiến, quy trình thích hợp và nguồn nhân lực có kỹ năng, trình độ. 3.1.1.3. Lộ trình hoàn thành chiến lược 3.1.1.3.1. Giai đoạn 1 (2006-2017) Tiếp tục rà soát hệ thống văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ, điều hành tổ chức để bổ sung và hoàn chỉnh chính sách, cơ chế quản lý, đặc biệt là cơ chế huy động vốn, cơ chế tín dụng và cơ chế tài chính. Phấn đấu đến năm 2010, toàn bộ các chi phí quản lý ngành (trừ chi phí lãi suất huy động vốn) được bù đắp bằng nguồn thu lãi cho vay và các dịch vụ NH, giảm cấp bù cho NSNN, tiến tới tự chủ về tài chính. Mục tiêu tiếp theo của NHCSXH là đạt được khả năng tự bù đắp chi phí hoạt động vào năm 2017, tức là NH có tỷ suất tự chủ chi phí hoạt động lớn hơn hoặc bằng 1. Thu nhập Tỷ suất tự chủ chi phí hoạt động = Chi phí hoạt động 3.1.1.3.2. Giai đoạn 2 (2017-2025) Mục tiêu của NHCSXH là hướng đến khả năng tự bảo toàn và bổ sung vốn điều lệ vào năm 2025. Tức là NH sẽ có tỷ suất tự chủ tài chính lớn hơn hoặc bằng 1. Thu nhập Tỷ suất tự chủ tài chính = Chi phí vốn + chi phí hoạt động + dự phòng tổn thất cho vay+ bổ sung vốn điều lệ Căn cứ vào tiến độ và lộ trình trên, các chiến lược chính tương đương với 4 khía cạnh cơ bản trong hoạt động của NHCSXH cần thực hiện trên cơ sở bảo đảm các nguyên tắc: Về cơ bản, NHCSXH phải chịu sự điều chỉnh của Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng và các quy định hiện hành của ngành Ngân hàng Việt Nam. Dần dần áp dụng các tài khoản theo tiêu chuẩn quốc tế phù hợp với các cam kết hội nhập của ngành ngân hàng. Tuân thủ các hình thức kiểm toán theo quy định của pháp luật: Kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập, kiểm toán trong khuôn khổ các dự án. 3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động cho vay ưu đãi với người nghèo 3.1.2.1. Mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010 của Việt Nam Việt Nam đã về đích trước một năm Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2001-2005. Cuối năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam chỉ còn ở mức dưới 7%, bình quân hàng năm giảm trên 2% (trong vòng 5 năm 2001-2005 giảm trên 50% hộ nghèo), vượt chỉ tiêu mà Đại hội Đảng IX đề ra là năm 2005 hạ tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%. Thực hiện các Chương trình đầu tư của Nhà nước, hệ thống hạ tầng cơ sở của các xã nghèo đã được củng cố, đặc biệt là các công trình thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống. Tình trạng đói kinh niên cơ bản được giải quyết. Người nghèo ngày càng được tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội cơ bản như cung cấp tín dụng ưu đãi, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi và trồng trọt, dạy nghề, tạo việc làm, hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt, khám chữa bệnh miễn phí, miễn giảm học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường. Bên cạnh đó, người nghèo cũng được thụ hưởng các chương trình văn hoá, phát thanh, truyền hình. Tổng nguồn lực huy động cho xoá đói giảm nghèo bao gồm cả Chương trình 143 (xoá đói giảm nghèo và việc làm), Chương trình 135 (phát triển KT-XH các xã đặc biệt khó khăn) và các dự án quốc tế trong 5 năm (2001-2005) khoảng 40.950 tỷ đồng. Riêng nguồn lực đầu tư cho Chương trình mục tiêu xoá đói giảm nghèo khoảng 21.000 tỷ đồng. Với chuẩn nghèo mới, năm 2005, cả nước có hơn 4 triệu hộ nghèo. Với chuẩn mới này, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách thức và khó khăn lớn vì Việt Nam còn là nước nghèo, thu nhập và mức chi dùng bình quân đầu người thấp. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng và các nhóm dân cư có xu hướng gia tăng. Tỷ lệ người nghèo là người dân tộc thiểu số còn cao. Nguy cơ tái nghèo có thể gia tăng do thiên tai, dịch bệnh, biến động giá cả, tác động của hội nhập. Cơ hội tìm việc làm của người nghèo cũng khó khăn. Bên cạnh đó, ngân sách hàng năm dành cho xoá đói giảm nghèo còn hạn chế (gần 2% ngân sách Nhà nước). Mức độ tác động tăng trưởng kinh tế đến giảm nghèo ở một số vùng có xu hướng giảm. Trong 5 năm tới (2006-2010), Nhà nước sẽ đầu tư khoảng 60.000 – 62.000 tỷ đồng để tạo bước đột phá trong công tác giảm nghèo, mục tiêu là giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới từ 22% (năm 2005) xuống còn 11% (năm 2010), tức là giảm 50% số hộ nghèo trong vòng 5 năm; đồng thời cải thiện đời sống của nhóm hộ nghèo. Đến năm 2010, cơ bản số hộ nghèo không có đất và thiếu đất sản xuất được điều chỉnh đất hoặc hỗ trợ chuyển đổi nghề phù hợp. Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo sẽ tập trung ưu tiên nguồn lực cho các xã miền núi, có tỷ lệ nghèo cao và bảo đảm công bằng giữa các tỉnh có điều kiện như nhau. Ngân sách sẽ phân bổ vào đối tượng nghèo với hệ số khó khăn của từng vùng. Đối với xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo có ngân sách để hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu. Chương trình cũng sẽ tập trung vào các nhóm hoạt động: tạo thu nhập cao hơn, trong đó đất sản xuất, tín dụng sản xuất, tay nghề, kiến thức làm ăn là những yếu tố quan trọng nhất, tạo cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội thuận lợi và chất lượng hơn. Với những hộ nghèo muốn vươn lên thoát nghèo nhưng vướng mắc về vốn sản xuất kinh doanh, chính sách tín dụng ưu đãi dành cho người nghèo thể hiện ở việc Nhà nước sẽ áp dụng linh hoạt phương thức cho vạy, chủ yếu là tín chấp thông qua hình thức nhóm tín dụng - tiết kiệm, hoặc các nhóm tương trợ tự nguyện của người nghèo, đoàn thể. Từ năm 2006, các hộ nghèo, hộ tàn tật, hộ đồng bào thiểu số có nhu cầu vay vốn kinh doanh, làm nền nhà vượt lũ, chuộc lại đất sản xuất… sẽ được giải quyết cho vay một cách linh hoạt với lãi suất cho vay thấp hơn thị trường 25%-30%. Nhà nước sẽ cấp khoảng 3,8-4.000 tỷ đồng để bù phần chênh lệch lãi suất. Số tiền được vay tăng từ 4 triệu – 15 triệu đồng/món. 3.1.2.2. Định hướng phát triển hoạt động cho vay ưu đãi với người nghèo của NHCSXH Bước vào giai đoạn 2006 - 2010, Việt Nam áp dụng chuẩn nghèo mới, thách thức đặt ra đối với hoạt động cho vay ưu đãi của NHCSXH càng lớn hơn. Chính vì vậy, để hoàn thành nhiệm vụ chức năng của mình, góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói, giảm nghèo, NHCSXH đã đưa ra hoạt động cho vay ưu đãi với người nghèo đến năm 2010 như sau: Nỗ lực phấn đấu huy động các nguồn lực tài chính không phải trả lãi hoặc lãi suất thấp, tranh thủ các nguồn tài trợ nhân đạo trong và ngoài nước để lập quỹ đầu tư cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Đảm bảo 100% vốn tín dụng ưu đãi của Chính phủ đến tay hộ nghèo, tất cả hộ nghèo có nhu cầu vay vốn đều được đáp ứng, đồng thời, được hỗ trợ và tư vấn cách thức sử dụng vốn sản xuất, chuyển mạnh đầu tư theo các chương trình dự án, tạo điều kiện cho người nghèo nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Tiếp tục hoàn thiện mô hình quản lý, mở rộng phương thức đầu tư uỷ thác từng phần cho các tổ chức chính trị - xã hội, không chỉ cho vay hộ nghèo mà còn mở rộng uỷ thác tới các chương trình tín dụng khác mà người thụ hưởng là cá nhân, tổ chức. Từng bước hiện đại hoá công nghệ NH, thông qua đó mở rộng các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng, giảm thiểu chi phí giao dịch cho NH và khách hàng. 3.2. Các giải pháp phát triển ổn định cho vay người nghèo tại NHCSXH Việt Nam. 3.2.1. Các quan điểm về tín dụng ưu đãi với người nghèo. Để đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm phát triển ổn định hoạt động cho vay ưu đãi với người nghèo cần dựa trên quan điểm về đầu tư tín dụng ưu đãi với người nghèo. Quan điểm hỗ trợ: Cơ sở của quan điểm này là các hộ nghèo do thiếu vốn và kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh nên cần có sự hỗ trợ hiệu quả cho người nghèo trong sản xuất kinh doanh, cả về vốn cũng như kinh nghiệm sản xuất. Trên quan điểm như vậy thì chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo phải đảm bảo đáp ứng đủ, kịp thời về vốn, thời hạn hợp lý, có sự tư vấn cho người nghèo về việc sử dụng vốn có hiệu quả. Trong giai đoạn hiện nay, việc ưu đãi về lãi suất với người nghèo là hợp lý nhưng về lâu dài, để NHCSXH tồn tại và phát triển bền vững thì cần thiết phải căn cứ theo từng đối tượng khách hang mà đưa ra những hình thức hỗ trợ phù hợp khác nhau, có thể là hỗ trợ về vốn, lãi suất, thời hạn… Quan điểm hiệu quả: Xuất phát từ vai trò của tín dụng với tư cách là đòn bẩy kinh tế trong nền kinh tế thị trường, quan điểm này nhấn mạnh việc tín dụng ưu đãi phải tôn trọng tính hiệu quả kinh tế. Muốn vậy, công tác cho vay phải thực hiện đúng quy trình tín dụng, tránh tình trạng khoán trắng trong cho vay hộ nghèo. Do vốn hoạt động của NHCSXH chủ yếu từ nguồn NSNN để cho vay ưu đãi nên khi cho vay phải xem xét cả về hiệu quả kinh tế lẫn hiệu quả xã hội. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế phải được đặt lên hang đầu, có như vậy nguồn vốn cho vay ưu đãi mới được tái tạo và tăng lên không ngừng. Nếu quá chú trọng đến hiệu quả xã hội mà xem nhẹ hiệu quả kinh tế thì không nhất thiết phải cần đến sự hoạt động của thể chế NH trong việc cấp vốn tín dụng ưu đãi đến hộ nghèo mà nên tài trợ trực tiếp từ NSNN dưới dạng các khoản cứu trợ. Quan điểm bình đẳng, chủ động trong tiếp cân vốn tín dụng ưu đãi: Quan điểm này nhấn mạnh nhất thiết phải có sự bình đẳng và chủ động trong tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi do vốn tín dụng ưu đãi do NSNN cấp nên các hộ nghèo đều bình đẳng như nhau khi tiếp cận nguồn vốn này. Mặt khác, việc chủ động tiếp cân vốn của người nghèo sẽ giúp nguồn vốn được phân bổ hợp lý hơn, các hộ nghèo vừa chủ động vừa tự kiểm soát nhau trong việc sử dụng vốn. Quan điểm phát triển: Quan điểm này đòi hỏi vốn tín dụng ưu đãi phải đồng thời đáp ứng cả 2 nhu cầu, đó là vừa giúp hộ nghèo có vốn sản xuất kinh doanh, vừa giúp NHCSXH phát triển ổn định và vững mạnh. Muốn vậy cần có sự chuyển đổi linh hoạt trong tín dụng ưu đãi với hộ nghèo, từ khâu cấp tín dụng, bố trí nguồn vốn, lãi suất áp dụng và cơ chế chính sách phù hợp, đồng thời, bản thân NHCSXH phải tự chủ động về nguồn vốn, không thụ động trông chờ vào nguồn vốn từ NSNN. 3.2.2. Các giải pháp cụ thể 3.2.2.1. Chủ động trong công tác huy động vốn và đa dạng hoá các nguồn vốn Để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 và các năm tiếp theo - cho vay vùng khó khăn, khắc phục được những khó khăn trước mắt, cũng như lâu dài vì mới đáp ứng nhu cầu tín dụng cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách, NHCSXH cần phải có nguồn vốn lớn với lãi suất phù hợp, khi nguồn lực của Nhà nước có hạn. Do vậy, NH cần có giải pháp chiến lược, đồng bộ mang tính lâu dài và bền vững: Thứ nhất, xây dựng kế hoạch chiến lược dài hạn 5,10, 20 năm: Việc tạo lập nguồn vốn, sử dụng vốn, phấn đấu mỗi năm góp phần giảm được bao nhiêu % hộ nghèo, tạo được bao nhiêu việc làm, hỗ trợ bao nhiêu cho doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn, định hướng về tự chủ tài chính… để thích ứng với tình hình mới. Việc xây dựng kế hoạch chiến lược dài hạn của NHCSXH phải khoa học, cụ thể, có tính thuyết phục cao, là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để kêu gọi và thuyết phục các các nhà tài trợ trong và ngoài nước, đầu tư vốn cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác thông qua kênh tín dụng của NHCSXH. Thứ hai, hàng năm ngoài việc xin cấp vốn điều lệ và các nguồn khác có nguồn gốc từ Ngân sách Nhà nước, cần tranh thủ khai thác các nguồn vốn ổn định, bền vững như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu Chính phủ, công trái xoá đói giảm nghèo với thời hạn 1 năm; 2 năm; 3 năm…, đặc biệt là trái phiếu dài hạn 5, 10, 15, 20 năm; trình Chính phủ cho phép được huy động tiền gửi 2% đối với tất cả các đối tượng có hưởng lợi trong thanh toán, coi đây là sự đóng góp của các tổ chức này vào công cuộc xoá đói giảm nghèo của Đảng, Nhà nước. Thứ ba, khi gia nhập WTO thì các tổ chức, cá nhân, thương gia nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ…, sẽ đến và có quan hệ với Việt Nam nhiều hơn. Vì vậy, công tác tuyên truyền đóng một vai trò quan trọng, các bài viết tiếng việt cần biên dịch ta các thứ tiếng nước ngoài, nêu tổng quát về chương trình mục tiêu xoá đói giảm nghèo: những thành quả đạt được về mặt kinh tế, chính trị - xã hội, định hướng hoạt động trong tương lai của NHCSXH để các tổ chức, thương gia, cá nhân, tập đoàn kinh tế… trong và ngoài nước hiểu rõ về công cuộc xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước nói chung và hoạt động của NHCSXH nói riêng. Bên cạnh đó, xây dựng đội ngũ làm công tác quan hệ quốc tế chuyên nghiệp, năng động, sáng tạo, hiểu được tập quán văn hoá, kinh doanh quốc tế. Việc tiếp cận trực tiếp và thuyết phục các nhà tài trợ quốc tế như WB, IMF, các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp, thương gia…, với tiềm lực tài chính mạnh có thể tạo ra nguồn vốn ổn định không lãi, hoặc lãi suất thấp một cách thuận lợi hơn. Thứ tư, với màng lưới của NHCSXH rộng khắp trên toàn quốc là một lợi thế để tận dụng triển khai các sản phẩm, dịch vụ: thanh toán chuyển tiền điện tử, thu hộ, chi hộ bảo hiểm, mobile Banking… từ đó NHCSXH có thể tăng thêm nguồn vốn huy động nhàn rỗi của các tổ chức chính trị - xã hội, Kho bạc Nhà nước, bảo hiểm, dân cư… đồng thời tăng thêm nguồn thu, từng bước nâng cao tính tự chủ tài chính cho NHCSXH. Tuy nhiên, các tổ chức NH, Tài chính đặc biệt là tổ chức NH, Tài chính nước ngoài với trình độ nhân lực cao, công nghệ hiện đại, đặc biệt là uy tín, thương hiệu lâu năm sẽ là đối thủ cạnh tranh rất lớn nếu NHCSXH không có công nghệ hiện đại, không có nhân lực trình độ cao, không tạo được thương hiệu cho riêng mình Thứ năm, tham gia thị trường liên NH để tránh lãng phí vốn, tận dụng, sử dụng tối đa nguồn vốn nhằm tăng thu nhập, giảm chi phí cấp bù cho NSNN. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn và triển khai các sản phẩm dịch vụ của NHCSXH. Thứ sáu, xây dựng chuẩn đánh giá chất lượng tín dụng với các chỉ tiêu khoa học, cụ thể. Đồng thời, ngày càng thắt chặt chất lượng tín dụng, tránh cho vay không đúng đối tượng, chồng chéo, tránh những rủi ro mang tính chủ quan để đảm bảo an toàn vốn cho Nhà nước. 3.2.2.2. Tăng trưởng dư nợ bằng cơ chế giải ngân linh hoạt, hợp lý Song song với việc tăng cường huy động vốn và đa dạng hoá các nguồn vốn, tăng trưởng dư nợ bằng cơ chế giải ngân linh hoạt, hợp lý là việc làm cần thiết để phát triển bền vững hoạt động cho vay ưu đãi người nghèo tại NHCSXH. Để làm tốt việc này, cần tập trung vào các lĩnh vực: Thứ nhất, cơ chế giải ngân linh hoạt phải kết hợp giữa quy mô cấp tín dụng, lãi suất áp dụng cho các khoản vay tín dụng với số tiền gửi tiết kiệm tại NH. Hiện nay, tiết kiệm hầu như còn chưa phổ biến với người nghèo, do đó, việc ràng buộc giữa cấp tín dụng với quy mô tiền gửi tiết kiệm tại NH có thể gây bất lợi với người nghèo. Tuy nhiên, việc làm này trong tương lai là cần thiết vì: - Nhiều hộ nghèo do thiếu vốn sản xuất kinh doanh, nếu được tài trợ về vốn, ưu đãi về lãi suất, họ sẽ vươn lên thoát nghèo. Khi đã thoát nghèo, họ có nghĩa vụ góp phần giúp đỡ các hộ khác còn khó khăn qua việc tiết kiệm tại NHCSXH. - Ràng buộc giữa tiết kiệm và giải ngân vốn ưu đãi là cách thức sử dụng linh hoạt nguồn vốn tín dụng ưu đãi để khuyến khích người nghèo có thói quen tiết kiệm. Thứ hai, xây dựng phương thức giải ngân hợp lý bằng cách: - Nâng cao chất lượng uỷ thác cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác thông qua các tổ chức chính trị - xã hội. Để triển khai một cách bài bản và có chất lượng các nội dung uỷ thác, vấn đề phải làm là rà soát lại nội dung văn bản đã ký kết với tổ chức hội, chấn chỉnh kịp thời những sai sót. Trường hợp cần thiết có thể tiến hành ký kết lại văn bản thoả thuận, hoặc hợp đồng uỷ thác để thay thế văn bản thoả thuận hoặc hợp đồng trước đó. Kết thúc năm tài chính, chi nhánh NHCSXH cấp tỉnh, cấp huyện và tổ chức hội cùng cấp phải quyết toán các chỉ tiêu của năm trước, rút kinh nghiệm và ký phụ lục văn bản liên tịch, hoặc hợp đồng uỷ thác để chỉnh sửa, bổ sung các chỉ tiêu thường xuyên biến động như cho vay, thu nợ, thu lãi, mức phí uỷ thác, số tổ vay vốn… Trong quá trình triển khai các công đoạn uỷ thác, cần phải phân định rõ trách nhiệm giữa cán bộ ngân hàng và tổ chức hội, xác định rõ từng công việc cụ thể trong quy trình cho vay, NHCSXH chỉ thực hiện một số công đoạn như tổ chức giải ngân, thu nợ, lãi tại xã phường, thực hiện tổ chức hạch toán, lưu trữ hồ sơ, thực hiện chế độ báo cáo thống kê, thực hiện kiểm tra điểm, kiểm tra đột xuất, phối hợp lập hồ sơ xử lý nợ rủi ro. - Tăng cường năng lực hoạt động của Tổ tiết kiệm và vay vốn bằng cách lựa chọn các thành viên Ban quản lý tổ phải là người có trình độ, năng lực, có phẩm chất đạo đức được nhân dân tín nhiệm. Tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn không nhất thiết phải là hộ nghèo do thành viên trong tổ bầu và biểu quyết theo đa số; có thể là một trong những thành viên của tổ, có thể là thành viên lãnh đạo các chi hội đoàn thể đứng ra đảm nhiệm (để thuận lợi trong việc chỉ đạo điều hành hoạt động trong trường hợp tổ được thành lập theo địa bàn liên thôn, bản… hoặc theo địa bàn xã). Tăng cường công tác tập huấn, thường xuyên đào tạo nghiệp vụ ngân hàng cho Ban quản lý tổ như: hướng dẫn thủ tục quy trình cho vay, các quy định về điều kiện vay, đối tượng cho vay, mức cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay, định kỳ hạn trả nợ, trả lãi; các quy định về cho gia hạn nợ, cho vay lưu vụ, lập hồ sơ xử lý rủi ro, cách ghi chép sổ sách theo dõi thu nợ, thu lãi, thu