Chuyên đề Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc

Hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng không phải là vấn đề mới, tuy nhiên đây là vấn đề luôn được Nhà Nước và các Ngân hàng quan tâm hàng đầu. Ở Việt Nam hiện nay, BIDV VN đang là một trong những Ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh nhất, đi đầu trong công tác hạn chế và xử lý nợ quá hạn, song nâng cao năng lực để đối mặt với những thử thách do môi trường kinh doanh mang lại trong thời gian tới như đối mặt với sự cạnh tranh trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam, đối mặt với sự cạnh tranh của các Ngân hàng nước ngoài ; Để trở thành Ngân hàng tầm cỡ khu vực và thế giới, đòi hỏi BIDV cần phải có những giải pháp để đảm bảo sự an toàn trong hoạt động tín dụng của mình, đặc biệt trong hoạt động tín dụng trung dài hạn. Với mong muốn góp một phần nhỏ vào sự phát triển của BIDV và hệ thống Ngân hàng Việt Nam, em đã chọn nghiên cứu đề tài: "Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam - chi nhánh Lò Đúc “ Bài khoá luận đã đề cập đến những nội dung cơ bản sau: - Hệ thống hoá các vấn đề cơ bản về tín dụng trung dài hạn, rủi ro tín dụng trung dài hạn và các biện pháp để hạn chế rủi ro. - Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng trung dài hạn tại BIDV VN, những thành tựu mà BIDV đã đạt được và những vấn đề tồn tại cần tiếp tục giải quyết. - Đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn tại BIDV VN.

doc77 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1727 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khách hàng trách nhiệm trả nợ, ngoài ra tỷ lệ này còn cho thấy có thể có thể cán bộ tín dụng đã không thẩm định kỹ tài sản đảm bảo hoặc quá chú trọng vào tài sản đảm bảo coi việc có tài sản đảm bảo là yên tâm không thẩm định kỹ dự án và trong quá trình giải ngân đã không giám sát chặt chẽ. Đây là một tư tưởng sai lầm của một số cán bộ tín dụng, tài sản đảm bảo chỉ được coi là nguồn nợ thứ hai trong trường hợp không thể thu nợ từ hiệu quả của dự án, nguồn trả nợ quan trọng nhất chính là từ nguồn thu của dự án. Như vậy một vấn đề đặt ra nữa đối với BIDV là phải thường xuyên nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng, ngay từ khi tuyển dụng cần phải tuyển dụng những người có trình độ, trong quá trình làm việc phải thường xuyên bồi dưỡng đào tạo… 2.2.2.2. Tình hình nợ xấu Tình hình nợ xấu trung dài hạn của BIDV trong mấy năm qua thể hiện như sau: Bảng 08:Tình hình nợ xấu của BIDV Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2007 2008 2009 Tổng dư nợ TDH 732,870 620,876 811,221 Nợ xấu 17,955 11,176 9,654 Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ 2,45% 1,8% 1,19% Nguồn: Báo cáo hội nghị giám đốc năm 2007-2009 của BIDV VN Như vậy, tỷ lệ nợ xấu trung dài hạn của BIDV qua ba năm 2007-2009 đã giảm dần, từ 2,45% năm 2007 xuống 1,8% năm 2008 và đến năm 2009 là 1,19%. Trong khi đó tỷ lệ nợ xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng tính đến cuối năm 2009 là 4-5%. Đây là kết quả từ những nỗ lực của BIDV trong việc xử lý nợ xấu. 2.2.2.3. Tình hình trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng Ngay từ khái niệm của rủi ro tín dụng là: “rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho khách hàng” đã cho thấy rủi ro tín dụng là vốn có, là tồn tại song song cùng các khoản cho vay, khi quyết định cấp tín dụng cho khách hàng bất kỳ một NHTM nào cũng xác định sẽ có thể gặp rủi ro và để chủ động trong việc hạn chế những hậu quả do rủi ro tín dụng có thể gây ra một biện pháp hiện nay đang được các NHTM thực hiện, đó là trích lập dự phòng rủi ro. Theo quy định 493/2005/QĐ-NHNN, dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của Ngân hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của Ngân hàng. Tại BIDV việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro được thực hiện theo đúng quy định 493/2005/QĐ-NHNN, tình hình trích lập dự phòng rủi ro tại BIDV như sau: Bảng 09:Tình hình trích lập dự phòng rủi ro của BIDV VN qua các năm Đơn vị: triệu đồng Năm Trích lập dự phòng rủi ro Dự phòng rủi ro/tổng dư nợ Nợ quá hạn/ tổng dư nợ 2007 15,244 2,08% 6,8% 2008 15,274 2,46% 3,1% 2009 3,326 0,41% 1,96% Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2006-2009 của BIDV VN Căn cứ quy định tại quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của thống đốc NHNN ban hành “quy định về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng sử dụng dự phòng đề xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng” việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tại BIDV đã được thực hiện triệt để trong năm 2008, tại thời 31/12/2009 tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ là 1,96% giảm hơn nhiều so với năm 2008, do đó trong năm 2009 BIDV chỉ phải trích 3326 triệu đồng cho dự phòng rủi ro tín dụng trung dài hạn, giảm nhiều so với năm 2008 (15274 tỷ đồng). Với việc trích lập dự phòng rủi ro như vậy BIDV có thể dùng các quỹ dự phòng rủi ro tín dụng để bù đắp các khoản nợ tồn đọng như nợ quá hạn khó đòi, nợ chờ xử lý. Đối tượng xử lý là các khoản nợ tồn đọng có tài sản bảo đảm quá hạn từ 721 ngày và các khoản nợ có tài sản đảm bảo quá 721 ngày và các khoản nợ không có tài sản đảm bảo quá 361 ngày trở lên. 2.3. Những thành tựu mà BIDV đã đạt được trong thời gian qua 2.3.1. Những biện pháp mà BIDV đã thực hiện trong thời gian qua Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, để đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả và nâng cao khả năng cạnh tranh, BIDV đã có một loạt các biện pháp nhằm cải thiện dần chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro. Có thể kể đến một số biện pháp sau: Để đảm bảo công tác quản lý rủi ro và bảo toàn vốn được thực hiện được đúng hướng và hiệu quả, BIDV đã thành lập các uỷ ban phụ trách trong công tác quản lý rủi ro theo thông lệ Ngân hàng quốc tế. Về cơ bản, mô hình tổ chức quản lý rủi ro của BIDV được phân chia như sau: Uỷ ban quản lý rủi ro (RMC): trực thuộc hội đồng quản trị, được thành lập theo quyết định số 455/QĐ-TCCB-ĐT ngày 21/09/2001, chịu trách nhiệm chung về việc xây dựng các chính sách quản lý rủi ro. Uỷ ban quản lý tài sản có/tài sản nợ (ALCO): trực thuộc tổng giám đốc, được thành lập theo quyết định số 456/QĐ-TCCB-ĐT ngày 21/09/2001. ALCO có trách nhiệm giám sát rủi ro. Hội đồng tín dụng TW: Trực thuộc Tổng Giám đốc, được thành lập theo quyết định 409/QĐ-BIDV ngày 29/03/2002 nhằm mục đích nâng cao chất lượng trong việc xây dựng chính sách tín dụng, xét duyệt giới hạn tín dụng và triển khai chính sách quản lý rủi ro đối với khách hàng là doanh nghiệp. Thực hiện nghiêm