Chuyên đề Giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước

Huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước là một trong những công tác góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Việc thực hiện tốt công tác này không những tạo nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước mà nó còn là nguồn vốn dồi dào đáp ứng các nhu cầu cấp bách của đầu tư phát triển. Đồng thời, công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước cũng tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển của thị trường trái phiếu Chính phủ, thị trường chứng khoán, góp phần tạo ra công cụ hiệu quả để Nhà nước điều hành thị trường tiền tệ, thị trường tài chính. Tuy nhiên công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước trên thực tế vẫn bộc lộ nhiều bất cập. Mặc dù hành lang pháp lý đã khá hoàn chỉnh nhưng công tác huy động vốn nhưng hiệu quả chưa cao. Điều này được thể hiện ở khối lượng huy động thấp, chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho nền kinh tế; các quy chế quy định về cơ chế phát hành trái phiếu Chính phủ chưa được chú trọng nên không tạo điều kiện phát triển công tác phát hành; trái phiếu Chính phủ chưa thực sự đóng vai trò là hàng hoá chủ đạo trên thị trường vốn. Hơn nữa, Kho bạc Nhà nước chưa xây dựng được chiến lược, kế hoạch phát hành trong dài hạn Thực trạng này đòi hỏi phải có những giải pháp vừa tổng hợp vừa chi tiết dựa trên sự nghiên cứu tương đối toàn diện về công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh thực hiện các chiến lược kinh tế dài hạn của đất nước. Cụ thể, cần hoàn thiện phương thức phát hành, nghiệp vụ phát hành và mục đích phát hành theo hướng coi trọng huy động vốn thông qua phát hành TPCP, gắn huy động vốn qua phát hành trái phiếu với hiệu quả sử dụng. Cùng với đó, phải hoàn thiện những khung pháp lý quy định về phát hành và thanh toán trái phiếu Chính phủ.

doc67 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1898 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giữa VNĐ và USD, thanh toán lãi và chuyển nhượng trái phiếu. Công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu ngoại tệ sẽ đem lại một nguồn ngoại tệ lớn phục vụ nhu cầu chi tiêu và đầu tư của Chính phủ. Do đó việc hoàn thiện kênh huy động này là điều rất cần thiết. 2.2.5. Phát hành công trái xây dựng Tổ quốc Năm 1999, lần đầu tiên KBNN phát hành công trái xây dựng Tổ quốc theo pháp lênh số 12/1999/PL-UBTVQH ngày 27/4/1999 và nghị định số 34/1999/NĐ-CP ngày 12/5/1999 quy định về việc phát hành công trái XDTQ. Mục tiêu của đợt phát hành này là huy động nguồn vốn trong dân cư để đầu tư cho thủy lợi, xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở nông thôn, trước hết là các xã nghèo đặc biệt khó khăn theo Nghị quyết số 18/1998/QH10 ngày 25/11/1998 của Quốc hội. Công trái XDTQ có kỳ hạn 5 năm, lãi suất 10%/năm ( bao gồm cả mức trượt giá cộng tỷ lệ lãi suất 1,5%/năm), tính cho cả 5 năm là 50%, được thanh toán 1 lần cùng tiền gốc khi đến hạn. Trong trường hợp mức trượt giá thực tế trong 5 năm cộng với lãi suất 5 năm (7,5%) lơn hơn 50% thì người sở hữu công trái sẽ được Nhà nước bù lãi. Trong trường hợp mức trượt giá thực tế trong 5 năm cộng với lãi suất 5 năm (7,5%) thấp hơn hoặc bằng 50% thì người chủ sở hữu công trái vẫn được hưởng lãi suất 50% như ghi trên tờ công trái đã phát hành. Kết quả của đợt phát hành này là 4.496 tỷ đồng, trong khi kế hoạch đề ra chỉ là 4.000 tỷ đồng. Năm 2003, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội và Nghị định của Chính phủ, Bộ Tài chính đã chỉ đạo, hướng dẫn KBNN phát hành công trái giáo dục (đợt 1). Mục tiêu của đợt phát hành này là xóa phòng học ba ca và tranh tre nứa lá, kiên cố hóa trường lớp ở các tỉnh miền núi, tây nguyên và các tỉnh còn nhiều khó khăn. Công trái giáo dục có kỳ hạn 5 năm, lãi suất 8%/năm, tiền lãi được thanh toán một lần cùng tiền gốc khi đến hạn. Trong trường hợp đặc biệt, công trái có thể được thanh toán trước hạn. Theo kế hoạch tổng mức huy động là 2.000 tỷ đồng nhưng kết quả thu được 2.580 tỷ đồng đã vượt chỉ tiêu. Tiếp theo thành công của 2 đợt phát hành trước, năm 2005, KBNN đã tổ chức phát hành công trái giáo dục đợt 2. Công trái có kỳ hạn 5 năm, khối lượng dự kiến là 2.700 tỷ đồng để hỗ trợ các tỉnh miền núi, Tây Nguyên và các tỉnh còn khó khăn tiếp tục mục tiêu của đợt phát hành trước. Kết quả phát hành công trái XDTQ giai đoạn 1999 - 2007 được phản ánh trong bảng 2.7 Bảng 2.7: Kết quả phát hành công trái XDTQ giai đoạn 1999 - 2007 STT NĂM KHỐI LƯỢNG ĐÃ HUY ĐỘNG (tỷ đồng) KỲ HẠN (năm) LÃI SUẤT (%) TỶ LỆ HOÀN THÀNH (%) 1 1999 4.496 5 10 113 2 2003 2.580 5 8 129 3 2005 2.816 5 8.2 104 Tổng 9.892 Nguồn số liệu: Kho bạc Nhà nước Qua 3 đợt phát hành công trái xây dựng Tổ quốc, khối lượng huy động đều vượt kế hoạch đề ra, đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu đầu tư cho các công trình quốc gia. Thành công có được do sự hưởng ứng nhiệt tình của các tầng lớp dẫn cư, các cơ quan và tổ chức trên toàn quốc. Đây cũng là một phương thức huy động vốn có hiệu quả của KBNN, cần được xem xét, phát triển để tăng nguồn vốn huy động trung và dài hạn. 2.3. Đánh giá công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước thời gian qua 2.3.1. Những kết quả đạt được trong công tác huy động vốn 2.3.1.1. Công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước đã góp phần bù đắp thiếu hụt NSNN và đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển, thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội của đất nước. Nguồn vốn huy động được từ việc phát hành trái phiếu Chính phủ đóng góp một phần quan trọng để cân đối NSNN hàng năm. Đây là nguồn vốn quan trọng trong việc bù đắp thiếu hụt ngân sách, tránh việc phát hành tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, góp phần lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia. Hơn nữa, nguồn vốn huy động được đã giải quyết kịp thời các nhu cầu chi cấp bách của nền kinh tế, đặc biệt là bố trí nguốn vốn cho đầu tư phát triển……. 2.3.1.2. Công tác huy động vốn qua KBNN đã dần đi vào nề nếp, trái phiếu Chính phủ trở thành công cụ huy động vốn hiệu quả của nhà nước. Từ năm 1991 đến nay, trái phiếu Chính phủ đã trở thành công cụ huy động vốn có hiệu quả. Thị trường sơ cấp trái phiếu Chính phủ đã từng bước đi vào nề nếp, nếu như ban đầu chỉ huy động vốn bằng việc bán lẻ trái phiếu Chính phủ qua KBNN, thì nay đã mở thêm nhiều kênh huy động mới. Thị trường đã duy trì được bốn phương thức phát hành: Đấu thầu qua NHNN từ 1 đến 2 phiên/tuần, bảo lãnh phát hành 2 phiên/tháng, đấu thầu qua Sở GDCK từ 2 đến 3 phiên/tháng, phát hành trực tiếp qua KBNN thực hiện theo đợt. Huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước đã thu hút được một khối lượng lớn vốn nhàn rỗi trong xã hội, đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi của NSNN. Từ đó đã tạo điều kiện cho ngân sách chủ động trong việc hoạch định và thực hiện dự toán thu - chi. Việc phát hành trái phiếu trung và dài hạn còn thu hút lượng vốn nhàn rỗi để đưa vào đầu tư, làm tăng tỷ lệ tiết kiệm so vói GDP, góp phần ổn định và phát triển kinh tế. Huy động vốn qua phát hành trái phiếu trong nước đã làm giảm việc phải vay vốn nước ngoài. Do đó, Nhà nước không bị ràng buộc về sức ép kinh tế cũng như chính trị. Nhà nước hoàn toàn tự chủ thực hiện nhiệm vụ chi tiêu cũng như đầu tư phát triển. 