Chúng ta đang sống ở thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học - công nghệ, thế kỷ đỉnh cao về trí tuệ, trong đó giáo dục – đào tạo luôn được coi là nền móng đối với chiến lược phát triển con người và chiếm một vị trí trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trên tinh thần đó, mặc dù kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn nhưng sự nghiệp giáo dục – đào tạo vẫn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng phát triển, thể hiện ở việc ngân sách hàng năm dành cho giáo dục - đào tạo ngày một tăng lên. (năm 2007 là 55.300 tỷ đồng; năm 2008 là 66.770 tỷ đồng).
Chi ngân sách nhà nước nói chung và chi thường xuyên ngân sách nhà nước nói riêng cho giáo dục – đào tạo là một khoản chi lớn, vì vậy cần phải quản lý khoản chi này thật chặt chẽ và có hiệu quả. Xuất phát từ yêu cầu đó, đề tài đã đi sâu và giải quyết được những vấn đề sau: i) Khái quát được những vấn đề về NSNN và chi thường xuyên NSNN cho giáo dục - đào tạo, qua đó tìm hiểu về công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho giáo dục - đào tạo; ii) Đưa ra được thực trạng về công tác quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho giáo dục - đào tạo trên địa bàn tỉnh Sơn La qua các năm 2007, 2008 và 2009. iii) Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho giáo dục – đào tạo trên địa bản tỉnh Sơn La.
67 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2325 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho Giáo dục – đào tạo tại tỉnh Sơn La, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều hành và cấp phát kinh phí trực tiếp: Phải lập báo cáo quyết toán quý, năm gửi Sở Tài chính và Sở Giáo dục - đào tạo. Hàng năm, Sở Giáo dục - đào tạo tổ chức xét duyệt quyết toán năm cho các đơn vị trực thuộc, đồng thời tổng hợp quyết toán được duyệt gửi Sở Tài chính thẩm tra và ra thông báo phê duyệt quyết toán cho đơn vị.
- Đối với các đơn vị cấp huyện và các đơn vị cấp tỉnh nhưng do huyện trực tiếp điều hành và cấp phát kinh phí:
Các đơn vị phải lập báo cáo quyết toán quý, năm gửi phòng Tài chính huyện và phòng Giáo dục - đào tạo (đối với các đơn vị cấp huyện), gửi phòng Tài chính huyện và Sở Giáo dục - đào tạo (đối với các đơn vị trực thuộc Sở giáo dục - đào tạo). Phòng Tài chính huyện chủ trì phối hợp với phòng Giáo dục và đào tạo huyện duyệt quyết toán đối với các đơn vị trực thuộc huyện, Phòng Tài chính huyện duyệt báo cáo quyết toán đối với các đơn vị trực thuộc tỉnh. Sau khi duyệt báo cáo quyết toán của các đơn vị trên địa bàn, phòng Tài chính tổng hợp báo cáo quyết toán gửi Sở Tài chính và Sở Giáo dục - đào tạo để thẩm tra xét duyệt và ra thông báo phê duyệt quyết toán cho toàn huyện.
2.3 Đánh giá về công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho giáo dục – đào tạo trên địa bàn tỉnh Sơn La
2.3.1 Những kết quả đạt được
Trong giai đoạn 2007 – 2009, tỉnh Sơn La đã đạt được những thành tích đáng kể trong công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo, đó là:
- Cơ cấu chi thường xuyên NSNN cho giáo dục – đào tạo được bố trí hợp lý theo thứ tự ưu tiên từng nhóm chi
Việc bố trí Ngân sách theo từng nhóm chi tuỳ thuộc vào vai trò của chúng trong công tác dạy và học. Ở Sơn La thứ tự này là con người, nghiệp vụ chuyên môn, mua sắm sửa chữa và chi khác. Với vị trí đầu tiên cho con người chúng ta có thể thấy được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo dành cho vấn đề cơ bản trong lĩnh vực trồng người đó chính là đội ngũ giáo viên. Việc ổn định và từng bước cải thiện đời sống cho giáo viên là vấn đề rất quan trọng, nó là bước đệm để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Có ổn định đời sống của mình họ mới toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp dạy và học. Vị trí thứ hai là nhóm chi cho nghiệp vụ chuyên môn. Có thầy giỏi, trò tốt nhưng không đủ trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy và học thì sẽ rất khó có thể đạt được những thành tích cao vì vậy nên tỷ lệ ngân sách dành cho nghiệp vụ chuyên môn cũng được nâng cao dần. Xếp cuối là mua sắm sửa chữa và chi khác.
- Chất lượng công tác lập dự toán được nâng cao
Quy trình lập dự toán ngân sách về cơ bản được thực hiện đúng theo luật Ngân sách Nhà nước. Các đơn vị chủ động lập dự toán dưới sự hướng dẫn của cơ quan Tài chính các cấp. Trong quá trình lập và giao dự toán có sự phối, kết hợp giữa các cơ quan tài chính và cơ quan giáo dục, trên cơ sở đó có sự hướng dẫn thực hiện đối với các đơn vị trực thuộc, đảm bảo tính đúng đắn.
Việc lập dự toán được tiến hành qua nhiều bước, chịu sự giám sát của nhiều cơ quan chức năng và được thông báo công khai nhằm tăng tính trung thực, dân chủ, tạo điều kiện tốt cho công tác chấp hành dự toán.
Dự toán được lập theo đúng mẫu, đúng thời gian và chi tiết theo mục lục Ngân sách Nhà nước, có căn cứ tiêu chuẩn, định mức quy định.
- Quản lý chặt chẽ và thực hiện nghiêm túc quy trình phẩn bổ dự toán
Công tác phân bổ dự toán có những chuyển biến tích cực và cơ bản thực hiện đúng theo luật định:
+ Kho bạc Nhà nước đã phối hợp chặt chẽ với Sở Tài Chính và Sở Giáo dục – đào tạo phân bổ dự toán đầy đủ và tương đối kịp thời cho đơn vị thụ hưởng ngân sách. Việc kiểm soát chi qua KBNN đã cho phép hạn chế thấp nhất việc chi sai mục đích, chế độ hoặc vượt dự toán.