tiết kiệm của các thành viên; kiểm tra, giám sát hộ sử dụng vốn vay, đôn đốc hộ trả nợ, trả lãi kịp thời. - Tổ chức màng lưới giao dịch tại xã, thực hiện chủ trương giải ngân trực tiếp đến người vay, từng bước hoàn thiện nguyên tắc quản lý công khai lĩnh vực tín dụng chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách tiếp cận với các dịch vụ tài chính ngân hàng một cách thuận tiện nhất. Mặt khác, cần tranh thủ tối đa sự ủng hộ của chính quyền địa phương, ban xóa đói giảm nghèo và các tổ chức hội đoàn thể để mọi hoạt động trong phiên giao dịch diễn ra một cách thuận lợi và an toàn nhất. 3.2.2.3. Mở rộng phương thức uỷ thác cho vay từng phần thông qua các tổ chức hội Để thực hiện mở rộng phương thức cho vay uỷ thác từng phần thông qua các tổ chức hội có hiệu quả, NHCSXH cần có các giải pháp: Thứ nhất, NHCSXH cân có cơ chế uỷ thác riêng biệt hơn nữa cho từng loại hình tổ chức tín dụng, đối với NHNN&PTNT có hệ thống từ Trung ương đến tận cơ sở rất khác với Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, các NHTM cổ phần là những tổ chức tín dụng hoạt động độc lập; đồng thời các tổ chức tín dụng có đầy đủ bộ máy quản lý, điều hành, có chế độ hạch toán kế toán, sổ sách đầy đủ trong khi các tổ chức chính trị - xã hội không có chế độ hạch toán kế toán và phương tiện làm việc cũng thiếu. Quy chế này nhằm tăng cường công tác giám sát, kiểm tra việc sử dụng vốn nhận uỷ thác. Thứ hai, Cần có mức phí uỷ thác hợp lý cho từng loại hình tổ chức nhận uỷ thác nhằm đảm bảo bù đắp chi phí hoạt động để khuyến khích việc giải ngân đến các đối tượng đồng thời có đủ chi phí bù đắp rủi ro do nguyên nhân khách quan khi không thu hồi được cả vốn và lãi. 3.2.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn vay ưu đãi của các hộ nghèo Hiện nay, phương thức giải ngân vốn tín dụng ưu đãi chủ yếu là uỷ thác qua các tổ chức chính trị - xã hội. Vì vậy, nếu không thực hiện công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ và thường xuyên sẽ dẫn tới việc vốn vay bị sử dụng sai mục đích, thậm chí bị bòn rút bất hợp pháp. Do đặc điểm của tín dụng ưu đãi với hộ nghèo đối tượng vay vốn tập trung rải rác ở các vùng nông thôn là chủ yếu, mục đích sử dụng vốn đa dạng nên côn tác kiểm tra, giám sát rất phức tạp và mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, việc làm này là rất cần thiết. Kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn sẽ góp phần nhắc nhở hộ nghèo sử dụng vốn vay đúng mục đích, phát hiện ra những sai phạm và có biện pháp xử lý kịp thời, đồng thời góp phần tìm ra những bất hợp lý của chính sách tín dụng ưu đãi để sửa đổi cho phù hợp. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát theo chuyên đề, theo kế hoạch kiểm tra điểm hoặc đột xuất để kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những thiếu sót trong quy trình, thủ tục cho vay. Phối hợp, đôn đốc các tổ chức hội cần tích cực tham gia kiểm tra vốn vay, nhắc nhở người vay trả nợ, lãi đúng hạn, đầy đủ; phát hiện và thông báo cho NH những trường hợp sử dụng vốn sai mục đích, bị rủi ro. Nâng cao vai trò và trách nhiệm của tổ chức hội trong việc kiểm tra vốn vay, đảm bảo việc kiểm tra phải kịp thời và có chất lượng. 3.2.2.5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho NHCSXH Trong điều kiện đang chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực luôn được tất cả các tổ chức kinh tế đề cao và coi đó là nhân tố có tính quyết định để chiến thắng trong cạnh tranh. Có thể nói, nguồn lực là nguồn tài nguyên số một của bất cứ quốc gia nào. Nhưng nguồn lực chỉ đóng được vai trò có tính quyết định trong mọi quá trình hoạt động khi nó đáp ứng được cả về số lượng lẫn chất lượng. Với hệ thống NHCSXH, do hoạt động có tính đặc thù, không vì mục tiêu lợi nhuận, nên yếu tố cạnh tranh thị trường có vẻ không được đề cao. Tuy nhiên, do hoạt động để thực hiện nhiệm vụ chính trị rất quan trọng là đầu tư vốn ưu để giúp các hộ nghèo và đối tượng chính sách từng bước thoát nghèo, nên yếu tố con người lại càng cần phải được đề cao. Nếu đội ngũ cán bộ, nhân viên không đủ về số lượng, năng lực chuyên môn và trình độ kinh tế tổng hợp thì sẽ rất khó khăn để ngân hàng thực hiện được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Với việc định biên NHCSXH như hiện nay phải chăng thực chất Chính phủ chỉ quan niệm hoạt động của hệ thống NHCSXH là giúp giải ngân vốn tín dụng ưu đãi cho các hộ nghèo