2.3.1.3. Hành lang pháp lý cho công tác huy động vốn đã được thiết lập Thực hiện chiến lược huy động các nguồn vốn trong nước phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển của đất nước, ngày 26/7/1994 Chính phủ đã ban hành Nghị định 72/CP quy định về quy chế phát hành các loại trái phiếu Chính phủ. Nghị định đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc tăng cường huy động vốn nhãn rỗi trong xã hội nhằm mục tiêu bù đắp thiếu hụt NSNN và phát triển ổn định nền kinh tế. Sau 6 năm thực hiện Nghị định 72/CP, môi trường pháp lý đã có những cải thiện đáng kể. Do đó những quy định trong Nghị định 72/CP không còn phù hợp với các văn bản pháp quy định ra đời sau đó. Để tăng cường tính pháp lý và hiệu quả của công tác huy động vốn trong nước, ngày 13/1/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2000/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 72/CP. Nghị định mới là một bước tiến quan trọng, tạo ra cơ chế cho công tác phát hành trái phiếu Chính phủ phù hợp với tình hình kinh tế của đất nước. Những quy định về trái phiếu công trình, phương thức huy động qua Sở GDCK, Chính phủ đã đưa ra những quy chế rõ ràng để trái phiếu Chính phủ có điều kiện thuận lợi khi tham gia thị trường chứng khoán. Ngày 20/11/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 141/2003/NĐ-CP để thay thế cho Nghị định 01/2000/NĐ-CP nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế phát hành TPCP. Nghị định mới đã có một số quy định: Quy chuẩn hóa khái niệm TPCP: TPCP là một loại chứng khoán do Bộ Tài chính phát hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với người sở hữu trái phiếu, bao gồm 6 loại: tín phiếu Kho bạc, trái phiếu Kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu ngoại tệ và công trái phiếu XDTQ. Cho phép TPCP được niêm yết, giao dịch tại thị trường giao dịch chứng khoán tập trung. Tạo cơ sở pháp lý cho việc phát hành TPCP theo các phương thức tiên tiến như bảo lãnh, đại lý, đấu thầu qua Sở GDCK. Sự ra đời của Nghị định 141/2003/NĐ-CP đã thực sự tạo ra môi trường thuận lợi cho việc phát triển thị trường TPCP, góp phần tích cực vào việc thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán trong nước. 2.3.1.4. Công tác huy động vốn đã góp phần phát triển thị trường trái phiếu và thị trường tài chính Công tác huy động vốn đã tạo ra những hàng hóa có chất lượng cho thị trường trái phiếu nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung. Phương thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu không ngừng được cải tiến. Bên cạnh các phương thức truyền thống như bán lẻ qua hệ thống KBNN, đấu thầu qua NHNN, hiện nay TPCP còn được phát hành qua nhiều kênh mới như đấu thầu qua Sở GDCK, bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành. Kỳ hạn trái phiếu từ 1 năm đến 5 năm, 10 năm…… 2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại trong công tác huy động vốn 2.3.2.1 . Khối lượng huy động thông qua phát hành trái phiếu chính phủ còn thấp, chưa tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế và tiềm năng trong xã hội. Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bù đắp bội chi NSNN và cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, trong thời gian qua, khối lượng các loại TPCP được phát hành còn nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Tính đến 31/12/2006, dư nợ các loại TPCP ở nước ta chiếm gần 4% GDP, trong khi đó con số này ở các nước phát triển lên tới 40 - 50% GDP. Thậm chí ở Mỹ, Italia và Nhât Bản là 100% GDP. Bảng 2.8: Tỷ lệ dư nợ TPCP so với GDP giai đoạn 1991 - 2007 NĂM TỶ LỆ (%) DƯ NỢ TPCP SO VỚI GDP NĂM TỶ LỆ (%) DƯ NỢ TPCP SO VỚI GDP 1991 0,15 1999 3,17 1992 0,83 2000 3,76 1993 1,71 2001 3,47 1994 1,98 2002 3,40 1995 2,21 2003 3,80 1996 0,93 2004 3,76 1997 2,20 2005 3,82 1998 2,39 2006 3,85 Nguồn số liệu: Kho bạc Nhà nước Từ bảng số liệu trên có thể tỷ lệ dư nợ TPCP so với GDP đã tăng đều qua các năm, tuy nhiên mức tăng vẫn còn chậm. Thực tế cho thấy rằng, hiện vẫn có một lượng vốn nhàn rỗi đáng kể, cả nội tệ và ngoại tệ chưa được khai thác một cách triệt để……….. 2.3.2.2. Công tác kế hoạch hoá hoạt động huy động vốn chưa được thực hiện tốt Công tác kế hoạch hóa hoạt động huy động vốn là một việc rất quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công của chiến lược huy động vốn, song công tác này hiện nay chưa được quan tâm đúng mức. Kế hoạch huy động vốn mới chỉ được xây dựng hàng năm, quý, tháng nhưng chưa có kế hoạch huy động trung và dài hạn. Đồng thời cũng chưa có một chiến lược tổng thể về công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Việc xây dựng kế hoạch phát hành TPCP chủ yếu dựa vào mức thâm hụt ngân sách đã được Quốc hội thông qua, chưa gắn kết với chiến lược phảt triển kinh tế xã hội, mục tiêu chính sách tài chính quốc gia. Nhiều khi, TPCP chỉ được coi đơn thuần là một công cụ để bù đắp thiếu hụt ngân sách, giảm nhẹ vai trò là hàng hóa trên thị trường vốn cũng nhu vai trò điều hành thị trường tiền tệ. 2.3.2.3. Cơ chế phát hành trái phiếu chưa hoàn thiện Việc phát hành trái phiếu qua hệ thống Kho bạc Nhà nước thường kéo dài trong nhiều tháng, không có lịch biểu phát hành cụ thể. Các trái phiếu của mỗi đợt phát hành có mức lãi suất khác nhau, không có thời gian đáo hạn thống nhất. Đa số trái phiếu đều phát hành dưới dạng có ghi tên, việc chuyển nhượng phải làm thủ tục ở KBNN. Do vậy nên trái phiếu không đáp ứng đủ tiêu chuẩn kỹ thuật để được niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung. Hình thức trái phiếu chưa phong phú, lãi suất chưa hấp dẫn, kỳ hạn trái phiếu còn ngắn, phương thức trả lãi thiếu linh hoạt (chủ yếu là trả lãi cùng với gốc khi đến hạn). Chính điều này đã không hấp dẫn người mua, không khai thác hết được vốn nhàn rồi trong xã hội. Việc xác định lãi suất của TPCP vẫn còn mang tính chủ quan, chưa căn cứ vào tình hình biến động của nền kinh tế, chưa phản ánh đúng tình hình thị trường. Các phương thức phát hành đã được đa dạng hóa và dần đi vào nề nếp, nhưng cơ chế của từng phương thức phát hành còn cần phải tiếp tục nghiên cứu. Đối với phương thức đấu thầu