ngặt việc thế chấp tài sản: BIDV luôn lấy tính hiệu quả của dự án làm cơ sở hàng đầu để xét duyệt cho vay. Song trong cho vay trung dài hạn với những đặc trưng vốn có của nó, để phòng ngừa rủi ro không lường trước được cho Ngân hàng và để ràng buộc trách nhiệm của khách hàng trong việc sử dụng vốn vay có hiệu quả thì BIDV luôn yêu cầu khách hàng của mình phải có tài sản thế chấp, việc thẩm định hiện trạng của tài sản, các giấy tờ cần thiết cũng như định giá khi cho vay đều được thực hiện một cách chặt chẽ và hợp lý. Nhờ vậy, doanh nghiệp luôn cố gắng kinh doanh tốt để trả nợ cho Ngân hàng tránh trường hợp phải dùng tài sản để xiết nợ. Xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý bao gồm những nội dung chính sau: Mở rộng cho vay với các nhóm khách hàng mà hoạt động kinh doanh có độ an toàn cao, hạn chế cho vay đối với nhóm khách hàng hoạt động kinh doanh có độ rủi ro cao, kém hiệu quả. Tận dụng cơ hội phát triển tín dụng tại các khu vực có môi trường kinh tế thuận lợi, áp dụng chính sách cho vay thận trọng tại các khu vực kinh tế chưa phát triển đồng đều, ổn định. Mở rộng cho vay đối với các ngành kinh tế mũi nhọn, mặt hàng có thị trường tiêu thụ ổn định, cho vay thận trọng đối với các mặt hàng có nhiều biến động về thị trường, giá cả. BIDV đã và đang xây dựng hệ thống quản trị rủi ro tín dụng phù hợp với thông lệ quốc tế bao gồm: Xây dựng và ban hành các công cụ, văn bản quản lý nội bộ như: giới hạn tín dụng đối với khách hàng, phân định khu vực đầu tư, thành lập các hội đồng tín dụng, phân cấp thẩm quyền phù hợp với năng lực cán bộ, xây dựng quy trình thống nhất, xây dựng và đưa vào sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, thông tin báo cáo trực tuyến… Công tác kiểm tra, giám sát cũng được đề cao trong mô hình tổ chức với vai trò tích cực của Hội đồng quản trị, tính độc lập của hệ thống kiểm tra nội bộ, sự quản lý của các phòng chức năng tại Hội sở chính, riêng về mô hình tổ chức theo khuyến nghị của tư vấn quốc tế (ING Group - Hà Lan) BIDV đã triển khai áp dụng thí điểm phương thức quản lý tín dụng mới được thiết lập trên nguyên tắc tách biệt ba chức năng trong hoạt động tín dụng là kinh doanh, quản lý rủi ro và tác nghiệp, tức là hình thành bộ phận quan hệ khách hàng, bộ phận quản lý rủi ro, bộ phận quản lý nợ, nhằm tăng cường tính hiệu quả của từng khâu đồng thời đảm bảo sự giám sát lẫn nhau giữa các khâu thông qua việc tuân thủ chặt chẽ quy trình tín dụng. Tuyển dụng và đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ cao, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Triệt để thu hồi và xử lý các khoản nợ xấu, nợ tồn đọng thông qua việc tăng cường giám sát hoạt động của doanh nghiệp, sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu, chuyển tài sản gán nợ xiết nợ cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản - công ty con trực thuộc BIDV được thành lập 27/03/2002, chuyên quản lý nợ và khai thác tài sản đảm bảo nợ vay. BIDV đã tiến hành phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN. Thực hiện đề án tái cơ cấu BIDV đã xây dựng Đề án tái cơ cấu BIDV giai đoạn 2001-2005 được chính phủ phê duyệt tại quyết định số 162/2001/QĐ-TTG ngày 23 tháng 10 năm 2001. Mục tiêu cơ bản của Đề án tái cơ cấu bao gồm: nâng cao năng lực tài chính; mở rộng hoạt động kinh doanh; hiện đại hoá công nghệ và phát triển sản phẩm mới; xây dựng mô thức quản lý hiện đại, đặc biệt là trong công tác quản trị rủi ro và kiểm tra, kiểm toán nội bộ. 2.3.2. Đánh giá hoạt động hạn chế rủi ro tại BIDV VN 2.3.2.1. Những kết quả đã đạt được Trong năm vừa qua với những nỗ lực trong việc hạn chế rủi ro tín dụng BIDV đã đạt được một số kết quả như sau: Tỷ lệ nợ quá hạn trung dài hạn trên tổng dư nợ tín dụng trung dài hạn đã giảm hơn so với những năm trước, nợ quá hạn trung dài hạn chỉ chiếm 1,96% so với tổng dư nợ trung dài hạn. Thấp hơn so với tỷ lệ nợ quá hạn trung dài hạn bình quân của các NHTM Nhà nước hiện nay là 4-5% và thấp hơn chỉ tiêu mà BIDV đặt ra (3%). Tỷ lệ nợ xấu trung dài hạn trên tổng dư nợ dài hạn cũng giảm, năm 2009 tỷ lệ này chỉ còn là 1,19%. Trong đó nợ khoanh chờ xử lý chỉ chiếm 0,31% tổng dư nợ trung dài hạn. Những kết quả trên có được là nhờ những biện pháp tích cực và hợp lý mà BIDV đã thực hiện trong thời gian qua: Đưa ra chính sách tín dụng hợp lý. Với chính sách tín dụng mà BIDV áp dụng, chất lượng của các khoản cho vay trung dài hạn của BIDV ngày càng được nâng cao, nhờ đó mà tổng dư nợ tín dụng trung dài hạn tăng nhưng tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ trung dài hạn giảm. Việc tiến hành phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN giúp cho Ngân hàng giám sát chặt chẽ tới từng khách hàng, nhờ đó đưa ra các biện pháp phù hợp kịp thời nhằm hạn chế nợ quá hạn phát sinh. Căn cứ vào hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ giúp cho cán bộ tín dụng đánh giá được khách hàng một cách toàn diện, đầy đủ và trên cơ sở điểm tín dụng mà khách hàng đạt được để đưa ra các quyết định cho vay chính xác hơn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng. 2.3.2.2. Những vấn đề tồn tại cần giải quyết Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong việc hạn chế rủi ro tín dụng, vẫn còn những tồn tại mà BIDV cần được giải quyết: Thứ nhất, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ còn cao. Những kết quả trên là rất tốt so với tình hình của BIDV những năm trước đây, tỷ lệ xấu của BIDV đã có nhiều chuyển biến rất tốt, thấp hơn rất nhiều so với những năm trước và thấp hơn so với các NHTM nhà nước. Tuy nhiên, nếu so với tỷ lệ nợ xấu của BIDV so với các NHTM cổ phần và nhóm Ngân hàng liên doanh và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài thì tỷ lệ này vẫn là cao, trong năm 2009 tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của nhóm các NHTM cổ phần là 1-2% và nhóm các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài là 0,1%, trong khi đó tỷ lệ nợ xấu của BIDV trong cho vay trung dài hạn trong năm qua là 3,06%. Hơn nữa đó là đánh giá theo quyết định của Việt Nam, tỷ lệ này sẽ còn cao hơn nữa nếu đánh giá theo các chuẩn mực quốc tế (theo đánh giá của IMF nợ xấu của BIDV có lẽ phải lên tới 5-6%). Thứ hai, các hình thức xử lý nợ xấu mà BIDV áp dụng vẫn chưa phải là biện pháp xử lý triệt để nhất. Hiện nay, có rất nhiều cách thức xử lý một khoản nợ xấu phát sinh trong bảng cân đối kế toán. Trong đó, có ba cách phổ biến nhất là (1) Bán tài sản đảm bảo hay kiện ra toà xin phá sản doanh nghiệp để tận thu, phần tổn thất sẽ dùng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý; (2) Bán khoản nợ này cho các công ty xử lý nợ (AMC), phần tổn thất cũng