và đối tượng chính sách khác hơn là chú ý hỗ trợ cho các hộ nghèo thông qua công cụ đòn bẩy tín dụng của NHCSXH. Nếu như vậy thì chỉ cần tồn tại mô hình một loại Quĩ cho vay ưu đãi như trước đây là đủ, không cần có sự ra đời và hoạt động của một hệ thống NHCSXH. Để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị đã được đề ra trong Nghị định 78/2002/NĐ-CP thì cần phải tăng biên chế cho toàn hệ thống. Đi đôi với tăng số lượng cán bộ nhân viên thì chất lượng cán bộ cũng phải được chú ý. Để NHCSXH thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mình đòi hỏi trình độ năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ nhân viên phải cao, không chỉ ở trình độ chuyên môn trong ngành ngân hàng, mà còn ở trình độ kinh tế tổng hợp thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Tuy nhiên, hiện nay trình độ của cán bộ nhân viên trong toàn hệ thống nói chung còn khá nhiều bất cập, thiếu kinh nghiệm trong các lĩnh vực kinh tế tổng hợp. Chính điều này đã làm hạn chế khả năng tư vấn cho các hộ nghèo trong sản xuất kinh doanh và một phần sự phụ thuộc vào các Hội đoàn thể trong kiểm tra, kiểm soát vốn vay từ các hộ nghèo là tất yếu. Do vậy, hiện nay NHCSXH cần chú ý nâng cao năng lực chuyên môn và trình độ kinh tế tổng hợp của cán bộ trong nh. Cách thức chủ yếu vẫn là tuyển dụng các cán bộ được đào tạo trong các trường kinh tế kỹ thuật sau đó qua các lớp đào tạo về chuyên môn tài chính - ngân hàng tại các trường Đại học, hoặc cũng có thể cử cán bộ của NH tham gia các khoá đào tạo về kiến thức kinh tế các ngành liên quan. Chỉ có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra và trên cơ sở đó chất lượng tín dụng của NHCSXH mới ngày càng được nâng cao. Quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng là các hộ nghèo và các đối tượng chính sách mới càng thêm vững chắc. NHCSXH mới thực sự là người bạn đồng hành trong chiến lược thoát nghèo của các đối tượng chính sách. Mặt khác, cũng cần chú trọng giáo dục ý thức đạo đức nghề nghiệp trong cán bộ nhân viên để họ có sự đồng cảm, quan tâm chia sẻ với hoàn cảnh các hộ nghèo và thay đổi lại quan niệm rằng người nghèo vẫn có thể tiết kiệm, tránh tình trạng thiếu lòng tin vào người nghèo làm cho quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng thêm xa cách. 3.2.2.6. Nâng cấp cơ sở vật chất của hệ thống NHCSXH theo hướng hiện đại hơn, hoàn thiện hơn Có thể nói, hạ tầng cơ sở tài chính là điều kiện nền tảng cho sự hoạt động hiệu quả của bất cứ tổ chức kinh tế xã hội nào. Nhưng với sự hoạt động của các tổ chức tín dụng thì hạ tầng cơ sở tài chính là điều kiện có tính quyết định. Các tổ chức tín dụng sẽ không thể mở ra các dịch vụ mới, chẳng hạn dịch vụ thanh toán, nếu như hệ thống thanh toán của nó không được hiện đại hoá; người dân sẽ không đặt nhiều niềm tin vào tổ chức tín dụng một khi cơ sở vật chất của nó thiếu khang trang. Bản thân các văn phòng làm việc cũng phải đi thuê thì rất khó tạo được niềm tin để những người có tiền tiết kiệm ký thác các khoản tiền vào đó. Hơn nữa, trong điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn, lạc hậu thì cũng rất khó kích thích tinh thần say mê công việc của cán bộ, nhân viên trong cơ quan. Sự suy giảm niềm tin, tận tình của cán bộ, nhân viên trong cơ quan, sự thiếu niềm tin về một sự phát triển bền vững của bản thân các hộ nghèo nói riêng cũng như đông đảo các tầng lớp trong xã hội nói chung làm cho hoạt động của tổ chức tín dụng suy yếu, bế tắc và khó khăn. Nâng cấp hạ tầng cơ sở tài chính cho toàn hệ thống NHCSXH là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Điều này là rất cần thiết với các lý do: - Tạo điều kiện cần thiết để NHCSXH hoạt động thực hiện tốt nhiệm vụ đặt ra là cho vay vốn ưu đãi cho các hộ nghèo và các đối tượng chính sách, một loại đối tượng đặc thù chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội rất cần được quan tâm hỗ trợ. Sự hỗ trợ này hiệu quả đến mức nào lại phụ thuộc rất nhiều vào lòng say mê, tận tâm của đội ngũ cán bộ, nhân viên của NHCSXH. Sự tận tâm của họ chỉ có được một khi bản thân các cán bộ này cũng có được sự quan tâm đúng mức. - Cơ sở hạ tầng tài chính được nâng cấp sẽ tạo tiền đề để NHCSXH mở ra các loại hình dịch vụ mới phục vụ cho các khách hàng là các hộ nghèo nói riêng, cũng như toàn xã hội nói chung, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi mà các dịch vụ ngân hàng hiện đại nhìn chung