trái phiếu qua Sở GDCK, số lượng thành viên tham gia ít và không thường xuyên. Khối lượng và lãi suất đặt thầu không ổn định nên ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả của từng đợt đấu thầu. Trong từng phiên đấu thầu chỉ có một loại kỳ hạn và vẫn áp dụng cơ chế lãi suất trần nên chưa sát với lãi suất thị trường, chưa hấp dẫn được nhà đầu tư. Phương thức bảo lãnh phát hành chưa phát huy được ưu thế của nó. Các đơn vị nhận bảo lãnh trái phiếu không phân phối trái phiếu ra công chúng mà nắm giữ toàn bộ khối lượng trái phiếu bảo lãnh. 2.3.2.4. Công tác phát hành trái phiếu còn chưa theo kịp với biến động của thị trường Điều này được thể hiện rất rõ qua sự ứng phó của lãi suất trái phiếu Chinh phủ trước sự biến động lãi suất của thị trường. Có những thời điểm lãi suất trái phiếu cao hơn hoặc thấp hơn nhiều so với lãi suất tiết kiệm hoặc kỳ phiếu của các NHTM. Cả hai xu hướng này đều ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của KBNN thông qua phát hành trái phiếu. Nguyên nhân của hiện tượng này là do lãi suất TPCP chủ yếu do Bộ Tài chính quy định khung lãi suất. Việc thay đổi lãi suất của từng đợt phát hành để theo kịp với lãi suất thị trường thường phải mất rất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến khối lượng huy động của đợt phát hành đó. 2.3.2.5. Tính thanh khoản trái phiếu còn thấp Tính thanh khoản hay tính lỏng của trái phiếu thể hiện khả năng chuyển đổi trái phiếu thanh tiền mặt trước khi đến hạn. Tính thanh khoản của trái phiếu càng cao thì càng hấp dẫn nhà đầu tư và là một trong những tiêu thức quan trọng để kéo dài thời hạn trái phiếu. Thực tế cho thấy tính thanh khoản của trái phiếu còn rất hạn chế. Điều này gây khó khăn cho các nhà đầu tư trung và dài hạn. Các đối tượng này năm giữ hơn 80% khối lượng TPCP kỳ hạn 5 năm. Khi cần vốn tiền mặt, họ khó có thể bán lại trái phiếu trên thị trường thứ cấp. Tình trạng này đã ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả phát hành TPCP trong thời gian qua. 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước 2.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan a. Chính sách huy động vốn của KBNN chưa hoàn thiện Các loại trái phiếu mặc dù đã được đa dạng hóa về chủng loại nhưng hình thức phát hành, các điều kiện phát hành vẫn còn quá đơn điệu. Đa số các loại trái phiếu Chính phủ do KBNN phát hành đều có kỳ hạn dưới 1 năm, 2 năm và 5 năm. Phương thức thanh toán lãi chưa đa dạng, chủ yếu là thanh toán một lần cùng tiền gốc vào ngày đến hạn. Cơ chế khung lãi suất do Bộ Tài chính quy định vẫn còn áp dụng trong các trường hợp huy động vốn bằng phương thức đấu thầu qua NHNN, đấu thầu qua Sở GDCK và bảo lãnh phát hành… Trên thực tế, nhiều khung lãi suất do Bộ Tài chính đưa ra không phù hợp với tình hình lãi suất thực tế trên thị trường, gây ảnh hưởng xấu đến kết quả huy động vốn của KBNN Công tác huy động của KBNN phụ thuộc nhiều vào nhu cầu vốn của NSNN, của các công trình; mặc dù là đơn vị phát hành nhưng KBNN không được chủ động trong việc quy định các phương thức phát hành và thanh toán. Chưa thực hiện được công tác phân loại đối tượng đầu tư vào TPCP, từ đó chưa đưa ra được các chính sách thích hợp để huy động tối đã nguồn lực từ các đối tượng đầu tư đó. b. Điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật của hệ thống KBNN còn chưa đáp ứng được. Cơ sở vật chất và điều kiện kỹ thuật của hệ thống KBNN còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng đủ những yêu cầu của đổi mới nghiệp vụ. Công tác tin học hóa hoạt động phát hành và thanh toán TPCP vẫn còn nhiều bất cập, chưa phát huy được vai trò của mình trong việc thúc đẩy hoạt động huy động vốn của KBNN. Những đơn vị KBNN ở vùng sâu, vùng xa chưa được trang bị đầy đủ các phương tiện làm việc như máy vi tính, máy fax… Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc xử lý nghiệp vụ, đảm bảo tính an toàn, cung cấp thông tin phục vụ cho công tác huy động vốn hiệu quả. 2.3.3.2. Nguyên nhân khách quan a. Nền kinh tế chưa thực sự ổn định để tạo ra môi trường thuận lợi hâp dẫn các nhà đầu tư. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình phát triển, tuy nhiên là một nền kinh tế thị trường non trẻ nên vẫn còn bộc lộ không ít yếu kém. Điều đó thể hiện rõ nét qua cuộc đại khủng hoảng kinh tế vừa qua. Nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề, lạm phát tăng cao, giá trị đồng tiền không ổn định, một số quan hệ kinh tế vĩ mô còn mất cân đối. Đã mất một thời gian dài để nền kinh tế có thể hồi phục trở lại. Mặt khác, việc điều hành chính sách lãi suất của NHNN trong một thời gian dài vẫn thực hiện theo cơ chế áp đặt cho từng khu vực kinh tế, từng địa bàn. Từ năm 1998, dù lãi suất đã từng bước được tự do hóa với cơ chế lãi suất cơ bản nhưng vẫn có sự can thiệp của Nhà nước. Sự thiếu ổn định về kinh tế vĩ mô, đặc biêt là chính sách kiểm soát lạm phát, chính sách lãi suất đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác huy động vốn. Càc nhà đầu tư vẫn chưa tin tưởng vào mức độ an toàn và khả năng sinh lời của trái phiếu trung và dài hạn. Chính yếu tố này đã làm hạn chế khả năng nuy động vốn và mở rộng quy mô thị trường trái phiếu nói chung và việc phát hành TPCP nói riêng trong thời gian qua. b. Hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Trước năm 1994 không có một văn bản nào quy định về cơ chế phát hành và giao dịch trái phiếu Chính phủ. Nghị định số 72/CP đã đánh dấu một bước tiến quan trọng khi đưa ra văn bản chính thức đầu tiên của Chính phủ quy định về việc phát hành TPCP. Tiếp theo đó là các Nghị định 01/2000/NĐ-CP, Nghị định số 141/2003/NĐ-CP và Pháp lệnh số 12/1999/PL-UBTVQH để thay thế cho Nghị định 72/CP. Mặc dù các văn bản sau là sự sửa đổi bổ sung của văn bản trước để đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế nhưng nhìn chung các văn bản vẫn chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn về công tác phát hành và giao dịch TPCP. Trong Nghị định 141/2003/NĐ-CP và Pháp lệnh số 12/1999/PL-UBTVQH không nhất quán về quy định phát hành công trái XDTQ… c. Thị trường thứ cấp trái phiếu chưa phát triển, hạn chế tính thanh khoản của trái p phiếu Trước tiên, có quá ít các nhà đầu tư có tổ chức. Thực tế từ các thị trường phát triển cho thấy rằng sự thành công của thị trường trái phiếu là do các nhà đầu tư có tổ chức như các NHTM, các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư… mang lại chứ không phải là các nhà đầu tư cá nhân. Nhà đầu tư có tổ chức mua bán trái phiếu nhằm mục đích quản lý tài sản trong danh mục đầu tư hoặc quản lý tài chính. Trong khi đó các nhà đầu tư cá nhân thường chỉ mua trái phiếu để hưởng lãi nên nhu cầu mua đi bán lại rất ít.Tính đến cuối năm 2009 mới chỉ có 74 NHTM, 30 công ty bảo hiểm, 2 