dùng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý; (3) Dùng quỹ dự phòng rủi ro chuyển toàn bộ khoản nợ ra ngoại bảng rồi tính sau. Với hai cách đầu, nợ xấu sẽ được xử lý một cách triệt để, các Ngân hàng không còn phải bận tâm tới chúng nữa. Ngược lại đối với cách thứ ba, về bản chất chưa thể gọi là xử lý mà chỉ là kỹ thuật làm sạch bảng cân đối, trong khi gánh nặng vẫn còn nguyên. Cho tới nay, BIDV cũng mới xử lý nợ xấu bằng hai cách chủ yếu đó là bán tài sản đảm bảo hay kiện ra toà xin phá sản doanh nghiệp để tận thu, phần tổn thất sẽ dùng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý, và dùng quỹ dự phòng rủi ro chuyển toàn bộ khoản nợ ra ngoại bảng rồi tiếp tục tìm các biện pháp thu nợ khác. Thứ ba, quy trình quản lý rủi ro tín dụng chưa bao quát, toàn diện do các công cụ quản lý rủi ro tín dụng hiện nay chủ yếu dựa vào các văn bản quy phạm nhà nước, những quy định tín dụng của BIDV chẳng khác mấy so với quy định chung của nhà nước, chứ chưa hẳn có một quy trình riêng của Ngân hàng. Trong khi đó các quy định chung của nhà nước xây dựng dựa trên kinh nghiệm của các nước, khi áp dụng vào Việt Nam do điều kiện kinh tế, xã hội, pháp luật chính trị là khác nhau nên gặp nhiều khó khăn. Thứ tư, các phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng của BIDV còn mang tính chất định tính, chỉ có duy nhất phương pháp "chấm điểm tín dụng" là mang tính định lượng. Tuy nhiên, hệ thống chấm điểm tín dụng của BIDV còn có nhiều yếu tố “động”, có xu hướng biến động nhiều trong thực tế. Nhưng với hệ thống tính điểm theo ma trận như hiện nay các yếu tố “động” này không thể hiện độ nhạy của nó tới kết quả của điểm tín dụng, do đó, kết quả chấm điểm độ chính xác không cao. Thứ năm, quy trình kiểm tra, kiểm soát nội bộ của Ngân hàng chưa thực sự phát huy vai trò của bộ phận này hiệu quả. Công tác này chỉ dừng lại ở mức độ kiểm tra tính chính xác của con số, chưa thực sự phòng ngừa rủi ro cho hoạt động tín dụng. Bởi vì, tính pháp lý của các báo cáo nội bộ không cao nên Ngân hàng chưa thực sự chú ý tới kết quả của nó. Thứ sáu, công tác kiểm tra giám sát tín dụng chưa thực sự chặt chẽ sát sao. Hiện nay số cán bộ tín dụng còn rất ít, trong khi đó khối lượng các dự án trung dài hạn ngày càng nhiều, do đó việc kiểm tra, kiểm soát tín dụng một cách thường xuyên liên tục là tương đối khó khăn và thực tế hiện nay tại BIDV vẫn chưa thể thực hiện được. 2.3.2.3. Nguyên nhân của những vấn đề còn tồn tại Xét về phía Ngân hàng bao gồm những nguyên nhân sau: Thứ nhất, hệ thống công nghệ thông tin: Ngân hàng đã nối mạng giữa các chi nhánh thành viên song các biện pháp xử lý trên mạng còn ít. Các thông tin nhận được từ trung tâm tín dụng CIC của NHNN chưa cập nhật. Nên Ngân hàng không kiểm soát được sự thay đổi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách thường xuyên liên tục, công tác phòng ngừa rủi ro dựa trên thông tin không phát huy được hiệu quả. Hệ thống thông tin trong BIDV bao gồm “phòng thông tin tín dụng” và “phòng tổng hợp và phân tích kinh tế” nhằm cung cấp các thông tin cần thiết để ra các quyết định tín dụng còn kém, chưa góp phần vào việc hỗ trợ các cán bộ tín dụng trong các quyết định cho vay nhằm hạn chế những rủi ro do nguyên nhân thiếu thông tin gây ra. Hiện nay phòng thông tin tín dụng của Ngân hàng phát hành một tháng hai số thông tin tín dụng, tuy nhiên các chuyên đề này mới chỉ dừng lại ở những thông tin rằng khách hàng vay vốn của Ngân hàng hiện đang có tài khoản tại Ngân hàng nào, số dư bao nhiêu, quá hạn bao nhiêu và tình hình kinh tế trên thế giới và Việt Nam ra sao. Vì vậy, cán bộ tín dụng phải tự thu thập thông tin thông qua các mối quan hệ cá nhân là chủ yếu nên rất vất vả. Thứ hai, áp lực cạnh tranh giữa các Ngân hàng cao khiến Ngân hàng đã chấp nhận một số khoản tín dụng không đủ chất lượng an toàn. Thứ ba, đội ngũ nhân sự chưa đào tạo một cách đầy đủ và có hệ thống. Các cán bộ tín dụng không có nhiều cơ hội để cập nhật kiến thức mới trong lĩnh vực quản trị rủi ro, đặc biệt khi Ngân hàng áp dụng các phương pháp phòng ngừa rủi ro mới thì cán bộ chỉ nhận được văn bản hướng dẫn chứ không được đào tạo chuyên sâu về phương pháp áp dụng đó. Cán bộ tín dụng thiếu sự cập nhật và am hiểu luật pháp quốc tế, đây là một hạn chế lớn trong công tác quản lý tín dụng trong hoạt động xuất nhập khẩu với khách hàng nước ngoài. Không am hiểu luật pháp quốc tế Ngân hàng có thể gặp rủi ro ngay khi ký hợp đồng tín dụng. Hiện nay, ở BIDV việc thẩm định các dự án trung dài hạn được thực hiện độc lập bởi phòng đầu tư dự án, hầu như không có sự trợ giúp từ các chuyên gia hay các tổ chức tư vấn. Thẩm định dự án trung dài hạn là công việc rất khó khăn do các dự án thường liên quan đến nhiều ngành nghề kinh tế khác nhau nên việc nâng cao hơn nữa trình độ thẩm định của cán bộ tín dụng là điều rất cần thiết. Xét từ phía nguyên nhân khách quan bên ngoài Ngân hàng: Thứ nhất, môi trường pháp lý ở Việt Nam còn chưa được hoàn thiện, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước, hơn nữa các doanh nghiệp trong nước mà phần lớn là các doanh nghiệp nhà nước đã sống quá lâu trong môi trường bảo hộ của nhà nước nên khi ra môi trường kinh tế thị trường tự do, ít sự bao bọc của nhà nước dễ bị chết yểu. Thứ hai, trong năm qua điều kiện thiên nhiên có nhiều bất ổn, thiên tai dịch bệnh ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Điều kiện kinh tế cũng có nhiều biến động, nhiều loại nguyên nhiên vật liệu tăng giá mạnh, đặc biệt là xăng dầu. Đây là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp bất lợi đến hoạt động của doanh nghiệp. Thứ ba, mối quan hệ tam giác Ngân hàng thương mại nhà nước – nhà nước – doanh nghiệp nhà nước tồn tại bao nhiêu năm nay, khiến cho Ngân hàng phải thực hiện việc cho vay theo chỉ định, cho vay theo chính sách mà những khoản vay này thường là chất lượng không tốt, đây cũng chính là nguyên nhân của phần lớn các khoản nợ tồn đọng suốt một thời gian dài chưa được giải quyết. Thứ tư, ở Việt Nam thị trường mua bán nợ chưa phát triển, chưa có các văn bản hướng dẫn xử lý nợ còn chưa cụ thể, chồng chéo, do đó Ngân hàng chưa tự chủ động xử lý được tài sản đảm bảo. Kết Luận Mặc dù trong năm 2009 có nhiều biến động xảy ra nhưng BIDV đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, tăng trưởng dư nợ tín dụng trung dài hạn 14,3% so với năm 2008 trong khi tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ trung dài hạn chỉ còn 1,96%, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ trung dài hạn là 1,19%. Đó là kết quả của những nỗ lực của BIDV trong thời gian qua trong việc áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn như: đưa ra chính sách tín dụng hợp lý, thực hiện đề án tái cơ cấu, áp dụng mô hình tín dụng mới… Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn những tồn tại cần giải quyết, đó là tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ nợ quá hạn vẫn còn ở mức cao, đó là do một số nguyên nhân bao gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan của Ngân hàng. Đây chính là những vấn đề mà BIDV cần tiếp tục giải quyết trong thời gian tới nhằm tối thiểu hoá nợ quá hạn, xử lý triệt để nợ xấu tồn đọng. Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NGĂN NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TRUNG DÀI TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 3.1. Định hướng hoạt động tín dụng trung dài hạn của BIDV Việt Nam trong thời gian tới 3.1.1. Định hướng hoạt động tín dụng trung dài hạn của BIDV VN Để góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành Ngân hàng và thực hiện định hướng của hệ thống BIDV VN, ban lãnh đạo BIDV đã thông qua chương trình hành động cho năm 2010, trong đó mục tiêu tăng trưởng dư nợ tín dụng 18-20% so với năm 2009, tăng trưởng dư nợ tín dụng trung dài hạn sẽ là 16% (so với tỷ lệ 11,3% năm 2009). Cho vay trung dài hạn sẽ thay đổi theo hướng mở rộng thêm các địa bàn mới, khách hàng mới, tăng tỷ trọng cho vay đối thành phần kinh tế ngoài quốc doanh lên 59% trong tổng dư nợ trung dài hạn. Cơ cấu đầu tư sẽ thay đổi theo hướng tiếp tục đầu tư vào các ngành công nghiêp chủ lực như dầu khí, điện lực, bưu chính viễn thông, giữ vững đầu tư với thuỷ sản, gạo...; thận trọng đầu tư đối với cà phê, chè, cao su và hạn chế đầu tư vào các lĩnh vực xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê, sản xuất ximăng... Về chất lượng tín dụng, BIDV phấn đấu tỷ lệ nợ xấu trung dài hạn (nhóm 3-5) dưới 3% và tỷ lệ nợ xấu trung dài hạn tồn đọng xuống dưới 15% dư nợ xấu (so với 31,4% năm 2009). Để đạt được chỉ tiêu này, trong năm 2007, nợ quá hạn trung dài hạn phát sinh không được vượt quá 154 tỷ đồng và phải xử lý được ít nhất 900 triệu đồng nợ tồn đọng. Đây không phải là nhiệm vụ dễ dàng, đòi hỏi BIDV phải tập trung nhiều công sức và chi phí để hoàn thành. 3.2. Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn Rủi ro tín dụng luôn là loại rủi ro có tác động mạnh nhất và nguy hiểm nhất đến hoạt động kinh doanh của NHTM cũng như sự ổn định của nền kinh tế. Ở Việt Nam, trong bối cảnh tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt theo tiến trình thực hiện hiệp định thương mại Việt – Mỹ, những tồn tại trong chất lượng tín dụng tại BIDV đã phân tích ở chương 2 như: nợ quá hạn, nợ xấu lớn, nguồn vốn hoạt động mất cân đối... cần được giải quyết, điều chỉnh một cách hợp lý, kịp thời. Có rất nhiều giải pháp để ngăn ngừa, khắc phục và xử lý rủi ro, song trong phạm vi bài khoá luận này, em xin chỉ nêu các biện pháp thật sự cần thiết với BIDV. 3.2.1. Xử lý nợ tồn đọng Sau rất nhiều nỗ lực nhằm xử lý nợ tồn đọng, tính đến hết năm 2009, số nợ xấu trung dài hạn ở BIDV hiện là 9657 triệu đồng. Số nợ xấu hiện vẫn đang ở mức cao này không những làm xấu đi bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng mà còn gây ra những khó khăn trong hoạt động của Ngân hàng khi BIDV phải gồng mình lên để đạt được một mức doanh thu lớn vừa để trang trải cho các chi phí phát sinh, vừa tự bù đắp cho các khoản cho vay không sinh lời mà vẫn phải trả lãi tiền gửi. Việc này sẽ đặc biệt khó khăn cho BIDV khi phải cạnh tranh với các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, mà hoạt động kinh doanh của họ phải bù đắp cho những khoản cho vay không sinh lời. Trước hết BIDV cần phải có tiềm lực về vốn mạnh, BIDV đã trình NHNN phê duyệt kế hoạch cổ phần hoá, nhằm tăng vốn điều lệ, đồng thời cơ cấu lại Ngân hàng từ đó giảm tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ. Sau đó có thể xử lý các khoản nợ tồn đọng này theo các hướng sau: Xin trợ cấp từ NHNN: Đối với số nợ của ngân sách nhà nước và nợ không có tài sản đảm bảo, không còn đối tượng thu nợ đã được khoanh, BIDV cần làm việc với bộ tài chính và NHNN để tìm cách giải quyết sớm. Để giải quyết số nợ này, cách tốt nhất là bộ tài chính, NHNN cấp nguồn cho BIDV để xoá nợ, nếu không chính phủ có thể cho phép BIDV tiếp tục hạch toán nợ vào chi phí hoạt động. Song để thực hiện cách thứ hai, đòi hỏi BIDV phải tiếp tục nỗ lực cao để hoạt động kinh doanh có lãi lớn để có thể hạch toán vào chi phí mà vẫn duy trì được lợi nhuận. Thu nợ trực tiếp từ khách hàng: Thu nợ trực tiếp từ khách hàng là biện pháp cơ bản để giải quyết tận gốc các khoản nợ tồn đọng, tuy nhiên biện pháp này chỉ có hiệu quả đối với các doanh nghiệp còn hoạt động và còn khả năng trả nợ. Cách nhanh chóng nhất để thu hồi nợ vay là BIDV miễn giảm một phần nợ lãi cho khách hàng và động viên doanh nghiệp bán một phần tài sản không thật cần thiết để trả nợ.. Thu hồi nợ từ việc xử lý tài sản Hiện nay, thị trường bất động sản đang biến động theo hướng có lợi cho Ngân hàng, thêm vào đó, sự ra đời của thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN –BTP-BCA-BTC-TCĐC cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng bán tài sản đảm bảo để thu hồi nợ vay, bởi vậy Ngân hàng nên tranh thủ bán những tài sản đảm bảo mặc dù giá bán chưa thể bù đắp khoản cho vay để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh trường hợp tài sản bị xuống cấp, hư hỏng, lấn chiếm... Nhờ đến sự can thiệp của pháp luật để thu hồi nợ Nhờ đến sự can thiệp của toà án là phương thức không Ngân hàng nào muốn thực hiện, song là một cơ quan kinh doanh, BIDV cần thiết kiên quyết khởi kiện ra toà án đối với các con nợ không thiện chí hợp tác với Ngân hàng để có thể nhanh chóng thu hồi nợ. Tăng cường tích luỹ dự phòng rủi ro Trong điều kiện bán tài sản đảm bảo và thu nợ của khách hàng còn nhiều khó khăn như hiện nay thì quỹ dự phòng rủi ro là nguồn quan trọng để xử lý nợ tồn đọng. Với các khoản nợ đã xử lý bằng quỹ dự phòng, Ngân hàng cần có kế hoạch theo dõi, tiếp tục thu hồi nợ nếu có thể để làm tăng nguồn thu cho Ngân hàng. 3.2.2. Tăng cường vốn tự có Trong hoạt động Ngân hàng, vốn tự có được coi là “tấm đệm” để phòng chống rủi ro. Hơn nữa hiện nay, ở BIDV quỹ dự phòng rủi ro được thiết lập trên cơ sở kết quả tài kinh doanh của năm tài chính cho phép, do vậy BIDV hoạt động càng hiệu quả thì nguồn tài chính trích dự phòng ngày càng nhiều. Muốn vậy, BIDV cần phải bỏ vốn nhiều hơn nữa vào các hoạt động có mức sinh lời cao như tín dụng, góp vốn liên doanh, mua cổ phần, kinh doanh ngoại tệ, đầu tư ra nước ngoài, tận thu các khoản cho vay chưa thu được. Để làm được điều này thì trước tiên BIDV cần phải có nguồn lực tài chính mạnh, thể