+ Thực tế cho thấy hầu hết kinh phí được sử dụng đúng mục đích theo dự toán đã được duyệt, phần lớn chứng từ chi là hợp lý, hợp lệ; tính hiệu quả tiết kiệm được nâng lên.
- Công tác quyết toán Ngân sách nhà nước thực hiện nghiêm túc và khoa học
+ Quy trình lập, gửi xét duyệt báo cáo quyết toán đã được tuân thủ chặt chẽ. Nhờ đó đảm bảo tính tập trung, dân chủ. Hơn nữa việc thực hiện xét duyệt qua nhiều cấp sẽ nâng cao tính chính xác, trung thực của các báo cáo quyết toán.
+ Nội dung báo cáo quyết toán theo đúng mục lục Ngân sách Nhà nước đã quy định, về cơ bản đã phản ánh đầy đủ các nội dung ghi trong dự toán.
- Tất cả các cấp chính quyền đều tham gia quản lý kinh phí sự nghiệp giáo dục – đào tạo
Cấp tỉnh có HĐND tỉnh, UBND tỉnh, Sở Tài chính, Sở Giáo dục – đào tạo, các trường THPT, TTGDTX, TTKTTH – HN. Cấp huyện có HĐND huyện, UBND huyện, phòng Tài chính - kế hoạch, phòng Giáo dục – đào tạo, các trường mầm non, tiểu học, THCS. Với sự tham gia quản lý đông đảo như vậy sẽ phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong công tác quản lý đối với chính quyền địa phương; tạo điều kiện để các tổ chức, đoàn thể, mặt trận tăng cường kiểm tra, giám sát việc phân bổ và sử dụng kinh phí sự nghiệp giáo dục.
- Thực hiện tốt công tác công khai tài chính
Toàn ngành giáo dục đã thực hiện đúng và đầy đủ nội dung công khai tài chính theo chế độ hiện hành. Việc công khai tài chính được thực hiện ở các mảng thu trong trường học, phân bổ ngân sách, báo cáo quyết toán và các chế độ chính sách.
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1 Những hạn chế
- Về xây dựng hệ thống định mức chi:
Ở Sơn La, trong những năm vừa qua, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều nỗ lực trong việc đầu tư Ngân sách cho Giáo dục và đào tạo, chi Ngân sách cho Giáo dục hàng năm đều có tăng lên nhưng nhìn chung chưa tương xứng với quy mô phát triển giáo dục. Nguồn Ngân sách tăng lên hàng năm vẫn chủ yếu do ngân sách Trung ương trợ cấp, khả năng chi trả nhờ có nguồn thu vượt dự toán của các cấp ngân sách ở địa phương là không đáng kể. Với nguồn Ngân sách Trung ương phân bổ còn hạn hẹp, dựa vào định mức chi trên đầu dân số, nếu áp dụng định mức phân bổ kinh phí trên đầu học sinh cho các đơn vị, cơ sở giáo dục sẽ gặp nhiều khó khăn xuất phát từ các lý do sau:
Thứ nhất, do tình trạng thiếu, thừa giáo viên ở cấp học Tiểu học, Trung học phổ thông đã và đang là một vấn đề nan giải đối với Sơn La, ở mỗi cấp học nêu trên lại có tình trạng giáo viên thuộc bộ môn xã hội thì thiếu, bộ môn tự nhiên lại thừa. Trong điều kiện chưa giải quyết được vấn đề này một cách hợp lý, vẫn phải đảm bảo các chế độ về tiền lương cho số giáo viên thừa, đồng thời phải chi trả tiền dạy thêm giờ đối với các trường có số lượng giáo viên thiếu. Vì vậy, nếu áp dụng các định mức chi tính trên đầu học sinh do Trung ương quy định, một số trường sẽ không đủ kinh phí để chi trả lương cho giáo viên.
Thứ hai, trong những năm qua, căn cứ vào nhu cầu thực tế tại địa phương UBND tỉnh đã ban hành một số cơ chế chính sách, chế độ về giáo dục và đào tạo như: cơ chế khuyến khích đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ, chế độ hỗ trợ giáo viên mầm non ngoài biên chế nhưng nguồn kinh phí không được Trung ương cân đối, tỉnh không có nguồn để bố trí chi cho các nội dung này mà chủ yếu lấy trong nguồn ngân sách Trung ương đã bố trí chi cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo hàng năm, khoản chi này cũng tương đối lớn. Đây cũng là một nguyên nhân làm giảm định mức chi tính trên đầu học sinh cho giáo dục và đào tạo.
Thứ ba, một số trường ở vùng cao không đáp ứng được tỷ lệ giáo viên/học sinh do số học sinh trên một lớp học không đảm bảo, giáo viên vẫn phải dạy các lớp ghép. Vì vậy, nếu áp dụng định mức chi trên đầu học sinh, một mặt, các trường ở vùng núi cao sẽ không đảm bảo kinh phí để hoạt động, mặt khác không đảm bảo công bằng về phân bổ Ngân sách cho các trường trong một vùng cũng như giữa thành phố, đồng bằng và miền núi...
Bên cạnh đó định mức phân bổ Ngân sách Trung ương quy định hiện nay cũng không tránh khỏi những tồn tại, tiêu chí làm căn cứ xây dựng định mức đối với một số lĩnh vực chưa phù hợp: chi đào tạo phân bổ theo học sinh phân chia quá chi tiết theo nhiều loại hình, không đảm bảo công bằng giữa các địa phương. Việc phân vùng và xác định hệ số định mức giữa các vùng đối với một số lĩnh vực chưa hợp lý. Từ khi ban hành định mức cho đến nay Nhà nước đã nhiều lần sửa đổi các chính sách, chế độ như việc thay đổi về mức lương tối thiểu, cấp học bổng cho học sinh,… đến nay, các khoản chi này đã trở thành chi thường xuyên của Ngân sách địa phương nhưng định mức này vẫn chưa được điều chỉnh, bổ sung kịp thời.
- Về công tác lập và phân bổ dự toán:
+ Dự toán chi tiết chi theo mục lục NSNN các đơn vị cơ sở lập không đáp ứng về mặt thời gian nên công tác thẩm tra, thông báo giao dự toán chi tiết theo mục lục NSNN của các cơ quan tài chính các cấp còn chậm so với quy định, làm ảnh hưởng tới công tác chấp hành Ngân sách trong các đơn vị trực tiếp chi tiêu.