quỹ đầu tư và một số tổ chức khác đóng vai trò là những nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường. Thứ hai, các tổ chức tài chính trung gian và cung cấp dịch vụ trên thị trường vẫn hạn chế về số lượng, năng lực tài chính, kinh nghiệm hoạt động. Các tổ chức này hiện nay mới chỉ có 74 NHTM, 14 công ty chứng khoán, 7 công ty quản lý quỹ, 19 tổ chức lưu ký. Tiềm lực tài chính của các định chế tài chính này nhìn chung còn yếu, thiếu kinh nghiệm và chất lượng dịch vụ thấp, hạ tầng kỹ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Thứ ba, hiện nay vẫn chưa có một tổ chức chính thức đánh giá hệ số tín nhiệm để thực hiện đánh giá mức độ rủi ro của các loại trái phiếu phát hành ra công chúng. Điều này đã làm giảm hiệu quả của thị trường trái phiếu. d. Chưa khuyến khích thỏa đáng các tổ chức đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. Hiện nay, chính sách thuế đối với thu nhập từ trái phiếu vẫn chưa được quy định thống nhất giữa nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức. Các cá nhân được miễn thuế với lợi tức từ trái phiếu nhưng các tổ chức vẫn phải chịu thuế thu nhập là 28% đối với khoản lợi tức này. Tỷ lệ điều tiết tương đối lớn đã không khuyển khích các nhà đầu tư tổ chức đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. Mặt khác, việc thu thuế đồng nghĩa với việc tăng lãi suất trái phiếu. Điều này sẽ làm tăng gánh nặng cho ngân sách, đồng thời tạo ra hiệu ứng tăng lãi suất huy động của các NHTM. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước 3.1. Định hướng hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước trong thời gian tới 3.1.1 Gắn chặt công tác huy động vốn với việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động Hoàn thiện các quy phạm pháp luật trong quá trình quản lý công tác huy động vốn thông qua phát hành TPCP. Các cấp, ngành cần xác định rõ được quyền hạn và trách nhiệm của mình trong quá trình xây dựng kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ, thực hiện phát hành và sử dụng nguồn vốn huy động được từ TPCP. Nguyên tắc huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển qua phát hành TPCP phải đảm bảo tính hiệu quả từ công tác kế hoạch đến phát hành và thanh toán trái phiếu. Để nguồn vốn huy động được sử dụng hiệu quả cần quan tâm đến các vấn đề sau: Thực hiện kế hoạch hóa công tác huy động vốn, xác định rõ thời gian, khối lượng cần huy động, kênh huy động. Nguồn vốn vay thông qua phát hành TPCP phải được sử dụng đúng mục đích; tuân thủ nguyên tắc chỉ phát hành TPCP khi có nhu cầu, giảm chi phí phát hành tới mức tối đa, nguồn vốn TPCP phải được quản lý, sử dụng có hiệu quả. Đảm bảo nguồn vốn trả nợ khi TPCP đến hạn, tránh tình trạng các khoản nợ đến hạn tạo sức ép cho NSNN. Giải quyết hài hòa giữa vay mới và trả nợ cũ. Đối với nguồn vốn dùng cho đầu tư phát triển, phải có những phương thức thu hồi vốn các công trình đã hoàn thành để tập trung vốn nhanh cho các công trình mới. Với các công trình được đầu tư bằng vốn NSNN sau khi hoàn thành đưa vào sử dụng, phương thức thu hồi vốn chủ yếu vẫn là các khoản thu dưới dạng thuế hoặc lệ phí. Việc thu hồi vốn theo phương thức trên cũng chỉ thu được một phần vốn của NSNN đã bỏ ra và phải thực hiện trong một thời gian dài. Thực tế Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu các giải pháp để huy động nguồn vốn trong nước nên tiến hành cùng với việc đổi mới phương thức khai thác và thu hồi vốn các công trình hoàn thành đã được đưa vào sử dụng, nhằm giải phóng nhanh bộ phận vốn đầu tư của NSNN, bổ sung nguốn vốn tái đầu tư, góp phần tăng nhanh tốc độ chuyển vốn của nền kinh tế. 3.1.2. Huy động vốn phải gắn với hoạt động của thị trường tài chính Việc xây dựng và phát triển thị trường tài chính là một trong những mục tiêu hàng đầu của Nhà nước nhằm đẩy nhanh tốc độ luân chuyển và phân bổ nguồn tài chính, đáp ứng từng bước yêu cầu vốn đầu tư phục vụ quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Hoạt động của thị trường vốn trong thời gian tới phải đảm bảo yêu cầu tăng trưởng kinh tế, phát huy đầy đủ hiệu lực các công cụ của thị trường, khơi thông mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, trở thành cầu nối giữa các đơn vị, tổ chức kinh tế và các nhà đầu tư. Để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả của thị trường vốn, thị trường chứng khoán, vấn đề quan trọng là phải tạo được nhiều hàng hóa có chất lượng, đủ tiêu chuẩn lưu thông. Đó chính là các loại chứng khoán mà quan trọng nhất là trái phiếu Chính phủ và các loại trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp, trong đó trái phiếu đóng vai trò chủ đạo, là chuẩn mực trên thị trường trong giai đoạn đầu. Để tạo ra các loại hàng hóa này, trong thời gian tới, công tác huy động vốn của nhà nước phải hoàn thiện kỹ thuật phát hành, thanh toán các loại tín phiếu Kho bạc, trái phiếu Kho bạc theo hướng: tín phiếu Kho bạc được phát hành qua NHNN, trở thành công cụ thực hiện chính sách tiền tệ thông qua hoạt động thị trường mở của NHNN; trái phiếu Kho bạc được phát hành qua Sở GDCK theo phương thức đấu thầu hoặc bảo lãnh, đại lý nhằm thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển và hoạt động có hiệu quả. 3.1.3. Đẩy mạnh phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước, coi đây là công cụ huy động vốn quan trọng hiện nay. Trong giai đoạn tới, nhu cầu huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển rất lớn. Do đó việc đẩy mạnh phát hành trái phiếu trở nên hết sức quan trọng. Nguồn vốn lớn huy động được sẽ giup nhà nước thực hiện tốt các nhiệm vụ chi nhằm mục tiêu phát triển kinh tế, kiềm chế lạm phát. Nhà nước huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu có nhiều ưu điểm. Chính phủ trực tiếp huy động vốn trên thị trường nên về nguyên tắc chi phí huy động sẽ rẻ hơn vay vốn qua NHTM. Mặt khác TPCP có thể mua đi bán lại, trong khi đó các khoản vay thường khó chuyển nhượng được. Do đặc tính của thị trường là có khả năng biến nguồn vốn ngắn hạn thành nguốn vốn dài hạn, biến nguồn vốn nhỏ thành nguồn vốn lớn nên Chính phủ có thể huy động vốn với khối lượng lớn với nhiều kỳ hạn khác nhau. Chính vì thế các loại TPCP cần được coi là công cụ huy động vốn quan trọng và hiệu quả trong điều kiện hiện nay. 3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước. 3.2.1. Các giải pháp về cơ chế chính sách huy đông vốn 3.2.1.