hiện trước tiên là ở nguồn vốn tự có. BIDV cũng là Ngân hàng đầu tiền đạt tỷ lệ an toàn vốn là 8,5%, đạt tiêu chuẩn theo quy định 457/2005/QĐ-NHNN. Tuy nhiên với tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu vẫn còn ở mức cao như hiện nay, đặc biệt nếu được đánh giá theo tiêu chuẩn quốc tế thì những tỷ lệ này còn cao hơn con số hiện nay, trong khi thời gian tới các NHTM VN nói chung và BIDV nói riêng sẽ vấp phải sự cạnh tranh từ những Ngân hàng nước ngoài với tiềm lực vốn vô cùng lớn, do đó BIDV vẫn phải tiếp tục tăng vốn tự có để nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời nâng cao khả năng chống chịu với rủi ro. Về nguyên tắc, vốn tự có phải được bổ sung dần dần từ lợi nhuận song nếu theo cách đó thì sẽ phải mất rất nhiều thời gian thì BIDV mới có thể tăng được lượng vốn đáng kể. Theo kế hoạch gần đây nhất của NHNN và BIDV thì sẽ tiến hành cổ phần hoá BIDV, đây có thể coi là một phương pháp tối ưu nhằm tăng cường vốn tự có của BIDV trong thời gian tới. 3.2.3. Đa dạng hoá danh mục đầu tư tín dụng Như đã phân tích ở chương 2, hoạt động tín dụng trung dài hạn ở BIDV còn tập trung và thiếu định hướng. Để khắc phục tình trạng, BIDV cần xây dựng một danh mục tín dụng cụ thể trong đó có phân bổ chỉ tiêu tín dụng cho từng lĩnh vực để chỉ đạo cho các cán bộ tín dụng. Chẳng hạn như BIDV tính toán thấy dư nợ cho vay đối với ngành xây dựng cơ sở hạ tầng ở BIDV hiện đang quá chỉ tiêu dự định, Ngân hàng sẽ chỉ thị cho cán bộ tín dụng ngừng cho vay đối với ngành này, trừ trường hợp dự án xin vay đặc biệt tốt, làm như vậy sẽ tránh được tình trạng cho vay còn thiếu định hướng như hiện nay. Danh mục tín dụng trung dài hạn tại BIDV nên mở rộng thêm các lĩnh vực công nghiệp nhẹ như dệt may, da giày, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu mà Việt Nam hiện đang có triển vọng trên thị trường quốc tế; Các lĩnh vực công nghiệp nặng như cho vay với các doanh nghiệp ở khu công nghệ cao, khu chế xuất... Để thực hiện đa dạng hoá, Ngân hàng cần có chính sách khách hàng linh hoạt, mềm dẻo, phục vụ khách hàng tốt ở tất cả loại dịch vụ, đồng thời không ngừng nâng cao uy tín của Ngân hàng trong khu vực cũng như trên thế giới để các khách hàng đều cảm thấy uy tín của họ cũng tăng lên khi có giao dịch với BIDV. 3.2.4. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tham gia vào quá trình cho vay ngay từ khâu đầu tiên cho đến khâu cuối cùng, do đó cán bộ tín dụng đóng một vai trò vô cùng quan trọng đến chất lượng các khoản cho vay. Một cán bộ tín dụng tốt đòi hỏi phải có các phẩm chất sau: có kiến thức chuyên môn về kinh tế, Ngân hàng, có khả năng phân tích tài chính tốt, tư cách đạo đức tốt và giỏi giao tiếp. Ngoài ra, cán bộ tín dụng còn phải am hiểu các kiến thức về thị trường, pháp luật, có trực giác nhạy bén, và đặc biệt, cán bộ tín dụng chuyên cho vay các dự án trung dài hạn phải có những hiểu biết nhất định về lĩnh vực kỹ thuật mà Ngân hàng đầu tư. Vì vậy, BIDV VN cần chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực, ngay từ khâu tuyển dụng đến khâu bố trí, đề bạt cán bộ. Việc tuyển dụng cán bộ tín dụng nên có những tiêu chuẩn riêng khác với việc tuyển dụng cán bộ nghiệp vụ khác trong đó cần coi trọng các yêu cầu về trình độ chuyên môn, hiểu biết kiến thức về thị trường, pháp luật và các kiến thức khác, có đạo đức nghề nghiệp tốt… Sau đó trong quá trình làm việc cần phải thường xuyên tổ chức đào tạo nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức cho cán bộ tín dụng, đưa cán bộ tín dụng ra nước ngoài để học tập, nâng cao trình độ. Cán bộ tín dụng có triển vọng cần được cử đi học thêm về quản lý để giúp hoạt động tín dụng tại BIDV hiệu quả và an toàn hơn trong tương lai. 3.2.5. Thẩm định tốt trước khi cho vay Nâng cao chất lượng thông tin phục vụ cho công tác thẩm định Thẩm định dự án trước khi cho vay là giải pháp tốt nhất có thể loại trừ tận gốc rủi ro. Khó khăn lớn nhất trong quá trình thẩm định ở BIDV là thiếu thông tin. Trong thời gian tới, BIDV nên thu thập và lưu trữ thông tin thành kho dữ liệu trong đó tập hợp thông tin thành các lĩnh vực kinh tế khác nhau. Nếu phòng thông tin có thể cung cấp được các thông tin một cách chi tiết và cập nhật thì các rủi ro trong cho vay sẽ được hạn chế rất nhiều. Thẩm định khách hàng vay vốn Do cho vay trung dài hạn có những đặc điểm rất khác với cho vay ngắn hạn nên việc thẩm định khách hàng cũng cần tập trung vào các yếu tố đặc trưng riêng. Yếu tố cần quan tâm đặc biệt ở đây là “chiều sâu” của doanh nghiệp. “Chiều sâu” của thực trạng tài chính không phải là các khả năng thanh toán hay hệ số vòng quay mà là các hệ số tự tài trợ, khả năng tự trả nợ đến hạn, tỷ số tài trợ tài sản cố định, khả năng sinh lời ROA, ROE, ROS... Trong một khoảng thời gian nhất định, “chiều sâu” của bộ máy quản lý là năng lực và tình trạng sức khoẻ của người điều hành, là triển vọng của lớp cán bộ kế cận... Do vậy, từng nội dung sau phải đề cập khi thẩm định: Năng lực tạo lợi nhuận từ phía người vay. Bao gồm các yếu tố phải thẩm định: Năng lực pháp lý: trong tín dụng trung dài hạn, khách hàng chủ yếu là các tổ chức kinh tế, do đó khi thẩm định khách hàng trước tiên Ngân hàng cần xem xét khách hàng là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, tức là phải có quyết định thành lập của cấp có thẩm quyền, có giấy phép kinh doanh, có tài sản riêng và được tham gia các giao dịch kinh tế ... Năng lực quản trị gồm: kiến thức, kinh nghiệm, tiến triển trong tương lai, lợi nhuận và sự lập lại của lợi nhuận, sự gia tăng vốn tự có. Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng hàng hoá tiêu thụ, giá bán, giá thành và chi phí là những yếu tố căn bản quyết định lợi nhuận tạo ra của doanh nghiệp. Nó bao gồm: chất lượng hàng hoá, địa điểm doanh nghiệp, chất lượng cạnh tranh, khả năng khai thác, giá thành nguyên liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm. (2) Năng lực tài chính của khách hàng, bao gồm các yếu tố phải thẩm định mang tính tuyệt đối về nguồn vốn kinh doanh, nợ phải trả, phải thu, tài sản lưu động... Cần thiết phải xem xét đến các chỉ tiêu tương đối như: Hệ số tài trợ, khả năng thanh toán hiện thời, khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán lãi vay tức là chỉ số đo lường mức doanh lợi phát sinh do sử dụng vốn nhằm khả năng trả lại cho chủ nợ... Thẩm định tính hiệu quả và tính khả thi của dự án Trong cho vay trung dài hạn, nguồn trả nợ chủ yếu sẽ là từ lợi nhuận thu được từ dự án, do vậy, việc thẩm định hiệu quả và tính khả thi của các dự án phải được quan tâm hàng đầu. Do đó, Ngân hàng cần phải thẩm định kỹ dự án kinh doanh của khách hàng. Nội dung thẩm định bao gồm: Thẩm