MỤC LỤC
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng, biểu
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÔLA HÓA 2
1.1. Tổng quan về đôla hóa 2
1.1.1. Khái niệm đôla hóa 2
1.1.2. Phân loại đôla hóa 2
1.2. Nguyên nhân dẫn đến đôla hóa 8
1.3. Tác động của đôla hóa 11
1.3.1. Tác động tích cực 12
1.3.2. Tác động tiêu cực 13
1.4. Các biện pháp hạn chế đôla hóa 16
1.4.1. Biện pháp hành chính 16
1.4.2. Biện pháp kinh tế 17
1.5. Kinh nghiệm hạn chế đôla hóa của một số quốc gia trên thế giới 18
1.5.1. Argentina 18
1.5.2. Cuba 20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM 22
2.1. Khái quát nền kinh tế Việt Nam 22
2.2. Mức độ và các biểu hiện đôla hóa ở Việt Nam 23
2.2.1. Mức độ đôla hóa ở Việt Nam 23
2.2.2. Biểu hiện đôla hóa ở Việt Nam 25
2.3. Nguyên nhân dẫn tới đôla hóa ở Việt Nam 30
2.4. Ảnh hưởng của đôla hóa tới nền kinh tế Việt Nam 39
2.5. Thực trạng hạn chế đôla hóa ở Việt Nam 42
2.5.1. Khái quát hoạt động của Vụ quản lý ngoại hối 43
2.5.2. Chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam 44
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 48
3.1. Định hướng về vấn đề hạn chế tình trạng đôla hóa 48
3.2. Giải pháp 49
3.2.1. Củng cố lòng tin của dân chúng vào VND 49
3.2.2. Đối với các kênh ngoại tệ dẫn vào trong nước 55
3.2.3. Xóa bỏ hoạt động nhận tiền gửi ngoại tệ và tín dụng
ngoại tệ của các NHTM 58
3.2.4. Về dự trữ ngoại hối 60
3.2.5. Về thị trường tiền tệ 61
3.2.6. Về môi trường pháp lý và công tác tuyên truyền giáo dục 62
3.3. Một số kiến nghị 63
KẾT LUẬN` 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. VN : Việt Nam
2. NHTW : Ngân hàng Trung ương
3. NHNN : Ngân hàng Nhà nước
4. NHTM : Ngân hàng thương mại
5. PLNH : Pháp lệnh ngoại hối
6. BTC : Bộ tài chính
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
BẢNG
Bảng 1.1: Danh sách một số nền kinh tế đôla hóa chính thức .5
Bảng 1.2: Cơ cấu tài khoản tiền gửi tại hệ thống NHTM Argentina 18
Bảng 1.3: Đôla hóa tiền gửi tiết kiệm, cho vay, nợ ở Argentina 20
Bảng 2.1: Tỷ trọng sử dụng vốn ngoại tệ so với huy động ngoại tệ
của hệ thống ngân hàng 26
Bảng 2.2: Tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do USD/VND 28
Bảng 2.3: Tỷ lệ lạm phát ở VN từ năm 1986 đến nay 31
Bảng 2.4: Vốn ODA cam kết tài trợ và giải ngân giai đoạn 01-05 36
Bảng 2.5: Tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 99-06 38
BIỂU
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ FCD/M2 ở VN từ 1997-2006 24
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ tiền gửi USD/tổng tiền gửi qua các năm 26
Biểu đồ 2.3: Lượng kiều hối vào VN giai đoạn 91-04 36
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 1999, để đối phó với thời kỳ khó khăn trong nền kinh tế, một giải pháp tình thế đã được Argentina thực hiện đó là từ bỏ nội tệ đồng thời chấp nhận USD là tiền tệ chính thức. Năm 2000, đôla hóa chính thức nền kinh tế là phương sách cuối cùng đối với Ecuador sau mọi nỗ lực cải thiện nền kinh tế khi khủng hoảng tài chính xảy ra. Nhiều nhà kinh tế cho rằng tất cả các nước đang phát triển nên đôla hóa. Tuy nhiên trên thực tế không một quốc gia nào muốn sử dụng đồng tiền thứ hai thay thế hoàn toàn đồng tiền nước mình vì đối với họ việc từ bỏ đồng nội tệ, từ bỏ quyền điều hành chính sách tiền tệ của NHTW chính là sự xóa bỏ hoàn toàn chủ quyền về tiền tệ.
Ngày nay việc chấp nhận ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp chính thức không còn phổ biến. Tuy nhiên, trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự phát triển không ngừng của quan hệ thương mại giữa các quốc gia đã dẫn tới sự xâm nhập mạnh mẽ của các ngoại tệ mạnh vào một số nền kinh tế từ đó dẫn tới hiện tượng đôla hóa không chính thức. Có thể nói, đôla hóa không chính thức là hiện tượng xảy ra phổ biến ở các nước đang phát triển, các nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam hiện nay đôla hóa đang là một vấn đề nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của rất nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu kinh tế, đồng thời cũng là mối lo ngại của các nhà lãnh đạo Đảng – Nhà nước. Do vậy việc đưa ra giải pháp nhằm hạn chế tình trạng đôla hóa hiện ở mức khá cao ở Việt Nam đang là một nhiệm vụ cấp bách được đặt ra với các nhà hoạch định chính sách của Đảng, của Chính phủ, của NHTW. Chính vì những lý do trên, đề tài “Giải pháp hạn chế tình trạng đôla hóa ở Việt Nam hiện nay” đã được lựa chọn. Đề tài được triển khai dựa trên việc nghiên cứu từ những vấn đề tổng quan về đôla hóa như: khái niệm, nguyên nhân, tác động cho tới những vấn đề đôla hóa cụ thể ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị đối với Chính phủ, NHTW, NHTM nhằm hạn chế tình trạng đôla hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Kết cấu của chuyên đề gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về đôla hóa.
Chương 2: Thực trạng đôla hóa ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hạn chế tình trạng đôla hóa ở Việt Nam hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo – TS Đặng Ngọc Đức đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
73 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1995 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp hạn chế tình trạng đô la hóa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hải kể đến nguyên nhân xuất phát từ mệnh giá VND. Đồng tiền VN mệnh giá nhỏ, cao nhất là tờ 500.000 được đưa vào lưu thông từ năm 2003, trong khi đó tờ 100USD tương ứng với gần 1.6 triệu VND. Do vậy sử dụng USD tiện lợi hơn cho người dân trong các giao dịch lớn như mua bán đất đai, nhà cửa, ô tô đặc biệt khi người dân vẫn có tâm lý ưa chuộng sử dụng tiền mặt trong thanh toán, việc mang USD theo người sẽ an toàn và tiện lợi hơn rất nhiều so với VND.
2.3. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐÔLA HÓA TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Thông qua quan sát niêm yết, thông báo giá và bán hàng hóa, dịch vụ thu ngoại tệ hiện nay, quan sát giao dịch mua bán ngoại tệ của dân cư tại nhiều cửa hàng vàng, bạc quy mô lớn, ghi nhận từ các giao dịch kinh tế ngầm và tỷ lệ huy động, cho vay ngoại tệ tại các NHTM…có thể thấy mức độ sử dụng đôla trong xã hội nước ta rất đáng quan tâm và chính thực trạng này đã có tác động không nhỏ tới nền kinh tế.
Thứ nhất, với tâm lý ưa chuộng sử dụng USD người dân sẽ đem đổi nội tệ để lấy ngoại tệ => cầu USD tăng => USD tăng giá và VND giảm giá, tỷ giá có xu hướng tăng một chiều. Theo lý thuyết khi nội tệ giảm giá sẽ kích thích xuất khẩu tăng và nhập khẩu giảm, nhưng trong điều kiện thực tế của VN nhập khẩu giảm không đáng kể do năng lực sản xuất và quản lý của các doanh nghiệp trong nước vẫn còn yếu kém, trong khi chúng ta xuất khẩu những sản phẩm thô hoặc sản phẩm thuộc những ngành hàng cần nhiều sức lao động do đó doanh thu từ xuất khẩu không lớn. Bên cạnh đó, khi USD lên giá làm cho giá hàng hóa nhập khẩu tăng từ đó dẫn tới sự tăng giá chung đối với các hàng hóa trong nước, gây áp lực lạm phát.