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách và tổ chức quản lý công tác huy động vốn Cơ chế chính sách liên quan đến công tác huy động vốn phải đáp ứng được các yêu cầu sau: Các chính sách và giải pháp huy động vốn cho NSNN và đầu tư phát triển phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn và phải thực hiện được các nhiệm vụ của chính sách tài chính quốc gia. Việc thực hiện các chính sách và giải pháp huy động vốn phải có sự tính toan tổng hợp về khả năng cung ứng vốn và khả năng tăng trưởng các nguồn vốn trên cơ sở giải quyết hợp lý các mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Đa dạng hóa và hiện đại hóa các công cụ và phương thức huy động vốn với mục tiêu hướng tới các nhà đầu tư cá nhân, giảm bớt tỷ lệ nắm giữ TPCP của các NHTM, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm. Các chính sách huy động vốn phải được tiến hành đồng bộ cả về nguồn vốn và biện pháp thực hiện, đảm bảo sự bình đẳng, gắn bó và tạo điều kiện lẫn nhau cùng phát triển. Tiếp tục đổi mới các chính sách động viên các nguồn tài chính cho ngân sách nhằm đảm bảo tăng cường huy động vốn một cách vững chắc, ổn định và bền vững. 3.2.1.2. Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hóa Cần xây dựng một chiến lược tồng thể về huy động vốn trong dài hạn để đảm bảo công tác huy động vốn đạt hiệu quả cao, việc sử dụng vốn hợp lý, tiết kiệm chi phí huy động và giảm thiểu các rủi ro cho các khoản nợ của Nhà nước do những tác động từ bên ngoài Nên lập chương trình, kế hoạch huy động vốn qua phát hành TPCP với các loại kỳ hạn chủ yếu là 1, 2, 3, 5, 10 năm. Dựa trên kế hoạch đã được công bố từ trước, các nhà đầu tư sẽ có thể lựa chọn hàng hóa trên thị trường phù hợp nhất với mình. Dựa trên nhu cầu vốn của Nhà nước,Bộ Tài chính thông báo kế hoạch phát hành các khoản nợ dài hạn hàng năm và thực hiện phát hành đều đặn các công cụ nợ ngắn hạn nhằm huy động vốn cho nhu cầu thanh toán ngắn hạn. Kế hoạch huy động vốn được xây dựng dựa trên từng tiêu chí Kế hoạch huy động vốn theo từng loại kỳ hạn Kế hoạch huy động vốn theo thời gian: kế hoạch ngắn hạn (dưới 1 năm), kế hoạch trung hạn từ 2 đến 5 năm và kế hoạch dài hạn từ 10 năm trở lên. Kế hoạch huy động vốn theo phương thức phát hành: bao gồm đấu thầu qua NHNN, đấu thầu qua Sở GDCK và bảo lãnh phát hành. 3.2.1.3. Xây dựng cơ chế khuyến khích đầu tư trái phiếu Chính phủ Các nhà đầu tư khi mua trái phiếu Chính phủ đều phải chịu khoản thuế thu nhập trên phần lợi tức thu được từ trái phiếu Chính phủ. Việc giảm thuế sẽ làm cho lợi tức trái phiếu của nhà đầu tư cao hơn. Để khuyến khích các tổ chức, các cá nhân đầu tư vào trái phiếu Chính phủ nên thực hiện miễn thuế thu nhập từ TPCP. Điều này có ý nghĩa rất lớn ở giai đoạn đầu thị trường chưa phát triển. Hiện nay, Chính phủ đã miễn thuế đối với các nhà đầu tư cá nhân, nhưng các tổ chức đầu tư vẫn phải nộp thuế thu nhập. Trong khi Chính phủ rất cần sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức vào thị trường trái phiếu thì việc phải nộp thuế thu nhâp đã không khuyến khích các nhà đầu tư này. Vì vậy trước mắt, cần xem xét để miên thuế thu nhập từ TPCP đối với các nhà đầu tư có tổ chức. Công tác huy đông vốn cho đầu tư phát triển thường gắn liền với những công trình cơ sở hạ tầng có ý nghĩa thiết thực đối với đời sông dân sinh, như điện, đường, trường, trạm, bệnh viện hay các công trình thủy lợi… Để khuyên khích các nhà đầu tư mua TPCP, có thể gắn việc mua trái phiếu với quyền lợi vật chất liên quan đến công trình hình thành từ nguốn thu trái phiếu. Về phía Nhà nước, việc kết hợp trái phiếu với các quyền ưu đãi có thể làm giảm lãi của các khoản huy động. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách miễn giảm phí giao dịch, lưu ký chứng khoán qua Sở GDCK. Mức thu phí đối với các giao dịch mua bán trái phiếu qua Sở GDCK theo quy định hiện nay là quá cao (0.075%). Trong giai đoạn đầu phát triển thị trường trái phiếu, Chính phủ nên xem xét miễn các khoản phí giao dịch này. 3.2.1.4. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan để thực hiện có hiệu quả công tác huy động vốn Sự phối hợp giữa các cơ quan nhu Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, NHNN, KBNN, Ủy ban chứng khoán Nhà nước… để có thể thực hiện tốt các công việc sau: Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy hướng dẫn việc xây dựng và phát hành trái phiếu Chính phủ, quản lý giao dịch trái phiếu Chinh phủ trên thị trường chứng khoán. Tổ chức có hiệu quả công tác đấu thầu, bảo lãnh, đại lý trái phiếu Chính phủ. Xây dựng các chính sách liên quan như chính sách lãi suất, chính sách thuế… để khuyên khích hoạt động đầu tư, mua bán trái phiếu Chính phủ. 3.2.1.5. Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ Tổ chức đào tạo cán bộ, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác huy động vốn, đặc biệt là nhóm còn bộ xây dựng chiến lược, cơ chế huy động vốn. Đối với cán bộ lãnh đạo: Tổ chức các khóa học ngắn hạn, hội thảo về tài chính công, chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách huy động vốn, tình hình kinh tế trong nước và thế giới để họ hiểu rõ những cơ hội và thách thức đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và công tác phát hành TPCP nói riêng. Trên cơ sở đó, các cán bộ này sẽ đề xuất những những giải pháp có tính khả thi cao, sát thực tế và hiệu quả nhằm thúc đẩy công tác huy động vốn ngày càng phát triển và hoàn thiện. Đồng thời, cán bộ lãnh đạo cần được đi học tập kinh nghiệm phát hành trái phiếu Chính phủ ở các nước phát triển để từ đó vận dụng vào điều kiện thực tế ở Việt Nam. Đối với nhóm cán bộ xây dựng chính sách, chế độ: đội ngũ cán bộ này cần được tham gia các khóa học tập trung dài hạn hoặc ngắn hạn, trong nước hoặc ngoài nước về chuyên môn nghiệp vụ. Từ những khóa học này, họ tiếp nhận được những tư tưởng mới, kinh nghiệm làm việc ở các nước khác. Bên cạnh đó, cần tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn, hội thảo chuyên sâu về tài chính công và huy động vốn, giúp cho cán bộ có cơ hội học hỏi và cập nhập them kiến thức cho công tác nghiên cứu, xây dựng chính sách, chế độ. Đối với cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ phát hành, thanh toán TPCP: thường xuyên tổ chức các khóa học đào tạo, tập huấn nghiệp vụ, giúp cho nhóm cán bộ này có khả năng triển khai các nghiệp vụ phát hành mới. Họ sẽ nâng cao được khả năng tuyên truyền, giải thích cơ chế phát hành, thanh toán với nhà đầu tư, nâng cao hiệu quả huy động vốn. Cùng với đó, phải đào tạo đội ngũ này có kỹ năng thành thạo các phầm mềm ứng dụng trong công tác huy động vốn. 3.2.1.6. Tuyên truyền, phổ biền và nâng cao kiến thức của công chúng về công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Nhận thức của công chúng về tầm quan trọng của việc mua trái phiếu Chính phủ, các quyền lợi có được khi họ mua trái phiếu Chính phủ là một nhân tố quan trọng quyết định đến sự thành công của công tác huy động vốn. Thực tế ở Việt Nam hiện nay, hiểu biết của công chúng về TPCP còn rất hạn chế, đặc biệt là tại những địa bàn thị trường vốn chưa phát triển. Vì thế để thu hút được nhiều