định tư cách pháp lý: để vay được vốn của Ngân hàng, trước hết hồ sơ dự án phải phù hợp với đường lối, chính sách của nhà nước, phải có đủ giấy phép đầu tư, xây dựng của các cấp có thẩm quyền. Thẩm định về phương diện thị trường: Thị trường là nơi mà các doanh nghiệp sẽ cung ứng sản phẩm của mình, việc khách hàng của Ngân hàng có tiêu thụ được không là do sản phẩm của khách hàng có phù hợp với thị trường không, khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh cũng trên cơ sở nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm đó có lâu dài và có lớn không. Do đó, Ngân hàng cần nghiên cứu thị trường trong dự án đầu tư: nắm bắt nhu cầu hiện tại, dự báo tương lai, phân tích khả năng cạnh tranh của sản phẩm... Ngoài ra, Ngân hàng cũng cần quan tâm đến thị trường nguyên vật liệu đầu vào để đảm bảo tính ổn định của sản xuất. Thẩm định phương diện kỹ thuật – công nghệ: kỹ thuật – công nghệ hợp lý có tác dụng rất to lớn trong việc tiết kiệm nguồn lực, nâng cao năng xuất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm... Do đó đây là một tiền đề quan trọng đảm bảo hiệu quả kinh tế của dự án. Nội dung thẩm định cần tập trung vào địa điểm xây dựng dự án, quy mô công suất, thiết bị, các yếu tố đầu vào, lịch trình thức hiện dự án... Kỹ thuật – công nghệ của dự án là một vấn đề phức tạp, nhất là đối với các dự án lớn, vì vậy trong quá trình thẩm định, Ngân hàng nên tìm sự hỗ trợ từ các chuyên gia có chuyên môn về vấn đề này. Thẩm định về phương diện tài chính của phương án: Tài chính là nội dung quan trọng của dự án vì xét cho cùng, nó thể hiện được hiệu quả của việc sử dụng vốn trong đầu tư dự án, là nguồn trả nợ cho Ngân hàng. Do đó, nội dung tài chính của dự án phải được Ngân hàng đặc biệt quan tâm. Nội dung thẩm định tập trung vào các vấn đề sau: Phân tích khả năng đáp ứng về vốn cho dự án; Thẩm định hiệu quả tài chính của dự án với các chỉ tiêu: điểm hoà vốn, giá trị hiện tại của thu nhập ròng (NPV), tỷ suất sinh lời nội bộ (IRR), chỉ tiêu độ nhạy... Trong phân tích dự án, cán bộ tín dụng cần kiểm tra tính chính xác, hợp lý của các số liệu được khách hàng đưa vào bảng dự trù doanh thu lời lãi của dự án. Khi phân tích các hệ số tài chính, ngoài các chỉ tiêu NPV, IRR, Ngân hàng nên chú trọng đến việc phân tích độ nhạy của các chỉ tiêu hiệu quả. Chỉ tiêu này không chỉ giúp cho nhà thẩm định xác định được giới hạn biến động tối đa của các biến số sao cho dự án không bị lỗ mà còn giúp họ xác định trong từng dự án, nhân tố nào ảnh hưởng quan trọng nhất đến các chỉ tiêu hiệu quả để kiểm soát chặt chẽ sự biến động của nhân tố trong đó quá trình cho vay. Việc thẩm định phương diện tài chính của dự án một cách kỹ lưỡng sẽ là cơ sở để xác định mức cho vay, thời hạn thu nợ, mức thu nợ từng kỳ... hợp lý, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động thuận lợi. Ngoài ra, khi thẩm định phương án kinh doanh của khách hàng Ngân hàng cũng cần quan tâm đến các vấn đề về lợi ích kinh tế-xã hội của dự án, nguồn nhân lực của dự án, ảnh hưởng của dự án đến môi trường sinh thái, đây là điều kiện để dự án tiến hành thuận lợi và suôn sẻ. Thẩm định tài sản đảm bảo: khi thẩm định tài sản bảo đảm cần thẩm định giá trị thị trường của tài sản bảo đảm; Thẩm định tính lỏng của tài sản đảm bảo tức là phải thẩm định khả năng bán tài sản đảm bảo trên thị trường có nhanh chóng, dễ dàng không, chi phí có cao không; Thẩm định các phương án cất giữ và bảo quản tài sản. Trên cơ sở đó đưa ra mức cho vay tối đa là bao nhiêu % giá trị của tài sản bảo đảm. 3.2.6. Kiểm tra, giám sát tín dụng chặt chẽ hơn Cũng do đặc điểm của cho vay trung dài hạn là thời hạn dài, vốn lớn nên cán bộ tín dụng cần phải thường xuyên giám sát kiểm tra hoạt động kinh doanh của khách hàng để đảm bảo vốn được sử dụng đúng mục đích, an toàn và hiệu quả. Đồng thời trong quá trình kiểm tra giám sát theo sát hoạt động kinh doanh của khách hàng, với trình độ về tài chính và các lĩnh vực khác của mình cán bộ tín dụng có thể kịp thời phát hiện những điểm bất ổn, từ đó có những lời khuyên kịp thời cho khách hàng khắc phục những khó khăn tạm thời, vừa đảm bảo khả năng thu hồi vốn, giảm rủi ro, vừa giữ khách hàng. Việc kiểm tra, giám sát cần được thực hiện phù hợp với các giai đoạn của dự án: Giai đoạn đầu tư Giai đoạn này gồm các bước: đàm phán và ký kết hợp đồng, thực hiện xây dựng công trình, lắp đặt máy móc thiết bị và vận hành chạy thử. Ở giai đoạn này cán bộ tín dụng cần tăng cường kiểm tra tiến độ thực hiện dự án, quá trình nhận vốn, sử dụng vốn của khách hàng, đảm bảo dự án được xây dựng tốt để đi vào hoạt động. Giai đoạn đưa công trình vào hoạt động Ở giai đoạn này cần kiểm tra tiến độ thực hiện sản xuất có đúng kế hoạch và phù hợp với thời vụ của thị trường không, việc nhập nguyên liệu có đúng số lượng, chất lượng không, việc sử dụng nguyên liệu có lãng phí hay không đủ định mức cần thiết không, máy móc đã sử dụng hết công suất chưa... Ngoài ra, theo định kỳ cần phân tích các báo cáo tài chính, báo cáo lưu chuyển tiền tệ hàng tháng, quý xem có dấu hiệu bất ổn trong tình hình tài chính của người vay hay không. Đối với các nền kinh tế phát triển các doanh nghiệp có thể được đánh giá hằng ngày thông qua sự tăng giảm giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Nhưng ở Việt Nam, khi mà thị trường chứng khoán mới bắt đầu khởi sắc, số doanh nghiệp có cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán còn ít, thì dấu hiệu nhận biết khoản vay có thể gặp vấn đề chủ yếu là sự gia nợ ngắn hạn, nợ dài hạn đến hạn trả, giảm sút nguồn tiền mặt... Thông qua việc theo dõi vốn vay, cán bộ tín dụng cần lưu ý khách hàng biết kỳ hạn trả nợ và đôn đốc họ thu xếp ngân quỹ để trả nợ Ngân hàng đúng thời gian thoả thuận. Nếu khách hàng thực sự gặp những khó khăn do những nguyên nhân bất khả kháng nên không thể trả nợ đúng hạn thì cán bộ tín dụng sẽ xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho khách hàng trên cơ sở đơn xin điều chỉnh kỳ hạn nợ của khách hàng. Còn trong trường hợp những khó khăn mà khách hàng gặp phải do nguyên nhân là sự yếu kém của chính họ thì cán bộ cần cùng nghiên cứu và đưa ra những gợi ý, những giải pháp tháo gỡ khăn cho khách hàng, còn nếu khoản vay đã được xác định là “có vấn đề” dù đang còn trong hạn, cán bộ tín dụng cần chuyển khoản vay sang bộ phận xử lý rủi ro cao để có phương án điều chỉnh khoản vay sang bộ phận xử lý rủi ro cao để có phương án điều chỉnh khoản vay về trạng thái bình thường trước khi hết hạn. Việc kiểm tra, giám sát như vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng không chỉ có kỹ năng phân tích tài chính thông thường mà còn phải có những am hiểu nhất định về