+ Chưa coi trọng công tác lập dự toán chi ngân sách đúng như vị trí vốn có của nó. Vẫn còn tính trạng đơn vị trực tiếp chi tiêu không lập dự toán hàng năm mà các cơ quan tài chính hoặc cơ quan chủ quản cấp trên làm thay cho đơn vị, vì thế không đảm bảo quyền dân chủ của đơn vị. Mặt khác do khả năng ngân sách bị hạn chế, số hướng dẫn (số kiểm tra) lập dự toán thấp, dự toán các đơn vị cơ sở lập lại quá cao so với khả năng ngân sách có thể đáp ứng được nên việc xây dựng dự toán ở cơ sở đôi khi chỉ mang tính hình thức.
+ Việc công khai dự toán Ngân sách cho ngành, huyện và các đơn vị chưa thực hiện nghiêm túc.
+ Chất lượng dự toán nhìn chung chưa cao, thuyết minh dự toán còn sơ sài, dự toán của các đơn vị cơ sở chưa nêu được ưu, nhược điểm trong quá trình chấp hành dự toán năm trước, chưa nêu kiến nghị và biện pháp khắc phục năm kế hoạch. Một số đơn vị không tổng hợp vào dự toán tất cả các nguồn kinh phí mà đơn vị được hưởng như nguồn thu học phí, kinh phí chương trình dự án, dự toán lập ra chưa thực sự sát với thực tế nhu cầu kinh phí phát sinh tại các đơn vị, nên dẫn đến tình trạng khi thực hiện có mục thừa, mục thiếu, phải điều chỉnh dự toán gây chậm trễ trong thực hiện.
+ Việc tính toán, phân bổ Ngân sách cho giáo dục - đào tạo dựa trên phương pháp tính theo nhóm mục chi nhìn chung phù hợp trong điều kiện khả năng ngân sách hạn hẹp của Sơn La như hiện nay, nhưng phải nói rằng phương pháp tính toán khá phức tạp, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ với số lượng, chất lượng tương xứng mới đảm bảo được độ chính xác cao. Ở một giác độ nào đó, việc tính toán, phân bổ vẫn phụ thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan của người làm công tác kế hoạch, nên dễ xảy ra tình trạng không công bằng trong phân phối nguồn lực cho từng loại hình giáo dục - đào tạo cũng như cho từng đơn vị thụ hưởng ngân sách. Vì vậy về lâu dài, cần thiết phải xây dựng được một hệ thống định mức chi tổng hợp cho giáo dục và đào tạo phù hợp với tình hình thực tế của địa phương để làm cơ sở cho cơ quan tài chính lập dự toán sơ bộ và thẩm tra dự toán kinh phí của các đơn vị thụ hưởng.
- Về công tác điều hành và cấp phát chi ngân sách
+ Việc phân cấp cho các huyện quản lý, điều hành và cấp phát ngân sách trực tiếp cho các đơn vị trực thuộc Sở Giáo dục - đào tạo đóng trên địa bàn huyện là chưa phù hợp với phân cấp quản lý nhà nước về Giáo dục Đào tạo, vì vậy gây khó khăn trong việc tổ chức thực hiện các khâu lập dự toán và quyết toán ngân sách.
+ Do cơ chế quản lý cấp phát thời gian qua có sự thay đổi gây khó khăn, lúng túng cho cơ sở, đặc biệt là trong công tác quản lý cấp phát cho các chương trình mục tiêu, đồng thời việc thay đổi hệ thống mục lục Ngân sách Nhà nước cũng gây nhiều khó khăn cho đội ngũ quản lý trong công tác cấp phát, hạch toán, tổng hợp các khoản chi.
+ Phương thức thông báo mức chi (thường gọi là cấp hạn mức kinh phí) đang thực hiện như hiện nay thực tế là chia nhỏ dự toán chi hàng năm thành từng dự toán chi quý, tháng; do đó có ưu điểm là cơ quan tài chính có thể điều hành Quỹ NSNN phù hợp với khả năng ngân sách từng thời điểm trong năm. Tuy nhiên, phương thức này có nhược điểm là rất phức tạp, qua nhiều công đoạn trùng lặp (đơn vị sử dụng ngân sách phải lập kế hoạch chi; cơ quan tài chính duyệt kế hoạch chi, sau đó lại cấp hạn mức chi), từ đó dẫn đến thủ tục hành chính rườm rà, đòi hỏi nhiều nhân lực, giấy tờ.
+ Mặt khác, do dự toán không sát với tình hình thực hiện nhiệm vụ chi của quý đó, có một số khoản chi từ nguồn kinh phí dự phòng ngành, kinh phí sự nghiệp ngành,... các đơn vị đến quý IV mới triển khai, thực hiện nên việc cấp phát dồn vào các quý cuối năm, gây nên tình trạng kết dư ngân sách chuyển sang năm tại một số đơn vị cơ sở tương đối lớn.
- Về công tác quyết toán
+ Thời gian kiểm tra quyết toán theo quy định của Luật Ngân sách và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính không nhiều, số lượng cán bộ tham gia quyết toán có hạn, số lượng đầu mối kiểm tra rất lớn nên công tác kiểm tra, xét duyệt quyết toán còn theo kiểu "cưỡi ngựa xem hoa".
+ Hầu hết các đơn vị còn gửi quyết toán chậm so với quy định của Nhà nước. Chất lượng báo cáo quyết toán các đơn vị lập không cao, hồ sơ sổ sách kế toán một số đơn vị còn sơ sài, không đúng quy định gây khó khăn cho công tác kiểm tra, quyết toán.
+ Công tác kiểm tra quyết toán vốn đầu tư thực hiện tương đối chậm, nhiều công trình đã bàn giao đưa vào sử dụng thời gian khá dài nhưng chưa quyết toán được do chủ đầu tư chưa làm đầy đủ thủ tục. Mặt khác công tác quyết toán chủ yếu dựa vào hồ sơ công trình, không kiểm tra sổ sách báo cáo kế toán, cán bộ kiểm tra chưa có điều kiện đi kiểm tra thực tế.