cá nhân đầu tư vào thị trường trái phiếu cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin cho công chúng. Về nội dung tuyên truyền: dùng nhiều hình thức giúp các nhà đầu tư hiểu được về TPCP và thị trường TPCP như khái niệm, đặc điểm, lợi ích của TPCP, trinh tự thủ tục phát hành. Đặc biệt nền hướng dẫn phương pháp định giá trái phiếu khi giao dịch trên thị trường để các nhà đầu tư ra quyết định đầu tư đúng đắn. Về hình thức tuyên truyền: KBNN nền thành lập một trang thông tin điện tử, trong đó công bố đầy đủ các thông tin về phát hành và thanh toán TPCP để các nhà đầu tư có thể năm bắt thông tin nhanh chóng. Đồng thời, phải phổ biến kiến thức về trái phiếu trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình… KBNN cần mở các khóa đào tạo miễn phi để phổ cập kiến thức về huy động vốn và lý thuyết chung về thị trường chứng khoán cho tất cả các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nhỏ lẻ. 3.2.2. Các giải pháp về kĩ thuật nghiệp vụ huy động vốn 3.2.2.1. Cải tiến cơ chế phát hành TPCP Thi trường vốn của nước ta hiện nay chưa phát triển mạnh và đồng đều tại các địa phương. Ở các tỉnh thành phố lớn, kinh tế phát triển thì thị trường vốn cũng sôi động. Những tỉnh, thành phố nhỏ, các tổ chức trung gian tài chính ít, tiềm lực vốn của các tổ chức này cũng hạn chế nhưng vẫn có khả năng khai thác tốt nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Đồng thời, hoạt động của thị trường vốn vẫn còn nhiều biến động. Mặc dù hiện nay KBNN thực hiện khá nhiều phương thức phát hành trái phiếu nhưng hiệu quả sử dụng các phương thức đó chưa cao, một phần là do cơ chế phát hành còn chưa linh hoạt, thuận tiện. Do đó cần có những cải tiến, hoàn thiện theo hướng như sau: a. Cơ chế đấu thầu Từng bước chuyển dần việc đấu thầu theo kiểu Hà Lan sang đấu thầu kiểu Mỹ. Hình thức đấu thầu kiểu Hà Lan là xác định giá trúng thầu thấp nhất (tương ứng với lãi suẩt trúng thầu cao nhất) áp dụng chung cho tất cả các thành viên trúng thầu. Hình thức này thực sự phát huy tác dụng trong giai đoạn thị trường mới phát triển vì khuyến khích về giá với các thành viên thị trường. Tuy nhiên, điều này không có lợi do các thành viên đặt lãi suất thấp nhưng vẫn trúng thầu ở mức lãi suất cao. Việc áp dụng hình thức đấu thầu kiểu Mỹ (các thành viên đặt thầu ở mức giá nào thị trúng thầu ở mức giá ấy) sẽ tăng tính khả năng cạnh tranh của các thành viên thị trường. Đồng thời, hình thức này sẽ giúp nhà phát hành giảm chi phí huy động vốn so với hình thức đấu thầu kiểu Hà Lan. b. Cơ chế bảo lãnh Cần xác định lại điều kiện để tham gia thành viên thị trường bảo lãnh. Ngoài tiêu chuẩn về vốn, các tổ chức bảo lãnh phải có khả năng phân phối trái phiếu ra công chúng thể hiện qua mạng lưới chi nhánh, hệ thống khách hàng tiềm năng. Các tổ chức bảo lãnh bắt buộc phải chào bán trái phiếu ra công chúng để đợt phát hành mang tính đại chúng, từ đó tăng khả năng giao dịch, mua bán lại trái phiếu trên thị trường thứ cấp. Đổi mới cơ chế lựa chọn tổ chức bảo lãnh trong các đợt phát hành theo hướng tổ chức phát hành đấu thầu để chọn ra các nhà bảo lãnh. Thông qua đấu thầu sẽ xác định được lãi suất và khối lượng trái phiếu phát hành, các tổ chức bảo lãnh được lựa chọn là các đơn vị trúng thầu. Các tổ chức bảo lãnh có trách nhiệm phân phối trái phiếu ra công chúng và được hưởng phí. 3.2.2.2. Cải tiến cơ chế giao dịch trái phiếu Chính phủ Trái phiếu Chính phủ là một chứng khoán nợ có tính chất và đặc điểm khác cổ phiếu, do đó cần xây dựng thị trường giao dịch phù hợp. Thực tiễn tổ chức thị trường các nước cho thấy các trái phiếu được giao dịch qua thị trường OTC với các thành viên là các tổ chức trung gian tài chính nhu NHTM, công ty chứng khoán… Do thị trường trái phiếu của Việt Nam chưa phát triển, chỉ tập trung ở các tỉnh thành phố lớn, vì vậy cần xây dựng cơ chế giao dịch trái phiếu Chính phủ cho phù hợp. Nếu không có một cơ chế giao dịch hợp lý chắc chắn sẽ không thể huy động được vốn với kỳ hạn dài, khối lượng vốn lớn. Cơ chế giao dịch nên được thực hiện theo các hướng sau: Giao dịch tập trung qua Sở GDCK: đối với các trái phiếu niêm yết tại Sở GDCK, việc mua bán trái phiếu được thực hiện theo cơ chế khớp lệnh tập trung. Các công ty môi giới cần mở rộng mạng lưới đại lý nhận lệnh ở các địa phương, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong cả nước có thể tham gia mua bán trái phiếu. Giao dịch qua thị trường phi tập trung OTC: đối với các trái phiếu niêm yết hoặc không niêm yết tại Sở GDCK được giao dịch qua thị trường phi tập trung theo phương thức thỏa thuận khối lượng và giá cả. Về nguyên tắc, các giao dịch được thực hiện thông qua các trung gian môi giới. Các tổ chức này thỏa thuận khối lượng, giá cả với khách hàng và đưa ra kết quả giao dịch. Trung tâm quản lý giao dịch OTC cần xây dựng hệ thống máy tính nối mạng với các công ty thành viên. Hệ thống này cho phép các công ty môi giới truyền và nhận thông tin nhiều chiều với tất cả các công ty thành viên để thỏa thuận khối lượng và giá cả. Chiết khấu các trái phiếu chưa đến hạn: Các tổ chức tài chính trung gian như NHTM, các công ty chứng khoán được thực hiện mua bán trái phiếu trực tiếp với các nhà đầu tư theo phương thức chiết khấu. Mức lãi suất chiết khấu được thực hiện theo nguyên tắc thỏa thuận với khách hàng. 3.2.2.3. Cải tiến cơ chế xác định lãi suất Vấn đề xác định lãi suất là yếu tố quan trọng trong việc phát hành trái phiếu. Lãi suất trái phiếu Chính phủ cũng như các công cụ lãi suất khác đều có hai mặt. Nếu lãi suất cao, các nhà đầu tư sẽ có lợi và lượng vốn huy động được lớn nhưng lại gây sức ép cho ngân sách khi thanh toán nợ. Điều này ngược lại khi lãi suất thấp. Đặc biệt với trái phiếu trung và dài hạn, lãi suất là một yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp đến khả năng huy động vốn. Một chính sách lãi suất hợp lý sẽ đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư, hấp dẫn họ đầu tư vào trái phiêu trung và dài hạn. Tại các nước có thị trường trái phiếu vốn phát triển, lãi suất TPCP được hình thành qua phương thức đấu thầu, không có sự can thiệp của Nhà nước. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, thị trường TPCP chưa phát triển nên chưa thể áp dụng cơ chế xác định lãi suất qua đấu thầu. Trước mắt cần duy trì cơ chế lãi suất trần để định hướng thị trường và tránh những tác động tiêu cực từ các tổ chức đầu tư. Khi thị trường vốn phát triển hoàn chỉnh hơn, từng bước sẽ xác định lãi suất theo hướng tự do hóa để lãi suất TPCP sát với tình hình thị trường. Tín phiếu Kho bạc có thể được áp dụng việc bỏ lãi suất trần đầu tiên vì hiện nay thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc đã có tính cạnh tranh lớn. Hơn nữa, tín phiếu Kho bạc có tính thanh khoản cao, độ rủi ro thấp nên lãi suất tín phiếu Kho bạc có thể coi là lãi suất chuẩn cho thị trường. 