lĩnh vực cho vay và đặc biệt, phải có “trực giác nhạy bén” có thể phát hiện ngay những bất thường trong hoạt động của doanh nghiệp và lý giải đúng những hiện tượng đó. Muốn vậy, BIDV phải chú trọng bồi dưỡng kiến thức thực tế cho cán bộ bằng cách tiếp tục đào tạo cán bộ sau khi tuyển dụng, thường xuyên bồi dưỡng các kiến thức về nghiệp vụ, pháp luật, thị trường, các chủ trương chính sách của Ngân hàng cũng như của lĩnh vực có mức dư nợ cho vay lớn, thường xuyên tổ chức các buổi giới thiệu kinh nghiệm của những cán bộ điển hình trong ngành, và nếu như điều kiện cho phép, BIDV nên có kế hoạch đưa cán bộ đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm ở một số nước tiên tiến... Bên cạnh đó, BIDV cũng nên lựa chọn các cán bộ có năng lực, có sở trường vào làm việc ở bộ phận xử lí rủi ro cao để tập trung thời gian cũng như năng lực của họ vào việc điều chỉnh các khoản vay tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, bởi trong hoạt động tín dụng trung dài hạn, ngay cả các khoản vay còn trong hạn cũng có nguy cơ rủi ro tiềm ẩn rất lớn. 3.2.7. Thiết lập hệ thống kiểm soát và quản lý rủi ro trên toàn hệ thống Những Ngân hàng có quy mô và phạm vi hoạt động càng lớn thì số lượng cũng như mức độ của rủi ro càng đa dạng. Để đảm bảo an toàn, các Ngân hàng này cần xây dựng một chiến lược quản lý rủi ro toàn hệ thống. BIDV cần nâng cao kỹ năng quản lý rủi ro bằng cách xây dựng các Module quản lý rủi ro. Công việc này được tiến hành trên cơ sở phân loại rủi ro theo thứ tự ưu tiền sau: rủi ro tín dụng; rủi ro hối đoái; rủi ro thanh khoản và các hoạt động ngoại bảng; các loại rủi ro khác. Trong từng Module quản lý rủi ro kể trên lại thiết kế các Module quản lý rủi ro chính sách, thị trường, cạnh tranh... Sau khi rủi ro hệ thống đã được phân loại, với từng rủi ro cụ thể, cần có những chiến lược quản lý và kiểm soát riêng. Thông thường công tác quản lý rủi ro bao gồm 4 bước: Bước 1: Xác định rủi ro Ngân hàng cần nhận biết được trong hoạt động kinh doanh hàng ngày tiềm ẩn những rủi ro gì, liệu có thể kiểm soát được những rủi ro đó không. Bước 2: Định lượng rủi ro Ngân hàng cần tính toán mức rủi ro bằng những con số cụ thể. Để định lượng rủi ro, Ngân hàng có thể sử dụng các mô hình toán học như: mô hình sản xuất tuyến tính, mô hình phân biệt tuyến tính, mô hình Logit, Probit, mô hình VAR (Value-at-risk), mô hình SAR (Shortfall-at-risk)... Bước 3: Điều tiết rủi ro Sau khi đã nhận biết và định lượng rủi ro, Ngân hàng sẽ phân tích hiện trạng và đưa ra các biện pháp chủ động để điều tiết, hạn chế rủi ro. Tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại của rủi ro và khả năng rủi ro phát sinh mà cần áp dụng biện pháp xử lý ngay, biện pháp phòng ngừa... Các biện pháp này phải tính toán sao cho hiệu quả thu được xứng đáng với các chi phí bỏ ra. Bước 4: Giám sát rủi ro Ngân hàng cần kiểm tra một cách thường xuyên để phát hiện sớm rủi ro, luôn theo dõi và nắm bắt được rủi ro. Công việc giám sát sẽ cho thấy các hoạt động điều tiết rủi ro có hiệu quả không, đồng thời có thể phát hiện ra các loại rủi ro mới hoặc những rủi ro chưa được kiểm soát trước đó. Việc quản lý rủi ro nên được kết hợp chặt chẽ với các hoạt động khác của Ngân hàng như các bộ phận tác nghiệp, hệ thống kiểm soát nội bộ… Thiết lập một hệ thống kiểm soát và quản lý rủi ro có hiệu quả sẽ là giải pháp tổng thể để nâng cao năng lực điều hành, giảm thiểu rủi ro cho Ngân hàng. 3.2.8. Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng Việc hiện đại hoá công nghệ là hết sức cần thiết trong hoạt động tín dụng bởi nó giúp cho việc thu thập thông tin để thẩm định và giám sát khách hàng được tốt hơn. Hơn nữa, quá trình sắp xếp lại mô hình tổ chức, tăng cường các kỹ năng quản lý rủi ro... Muốn thành công cần có sự trợ giúp rất lớn của công nghệ. Trong thời gian tới, BIDV nên triển khai hệ thống Ngân hàng bán lẻ ở tất cả các chi nhánh. Nhờ đó, các thông số về hoạt động của các doanh nghiệp có liên quan đến BIDV VN có thể được phản ánh tức thời tại bất kỳ đơn vị nào. Nhờ đó, cán bộ tín dụng có thể theo dõi tình hình hoạt động của khách hàng tốt hơn. Để phục vụ cho việc thẩm định các dự án, BIDV nên trang bị thêm nhiều phần mềm hiện đại để việc tính toán các chỉ tiêu kinh tế nhanh chóng và chính xác hơn, ví dụ như phần mềm Crystal ball, rất có hiệu quả ứng dụng trong phân tích mô phỏng, với phần mềm này, cán bộ tín dụng có thể xác định được sự thay đổi của chỉ tiêu hiệu quả (NPV, IRR, NFV) khi có sự thay đổi đồng thời của các chỉ tiêu nhân tố chứ không phải chỉ có sự thay đổi của một nhân tố như trong phương pháp phân tích độ nhạy thông thường. Công nghệ nhằm phục vụ cho công tác thu nhập, xử lý và lưu trữ thông tin tín dụng cũng cần được hiện đại hóa hơn nữa, để làm tăng số lượng cũng như độ chính xác, cập nhật của thông tin phục vụ cho hoạt động tín dụng. 3.2.9. Nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kiểm tra kiểm toán nội bộ Tín dụng là lĩnh vực hoạt động chứa đựng mức độ rủi ro cao nhất. Tín dụng trung dài hạn lại càng chứa đựng nhiều rủi ro hơn. Để kịp thời phát hiện và ngăn ngừa những tổn thất có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng trung dài hạn, BIDV cần phải thiết lập được một hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ một cách đầy đủ và hiệu quả. Công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ có thể giúp Ngân hàng phát hiện ra các dấu hiệu rủi ro phát sinh trong từng nghiệp vụ riêng lẻ để có biện pháp xứ lý, khắc phục kịp thời, đồng thời nó cũng có khả năng dự báo được các rủi ro trong tương lai, giúp ban lãnh đạo quản lý tốt các rủi ro trong toàn hệ thống. Song để kiểm tra, kiểm toán nội bộ có thể phát huy được hiệu quả của nó, việc kiểm toán cần định hướng vào rủi ro, cụ thể là: Xây dựng kế hoach kiểm toán và thực hiện kiểm toán cần định hướng theo rủi ro Những hoạt động trọng yếu có nhiều rủi ro như hoạt động tín dụng phải được giám sát liên tục. Chu kỳ kiểm toán cũng không đều đặn để các đơn vị kiểm toán không thể đối phó được với kế hoạch kiểm toán. Ngoài ra, khi sai phạm đã trở nên rõ ràng hoặc khi cần những thông tin nhất định, cần đảm bảo có thể tiến hành kiểm toán đặc biệt (ngoài kế hoạch) bất cứ lúc nào. BIDV nên nhanh chóng vận dụng phương thức kiểm toán hệ thống hay kiểm toán tổng thể vào thực tiễn. Đây là phương thức kiểm toán mới, rất khoa học. Kiểm toán hệ thống là hình thức kiểm soát trước các quy trình thực hiện nên có thể dự báo những rủi ro trong tương lai. Nhờ phương thức kiểm toán này, người lãnh đạo Ngân hàng sẽ biết được hiện nay Ngân hàng đang phải đối mặt với những rủi ro nào, các biện pháp hạn chế rủi ro đã được áp dụng như