+ Công tác thẩm tra quyết toán kinh phí thường xuyên của NSNN cho giáo dục - đào tạo trong những năm qua nhìn chung còn chậm so với quy định, số lượng các đơn vị được thẩm tra, thông báo duyệt y quyết toán chưa nhiều, hàng năm ở cấp huyện mới chỉ thẩm tra xét duyệt và ra thông báo duyệt y quyết toán cho khoảng 60-70% các đơn vị trực thuộc, các đơn vị còn lại chỉ mới dừng ở khâu tổng hợp báo cáo quyết toán.
+ Việc tổng hợp quyết toán đối với một số đơn vị trực thuộc Sở giáo dục - đào tạo hàng năm hầu như không thực hiện được.
+ Kinh phí chưa quyết toán chuyển sang năm sau tại một số đơn vị (nhất là các đơn vị cấp tỉnh như trường Cao đẳng, các trường THCN) còn rất lớn
- Về công tác quản lý sử dụng nguồn kinh phí
Bên cạnh việc quản lý chi tiêu các khoản chi thuộc nhóm mục chi cho con người tương đối tốt thì việc chấp hành chế độ chi tiêu tại các đơn vị cơ sở vẫn còn một số tồn tại, cụ thể là:
+ Công tác kiểm tra việc quản lý sử dụng kinh phí thường xuyên ở các đơn vị cơ sở làm chưa tốt, chủ yếu mới dùng ở việc đi duyệt quyết toán cho các đơn vị cơ sở khi hết năm. Hàng năm, chưa thực hiện được việc đánh giá tình hình chi tiêu, hiệu quả chi tiêu của các nhóm mục chi vì vậy chưa tiến hành phân tích rút kinh nghiệm cho công tác quản lý tốt hơn, có hiệu quả hơn.
+ Nhiều khoản chi không tuân theo tiêu chuẩn, định mức, thủ tục quy định, như chi hội nghị, công tác phí, có đơn vị khi mua sắm trang thiết bị không làm đầy đủ các thủ tục duyệt giá theo quy định.
+ Vẫn còn tình trạng một số đơn vị sử dụng kinh phí không đúng mục đích, không triển khai nhiệm vụ chi như kế hoạch đã được duyệt.
+ Hạch toán các khoản chi còn chưa đúng với mục lục NSNN hiện hành, nhất là đối với một số khoản chi mua sắm, sửa chữa. Một số khoản chi không có trong dự toán được duyệt nhưng đơn vị vẫn thực hiện, cuối năm đơn vị lại làm thủ tục xin điều chỉnh mục chi để hợp lý hoá thủ tục cho các khoản chi đó.
2.3.2.2 Nguyên nhân
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan như số lượng đơn vị quản lý tương đối lớn, đa dạng địa bàn quản lý rộng; hệ thống văn bản chế độ thường xuyên thay đổi, công tác tập huấn không đáp ứng được kịp thời gây khó khăn cho đơn vị khi thực hiện; do tiêu cực của cơ chế thị trường tác động trực tiếp đến đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, kế toán tại các đơn vị cơ sở thì phần lớn để xảy ra tình trạng nêu trên xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan là:
Một là, do cơ chế phân cấp quản lý ngân sách đối với các đơn vị giáo dục - đào tạo của tỉnh hàng năm có một số điểm không phù hợp, chưa được hoàn thiện.
Từ sự bất hợp lý trong việc phân định chức năng quản lý đối với một số đơn vị giáo dục - đào tạo cấp tỉnh đóng trên địa bàn huyện trong thời gian qua đã gây không ít khó khăn trong công tác quản lý chi ngân sách. Đây cũng chính là nguyên nhân gây ra sự chồng chéo trong công tác lập, phân bổ dự toán; thẩm tra, xét duyệt dự toán và quyết toán ngân sách đối với các đơn vị này.
Hai là, hệ thống tiêu chuẩn, định mức chi nói chung vẫn còn một số bất cập, chưa được hoàn thiện đầy đủ, chưa phù hợp với tình hình thực tế địa phương.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc cụ thể hoá các tiêu chuẩn, định mức chi tiêu cho phù hợp với tình hình thực tế trên địa bàn nhưng nhìn chung, hệ thống định mức chỉ tương đối đầy đủ và khá hoàn thiện trong lĩnh vực chi đầu tư XDCB, còn trong lĩnh vực chi thường xuyên cho giáo dục - đào tạo ở địa phương thì hệ thống định mức chưa được đầy đủ như đã nêu trên. Đây cũng là một khâu yếu trong quá trình quản lý chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo.
Mặt khác tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu một số khoản chi chưa cụ thể, rõ ràng có khoản chi như tiếp khách, các văn bản hướng dẫn của Trung ương cũng như địa phương còn rất chung chung. Không quy định giới hạn về mức tiếp khách một cách cụ thể, các đơn vị rất dễ lợi dụng sơ hở này. Hệ thống mục lục Ngân sách hiện hành cũng không cho phép phân tách rành mạch khoản chi này, vì vậy thông thường các khoản chi này các đơn vị quyết toán lẫn lộn vào mục 134 (chi khác) để tránh sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan có thẩm quyền.
Ba là, chưa thực hiện tốt việc phối hợp trong quản lý giữa Sở Giáo dục - đào tạo với các Sở, ngành khác và các huyện, vẫn có tình trạng đùn đẩy về trách nhiệm quản lý giữa các ngành, các cấp.
Thời gian qua, một số ngành nhận thức chưa đầy đủ về Luật Ngân sách, cơ chế phân công phân cấp quản lý và điều hành ngân sách và cho rằng Ngân sách chi cho các đơn vị giáo dục - đào tạo do Sở Tài chính trực tiếp cấp phát nên việc quản lý được đùn đẩy sang Sở Tài chính hoặc đối với một số huyện được uỷ quyền thì cho rằng kinh phí chi cho giáo dục - đào tạo theo hình thức uỷ quyền thực chất là chi hộ cho tỉnh, vì vậy dễ buông lỏng trong quản lý.