Thứ hai, mặc dù pháp luật VN luôn khuyến khích các cá nhân tổ chức có nguồn thu từ ngoại tệ: doanh nghiệp xuất khẩu, những người làm việc trong những doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, trong các tổ chức quốc tế, những người nhận được nguồn kiều hối từ nước ngoài…bán ngoại tệ cho các tổ chức tín dụng được phép, nhưng trên thực tế những đối tượng này không bán lại cho các tổ chức tín dụng, hoặc họ nắm giữ ngoại tệ tiền mặt, hoặc họ gửi tiết kiệm tại các NHTM. Điều này giải thích tại sao nguồn ngoại tệ chảy vào VN dồi dào tuy nhiên cung ngoại tệ cũng không tăng lên đáng kể. Cung ngoại tệ chính là nguồn để tăng dự trữ ngoại hối quốc gia, cung ngoại tệ không tăng đáng kể dẫn tới dự trữ ngoại hối quốc gia không đủ lớn để NHNN có thể điều hành chính sách tỷ giá một cách hiệu quả.
Thứ ba, tình trạng đôla hóa càng phát triển càng tạo điều kiện và kích thích thị trường ngoại tệ ngầm phát triển, khi đó có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế: đã gây khó khăn và làm giảm hiệu lực của việc thực thi và điều hành chính sách tiền tệ do hoạt động của thị trường này nằm ngoài sự quản lý của Nhà nước. Bên cạnh đó hoạt động của thị trường ngoại tệ ngầm còn tiếp tay cho những hoạt động kinh doanh bất hợp pháp như: buôn lậu, tham nhũng, rửa tiền…
Thứ tư, đối với trường hợp đôla hóa nguồn vốn huy động và đôla hóa dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng: Tiền gửi ngoại tệ của công chúng vào hệ thống ngân hàng ngày càng tăng, khi đó để tránh tình trạng tồn đọng vốn và có được nguồn thu để trả lãi cho khách hàng, các NHTM phải tìm cách cho vay bằng ngoại tệ (USD). Cho vay bằng USD với các doanh nghiệp nhập khẩu và họ phải trả gốc và lãi cho ngân hàng bằng ngoại tệ, tuy nhiên họ lại bán hàng trong nước và thu về nội tệ. Trong điều kiện tỷ giá có những biến động bất thường, các doanh nghiệp có thể phải đối mặt với rủi ro tỷ giá từ đó gây rủi ro cho ngân hàng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi vẫn chưa có nhiều các biện pháp phòng ngừa rủi ro để hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Còn đối với các ngân hàng, rủi ro mà họ gặp phải trong trường hợp này là rủi ro tín dụng từ đó có thể dẫn tới rủi ro thanh khoản: khách hàng đến rút tiền mà ngân hàng không có khả năng thanh toán. Một trong những biện pháp có thể giúp các NHTM đối phó với tình huống này là vay tiền từ NHTW có nghĩa là NHTW đóng vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM, tuy nhiên trong điều kiện VN, dự trữ ngoại hối còn mỏng, NHTW khó có thể thực hiện được vai trò này của mình.
Bên cạnh đó đôla hóa nguồn vốn huy động cũng khiến các NHTM trong nước bị động về lãi suất. Lãi suất ngoại tệ trong nước và thị trường quốc tế ở đâu cao hơn, dòng tiền gửi ngoại tệ sẽ chảy đến đó. Nếu nhận thấy lãi suất tiền gửi trên thị trường quốc tế cao hơn, người gửi tiền sẽ rút tiền gửi ngoại tệ của mình ở ngân hàng trong nước để gửi ở ngân hàng nước ngoài. Trong trường hợp này, các ngân hàng trong nước có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Để giữ được người gửi tiền, các ngân hàng trong nước buộc phải tăng lãi suất tiền gửi ngoại tệ lên theo lãi suất quốc tế. Tiếp theo, những khách hàng đang gửi tiền hoặc có ý định gửi tiền nội tệ, khi nhận thấy lãi suất tiền gửi ngoại tệ cao hơn, có lợi hơn thì họ sẽ chuyển khoản tiền gửi của mình sang ngoại tệ. Vì vậy cầu nội tệ trở nên bất ổn do rất nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất quốc tế. Lãi suất trên thị trường thay đổi sẽ gây sức ép lên lãi suất nội tệ, buộc lãi suất nội tệ phải thay đổi theo. Lãi suất huy động nội tệ tăng lên, để đảm bảo lợi nhuận, các ngân hàng cũng phải tăng lãi suất cho vay nội tệ từ đó làm gia tăng chi phí vốn cho các doanh nghiệp. Chi phí vốn của các doanh nghiệp tăng dẫn đến sự tăng lên của giá cả hàng hóa trong nước từ đó gây áp lực lên lạm phát. Cuộc chạy đua lãi suất nội, ngoại tệ ở các NHTM trong nước cùng với chiến dịch tăng lãi suất của FED thời gian qua đã chứng minh điều đó. Trong năm 2005, FED liên tục điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản, mỗi lần 0.25% khiến một loạt các NHTM trong nước tăng lãi suất huy động vốn USD, lãi suất cho vay USD của các ngân hàng đối với các doanh nghiệp cũng tăng khoảng 0.25% – 0.5%/năm. Cũng trong năm 2005, NHNN tăng lãi suất tái cấp vốn từ 6%/năm lên 6.5%/năm, lãi suất tái chiết khấu cũng tăng từ 4% lên 4.5%/năm, lãi suất cơ bản tăng lên 8.25%/năm. Việc tăng lãi suất cơ bản cho thấy NHNN phát tín hiệu tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ. Từ tín hiệu điều chỉnh lãi suất đó của NHNN, một số NHTM CP đã tăng lãi suất huy động vốn nội tệ lên tới 0.81%/tháng tương đương 9.72%/năm. Lãi suất cho vay VND của nhiều NHTM cũng đã điều chỉnh tăng với mức khoảng 0.5%/năm.
Thứ năm, đôla hóa sẽ gây khó khăn cho quá trình nâng cao tính chuyển đổi của VND. Theo định nghĩa của IMF, đồng tiền tự do chuyển đổi là đồng tiền được sử dụng rộng rãi để thanh toán trong các giao dịch quốc tế và được mua bán rộng rãi trên thị trường ngoại hối chủ chốt. Đó phải là một đồng tiền ổn định, có uy tín, có nội lực mạnh. Tuy nhiên với thực trạng đôla hóa với mức khá cao ở VN hiện nay, ngay cả người dân trong nước cũng không còn tin tưởng vào VND và sử dụng rộng rãi ngoại tệ trong các giao dịch, trong cất trữ thì khó có thể tạo được lòng tin trong việc thanh toán, nắm giữ VND trên thị trường quốc tế.
2.4. THỰC TRẠNG HẠN CHẾ ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM
Ở Việt Nam có sự kết hợp giữa biện pháp hành chính và biện pháp kinh tế trong việc hạn chế tình trạng đôla hóa. Biện pháp kinh tế mang tính lâu dài, đó là việc NHTW điều hành chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá và có sự kết hợp hài hòa giữa hai chính sách trên nhằm ổn định giá trị của VNĐ…Thời gian qua cũng đã ghi nhận thành công của NHNN trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá USD/VND tuy nhiên thực tế cho thấy tình trạng người dân sùng bái USD, sử dụng USD trong thanh toán, cất trữ vẫn ở mức độ cao.
Biện pháp hành chính được thể hiện thông qua chính sách quản lý ngoại hối của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính sách quản lý ngoại hối này được xây dựng và thực hiện bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với sự tham mưu của Vụ quản lý ngoại hối. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu về hoạt động của Vụ quản lý ngoại hối và chính sách quản lý ngoại hối ở VN.
2.4.1. Khái quát hoạt động của Vụ quản lý ngoại hối – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Vụ quản lý ngoại hối là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, có chức năng tham mưu giúp Thống đốc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trong việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, hoạt động ngoại hối và hoạt động xuất nhập khẩu vàng theo quy định của pháp luật. Cơ cấu tổ chức của Vụ quản lý ngoại hối bao gồm 4 bộ phận: phòng nghiên cứu và tổng hợp, phòng quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước, phòng quản lý các giao dịch vãng lai, phòng quản lý các giao dịch vốn. Nhiệm vụ các phòng, chuyên viên độc lập do Vụ trưởng vụ quản lý ngoại hối quy định, chế độ làm việc của Vụ thực hiện theo cơ chế chuyên viên độc lập kết hợp với tổ chức phòng.