3.2.2.4. Tăng cường áp dụng kỹ thuật công nghệ trong quản lý và phát hành trái phiếu Hiện nay, công nghệ thông tin đang phát triển hết sức mạnh mẽ, do đó việc áp dụng thành tựu của những công nghệ này vào công tác huy động vốn của KBNN là rất cần thiết. Công nghệ tin học giúp cung cấp thông tin nhanh chóng, chính xác phục vụ công tác quản lý, đồng thời cung cấp dịch vụ thuận tiện cho nhà đầu tư, nhằm mục tiêu thúc đẩy sự phát triển thị trường TPCP, nâng cao hiệu quả huy động vốn. Do đó cần quan tâm và giải quyết các vấn đề sau: Đầu tư trang thiết bị hiện đại, cài đặt chương trình phần mềm quản lý công tác phát hành, thanh toán trái phiếu Chính phủ cho các đơn vị làm nhiệm vụ huy động vốn như KBNN, Bộ Tài chính, NHNN, Sở GDCK… Thực hiện nối mạng giữa các đơn vị này nhằm phục vụ cho quá trình cung cấp thông tin một cách chính xác, kịp thời, đầy đủ giữa các đơn vị nhằm đảm bảo cho công tác quản lý nợ của Chính phủ hiệu quả và an toàn. Ứng dụng công nghệ tin học tiên tiến vào công tác quản lý hoạt động giao dịch trái phiếu, rút ngắn thời gian của các món giao dịch, tiết kiệm chi phí và hạn chế sai sót. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức trung gian tài chính kết nối trực tiếp với Sở GDCK. Đồng thời tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc thanh toán chuyển giao trái phiếu và thanh toán tiền, kết nối với Trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ nhằm thực hiện các quyền đối với chủ sở hữu trái phiếu như thanh toán gốc, lãi, cầm cố và chiết khấu trái phiếu trong các quan hệ tín dụng. 3.2.3. Các giải pháp hỗ trợ hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước 3.2.3.1. Hoàn thiện khung pháp lý Thực tiễn hoạt động huy động vốn trong thời gian qua cho thấy việc ban hành một khuôn khổ pháp lý rõ ràng, ổn định có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn cũng như phát triển thị trường. Đặc biệt với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, khi chúng ta đang phát triền thị trường trái phiếu Chính phủ, việc hoàn thiện khung pháp lý càng trở nên cấp thiết Trước tiên, để đẩy mạnh sự phát triển của thị trường trái phiếu cần xây dựng đạo luật về huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Đạo luật này phải điều tiết toàn bộ thị trường TPCP, tạo ra một môi trường đồng bộ, thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Đồng thời phải quy định các vấn đề về phát hành, giao dịch và thanh toán TPCP nhằm đảm bảo công bằng, thông thoáng và bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư với mục đích cuối cùng là phát trỉển nền kinh tế. Thứ hai, những văn bản quy định liên quan đến thị trường TPCP cần phải thường xuyên được sửa đổi bổ sung để phù hợp với tình hình mới, đảm bảo đồng bộ với đạo luật nói trên. Thực hiện được những điều này sẽ tạo ra một khung pháp lý rõ ràng, chặt chẽ là tiền đề cho việc phát triển thị trường TPCP nhằm hướng tới mục tiêu: TPCP là hàng hóa chủ yếu trên thị trường chứng khoán trong giai đoạn đầu, lãi suất TPCP là lãi suất chủ đạo, cơ bản trên thị trường. 3.2.3.2. Phát triển đồng bộ các loại thị trường Sự phát triển thị trường trái phiếu được Chính phủ bảo đảm trước hết gắn với sự phát triển của thị trường tài chính. Thị trường tài chính là nơi gặp gỡ của cung và cầu về vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn có một vị trí hết sức to lớn. Do đó, xét trong mối quan hệ với các thị trường khác, thị trường tài chính có tác dụng cho phối, tạo điều kiên cho các loại thị trường khác. Đồng thời nó còn phản ánh chính xác trạng thái và xu thế của các thị trường đó. Nắm được mối quan hệ giữa thị trường tài chính và các loại thị trường khác, trong đó có thị trường TPCP, Nhà nước cần củng cố, phát triển và kiểm soát thị trường tài chính để có thể giải quyết sự khan hiếm vốn. Thị trường tài chính phát triển sẽ tạo điều kiện cho Chính phủ huy động và sử dụng vốn được thuận lợi, có hiệu quả. Vì vậy, để xây dựng và phát triển thị trường tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn và luân chuyển các nguồn vốn trong xã hội, cần quan tâm giải quyết các vẫn đề sau: - Cần có một lộ trình phát triển thị trường tài chính trong từng giai đoạn cụ thể, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. - Sắp xếp, cơ cấu lại hệ thống NHTM, tiếp tục phát triển và đồng bộ hóa thị trường tiền tệ, áp dụng công nghệ thanh toán tiên tiền trong hệ thống ngân hàng, nâng cao chất lượng tăng trưởng tín dụng, thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu, góp phần đồng bộ hóa thị trường tài chính. - Khi điều kiện cho phép cần từng bước tự do hóa các dịch vụ tài chính, tự do hóa lãi suất. Ngoài ra, việc vay nợ cần nằm trong giới hạn an toàn so với khả năng của nền kinh tế, đảm bảo nền tài chính quốc gia. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần quan tâm ổn định các thị trường ngoại hối, thị trường vàng, thị trường bất động sản. Đây là những thị trường có quan hệ hữu cơ với nhau. Ví dụ: nếu giá vàng tăng cao, lợi tức thu được từ hoạt động buôn bán bất động sản lớn, công chúng sẽ đầu tư vào thị trường vàng thay cho đầu tư vào thị trường TPCP. 3.2.3.3. Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô là điều kiện cần thiết khách quan để phát triển thị trường vốn nói chung và thị trường trái phiếu Chính phủ nói riêng. Khi kinh tế vĩ mô ổn định, thu nhập và tiết kiệm của người dân sẽ tăng lên, đây là điều kiện để người dân đầu tư nhiều hơn vào trái phiếu Chính phủ. Một quốc gia có nền kinh tế ổn định, tăng trưởng kinh tế bền vững, lãi suất trên thị trường hợp lý, tỷ giá hối đoái và lạm phát được kiểm soát chặt chẽ sẽ là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư và là điều kiện lý tưởng để huy động vốn thông qua phát hành TPCP. Nhà nước phải kiểm soát tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý vì tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm tăng cầu tài sản như vàng, bất động sản và giảm cầu về TPCP. Khi đó TPCP sẽ kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư do lãi suất thực bị giảm xuống vả rủi ro tăng lên. Bên cạnh đó, cần phải duy trì một mặt bằng lãi suất hợp lý và ổn định vì đây là nhân tố tác động trực tiếp đến tâm lý người đầu tư trước khi quyết định đầu tư vào một loại chứng khoán. Mặt khác, để phát triển thị trường TPCP, Nhà nước cần quan tâm ổn định thị trường ngoại hôi, thị trường vàng, thị trường bất động sản… Để tạo lập một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Chính phủ cần có chính sách kinh tế, chính sách tài chính tiền tệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước và xây dựng khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, đảm bảo thống nhất