Bốn là, cán bộ quản lý của các ngành chưa sắp xếp được công việc một cách hợp lý, vẫn sa vào công tác sự vụ, ít bám sát cơ sở. Vì vậy, thời gian dành cho công tác kiểm tra, hướng dẫn các đơn vị cơ sở không nhiều nên không uốn nắn được kịp thời những sai sót tại cơ sở, chưa tìm ra biện pháp khắc phục trong quản lý chi tiêu.
Năm là, công tác quản lý tài chính tại các đơn vị chưa được coi trọng đúng mức, lãnh đạo một số đơn vị chưa thực sự quan tâm đến công tác quản lý tài chính, chưa tạo được cơ chế giám sát thường xuyên của tập thể cán bộ công nhân viên đối với việc chi tiêu của chủ tài khoản và kế toán…, chưa thực hiện nghiêm túc quy chế công khai tài chính, có hiện tượng còn khoán trắng cho một số người trong việc sử dụng kinh phí được cấp.
Sáu là, yếu tố con người trong công tác quản lý chi Ngân sách cho giáo dục - đào tạo trong thời gian qua chưa được chú trọng đúng mức: Số lượng cán bộ trực tiếp theo dõi quản lý được bố trí ở các phòng, ban thuộc các Sở và huyện như hiện nay trên thực tế không đáp ứng được nhiệm vụ quản lý chi Ngân sách cho giáo dục - đào tạo.
Bảy là, cơ quan KBNN các cấp chưa thực hiện tốt quy trình quản lý, kiểm soát các khoản chi NSNN theo quy định tại thông tư 40/1998/TT/BTC ngày 31/3/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN, do nể nang các đơn vị dự toán mà các cơ quan kho bạc tiến hành cho thanh toán các khoản chi khi chưa đầy đủ các hồ sơ, thủ tục, không đúng chế độ quy định.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NSNN CHO GD – ĐT TẠI TỈNH SƠN LA
3.1 Định hướng của tỉnh Sơn La cho vấn đề GD - ĐT
3.1.1 Định hướng chung của Nhà nước
Ngày 15/4/2009, Bộ Chính trị ban hành kết luận về phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020 đó là:
Thứ nhất: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên, mở rộng quy mô giáo dục hợp lý. Theo đó, cần coi trọng cả ba mặt dạy làm người, dạy chữ, dạy nghề; đặc biệt chú ý giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, lịch sử, truyền thống văn hóa dân tộc, giáo dục về Đảng…
Thứ hai: Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo. Theo đó, chấn chỉnh, sắp xếp lại hệ thống các trường đại học, cao đẳng, cán bộ giảng dạy, cơ sở vật chất, trang thiết bị và đầu vào của sinh viên; không duy trì các trường đào tạo có chất lượng kém. Thực hiện phân cấp, tạo động lực và tính chủ động của các cơ sở giáo dục. Tăng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đối với các trường…
Thứ ba: Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng.
Thứ tư: Tiếp tục đổi mới chương trình, tạo chuyển biến mạnh mẽ về phương pháp giáo dục. Theo đó, rà soát lại toàn bộ chương trình và sách giáo khoa phổ thông. Sớm khắc phục tình trạng quá tải, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa khuyến khích đúng mức tính sáng tạo của người học; chuẩn bị kỹ việc xây dựng và triển khai thực hiện bộ chương trình giáo dục phổ thông mới theo hướng hiện đại, phù hợp và có hiệu quả…
Thứ năm: Tăng nguồn lực cho giáo dục. Theo đó, miễn học phí cho học sinh, sinh viên gia đình chính sách, hộ nghèo; giảm học phí cho học sinh, sinh viên gia đình nghèo và hỗ trợ cho HS,SV các hộ có thu nhập thấp…
Thứ sáu: Đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục.Nhà nước tập trung đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, từng bước giảm sự chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền…
Đặc biệt chú ý đến con thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với nước, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và học sinh khuyết tật thông qua phát triển các loại quỹ khuyến học, khuyến tài trong các tổ chức xã hội, trong các cộng đồng dân cư.
Thứ bảy: Tăng cương hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Giáo dục trong thời kỳ hội nhập quốc tế càng cần phải bảo đảm phát triển bền vững, không ngừng nâng cao chất lượng, phát huy tối đa nội lực, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước tiếp cận nền giáo dục tiên tiến thế giới. Mở rộng hợp tác đào tạo đa phương gắn với việc tăng cường công tác quản lý nhà nước.
3.1.2 Định hướng của tỉnh Sơn La
Toàn ngành giáo dục tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; gắn với 3 cuộc vận động và phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Các huyện, thành phố tiếp tục rà soát theo chuẩn và có các biện pháp cụ thể duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học - xoá mù chữ; phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở trên địa bàn.
Các cấp quản lý giáo dục tập trung đổi mới xây dựng kế hoạch cụ thể để chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ năm học:
+ Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học; kế hoạch tổ chức các phong trào thi đua trong năm học; đổi mới công tác chỉ đạo điều hành của Ban giám hiệu; công tác phối hợp giữa nhà trường với các tổ chức đoàn thể; kế hoạch cụ thể để khắc phục học sinh có hoàn cảnh khó khăn có nguy cơ bỏ học.
+ Triển khai áp dụng chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học; tổ chức đánh giá giáo viên trung học và Hiệu trưởng, Giám đốc TTGDTX, chuẩn nghiệp vụ giáo viên TCCN theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
+ Tiếp tục tổ chức thanh tra định kỳ, đột xuất, thanh tra toàn diện, thanh tra chuyên môn, thanh tra chuyên đề ở các cấp học, đồng thời đẩy mạnh công tác tự kiểm tra đánh giá chất lượng.
+ Kiểm tra công tác mua sắm thiết bị dạy học và đánh giá chất lượng, công tác bảo quản, hiệu quả khai thác sử dụng thiết bị dạy học trong các cơ sở giáo dục; kiểm tra thực hiện chuyên môn, hồ sơ chuyên môn, các loại hồ sơ trường học.
+ Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý giáo dục và trong dạy - học; thực hiện kết nối Internet đối với các trường đã có điện lưới.
Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục:
+ Khắc phục tình trạng thiếu phòng học, thiếu giáo viên ở một số bộ môn; đồng thời bố trí, sắp xếp giáo viên hợp lý để tiếp tục thực hiện kế hoạch phụ đạo học sinh yếu, kém trong các trường học.
+ Tiếp tục tổ chức kiểm tra, thi thử tốt nghiệp lớp 12 bằng các hình thức ra đề thi chung, tổ chức chấm chung trong toàn huyện hoặc chấm chéo giữa các trường trong các huyện, thành phố. Coi trọng việc phân tích kết quả kiểm tra, đánh giá, thi cử (kết quả đánh giá xếp loại học lực, kết quả thi giữa năm học, kết quả giữa các kỳ thi
khác nhau) để qua đó giáo viên điều chỉnh hoạt động giảng dạy và học tập, giúp học sinh biết tự đánh giá để định hướng vươn lên trong học tập.
+ Thường xuyên báo cáo và công khai chất lượng giáo dục của từng môn, từng khối lớp, từng trường để giáo viên, học sinh và nhân dân cùng theo dõi, giám sát tiến độ, kết quả quá trỉnh tổ chức thực hiện.
Hoàn thành Kế hoạch xây dựng các trường mầm non, phổ thông tỉnh Sơn La đạt chuẩn quốc gia, giai đoạn 2010-2015 để trình phiên họp UBND tỉnh. Trước mắt, tập trung các điều kiện hoàn thiện các tiêu chí và đề nghị kiểm tra công nhận cho các truờng đăng ký đạt chuẩn quốc gia năm học 2009-2010. Xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục 5 năm 2011-2015 và Kế hoạch năm học 2010-2011.
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng "Trường học thân thiện, học sinh tích cực"; Các đơn vị, trường học tiếp tục đánh giá theo 5 nội dung của phong trào thi đua, cụ thể hoá các yêu cầu dạy tốt, học tốt; tập trung để giải quyết dứt điểm những yếu kém trong công tác chỉ đạo, triển khai ở năm học trước và phấn đấu để có: 100% các trường học có các công trình vệ sinh, đảm bảo thường xuyên sạch sẽ.
Tiếp tục thực hiện cuộc vận động quyên góp ủng hộ quần áo, sách vở, dụng cụ học tập cho học sinh vùng khó khăn. Phấn đấu thực hiện được yêu cầu "3 đủ" đối với học sinh và không có học sinh bỏ học vì điều kiện gia đình gặp khó khăn.
3.2 Giải pháp hoàn thiện quản lý chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT tại tỉnh Sơn La
3.2.1 Tăng cường công tác quản lý chi thường xuyên NSNN dành cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo tại các đơn vị tài chính các cấp
Trong công tác quản lý tài chính, việc áp dụng một quy trình quản lý chặt chẽ, phù hợp và khoa học sẽ góp phần tăng hiệu quả trong công tác quản lý: tránh thất thoát, sử dụng lãng phí nguồn vốn ngân sách nhà nước.
- Quy trình lập dự toán cần hoàn thiện theo hướng gọn nhẹ nhưng phải đảm bảo đúng theo quy định của luật Ngân sách nhà nước.
Hàng năm, Sở Tài chính phối hợp với Sở Giáo dục - đào tạo cần có hướng dẫn quy trình lập dự toán chung cho các đơn vị giáo dục - đào tạo; cần quy định rõ về thời gian, hướng dẫn mẫu biểu dự toán cụ thể đồng thời cần phải giao số kiểm tra kịp thời cho từng đơn vị dự toán.
Việc lập dự toán ở các đơn vị cơ sở phải căn cứ vào tình hình thực hiện năm trước để đảm bảo độ chính xác nhất định, tránh tình trạng dự toán các đơn vị lập nên quá cao, gây khó khăn cho công tác thẩm định, xét duyệt dự toán.
- Trong phân bổ ngân sách, bên cạnh việc xây dựng hệ thống định mức chi cho giáo dục - đào tạo, cần thiết phải công khai một cách rộng rãi các nguyên tắc, phương pháp phân bổ dự toán chi tiết cho các đơn vị thuộc huyện, ngành theo mục lục Ngân sách nhà nước, từng bước xác định hệ thống các nguyên tắc, phương pháp phân bổ chuẩn mực làm cơ sở cho việc phân khai dự toán chi tiết chi ngân sách cho các đơn vị dự toán.
- Trong cấp phát ngân sách, phải bám sát tình hình thực hiện nhiệm vụ của ngành, đơn vị và dự toán năm của các đơn vị để cấp phát, tránh tình trạng một số khoản kinh phí để dồn đến cuối năm mới cấp phát, gây khó khăn cho các đơn vị.
Để khắc phục những tồn tại trong phương thức cấp phát hiện nay, cần cải tiến quy trình cấp phát chi ngân sách cho Giáo dục - đào tạo theo hướng như sau:
+ Căn cứ vào dự toán NSNN đã được giao, các đơn vị sử dụng ngân sách phân bổ dự toán chi cho từng quý, đăng ký với KBNN, cơ quan tài chính để bố trí kinh phí thực hiện.
+ Căn cứ vào dự toán chi, yêu cầu tiến độ triển khai công việc và điều kiện chi ngân sách, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách ra lệnh chuẩn chi gửi KBNN.
+ KBNN kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu cần thiết theo quy định của pháp luật và thực hiện thanh toán khi có đủ các điều kiện quy định của Luật theo phương thức thanh toán trực tiếp.
Quy trình trên phù hợp với tiến trình cải cách hành chính Nhà nước. Tuy nhiên đây là quy trình mới nên đòi hỏi nhiều yếu tố đồng bộ như: nâng cao chất lượng dự toán ngân sách, tăng cường dự trữ tài chính, ý thức tôn trọng kỷ luật của các đơn vị thụ hưởng và khả năng kiểm soát chi của KBNN. Vì vậy, trong thời gian tới khi chưa có đủ điều kiện để thực hiện đồng bộ các yêu cầu trên nhằm tăng cường tính chủ động của đơn vị sử dụng ngân sách, cần phải cải tiến công tác cấp phát hạn mức ngân sách theo quý đang thực hiện hiện nay sang điều hành, cấp phát theo hạn mức 6 tháng. Khi công tác này đã đi vào ổn định sẽ tiến hành thực hiện điều hành theo dự toán được duyệt hàng năm.