Những nét chính trong hoạt động của Vụ quản lý ngoại hối:
Thứ nhất, Chủ trì xây dựng, tham mưu giúp Thống đốc trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản về quy phạm pháp luật có liên quan đến các nội dung như: Tỷ giá, can thiệp thị trường ngoại hối và thị trường vàng, quản lý hoạt động kinh doanh ngoại hối và xuất, nhập khẩu vàng; Quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước; Kiểm soát dự trữ ngoại hối và trạng thái ngoại hối của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối; Quản lý việc vay, cho vay, trả nợ và thu hồi nợ với nước ngoài của doanh nghiệp; Quản lý đầu tư nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài; Quản lý việc sử dụng ngoại tệ trong nước; Quản lý hoạt động ngoại hối trong lĩnh vực thanh toán quốc tế.
Thứ hai, chủ trì phối hợp với các đơn vị có liên quan tham mưu giúp Thống đốc trong việc điều hành tỷ giá, thực hiện chính sách can thiệp thị trường ngoại hối và vàng, điều hành và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại hối trong nước.
Thứ ba, quản lý hoạt động xuất nhập khẩu ngoại hối thông qua việc quản lý các giao dịch vãng lai và các hoạt động khác có liên quan đến việc sử dụng ngoại tệ của các tổ chức và cá nhân.
Thứ tư, phối hợp và tham gia với các đơn vị liên quan kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối, hoạt động xuất nhập khẩu vàng của tổ chức và cá nhân.
Ngoài ra Vụ quản lý ngoại hối còn thực hiện các nhiệm vụ khác do Thống đốc giao.
2.4.2. Chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam
Chính sách quản lý ngoại hối được thể hiện thông qua các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại hối do Quốc hội, Chính phủ và NHNN ban hành. Ngày 17/8//1998 nghị định 63/NĐ-CP về quản lý ngoại hối được Chính phủ ban hành, nghị định đã quy định chi tiết các vấn đề liên quan đến giao dịch vãng lai; giao dịch vốn; hoạt động ngoại hối của tổ chức tín dụng và hoán đổi ngoại tệ.
Đối với giao dịch vãng lai, Nghị định nêu rõ: Người cư trú là tổ chức có ngoại tệ từ các nguồn thu vãng lai ở nước ngoài phải chuyển toàn bộ ngoại tệ về VN và gửi vào tài khoản ngoại tệ mở tại các ngân hàng được phép; Người cư trú là tổ chức được mua ngoại tệ tại các ngân hàng được phép để đáp ứng cho các giao dịch vãng lai và các giao dịch được phép khác trên cơ sở xuất trình giấy tờ và chứng từ hợp lệ; Người cư trú là cá nhân có nhu cầu ngoại tệ để chuyển tiền trợ cấp, thừa kế cho gia đình và người thân ở nước ngoài, chi phí cho việc đi du lịch, học tập, thăm viếng, chữa bệnh được phép mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài trên cơ sở xuất trình các giấy tờ có liên quan và phải xin giấy phép tại NHNN.
Đối với giao dịch vốn, người cư trú là các tổ chức có ngoại tệ thu được từ các giao dịch vốn ở nước ngoài phải chuyển toàn bộ về VN và gửi vào tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng được phép; người cư trú là tổ chức khi vay và trả nợ hoặc cho vay và thu hồi nợ nước ngoài phải thực hiện đăng ký và báo cáo tình hình thực hiện khoản vay với NHNN, việc chuyển tiền liên quan đến vay, trả nợ, cho vay, thu hồi nợ phải thực hiện qua các ngân hàng được phép và chỉ được thực hiện sau khi đã đăng ký với NHNN.
Để khắc phục những bất cập về quản lý ngoại hối trong nghị định 63, Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh ngoại hối có hiệu lực từ ngày 1/6/2006 và Chính phủ đã ban hành Nghị định 160/NĐ-CP để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ngoại hối (PLNH). PLNH đã làm thay đổi quan trọng trong chính sách quản lý ngoại hối.
Thứ nhất, về tự do hóa giao dịch vãng lai, tất cả các giao dịch thanh toán và chuyển tiền đối với giao dịch vãng lai giữa người cư trú và người không cư trú được tự do thực hiện: chính sách kiều hối ngày càng được nới lỏng và chính sách kết hối được tự do hóa. Trước đây trong chính sách kiều hối: người nhập cảnh không được tự do mang ngoại tệ, khi rút ngoại tệ từ ngân hàng phải quy đổi ra VND, hạn chế khối lượng rút từng lần và tiền gửi cũng bị hạn chế do phải chịu thuế thu nhập. Nhưng cho đến nay, quy định đã thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho người gửi tiền cả về mặt kinh tế và thủ tục, cho phép nhận tiền mặt ngoại tệ, cho phép nhiều tổ chức tham gia chuyển tiền kiều hối, phí được quy định rõ ràng, không kết hối số ngoại tệ chuyển về, không chịu thuế thu nhập. Còn đối với chính sách kết hối: Trước đây để tránh tình trạng nhiều doanh nghiệp có một lượng lớn ngoại tệ chưa dùng tới nhưng không muốn bán, trong khi các doanh nghiệp khác rất cần ngoại tệ nhưng không thể mua được dẫn tới sự căng thẳng giả tạo trong quan hệ cung cầu về ngoại tệ, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 173/QĐ-TTg về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức với tỷ lệ kết hối bắt buộc là 80%. Kết hối ngoại tệ là biện pháp bắt buộc các doanh nghiệp có nguồn thu về ngoại tệ phải bán ngay một phần cho NHTM. Trong những thời điểm cụ thể, biện pháp này đã có tác dụng nhất định trong việc hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp. Tuy nhiên đây chỉ là giải pháp tình thế vì việc áp dụng biện pháp này đi ngược với giảm thiểu các biện pháp can thiệp trực tiếp, tăng cường các biện pháp kinh tế trong công tác điều hành quản lý ngoại hối. Với tinh thần đó, Chính phủ đã có Quyết định số 180/1999/QĐ/TTg điều chỉnh tỷ lệ kết hối từ 80% xuống 50%, xuống 40% và hiện nay là 0%.
Thứ hai, từng bước kiểm soát với các giao dịch vốn.
Thứ ba, hạn chế đôla hóa và nâng cao tính chuyển đổi của đồng VN nhằm tiến tới thực hiện trên lãnh thổ VN chỉ sử dụng đồng VN .
Thứ tư, cơ chế tỷ giá được đổi mới theo hướng linh hoạt hơn đồng thời mở cửa thị trường ngoại hối, đa dạng hóa các sản phẩm, các công cụ ngoại hối của thị trường. PLNH cũng đã quy định hạn chế sử dụng ngoại hối nhằm hạn chế tình trạng đôla hóa: Nghiêm cấm triệt để các giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo bằng ngoại tệ giữa các tổ chức, cá nhân trên lãnh thổ VN. Hạn chế đến chấm dứt việc các tổ chức được bán hàng và cung cấp dịch vụ ngoại tệ tại VN. Quy định cụ thể về việc mở và sử dụng tài khoản, sử dụng ngoại tệ tiền mặt, thẻ thanh toán và các đồng tiền ở khu vực biên giới: trên lãnh thổ VN, người cư trú và không cư trú là cá nhân có thẻ quốc tế được sử dụng thanh toán tại tổ chức tín dụng được phép và các đơn vị chấp nhận thẻ, các đơn vị chấp nhận thẻ chỉ được thanh toán bằng đồng VN từ các ngân hàng thanh toán thẻ.