rất ít được triển khai. Hơn nữa, khi cơ sở hạ tầng tài chính được nâng cấp sẽ tạo điều kiện cho NHCSXH từng bước tăng tính chủ động trong hoạt động của mình thông qua đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, đa dạng hoá các đối tượng vay vốn từ NHCSXH mà không chỉ phục vụ phạm vi đối tượng khách hàng là các hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Chỉ trên cơ sở như vậy thì NHCSXH mới hoạt động bền vững. - Đầu tư hạ tầng cơ sở tài chính, trước hết là các văn phòng làm việc rộng rãi, có các trang thiết bị đầy đủ, đáp ứng tốt cho sự hoạt động của NHCSXH chính là một cách tạo niềm tin cho các hộ nghèo biết cam kết mạnh mẽ của Chính phủ về cuộc chiến chống đói nghèo trên mọi lĩnh vực. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ Hoạt động của NHCSXH phục vụ cho vay ưu đãi nhóm đối tượng là các hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, với nguồn vốn cho vay hiện nay chủ yếu từ vốn ngân sách cấp, lãi suất cũng được khống chế chặt chẽ, điều này chỉ có thể duy trì được trong ngắn hạn. Còn trong dài hạn thì việc duy trì mức lãi suất thấp trong điều kiện cho vay món nhỏ với chi phí tăng cao, rủi ro lớn sẽ gây khó khăn rất lớn cho ngân hàng trong việc duy trì hoạt động lâu dài. Hơn nữa, từ kinh nghiệm thực tiễn các nước chỉ ra rằng, việc cho vay ưu đối với lãi suất duy trì cứng nhắc ở mức thấp là không hiệu quả, bởi lý do: - Nhiều hộ nghèo quan tâm đến điều kiện vay vốn và thời điểm vay, mức vốn vay và số lần được vay hơn là lãi suất ưu đãi. Các NHTM lớn thường ít quan tâm đến các món cho vay nhỏ với chi phí cao và rủi ro lớn. Vì vậy, các hộ nghèo hầu như không được đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. - Một số tổ chức tín dụng vi mô có sự linh hoạt trong lãi suất cho vay, hạn mức và thời hạn cấp tín dụng đã lớn mạnh lên rất nhanh và cạnh tranh có hiệu quả với các tổ chức tín dụng khác. Trong khi đó, các tổ chức tín dụng vi mô bị khống chế chặt chẽ về lãi suất dần bị suy yếu trong hoạt động. Ở nước ta, Chính phủ cũng đang tiếp tục theo đuổi chính sách tự do hoá tài chính, nên các biểu hiện như cho vay ưu đãi theo lãi suất khống chế không trên cơ sở thương mại, thực hiện chương trình tín dụng theo chỉ định… là những biểu hiện kìm giữ tài chính, đi ngược lại định hướng của Chính phủ. Do vậy, thời gian tới, Chính phủ nên cho phép hệ thống NHCSXH được thực hiện cho vay với lãi suất theo hướng thị trường hoá đối với các hộ nghèo. Mặt khác, hiện nay điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính của hệ thống NHCSXH đang bất cập, rất cần được sự quan tâm của Chính phủ để nâng cấp, đáp ứng cho việc thực hiện nhiệm vụ chính trị đặt ra cho NH. Bên cạnh đó, chất lượng tín dụng của NHCSXH và hiệu quả của hoạt động cho vay ưu đãi với người nghèo phụ thuộc rất lớn vào trình độ năng lực của bản thân hộ nghèo. Nhìn chung, các hộ nghèo đã có nhiều nỗ lực để vươn lên thoát nghèo, nhưng do trình độ dân trí còn tương đối thấp, khả năng nắm bắt những kỹ năng, kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh không cao, do vậy năng suất lao động thấp, từ đó tác động xấu đến hiệu quả sử dụng vốn vay ưu đãi. Để giúp cải thiện tình hình này, rất cần sự quan tâm của Chính phủ để từng bước nâng cao trình độ dân trí của các hộ nghèo và đối tượng chính sách khác, cả về trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, thường xuyên mở các lớp tập huấn về kinh nghiệm sản xuất, phát các tờ rơi phổ biến cách thức sản xuất, giúp đỡ đầu vào, đầu ra trong sản xuất cho các hộ nghèo. 3.3.2. Kiến nghị với các Bộ ngành có liên quan Các Bộ, ngành liên quan như Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, … cần có sự phối hợp tốt với NHCSXH trong hoạt động cho vay hộ nghèo. Một mặt cần quan tâm tăng vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách, mặt khác tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác giải ngân vốn ưu đãi, giám sát tình hình sử dụng vốn vay, thường xuyên giúp đỡ, phổ biến cách thức sản xuất kinh doanh cho các hộ nghèo, nhằm giúp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của họ, từ đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng ưu đãi. 3.3.3. Kiến nghị với NHNN Với vai trò và vị trí là cơ quan lãnh đạo cao nhất trong hệ thống NH Việt Nam, NHNN cần quan tâm phát triển nguồn vốn hoạt động cũng như giúp NHCSXH hoàn thiện cơ chế hoạt động nghiệp vụ, cụ thể: - Đề nghị cấp đầy đủ vốn điều lệ ban đầu và bổ sung vốn hoạt động kịp thời. - Nghiên cứu, xem xét phê duyệt cơ chế khoán tài chính cho NHCSXH theo hướng nâng cao dần quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, ổn định từ năm 2007 đến 2010. - Có chính sách hỗ trợ cho NHCSXH tiếp cận các nguồn vốn dài hạn, lãi suất thấp của WB,IMF... KẾT LUẬN Trong nhiều năm qua, xoá đói giảm nghèo luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm nhằm thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh". Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách xoá đói giảm nghèo như xây dựng chính sách phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn; thực hiện chiến lược phát triển cho từng vùng, miền; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; ưu tiên tín dụng các nguồn vốn cho xoá đói giảm nghèo, thiết lập nguồn vốn vay cho người nghèo... Bắt đầu từ 2001-2005, nước ta phấn đấu không còn hộ đói kinh niên, nâng và áp dụng dần chuẩn quốc tế, mỗi năm giảm khoảng 1,5% - 2% số hộ đói nghèo (khoảng 25-28 vạn hộ). Chúng ta đã được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những nước có thành tích giảm tỷ lệ đói nghèo tốt nhất. Sự cải thiện cuộc sống của phần lớn người dân Việt Nam là do đà tǎng trưởng kinh tế nhanh chóng đạt được từ khi Việt Nam thực hiện đổi mới từ những nǎm 80. Những đổi thay ở nông thôn Việt Nam là do nǎng suất nông nghiệp tǎng cao nhờ những cải cách về chính sách đất đai, khoán đất cho nông dân, tự do hoá giá nông phẩm, khuyến khích thâm canh và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp. Một trong những hoạt động chủ yếu của các chương trình xoá đói, giảm nghèo là cho vay tín dụng ưu đãi thông qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc Ngân hàng Phục vụ người nghèo mà nay là Ngân hàng Chính sách xã hội. Sau hơn 3 năm hoạt động cho đến nay, Ngân hàng Chính sách xã hội bước đầu đã thực hiện thành công mục tiêu xóa đói giảm nghèo của quốc gia. Năm 2006, Nhà nước đề ra chuẩn nghèo mới để thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo được tốt hơn và sát với chuẩn nghèo quốc tế, mỗi năm tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 2 - 3%. Năm 2005 chuẩn nghèo cũ của Việt Nam là 7%, nhưng khi thực hiện chuẩn nghèo mới (áp dụng từ năm 2006) là khoảng 22%, cao hơn gấp 3 lần chuẩn nghèo cũ. Vì vậy, thách thức của Ngân hàng Chính sách xã hội là rất lớn. Bên cạnh đó, qua một thời gian hoạt động, nghiệp vụ cho vay hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội đã bộc lộ một số hạn chế. Chính vì vậy, muốn phát triển ổn định hoạt động cho vay người nghèo, Ngân hàng cần những giải pháp đồng bộ và có tính chiến lược về mọi mặt: nguồn vốn, cơ chế giải ngân, chất lượng nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng... Chuyên đề: “ Giải pháp góp phần phát triển hoạt động cho vay người nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam” đã đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong hoạt động, nâng cao hiệu quả của hoạt động cho vay người nghèo tại Ngân hàng. Do hiểu biết còn hạn chế nên chuyên đề còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô và những người quan tâm đến lĩnh vực này để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Báo và Tạp chí: TS. Phan Thị Thu Hà: Hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội, Tạp chí Ngân hàng, 4/2005. Nguyễn Mỹ Hào: Một số nét đặc thù về mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội, Tạp chí Ngân hàng, Số chuyên đề 2004. ThS. Nguyễn Ngọc Thao: Một số kiến nghị về cho các đối tượng chính sách vay vốn từ Ngân sách Nhà nước, Tạp chí Ngân hang, 7/2006. ThS. Trần Hữu Ý: Một số ý kiến về hoàn thiện cơ chế nghiệp vụ của Ngân hàng Chính sách xã hội, Tạp chí Ngân hàng 5/2004. Văn Tạo: Cần mở rộng phương thức uỷ thác vốn từng phần của Ngân hàng Chính sách xã hội, Thị trường tài chính tiền tệ, 5/2005. Nguyễn Văn Tân: Nhìn lại 3 năm hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, 1/2006. II. Website: www.vbsp.org.vn www.mpi.gov.vn www.mof.gov.vn www.sbv.gov.vn DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT NHCSXH : Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam NHTM : Ngân hàng Thương mại NHNT : Ngân hàng Ngoại thương NHĐT&PT : Ngân hàng đầu tư và phát triển NSNN : Ngân sách Nhà nước NHNN : Ngân hàng Nhà nước MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32121.doc
Tài liệu liên quan