- Đối với công tác quyết toán và kiểm toán các khoản chi:
Vấn đề đặt ra hiện nay là việc sử dụng kinh phí của NSNN thuộc quyền hạn, trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí NSNN và thủ trưởng đơn vị dự toán cấp trên. Cơ quan tài chính không có điều kiện theo dõi, kiểm tra tình hình chi tiêu cụ thể ở từng đơn vị theo từng nội dung nghiệp vụ và từng chứng từ chi tiêu. Do đó, không đủ căn cứ để khẳng định tính đúng đắn của số liệu cũng như loại bỏ hết những sai phạm khi kiểm tra quyết toán.
Cải tiến công tác quyết toán chi ngân sách cho giáo dục đào tạo cần xác định rõ ràng thẩm quyền trách nhiệm xét duyệt quyết toán của cơ quan tài chính, trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị giáo dục - đào tạo. Cụ thể là:
+ Thực hiện nguyên tắc người nào duyệt chi sai chế độ, sai dự toán được duyệt thì người đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
+ Việc đánh giá thực hiện ngân sách không chỉ là chấp hành đúng chế độ, đúng tiêu chuẩn, mà còn phải đánh giá kết quả và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được giao. Do vậy, trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị cấp trên, đơn vị được quyền giao dự toán chi ngân sách và nhiệm vụ cho đơn vị sử dụng ngân sách là thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, phê duyệt việc chi tiêu, sử dụng ngân sách gắn với kết quả thực hiện những nhiệm vụ chuyên môn được giao.
+ Thể hiện đúng tính chất nhiệm vụ của cơ quan tài chính đảm nhận, đó là kiểm tra tính đúng đắn, hợp lệ nguồn tài chính, sử dụng tài chính - ngân sách và công tác thực hiện chế độ kế toán…
Để thực hiện tốt các nội dung trên, trong quá trình quyết toán ngân sách cho các đơn vị giáo dục đào tạo nhất thiết phải có sự phối hợp giữa cơ quan quản lý và cơ quan cấp phát, xoá bỏ tình trạng hiện nay là một số cơ quan, đơn vị trực thuộc tỉnh đóng trên địa bàn huyện chỉ có một cơ quan duy nhất là Phòng Tài chính huyện duyệt quyết toán, bỏ qua vai trò quản lý của Sở giáo dục - đào tạo.
Bên cạnh đó, quá trình quyết toán phải kiên quyết xuất toán các khoản chi sai chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu và thu hồi giảm chi NSNN đối với các khoản chi sai chế độ này, khắc phục tình trạng cơ quan tài chính các cấp khi tiến hành quyết toán chi NSNN cho các đơn vị khi phát hiện các sai phạm có nêu kiến nghị xử lý nhưng lại không có biện pháp xử lý dứt điểm, để kéo dài không có thông báo duyệt y quyết toán cho các đơn vị.
3.2.2 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát ngân sách cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo ở KBNN
Với chức năng quản lý quỹ NSNN và là đơn vị được Nhà nước giao nhiệm vụ kiểm soát các khoản chi NSNN. KBNN thực hiện kiểm soát chi khi thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN đã chuẩn chi, chính vì vậy để tránh sự chồng chéo về nội dung kiểm soát giữa cơ quan Tài chính và Kho bạc Nhà nước cần xác định rõ nội dung kiểm soát của Kho bạc Nhà nước, có như vậy mới phân định chức năng nhiệm vụ của các đơn vị trong quá trình quản lý chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo.
Phạm vi kiểm soát chi của Kho bạc Nhà nước là kiểm tra tính hợp pháp và hợp lý của hồ sơ, chứng từ mua bán; tính hợp pháp của các chữ ký của người chuẩn chi và kế toán trưởng đơn vị; số tiền chi trả có nằm trong dự toán được duyệt và có đúng mục lục ngân sách hay không và cuối cùng là việc tuân thủ các định mức, tiêu chuẩn chi tiêu ngân sách Nhà nước hiện hành. Cơ quan Kho bạc Nhà nước trực tiếp chi tiền của ngân sách cho các đơn vị cần phải thực hiện kiểm tra các điều kiện và thực hiện cấp tiền theo lệnh của cơ quan tài chính. Cơ quan Kho bạc Nhà nước có thể đình chỉ việc chi tiêu trong trường hợp không đủ các điều kiện và sử dụng tiền được cấp không đúng quy định.
Ngoài việc kiểm tra, kiểm soát các nội dung nêu trên. Hiện nay, Kho bạc nhà nước các cấp cần quan tâm đến việc kiểm soát một cách chặt chẽ tồn quỹ tiền mặt tại các đơn vị sử dụng ngân sách, hạn chế khối lượng tiền mặt tồn dư tại các đơn vị quá lớn
Khi tăng cường kiểm tra của các cơ quan chức năng không có nghĩa là hạ thấp vai trò kiểm soát nội bộ của các cơ quan quản lý giáo dục mà kiểm soát nội bộ cũng phải thực hiện đều đặn, hỗ trợ tích cực cho công tác kiểm tra của các cơ quan chức năng, để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi phải thực hiện nghiêm túc quy chế công khai tài chính đối với các đơn vị dự toán.
3.2.3 Xây dựng cơ cấu chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT tại tỉnh một cách hợp lý
Cơ cấu chi ngân sách cho Giáo dục - đào tạo một mặt phải đảm bảo cân đối nguồn tài chính phù hợp với cơ cấu giáo dục - đào tạo hiện có. Mặt khác thông qua cơ cấu chi ngân sách Nhà nước có tác dụng to lớn trong việc điều chỉnh cơ cấu giáo dục phát triển theo định hướng chung của Nhà nước. Chỉ có trên cơ sở một cơ cấu chi hợp lý mới tạo điều kiện cho việc quản lý đồng vốn đầu tư của NSNN cho giáo dục - đào tạo có hiệu quả.
Nội dung hoàn thiện cơ cấu chi thường xuyên NSNN cho giáo dục - đào tạo:
- Nâng dần tỷ trọng chi cho đào tạo trong tổng chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo để xúc tiến loại hình này phát triển nhanh, đáp ứng yêu cầu về số lượng cán bộ, công nhân kỹ thuật lành nghề phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh.