CHƯƠNG 3:
GI¶I PH¸P H¹N CHÕ T×NH TR¹NG §¤LA HãA
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
3.1. ĐỊNH HƯỚNG VỀ VẤN ĐỀ HẠN CHẾ ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Ở Việt Nam hiện nay, để tình trạng USD được sử dụng rộng rãi trong thanh toán, trong cất trữ, thậm chí trong niêm yết giá cả hàng hóa dịch vụ là một điều không thể chấp nhận được. Vì thế quan điểm, chủ trưong của Đảng, Chính phủ, NHTW đều quán triệt tinh thần phải hạn chế dần và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn tình trạng trên. Nghị quyết IV của ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa 8) trong phần đề cập những chủ trương chính sách lớn, riêng trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng khẳng định yêu cầu “Đẩy nhanh tiến độ thực hiện nguyên tắc trên đất nước Việt Nam phải thanh toán bằng đồng Việt Nam”. Trong Pháp lệnh ngoại hối cũng nêu rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách quản lý ngoại hối nhằm tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngoại hối, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam, thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam, thực hiện cam kết của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam”.
Trên cơ sở những vấn đề lý luận về đôla hóa và phân tích, đánh giá thực trạng đôla hóa ở nước ta trong thời gian qua, một số giải pháp cơ bản xin được đề xuất nhằm hạn chế tình trạng đôla hóa ở Việt Nam hiện nay.
3.2. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG ĐÔLA HÓA
3.2.1. Củng cố lòng tin của dân chúng vào VND.
Ở VN, nguyên nhân sâu xa dẫn đến hiện tượng USD được sử dụng rộng rãi trong thanh toán, cất trữ và niêm yết giá hàng hóa dịch vụ đó là sự mất lòng tin của dân chúng trong việc nắm giữ VND khi nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao đồng thời tin tưởng và có tâm lý ưa chuộng sử dụng USD. Do vậy biện pháp đầu tiên và cũng là quan trọng nhất để hạn chế tình trạng đôla hóa hiện nay ở VN là phải ổn định sức mua đối nội, đối ngoại và từng bước nâng cao khả năng chuyển đổi của VND từ đó lấy lại niềm tin của dân chúng trong việc nắm giữ VND.
Về ổn định sức mua đối nội của VND: chính là việc ổn định sức mua của VND đối với hàng hóa và dịch vụ trong nước. Để thực hiện được điều này đòi hỏi Ngân hàng nhà nước phải thực hiện các biện pháp tích cực để kiểm soát lạm phát ở mức độ vừa phải. Theo đuổi mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền không đồng nghĩa với tỷ lệ lạm phát bằng không. Bởi lẽ, trong thực tế, để giảm tỷ lệ lạm phát thì thường phải chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Kinh nghiệm của nhiều nước phát triển cho thấy, một tỷ lệ lạm phát vừa đủ (thường một con số mỗi năm) là cần thiết cho sự phát triển nền kinh tế - xã hội. Nhưng cần phải chống lạm phát phi mã (hai con số mỗi năm) và siêu lạm phát (trên ba con số mỗi năm). Để có thể kiểm soát lạm phát đòi hỏi NHNN phải sử dụng tốt các công cụ của chính sách tiền tệ: lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc để tác động một cách có hiệu quả vào thị trường tiền tệ nhằm ổn định giá trị của đồng bản tệ song vẫn phải bảo đảm được mục tiêu tăng trưởng và tạo việc làm. Những năm gần đây NHNN đã chuyển điều hành chính sách tiền tệ từ các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp như lãi suất tái chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở tuy nhiên đối với công cụ thị trường mở, do các thành viên tham gia thị trường chủ yếu là các NHTMNN, các loại giấy tờ sử dụng trên thị trường chưa phong phú nên hiệu quả của công cụ này chưa cao. Do vậy trong thời gian tới cần đa dạng các loại sản phẩm trên thị trường, khuyến khích thêm nhiều thành viên tham gia thị trường như các NHTMCP, các định chế tài chính phi ngân hàng để hoạt động của thị trường trở nên sôi nổi, tác động một cách có hiệu quả đến việc thực thi chính sách tiền tệ của NHNN.
Lịch sử cũng đã ghi nhận sự thành công của NHNN VN trong việc chống và kiềm chế lạm phát vào những năm 80. Trước diễn biến phức tạp và tốc độ lạm phát phi mã, nhiều chương trình cải cách đã được tiến hành với các mức độ ảnh hưởng khác nhau tới việc chống lạm phát. Đến giữa năm 1988 với sự chuyển giao chức năng kinh doanh NHTM từ NHNN VN sang bốn ngân hàng quốc doanh khác được xem là một bước cải cách quan trọng đầu tiên đối với hệ thống ngân hàng một cấp trước đây từ đó đã hạn chế mức cung ứng tín dụng nóng cho các DNNN, tốc độ tăng trưởng tín dụng trong nước đã được kiềm chế. Đồng thời NHNN điều chỉnh chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt dần và tăng mạnh lãi suất tiền gửi tiết kiệm lên có bảo đảm bằng vàng theo Nghị định số 59/CT ngày 10/3/1989 và Quyết định 39/HĐBT này 10/4/1989 nhằm thu hút bớt lượng tiền mặt trong lưu thông và tiền nhàn rỗi trong dân. Từ đó đã làm giảm tốc độ tăng trưởng của lượng tiền mặt trong lưu thông (CU). Tốc độ lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế giảm nhanh chỉ còn mức 3.79 lần năm 1989. Nhờ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt dần mà lạm phát năm 1989 chỉ còn 34.7%. Kể từ tháng 6/1992 chính sách lãi suất được điều chỉnh lại nhằm đảm bảo lãi suất thực dương góp phần thu hút đáng kể lượng tiền mặt lưu thông CU giảm từ 71.87% năm 1991 xuống còn 34.4% năm 1993. Từ 1/3/1994 đến 1/11/1994, NHNN ra quyết định duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm nhằm hạn chế việc cho vay tràn lan và tăng cường tính thanh khoản của các NHTM. Trong giai đoạn 1995-2003 tốc độ lạm phát giảm đáng kể. Thời kỳ này ghi nhận việc sử dụng khá linh hoạt các công cụ kiểm soát cung tiền của NHNN. Thay vì chính sách lãi suất thực dương với khung lãi suất cho vay tối đa và lãi suất tiền gửi tối thiểu, tính đến cuối tháng 12/95, NHNN đã tiến hành việc thực hiện quá trình tự do hóa lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay được quản lý và kiểm soát dưới cơ chế trần lãi suất cho vay. Tháng 8/2000 áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản đối với nội tệ. Tháng 6/2002 NHNN ra Quyết định 546/02/QĐ-NHNN chuyển sang cơ chế lãi suất thỏa thuận dựa trên tương tác giữa cung và cầu vốn trên thị trường.
Lạm phát ở Việt Nam hiện nay được nhận định là lạm phát chi phí đẩy. Do giá của những nguyên nhiên vật liệu đầu vào nhập khẩu phục vụ sản xuất của các doanh nghiệp trong nước như: phôi thép, hạt nhựa, hóa chất sản xuất tân dược, xăng dầu, khí đốt hóa lỏng, phân bón hóa học, phụ liệu ngành dệt may…gia tăng từ đó đẩy giá hàng hóa lên cao gây lạm phát. Biểu hiện của lạm phát chi phí đẩy là sức sản xuất của doanh nghiệp không giảm, hàng hóa không thiếu, chỉ có giá cả của hàng hóa là tăng trong khi thu nhập của người dân tăng không kịp so với sự tăng của giá cả hàng hóa. Bên cạnh đó còn có lạm phát tiền tệ có nghĩa là có những thời kỳ để đạt được mục tiêu tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM gia tăng làm tăng đầu tư, đẩy mạnh sản xuất. Điều này dẫn đến tổng cầu tăng và gây lạm phát. Vậy giải pháp đưa ra đối với NHNN, Chính phủ trong việc kiềm chế lạm phát phải xuất phát từ 2 nguyên nhân gây ra lạm phát.
Đối với lạm phát chi phí đẩy, Thủ tướng Chính phủ phải chỉ đạo các bộ ngành và các địa phương thực hiện mọi biện pháp bình ổn thị trường, ổn định giá cả, không để các mặt hàng tăng giá. Chính phủ phải chịu thất thu ngân sách bằng cách giảm thuế suất thuế nhập khẩu thậm chí tới mức 0% đối với những mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân, sử dụng có hiệu quả và kịp thời quỹ dự trữ bình ổn giá cả. Đối với lạm phát tiền tệ, NHNN điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, có kiểm soát, tăng lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn nhằm hạn chế kênh cung ứng vốn từ NHNN tới NHTM, buộc các NHTM đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường, thu hút tiền trong xã hội để về cho vay và kiểm soát chặt chẽ việc gia tăng tín dụng.