việc quản lý TPCP và thị trường TPCP. Cụ thể: Thứ nhất, xây dựng một hệ thống pháp lý đủ tạo lòng tin cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện để các tổ chức tài chính trung gian kinh doanh chứng khoán thuận lợi, đồng thời giúp Chính phủ huy động vốn có hiệu quả. Hơn nữa việc thực hiện công tác phát hành TPCP mới thực sự trở thành công cụ hàng đầu để quản lý nợ của nhà nước, điều tiết các nguồn tài chính, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khoán. Thứ hai, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế phải có nghĩa vụ với nhà nước và được đối xử bình đẳng. Thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Cải tiến cơ chế cấp phát tài chính bằng cách hạn chế, loại bỏ sự bao cấp, hỗ trợ về vốn dưới mọi hình thức đối với các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước nên khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước thông qua hình thức phát hành trái phiếu doanh nghiệp để đầu tư cho các công trình, dự án của mình. Khuyến khích, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển, khơi dậy tiềm năng của các thành phần kinh tế. Quán triệt quan điểm phát triển bền vững trên các lĩnh vực của nền kinh tế, hạn chế thấp nhất những biến đổi bất lợi trong quá trình phát triển kinh tế. Thứ ba, duy trì và thực hiện chính sách tài chính tiền tệ một cách hiệu quả. Nhà nước cần sử dụng tốt công cụ tài chính và công cụ tiền tệ để can thiệp kịp thời và phù hợp vào những thay đổi bất lợi của nền kinh tế nhằm phát triển nền kinh tế theo đúng định hướng. Thứ tư, quán triệt quan điểm cải cách hành chính nhà nước, nâng cao chất lượng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của nền kinh tế. Xác định rõ quyền lợi, nhiệm vụ của các bộ, ngành, các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương. Đào tạo, hoàn thiện và nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ làm công tác quản lý. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Đối với Quốc hội và Chính phủ Trên cơ sở của Nghị định 141/2003/NĐ-CP cải tiền cơ chế phát hành TPCP nhằm tạo điều kiện cho trái phiếu Chính phủ có đủ điều kiện niêm yết trên thị trường thứ cấp. Cần tạo các cơ chế về cầm cố, thế chấp trái phiếu, các kỳ hạn trái phiếu và lãi suất ổn định, thống nhất để tăng tính thanh khoản của trái phiếu. Ban hành các chính sách cụ thể nhằm khuyến khích chính quyền các tỉnh, thành phố thực hiện huy động vốn cho ngân sách tỉnh để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của tỉnh. Đảm bảo ổn định giá trị tiền tệ bằng mọi cách vì đây là vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động các nguồn vốn. Ổn định giá trị tiền tệ bao hàm cả việc kiềm chế lạm phát và khắc phục hậu quả của tình trạng giảm phát nếu xảy ra với nền kinh tế. Trong cả hai trường hợp, nó đều tác động tiêu cực đến nhu cầu đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, giá trị tiền tệ không ổn định sẽ ảnh hưởng đến lòng tin của dân chúng vào chính phủ. Để đạt được yêu cầu ổn định giá trị tiền tệ, Chính phủ cần phải tạo ra sự vận động đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường bao gồm cả lĩnh vực sản xuất vật chất, hệ thống tài chính và cơ chế phân phối lưu thông tương ứng. 3.3.2. Đối với Bộ Tài chính - Phối hợp với các cơ quan liên quan điều tra, tính toán chính xác nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức và khả năng huy động các nguồn vốn ngày cho NSNN và cho đầu tư phát triển. - Nghiên cứu, thực hiện các biện pháp nhằm thúc đẩy các hoạt động của thị trường chứng khoán, tạo môi trường thuận lợi cho trái phiếu Chính phủ đến với công chúng đầu tư. - Nghiên cứu, phân tích, dự báo tính hình biên động của thị trường vốn nói riêng và thị trường tài chính nói chung để từ đó đưa ra cơ chế chính sách lãi suất của trái phiếu Chính phủ phù hợp, theo kịp những biến động của thị trường, tránh những tổn thất không đáng có. Nghiên cứu việc xóa bỏ lãi suất trần đối với các phương thức đấu thầu và bảo lãnh. - Xây dựng dự toán NSNN hàng năm, trong đó tính toán số dự kiến huy động cho NSNN và cho đầu tư phát triển thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ tương đối chính xác cụ thể, tạo điều kiện cho công tác lập kế hoạch huy động của KBNN được chủ động, kịp thời. - Chủ động nghiên cứu các công tác huy động, các phương thức huy động mới có hiệu quả, phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay để tham mưu cho Chính phủ ra quyết định. KẾT LUẬN Huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước là một trong những công tác góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Việc thực hiện tốt công tác này không những tạo nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước mà nó còn là nguồn vốn dồi dào đáp ứng các nhu cầu cấp bách của đầu tư phát triển. Đồng thời, công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước cũng tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển của thị trường trái phiếu Chính phủ, thị trường chứng khoán, góp phần tạo ra công cụ hiệu quả để Nhà nước điều hành thị trường tiền tệ, thị trường tài chính. Tuy nhiên công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước trên thực tế vẫn bộc lộ nhiều bất cập. Mặc dù hành lang pháp lý đã khá hoàn chỉnh nhưng công tác huy động vốn nhưng hiệu quả chưa cao. Điều này được thể hiện ở khối lượng huy động thấp, chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho nền kinh tế; các quy chế quy định về cơ chế phát hành trái phiếu Chính phủ chưa được chú trọng nên không tạo điều kiện phát triển công tác phát hành; trái phiếu Chính phủ chưa thực sự đóng vai trò là hàng hoá chủ đạo trên thị trường vốn. Hơn nữa, Kho bạc Nhà nước chưa xây dựng được chiến lược, kế hoạch phát hành trong dài hạn… Thực trạng này đòi hỏi phải có những giải pháp vừa tổng hợp vừa chi tiết dựa trên sự nghiên cứu tương đối toàn diện về công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh thực hiện các chiến lược kinh tế dài hạn của đất nước. Cụ thể, cần hoàn thiện phương thức phát hành, nghiệp vụ phát hành và mục đích phát hành theo hướng coi trọng huy động vốn thông qua phát hành TPCP, gắn huy động vốn qua phát hành trái phiếu với hiệu quả sử dụng. Cùng với đó, phải hoàn thiện những khung pháp lý quy định về phát hành và thanh toán trái phiếu Chính phủ. Hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước là một vấn đề phức tạp và còn nhiều quan điểm khác nhau. Trong quá trình thực hiện chuyên đề, mặc dù đã rất cố gắng nhưng do tính chất phức tạp của vấn đề, cùng với hạn chế về kiến thức cũng như kinh nghiệm nghiên cứu nên chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để có thể hoàn thiện hơn bản chuyên đề này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26080.doc
Tài liệu liên quan