thế nào, có hữu hiệu không... Kiểm toán nội bộ cũng sẽ quyết định có thực hiện biện pháp khắc phục khác hay không sau khi tính đến mặt hiệu quả của phương pháp khắc phục. Kiểm toán hệ thống là hình thức kiểm tra trước, xem xét cả quy trình cũng như tính hiệu lực của quy trình nên có thể đưa ra riêng lẻ không thể thực hiện được. Việc áp dụng phương thức này không những nâng cao hiệu quả của kiểm toán mà còn giúp Ngân hàng tiết kiệm chi phí và thời gian hơn so với kiểm toán riêng lẻ. Thông tin là yếu tố hết sức cần thiết để tạo một cơ chế kiểm soát nội bộ có hiệu quả, do đó phải có tổ chức hệ thống thông tin thống nhất cập nhật, chính xác. Hệ thống thông tin phải đảm bảo an toàn, có các kênh thông tin liên lạc tốt, bao gồm việc truyền lên cấp trên, cấp dưới và theo chiều ngang giữa các đơn vị. Không ngừng nâng cao chất lượng kiểm toán viên: chất lượng kiểm toán phụ thuộc chủ yếu vào trình độ của kiểm toán viên, bởi vậy, kiểm toán viên nội bộ phải được đào tạo tốt, đảm bảo có năng lực chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm và ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình. 3.2.10. Phân tán rủi ro thông qua thị trường bán nợ và các công cụ dẫn xuất tín dụng Bên cạnh các công cụ truyền thống để hạn chế rủi ro như đã đề cập ở trên, BIDV cũng có thể xem xét việc sử dụng bán nợ và các công cụ dẫn xuất tín dụng như hoán đổi tín dụng, quyền chọn tín dụng, các chứng chỉ liên quan đến tín dụng... để phân tán rủi ro trong tương lai. Các công cụ này có thể giúp BIDV tránh được danh mục đầu tư quá tập trung, có thể gây nên rủi ro danh mục, hoặc giúp Ngân hàng tránh được rủi ro của từng khoản cho vay cụ thể khi Ngân hàng nghi ngờ chất lượng của khoản cho vay này. Hiện nay ở Việt Nam, thị trường giao dịch các hợp đồng tài chính còn chưa phát triển nên việc tham gia các giao dịch dẫn xuất tín dụng hầu như chưa có. Hệ thống tài chính của nước ta chưa có uy tín trên thế giới, cộng với việc các cơ chế, quy chế về vấn đề bán nợ cũng thiếu cụ thể, rõ ràng nên việc bán nợ là rất khó khăn. Việc bán hay thực hiện các hợp đồng tài chính để phòng ngừa rủi ro tín dụng là rất cần thiết đối với các khoản đầu tư trung dài hạn. Hi vọng trong tương lai, các khó khăn trên sẽ được tháo gỡ để BIDV có thể sử dụng công thức này như một phương thức hiệu quả để phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Kết Luận Trên đây chưa phải là tất cả các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng song theo em, các giải pháp về cơ bản là phù hợp với tình hình thực tế của BIDV hiện nay. Em tin chắc rằng việc thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp trên sẽ góp phần lành mạnh hoá tình hình tài chính của BIDV VN, hạn chế nợ quá hạn mới phát sinh, xử lý nợ xấu tồn đọng một cách triệt để, đảm bảo an toàn lâu dài cho hoạt động của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc trong tương lai. KẾT LUẬN Hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng không phải là vấn đề mới, tuy nhiên đây là vấn đề luôn được Nhà Nước và các Ngân hàng quan tâm hàng đầu. Ở Việt Nam hiện nay, BIDV VN đang là một trong những Ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh nhất, đi đầu trong công tác hạn chế và xử lý nợ quá hạn, song nâng cao năng lực để đối mặt với những thử thách do môi trường kinh doanh mang lại trong thời gian tới như đối mặt với sự cạnh tranh trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam, đối mặt với sự cạnh tranh của các Ngân hàng nước ngoài… ; Để trở thành Ngân hàng tầm cỡ khu vực và thế giới, đòi hỏi BIDV cần phải có những giải pháp để đảm bảo sự an toàn trong hoạt động tín dụng của mình, đặc biệt trong hoạt động tín dụng trung dài hạn. Với mong muốn góp một phần nhỏ vào sự phát triển của BIDV và hệ thống Ngân hàng Việt Nam, em đã chọn nghiên cứu đề tài: "Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam - chi nhánh Lò Đúc “ Bài khoá luận đã đề cập đến những nội dung cơ bản sau: - Hệ thống hoá các vấn đề cơ bản về tín dụng trung dài hạn, rủi ro tín dụng trung dài hạn và các biện pháp để hạn chế rủi ro. - Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng trung dài hạn tại BIDV VN, những thành tựu mà BIDV đã đạt được và những vấn đề tồn tại cần tiếp tục giải quyết. - Đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn tại BIDV VN. Do đây là một đề tài khá phức tạp trong khi đó trình độ bản thân cũng như thời gian nghiên cứu còn hạn chế, nên mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng đề tài chắc chắn không tránh khỏi sai sót. Em mong được các thầy cô giáo, các anh chị và các bạn đóng góp ý kiến để đề tài hoàn thiện thêm. Nhân đây, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Học viện Ngân hàng, ban lãnh đạo và các anh chị cán bộ BIDV VN đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành khoá luận này. Cuối cùng, em tin tưởng rằng hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói chung và BIDV VN nói riêng sẽ thực hiện tốt việc hạn chế rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn cho hoạt động Ngân hàng BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT CNH – HĐH Công nghiệp hoá hiện đại hoá DNNN Doanh nghiệp nhà nước DNTN Doanh nghiệp tư nhân HTX Hợp tác xã NHNN Ngân sách nhà nước BIDV Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển NHTM Ngân hàng Thương mại NHTW Ngân hàng Trung ương TCTD Tổ chức tín dụng TDH Trung dài hạn TNHH Trách nhiệm hữu hạn TT Thị trường MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu kết quả nêu trong luận văn là trung thực, xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập. Sinh viên Nguyễn Đăng Việt DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng - TS Tô Ngọc Hưng biên soạn. Tín dụng Ngân hàng _ HVNH (2001) NXB thống kê. Quản trị rủi ro Ngân hàng thương mại - TS Nguyễn Văn Tiến Báo cáo hoạt động kinh doanh của BIDV năm 2006-2009 Báo cáo thường niên các năm 2006-2009 của BIDV VN Báo cáo hội nghị giám đốc năm 2009 của BIDV VN DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 01: Tình hình huy động vốn tại BIDV VN năm 2006-2009 31 Bảng 02: Tổng dư nợ tín dụng của BIDV VN 32 Bảng 03: Cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn năm 2009 của BIDV VN 36 Bảng 04: Tình hình dư nợ tín dụng trung dài hạn tại BIDV năm 2009 39 Bảng 05: Tình hình nợ quá hạn trung dài hạn của BIDV trong những năm qua 38 Bảng 06 : Phân loại nợ quá hạn theo thời gian quá hạn 39 Bảng 07 : Phân loại nợ theo tài sản đảm bảo 40 Bảng 08 : Tình hình nợ xấu của BIDV 42 Bảng 09 : Tình hình trích lập dự phòng rủi ro của 43 BIDV VN qua các năm 43

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25906.doc
Tài liệu liên quan