Về ổn định sức mua đối ngoại của VND: đó chính là việc ổn định tỷ giá hối đoái. Trong nền kinh tế mở, cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, tỷ giá đồng tiền trở thành mối quan tâm của các quốc gia. Với chức năng so sánh sức mua của các đồng tiền trên cơ sở ngang giá, tỷ giá cho biết sự lên giá hay xuống giá của đồng nội tệ so với ngoại tệ từ đó quyết định tới khả năng cạnh tranh của quốc gia đó trên thị trường quốc tế. Dân chúng sẽ ưa chuộng nắm giữ đồng tiền có tỷ giá hối đoái tương đối ổn định phản ánh sự ổn định trong sức mua đối ngoại của đồng tiền đó, vì thế để dân chúng tin tưởng nắm giữ VND đòi hỏi NHNN phải điều hành chính sách tỷ giá một cách có hiệu quả theo cơ chế linh hoạt và ổn định.
Chế độ tỷ giá ở VN hiện nay là chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của NHNN. Cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay là công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng đồng thời quy định biên độ dao động đối với tỷ giá mua và bán của các NHTM là ±0.5%. Chính vì thế trong thời gian qua tỷ giá hối đoái giữa VND và USD tương đối ổn định, mức độ mất giá của VND so với USD ở mức thấp, bình quân khoảng 0.85%/năm. Tuy nhiên, cơ chế điều hành tỷ giá như trên đã dẫn tới sự chênh lệch về tỷ giá của các NHTM và tỷ giá trên thị trường tự do từ đó dẫn tới sự tồn tại của thị trường ngầm và làm tăng tình trạng đôla hóa ở VN. Như vậy, trước mắt, trong điều kiện chưa thể thả nổi ngay tỷ giá, để ổn định tỷ giá hối đoái, NHNN phải duy trì một lượng đủ lớn dự trữ ngoại hối, đồng thời phải sử dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tỷ giá như: mua bán trực tiếp nội tệ trên thị trường ngoại hối, công cụ lãi suất tái chiết khấu, thuế quan, hạn ngạch, giá cả…để tác động vào diễn biến tỷ giá kịp thời và có hiệu quả.
Tuy nhiên về lâu dài, để hạn chế tình trạng đôla hóa thì phải hướng tới một tỷ giá thị trường, linh hoạt, là sản phẩm của quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Tất nhiên, trong điều kiện VN hiện nay việc thả nổi ngay lập tức tỷ giá có thể gây ra những hiệu ứng sốc cho nền kinh tế và có thể ảnh hưởng bất lợi đến ổn định hệ thống kinh tế xã hội. Do đó việc điều hành chính sách tỷ giá của NHNN nhằm hướng tới một cơ chế tỷ giá linh hoạt phải được thực hiện theo từng giai đoạn.
Bước đầu, nới lỏng dần biên độ tỷ giá nhằm tạo điều kiện cho các NHTM yết tỷ giá cạnh tranh đồng thời thăm dò phản ứng của thị trường trước động thái mới này. Nếu thị trường không sử dụng hết biên độ cho phép, điều này hàm ý tỷ giá hiện tại đã phản ánh tương đối khách quan quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Và đây là một tín hiệu tốt để NHNN tiếp tục nới rộng hơn biên độ dao động của tỷ giá. Ngược lại nếu thị trường ngay lập tức sử dụng hết biên độ cho phép điều này hàm ý tỷ giá hiện tại đang là quá thấp so với tỷ giá làm cân bằng cung cầu. Khi đó NHNN phải có biện pháp điều chỉnh tỷ giá tăng dần. Trong thời gian qua NHNN đã đưa ra một loạt các biện pháp nhằm hướng tới cơ chế tỷ giá linh hoạt: Ngày 03/01/2007 nới lỏng biên độ dao động từ 0.25% lên 0.5%; cho phép tự do chuyển đổi các ngoại tệ mạnh; cho phép thí điểm hợp đồng option giữa VND và USD; đặc biệt là cho phép áp dụng tỷ giá thỏa thuận giữa USD với VND nghĩa là ngân hàng được mua USD không bị ràng buộc bởi tỷ giá liên ngân hàng cũng như biên độ. Trên đây là những biện pháp trước mắt còn trong lâu dài, NHNN nên dỡ bỏ biên độ dao động, không trực tiếp ấn định tỷ giá để tỷ giá phản ánh một cách khách quan quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Bên cạnh đó, các công cụ của chính sách tỷ giá vẫn phải được NHNN sử dụng để có những tác động kịp thời trong trường hợp tỷ giá biến động theo chiều hướng tổn hại đến sự phát triển kinh tế.
Về vấn đề nâng cao khả năng chuyển đổi của VND: Một đồng tiền có tính chuyển đổi cao có đặc điểm là được chấp nhận một cách rộng rãi trong các giao dịch về thanh toán và tiền tệ ở trong nước và quốc tế. Cụ thể, về mặt khách quan, đó là đồng tiền mạnh, có uy tín, ở trong nước dễ dàng đổi ra ngoại tệ, ở ngoài nước có thể được sử dụng trong thanh toán quốc tế, được mua bán trên thị trường ngoại hối thậm chí có thể được sử dụng làm dự trữ ngoại hối của các quốc gia. Về chủ quan, đó là ý chí của Nhà nước phát hành ra đồng tiền đó, cho phép đồng tiền của mình được tự do đổi ra ngoại tệ, chuyển vào hoặc ra khỏi quốc gia không bị hạn chế bởi các quy định về quản lý ngoại hối. Đồng tiền VN mạnh có phạm vi sử dụng vượt ngoài biên giới VN là điều mong muốn của tất cả người dân VN vì nó thể hiện sức mạnh và tự cường dân tộc đồng thời cũng góp phần nâng cao lòng tin của người dân khi nắm giữ VND. Trong trung hạn, tuy chưa có tham vọng biến VND thành đồng tiền tự do chuyển đổi, nhưng đó là cái đích cần đạt tới. Trước mắt cần nâng cao tính chuyển đổi của VND trong nước, từng bước nâng cao tính chuyển đổi quốc tế thông qua việc tự do hóa hoàn toàn giao dịch vãng lai, từng bước tự do hóa giao dịch vốn. Trên thực tế, Pháp lệnh ngoại hối có hiệu lực từ ngày 1/6/2006 đã tạo ra một cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa giao dịch vãng lai, từng bước tự do hóa giao dịch vốn, phù hợp với các quy định của Điều lệ IMF và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Đây chính là những bước đi đầu tiên để nâng cao tính chuyển đổi của VND. Bên cạnh đó, bước đầu để đồng VN tham gia vay trả nợ nước ngoài và đầu tư của nước ngoài vào VN, cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng VND tham gia góp vốn trực tiếp vào VN để người nước ngoài chấp nhận VND trong thanh toán; Chính phủ sẽ mở rộng quy định xuất khẩu có thể thu bằng VND theo tỷ lệ tăng dần hàng năm, dự kiến đến năm 2010 tăng lên đến 30%; mọi khoản ngân sách cũng phải thực hiện bằng VND theo nguyên tắc: các khoản thu chi ngân sách trên lãnh thổ VN phải được thực hiện bằng VND, những khoản thu ngân sách bằng ngoại tệ phải bán cho NHNN nhằm tập trung quản lý ngoại tệ vào một đầu mối duy nhất là NHNN; các khoản cho vay, thu nợ của ngân sách nhà nước (Kho bạc nhà nước và quỹ hỗ trợ phát triển) đối với các đối tượng trong nước, kể cả tín dụng hỗ trợ xuất khẩu và các khoản cho vay lại bằng nguồn vốn vay hoặc viện trợ của nước ngoài, cũng phải được thực hiện bằng VND; Những khoản vay nước ngoài của Chính phủ, kể cả các khoản vay được chính phủ bảo lãnh chỉ được giải ngân cho các đơn vị thụ hưởng hay cơ quan thực hiện dự án bằng VND.
3.2.2. Giải pháp đối với các kênh dẫn ngoại tệ vào trong nước: đầu tư nước ngoài, kiều hối, vay nợ nước ngoài.
Nguồn ngoại tệ dồi dào chảy vào nước ta là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng đôla hóa tại VN trong thời gian qua. Nếu chúng ta đưa ra giải pháp từ nguyên nhân này có nghĩa là chúng ta phải hạn chế lượng ngoại tệ chảy vào nước ta. Điều này không khả thi bởi lẽ nguồn ngoại tệ này đóng góp một vai trò không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế xã hội do tích lũy nội bộ kém; làm cho hoạt động đầu tư trong nước phát triển mạnh, thúc đẩy tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nước. FDI còn tạo điều kiện cho nước ta tiếp nhận những công nghệ tiên tiến hiện đại, kinh nghiệm trong điều hành quản lý, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu ngân sách Nhà nước và đây là điều kiện rất tốt để nước ta thâm nhập vào thị trường quốc tế.
Phát hành cổ phiếu, trái phiếu là một kênh huy động vốn mới quan trọng của các doanh nghiệp VN hiện nay. Để thu hút được luồng vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc nắm giữ cổ phiếu, trái phiếu, các doanh nghiệp phải chứng tỏ được hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực quản lý điều hành doanh nghiệp. Như vậy nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài FII góp phần nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp đồng thời kích thích sự phát triển của thị trường tài chính theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mô và tăng tính minh bạch. Đối với nguồn vay nợ viện trợ mà chủ yếu là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, thông qua ODA nhiều chương trình, công trình đã được xây dựng triển khai. Đặc biệt có nhiều dự án vốn ODA đã được ký kết thực thi đem tới nhiều ý nghĩa kinh tế-xã hội quan trọng đối với quá trình phát triển đi lên của cả nước như: góp phần vào sự thành công của chương trình dân số và phát triển, chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em…Ngoài ra có nhiều công trình lớn được xây dựng từ nguồn vốn ODA: cầu Mỹ Thuận, cầu Sông Gianh, dự án nâng cấp quốc lộ 1A…Kiều hối cũng là một kênh quan trọng làm gia tăng lượng ngoại tệ vào nước ta. Trong những năm qua, kiều hối đã góp phần đáng kể tạo thêm nhiều công ăn việc làm, nâng cao đời sống của một bộ phận dân cư, tạo nguồn vốn phát triển sản xuất, kinh doanh, giảm bớt căng thẳng cung cầu ngoại tệ, góp phần giảm bớt mất cân đối của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.
Với tác động tích cực như vậy của các kênh dẫn ngoại tệ vào VN , Chính phủ Việt Nam không những không được hạn chế mà cần phải tăng cường hoàn thiện môi trường kinh doanh, hệ thống pháp luật, xây dựng cơ chế quản lý phù hợp để thu hút các nguồn vốn trên.
Có chăng chỉ là hạn chế những luồng ngoại tệ chảy vào trong nước một cách bất hợp pháp, không thông qua hệ thống ngân hàng, không chịu sự quản lý của nhà nước đó là các nguồn kiều hối “chui”, các nguồn ngoại tệ có được từ các hoạt động kinh tế bất hợp pháp như buôn lậu, tham nhũng, rửa tiền… Như vậy điều cần thiết là phải xây dựng một cơ chế quản lý ngoại hối linh hoạt để vừa thu hút nhưng đồng thời cũng có sự kiểm soát chặt chẽ lượng ngoại tệ vào nước ta.
Đối với nguồn kiều hối chúng ta có thể khuyến khích người dân bán thẳng ngoại tệ cho tổ chức tín dụng bằng cách đưa ra mức tỷ giá hấp dẫn dành riêng cho nguồn kiều hối. Đồng thời phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại trong đó có dịch vụ chuyển tiền kiều hối có quy đổi ngay ra VND theo tỷ giá hiện tại thông qua các máy rút tiền tự động (ATM). Dịch vụ này hiện đã được một số NHTM trong nước triển khai tuy nhiên người dân vẫn còn hạn chế trong việc tiếp cận và sử dụng.
Đối với nguồn vốn ODA, cần phải có những chính sách quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, có hiệu quả, tránh tình trạng vốn đã được giải ngân mà dự án triển khai chậm, kém hiệu quả, ngoại tệ rơi vào tay một số người, một số tổ chức tiếp tay cho tệ nạn tham nhũng. Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, cần xây dựng một môi trường pháp lý theo hướng ngày càng hoàn thiện, đồng bộ để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn vào VN phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước đồng thời thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài để hoạt động này thực sự mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho đất nước. Bên cạnh đó Nhà nước nên đưa ra quy định đối với việc chi trả lương cho cán bộ công nhân viên làm việc cho các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài hay các doanh nghiệp liên doanh: trong hợp đồng lao động có thể ghi lương bằng USD nhưng khi chi trả tiền mặt hay chuyển khoản bắt buộc phải bằng VND.
3.2.3. Xóa bỏ hoàn toàn hoạt động nhận tiền gửi ngoại tệ và tín dụng ngoại tệ của các NHTM.
Tình trạng đôla hóa nguồn vốn huy động và cơ cấu cho vay của các NHTM ở VN hiện nay đang ở mức độ cao. Tình trạng này xảy ra khi dân chúng có ngoại tệ song họ không bán cho ngân hàng mà cất trữ ngoại tệ dưới dạng tiền gửi tiết kiệm ở các NHTM. Các NHTM sau đó cũng phải tiến hành cho vay bằng ngoại tệ để tạo ra sự phù hợp giữa nguồn vốn huy động và nguồn cho vay. Có ý kiến cho rằng, trong trường hợp dân chúng không bán ngoại tệ thì thà để đôla hóa tài khoản tiền gửi trong các NHTM còn hơn để lượng ngoại tệ trôi nổi trên thị trường, nằm ngoài sự quản lý của Nhà nước. Hơn nữa quy mô tiền gửi ngoại tệ ở các NHTM tăng cũng góp phần đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu. Ý kiến này cũng có phần đúng, tuy nhiên trên thực tế, một câu hỏi được đặt ra: những đối tượng nào có ngoại tệ để gửi tại ngân hàng. Đó là những người nhận được kiều hối từ người thân ở nước ngoài, đó là những doanh nghiệp xuất khẩu có doanh thu trực tiếp bằng USD, còn lại là những đối tượng tham nhũng từ các dự án nước ngoài, những người có được ngoại tệ bằng cách bán nội tệ trên thị trường chợ đen. Như vậy chính hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ đã tiếp tay cho sự phát triển của thị trường chợ đen, cho các hành vi buôn lậu, tham nhũng. Bên cạnh đó nếu các NHTM không huy động vốn ngoại tệ sẽ kích thích những người có kiều hối bán ngoại tệ cho ngân hàng vì sẽ không thể sinh lời nếu tiếp tục nắm giữ ngoại tệ.
Do vậy một biện pháp mạnh dạn được đưa ra nhằm hạn chế tình trạng đôla hóa ở VN là xóa bỏ hoạt động huy động vốn ngoại tệ của các NHTM. Còn đối với hoạt động tín dụng ngoại tệ, hoạt động này chủ yếu phục vụ cho các doanh nghiệp nhập khẩu có nhu cầu về ngoại tệ để thanh toán tiền hàng hóa. Tuy nhiên trên thực tế, có những doanh nghiệp không cần ngoại tệ để nhập khẩu nhưng do lãi suất cho vay bằng ngoại tệ thấp hơn lãi suất cho vay bằng nội tệ nên họ vẫn đến ngân hàng để vay ngoại tệ, và điều này không những làm tăng tình trạng đôla hóa cơ cấu cho vay mà còn mang lại rủi ro rất lớn cho các ngân hàng. Như vậy, song song với xóa bỏ nhận tiền gửi ngoại tệ thì cần thiết phải xóa bỏ tín dụng ngoại tệ của các NHTM. Tuy nhiên ngay lập tức không thể xóa bỏ hoàn toàn được hoạt động trên của các NHTM, quá trình thực hiện phải được tiến hành theo từng bước và phải xây dựng một lộ trình cụ thể, phấn đấu đến năm 2010 không còn hoạt động nhận tiền gửi ngoại tệ và tín dụng ngoại tệ trong các NHTM nữa.
Lộ trình có thể được thực hiện theo các bước sau:
Đối với hoạt động nhận tiền gửi ngoại tệ: trước mắt cần xây dựng một chính sách lãi suất sao cho đảm bảo lãi suất tiền gửi nội tệ là lãi suất thực dương và hấp dẫn hơn hẳn lãi suất tiền gửi ngoại tệ, không cho các NHTM được phép tự do niêm yết lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Bước tiếp theo, đưa ra quy định bắt buộc rút lãi và gốc bằng VND khi gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ. Và bước cuối cùng là xóa bỏ hoàn toàn nhận tiền gửi bằng ngoại tệ.
Đối với hoạt động tín dụng ngoại tệ: trong giai đoạn đầu, các NHTM vẫn phải cho vay ngoại tệ để tránh tình trạng tồn đọng vốn ngoại tệ huy động nhưng sau đó sẽ hạn chế dần và tiến tới xóa bỏ. Trước mắt, các NHTM có thể hạn chế bằng cách chỉ cho các doanh nghiệp có doanh thu trực tiếp bằng ngoại tệ được tiếp cận với các khoản tín dụng ngoại tệ. Còn đối với các doanh nghiệp nhập khẩu thì ngân hàng thực hiện “mua hết, bán đủ” có nghĩa là doanh nghiệp nhập khẩu cần bao nhiêu ngoại tệ để thanh toán tiền hàng hóa thì ngân hàng sẽ bán đủ số ngoại tệ đó. Còn trong trường hợp thanh toán tiền hàng hóa nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ, ngân hàng phát hành L/C có thể chuyển đổi nội tệ sang ngoại tệ cho nhà nhập khẩu để thanh toán tiền hàng hóa cho nhà xuất khẩu nước ngoài.
3.2.4.Tăng quy mô và quản lý tốt dự trữ ngoại hối quốc gia
Mặc dù dự trữ ngoại hối của VN trong thời gian qua đã tăng lên đáng kể nhưng so với các nước khác và nhu cầu của nền kinh tế thì vẫn còn rất khiêm tốn. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu và yêu cầu thanh toán các khoản nợ nước ngoài ngày càng lớn đặt ra nhu cầu gia tăng dự trữ ngoại hối. Bên cạnh đó với cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay ở VN dự trữ ngoại hối vẫn giữ một vai trò quan trọng trong việc điều tiết tỷ giá. Dự trữ ngoại hối cũng cần đủ mạnh để đối phó với những yếu tố đầu cơ trên thị trường. Hiện nay quy mô dự trữ ngoại hối của nước ta đạt khoảng 12 tỷ tương đương với 12 tuần nhập khẩu và mục tiêu đặt ra đến năm 2010 dự trữ ngoại hối của nước ta tương đương với 18-20 tuần nhập khẩu. Một biện pháp quan trọng nhằm tăng dự trữ ngoại hối quốc gia nhưng đồng thời cũng hạn chế tình trạng đôla hóa là: Khuyến khích người dân bán ngoại tệ cho NHTM, sau đó NHNN mua lại ngoại tệ từ các NHTM này để tăng dự trữ ngoại hối quốc gia. Tuy nhiên một vấn đề nảy sinh ở đây là mua ngoại tệ từ các NHTM cũng có nghĩa là bán ra nội tệ. Hoạt động bán ra nội tệ làm tăng cung tiền trong lưu thông từ đó có thể gây ra lạm phát. Do vậy cùng với việc mua ngoại tệ từ các NHTM, NHNN cần phải kết hợp với công cụ nghiệp vụ thị trường mở: bán ra chứng khoán để thu hút bớt lượng nội tệ vào.
Bên cạnh việc tăng quy mô dự trữ ngoại hối, NHNN cũng cần phải thực hiện quản lý tốt dự trữ ngoại hối: Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào can thiệp phải có hiệu quả, xác định mức dự trữ ngoại hối phù hợp, lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ, đa dạng hóa cơ cấu dự trữ ngoại hối, lựa chọn các đồng tiền mạnh trên thế giới và được VN sử dụng nhiều trong thanh toán quốc tế làm dự trữ ngoại hối, giảm sự phụ thuộc vào USD. Đồng thời phải công khai hóa số liệu dự trữ ngoại hối nhằm tăng tính minh bạch trong quản lý dự trữ ngoại hối, tạo lập niềm tin cho dân chúng vào việc ổn định tỷ giá và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài.
3.2.5.Về thị trường ngoại tệ
Phát triển các nghiệp vụ phái sinh trên thị trường ngoại hối phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng và khách hàng thích nghi dần với cơ chế tỷ giá linh hoạt và phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh. Trong thời kỳ hội nhập, cùng với sự phát triển năng động và nhanh chóng của thị trường tài chính, cùng áp lực cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng nước ngoài, hiện nay các NHTM ở VN đã bắt đầu tiếp cận và triển khai cung cấp một số sản phẩm tài chính phái sinh như: hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi. Một số NHTM đã được NHNN cho phép thí điểm cung cấp sản phẩm tài chính phái sinh như hợp đồng quyền chọn giữa USD và VND, giao dịch hoán đổi lãi suất giữa VND và USD…Tuy nhiên việc cung cấp các sản phẩm tài chính phái sinh của các NHTM VN hiện nay vẫn còn rất hạn chế về quy mô và loại hình sản phẩm. Bên cạnh những nguyên nhân về năng lực cán bộ, khả năng tài chính, trình độ công nghệ, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng trên là do chúng ta chưa có một khung pháp lý phù hợp điều chỉnh hoạt động cung cấp sản phẩm tài chính phái sinh của các ngân hàng thương mại. Như vậy trong thời gian sắp tới đòi hỏi NHNN cùng các cơ quan có liên quan cần nhanh chóng nghiên cứu, xây dựng, ban hành hệ thống các văn bản pháp luật hoàn chỉnh điều chỉnh hoạt động kinh doanh sản phẩm tài chính phái sinh của các ngân hàng thương mại để tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM được cung cấp và các khách hàng được sử dụng công cụ phái sinh này. Đây cũng chính là một điều kiện rất quan trọng để tiến tới xây dựng một cơ chế tỷ giá linh hoạt, phản ánh một cách khách quan quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối.
3.2.6.Về môi trường pháp lý và công tác tuyên truyền giáo dục.
Từ năm 1999 NHNN đã có lệnh cấm quảng cáo, niêm yết, thông báo giá bằng ngoại tệ tuy nhiên những hoạt động trên vẫn diễn ra phổ biến, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh hàng hóa dịch vụ có giá trị lớn. Nguyên nhân chủ yếu là do khâu thực thi pháp luật vẫn còn yếu kém của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, vẫn còn nương nhẹ với những đối tượng vi phạm. Theo Pháp lệnh ngoại hối có hiệu lực thi hành từ ngày 1/6/2006 cũng đã nêu rõ: “ Trên lãnh thổ VN mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, ủy thác, đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép”. Như vậy trong thời gian tới cần hoàn thiện các văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện pháp lệnh ngoại hối, tăng cường thể chế pháp lý, tăng cường khâu kiểm tra kiểm soát việc thực thi pháp lệnh nhằm xóa bỏ triệt để việc thanh toán, niêm yết giá cả hàng hóa bằng ngoại tệ. Đồng thời kiên quyết xử lý các trường hợp cố tình vi phạm.
Đối với các tụ điểm diễn ra việc mua bán trao đổi ngoại tệ không được pháp luật cho phép như: các cửa hàng vàng bạc đá quý, các điểm đổi tiền dọc biên giới… cũng cần phải xóa bỏ triệt để nhằm hạn chế sự phát triển của thị trường ngầm, thị trường chợ đen. Do đó cần phải có những văn bản cụ thể hướng dẫn thi hành để các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương có thể nắm vững tinh thần từ đó thực hiện tốt công tác kiên quyết xóa bỏ, xử lý vi phạm đối với các tụ điểm trên.
Đôla hóa nền kinh tế còn xuất phát từ tâm lý sùng bái ngoại tệ và trình độ hiểu biết của người dân trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, vì thế công tác tuyên truyền giáo dục là một hoạt động không thể thiếu nhằm hạn chế tình trạng đôla hóa ở VN hiện nay. Hoạt động có thể được tổ chức thực hiện trong các công ty, xí nghiệp, nhà máy, trong nhà trường, có thể ở các cụm dân cư, tổ dân phố để người dân từ bỏ tâm lý sùng bái USD, khuyến khích người dân bán ngoại tệ cho ngân hàng và tích cực sử dụng các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn người dân sử dụng thẻ đặc biệt là thẻ tín dụng quốc tế. Hiện nay một số NHTM trong nước đã triển khai cung cấp thẻ tín dụng quốc tế như visa card, master card. Lợi ích của loại thẻ này là: thẻ được dùng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ tại các đại lý chấp nhận thẻ ở VN và hơn 220 quốc gia trên thế giới; rút tiền mặt tại hàng trăm ngàn máy ATM hoạt động 24/24 tại VN và khắp nơi trên thế giới; có thể thực hiện giao dịch bằng bất cứ loại tiền tệ nào trên thế giới và thanh toán lại cho ngân hàng đại lý phát hành chỉ bằng VND; người VN có thể dùng VND trên khắp thế giới. Như vậy việc sử dụng thẻ này rất tiện lợi cho các cá nhân ra nước ngoài với mục đích học tập, chữa bệnh, du lịch…khi đó họ không cần phải mua ngoại tệ từ ngân hàng và mang ra nước ngoài nữa, thay vào đó họ có thể sử dụng dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế.
3.3.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Thứ nhất, Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ tài chính và NHNN. Bộ tài chính (BTC) và NHNN đều là cơ quan trực thuộc Chính phủ, trong đó BTC thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tài chính, ngân sách nhà nước, thuế, phí, lệ phí và thu khác của ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, các quỹ tài chính nhà nước, đầu tư tài chính, tài chính doanh nghiệp, quản lý vay nợ, trả nợ trong nước, ngoài nước của Chính phủ và nguồn viện trợ quốc tế…NHNN thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Như vậy hai cơ quan này có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau trong việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tài chính - tiền tệ. Khi BTC quản lý tốt ngân sách nhà nước, cân đối thu-chi sẽ tạo điều kiện cho NHNN điều hành có hiệu quả chính sách tiền tệ nhằm đạt được mục tiêu ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra BTC và NHNN còn có mối liên hệ liên quan đến ngoại hối: BTC tham gia quản lý nhà nước đối với các nguồn vay, trả nợ nước ngoài của chính phủ, nguồn viện trợ nước ngoài (ODA); có các nguồn thu chi ngân sách bằng ngoại tệ và có thể bán cho NHNN để tăng dự trữ ngoại hối quốc gia. Đối với các quốc gia nói chung và VN nói riêng, nếu có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa BTC và NHNN thì nền tài chinh - tiền tệ sẽ ổn định và phát triển. Tuy nhiên ở VN hiện nay, sự thiếu phối hợp đồng bộ giữa hai chủ thể BTC và NHNN khiến cho Chính phủ hầu như không kiểm soát được tổng phương tiện thanh toán. Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa độc lập với nhau là điều mà hầu như các chuyên gia tài chính của nước ta đều thừa nhận; một số lượng khá lớn ngoại tệ có được từ chênh lệch thu-chi ngoại tệ trong ngân sách nhà nước vẫn nằm trong tay của BTC, chưa được tập trung vào NHNN để cân đối với nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế: NHNN đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu xăng dầu còn BTC lại quản lý nguồn thu từ xuất khẩu xăng dầu. Như vậy trong thời gian tới cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong hoạt động của BTC và NHNN đặc biệt trong lĩnh vực ngoại hối để có sự kiểm soát tốt hơn lượng ngoại tệ ra vào nền kinh tế.
Thứ hai, NHNN nên cơ cấu tích cực mệnh giá VND. Hiện nay, tiền giấy VND có mệnh giá nhỏ do vậy đối với những giao dịch có giá trị lớn, người dân vẫn ưa thích sử dụng ngoại tệ trong thanh toán. Vì thế trong thời gian tới NHNN nên phát hành tiền giấy có mệnh giá cao hơn có thể là tiền giấy mệnh giá một triệu, hai triệu.
Thứ ba, Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt công tác quản lý, ngăn chặn các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát buôn lậu và nạn tham nhũng. Các Bộ, ngành, địa phương cần có trách nhiệm củng cố, xây dựng lực lượng chống buôn lậu, chống tham nhũng trong sạch, vững mạnh, trang bị phương tiện, kỹ thuật cần thiết đủ sức phát hiện, ngăn chặn có hiệu quả mọi hoạt động buôn lậu, cần xử lý nghiêm minh các vụ buôn lậu, gian lận thương mại, tham nhũng; điều tra, kết luận và xử lý ngay một số vụ điển hình để răn đe và giáo dục chung.
KẾT LUẬN
Đôla hóa là tình trạng khó tránh khỏi đối với những nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế như Việt Nam. Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch…không thể một sớm một chiều xóa bỏ hay giảm triệt để được. Qua phân tích cho thấy, mặc dù đôla hóa có mang lại những tác động tích cực cho nền kinh tế đặc biệt trong thời kỳ đồng bản tệ suy yếu, tuy nhiên những tác động tiêu cực của đôla hóa là đặc biệt nghiêm trọng và có ảnh hưởng tới tính ổn định và hiệu quả của nền kinh tế - xã hội. Vì vậy cần phải hạn chế dần tiến tới xóa bỏ hoàn toàn tình trạng này. Quan điểm và chủ trương của Đảng, Chính phủ và Ngân hàng trung ương trong vấn đề đôla hóa là rất rõ ràng: xóa bỏ đôla hóa trong nền kinh tế-xã hội nước ta phải được thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước; phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế, vừa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội cho người dân… nhằm nâng cao vị thế của VND trong các chức năng thuộc tính của tiền tệ.
Những biện pháp mang tính hành chính, cưỡng chế chỉ là những giải pháp tạm thời, trước mắt vì nó có thể kìm hãm sự phát triển tự nhiên của các nhân tố kinh tế. Do đó về lâu dài, điều cần thiết là phải đưa ra những giải pháp mang tính kinh tế nhằm tạo sự ổn định, tạo sức mạnh cho đồng bản tệ, mang lại niềm tin cho người dân trong việc nắm giữ đồng bản tệ. Đây chính là giải pháp quan trọng nhất đồng thời cũng là hữu hiệu nhất trong việc hạn chế tình trạng đôla hóa ở VN hiện nay./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TIẾNG VIỆT
1. Frederic S. Mishkin - Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính – NXB Khoa học và kỹ thuật.
2. TS. Nguyễn Hữu Tài – Giáo trình Lý thuyết tài chính - tiền tệ - NXB Thống kê.
3. PGS – TS Nguyễn Thị Thu Thảo - Đổi mới và hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam – NXB Chính trị quốc gia.
4. PGS – TS Nguyễn Văn Tiến – Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở - NXB Thống kê.
5. Thời báo tài chính VN 17/05/2002, số 59- Xu hướng tiền gửi ngoại tệ và vấn đề đôla hóa ở VN.
6. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 3/2005 - Giải pháp để giảm tình trạng đôla hóa nền kinh tế ở VN.
7. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 1/2005 – Tình trạng đôla hóa ở VN và các giải pháp khác phục.
8. Tạp chí ngân hàng, số 10/2006 – Đôla hóa và những hậu quả, bài học cho VN.
9. Báo đầu tư, số 15/2007 – Đi tìm lời giải cho một bài toán khó.
10. Các tạp chí điện tử:
- www.mof.gov.vn www.moi.gov.vn
- www.mofa.gov.vn www.vir.com.vn
- www.sbv.gov.vn www.ncseif.gov.vn
- www.vnexpress.net www.vst.vista.gov.vn
- www.vietnamnet.vn www.tapchiketoan. info
II.TIẾNG ANH
11. Andrew Berg and Eduardo Borensztein – The Dollarization Debate, March 2000
12. Zeljko Bogetic, IMF – Official or “Full” dollarization current experiences and issues
13. Joint Economic Committee Staff Report office of the Chairman, Connie Mark
14. Cuba ‘s de-dollarization program
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CDGP han che Dola hoa o VN.doc