- Điều chỉnh lại cơ cấu chi ngân sách cho các phân ngành trong khối giáo dục một cách hợp lý hơn: quan tâm hơn đến việc đầu tư ngân sách cho giáo dục mầm non, nâng dần tỷ trọng chi cho khối THCS và THPT trong khối giáo dục một cách hợp lý, phù hợp với xu hướng tăng học sinh ở các cấp học này.
- Hoàn thiện cơ cấu các nhóm mục chi trong chi thường xuyên:
Cơ cấu các nhóm mục chi trong chi tiêu thường xuyên hợp lý hay không có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện các hoạt động thường xuyên diễn ra ở các cơ sở giáo dục - đào tạo, trong đó có những tác động trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng và quy mô giáo dục như hoạt động chuyên môn, mua sắm trang thiết bị, củng cố cơ sở vật chất trường học.
Những năm vừa qua, do kinh phí ngân sách Nhà nước cấp còn hạn hẹp nên phần chi cho các hoạt động cần thiết tức thì như chi cho con người chiếm tỷ trọng phần lớn, phần chi cho hoạt động giảng dạy, học tập và chi cho mua sắm, sửa chữa chữa chưa được chú ý thích đáng.
Đứng trước yêu cầu nâng cao chất lượng quy mô giáo dục - đào tạo, cần thiết phải hoàn thiện cơ cấu các nhóm mục chi trong chi thường xuyên cho giáo dục - đào tạo. Việc hoàn thiện cơ cấu nhóm mục chi phải trên cơ sở xác định thứ tự ưu tiên của các nhóm mục chi một cách chuẩn xác để làm cơ sở cho việc lập, duyệt và chấp hành ngân sách, tạo điều kiện cho công tác thanh tra, kiểm tra chi tiêu và kiểm tra quyết toán được chính xác và phải đạt được các yêu cầu sau: Đáp ứng đủ mức chi thường xuyên cho con người; chi hoạt động giảng dạy phải đảm bảo ở mức hợp lý; giảm dần tỷ trọng chi quản lý ở mức vừa phải, hạn chế và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi hội nghị, tiếp khách trong chi quản lý...
Trong điều kiện nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn hạn hẹp hiện nay, theo em những năm tới, chi thường xuyên cho giáo dục - đào tạo cần phải đảm bảo được cơ cấu giữa chi lương/ngoài lương ở mức tối thiểu là 80/20, trong đó chi cho hoạt động giảng dạy đảm bảo ở mức tối thiểu theo quy định tại thông tư 30/TT-GD của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3.2.4 Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý
Hàng năm vốn đầu tư cho giáo dục từ Ngân sách là rất lớn, bên cạnh đó còn có cả các nguồn vốn ngoài Ngân sách. Việc quản lý và sử dụng các nguồn vốn đó như thế nào để đạt hiêụ quả cao, đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành giáo dục trong những năm tới là điều vô cùng quan trọng.
Trong các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của công việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ngân sách thì nhân tố giữ vai trò quyết định thuộc về con người. Chính trình độ năng lực, ý thức của người quản lý sẽ có ảnh hưởng trực tiếp. Vì vậy hàng năm phải tiến hành kiểm tra trình độ quản lý, trình độ kế toán của các cán bộ phòng tài chính, cán bộ trường nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn, sử dụng đồng vốn cấp ra đúng mục đích. Bên cạnh đó phải tiến hành tổ chức các lớp học về kế toán hành chính sự nghiệp cho kế toán các trường bởi vì hầu hết kế toán các trường hiện nay đều mới ở trình độ trung cấp hoặc một số kế toán khác thì đang học đai học tại chức nên thường xuyên không đáp ứng được nhu cầu thực tế hiện nay khi mà các chính sách, chế độ kế toán mới ban hành. Việc kiểm tra trình độ quản lý, kế toán của các cán bộ phải tiến hành đều đặn, liên tục, một mặt giúp nắm vững được trình độ thực tế của đội ngũ cán bộ để từ đó có hướng đào tạo lại phù hợp, mặt khác qua những đợt kiểm tra thi mỗi cán bộ sẽ có ý thức phấn đấu để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong công tác đào tạo, tuyển chọn đội ngũ các cán bộ kế cận thì cần phải lựa chọn những người có đủ năng lực, trình độ nghiệp vụ chuyên môn, được đào tạo chính quy tránh tình trạng ưu tiên con em của các cán bộ trong ngành mà không đáp ứng được trình độ chuyên môn.
Trong quá trình tuyển dụng cần quan tâm đến trình độ thực tế chứ không chỉ là bằng cấp vì nhiều khi trình độ thực tế lại không tương xứng với trình độ đạt đựợc trên bằng cấp. Cùng với đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn thì cần đẩy mạnh công tác giáo dục về tư tưởng để làm trong sạch đội ngũ cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ liêm chính, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc.
Nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cùng với việc nâng cao ý thức trách nhiệm làm việc của mỗi cán bộ sẽ làm cho cả hệ thống bộ máy quản lý được vận hành tốt hơn; là điều kiện đảm bảo cho việc quản lý cấp phát kinh phí của ngành tài chính cũng như việc quản lý sử dụng các khoản chi trong thời gian tới đạt kết quả cao.
3.2.5 Các giải pháp hỗ trợ khác
a) Khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý tài chính ở các trường học
Là những đơn vị dự toán ngân sách, trực tiếp sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, các trường học phải quán triệt những yêu cầu được đặt ra trong việc quản lý tài chính như sau:
- Thực hiện hạch toán một cách đầy đủ, rõ ràng các nguồn vốn được hưởng: nguồn vốn Ngân sách cấp được hạch toán riêng với nguồn vốn ngoài Ngân sách. Từ đó sẽ thuận lợi cho cơ quan tài chính trong việc thanh, kiểm tra tình hình sử dụng kinh phí, mặt khác các trường có kế hoạch quản lý, chi tiêu theo đúng quy định của nhà nước.
- Phải có hệ thống sổ sách ghi chép, bảng biểu phù hợp với quy mô của trường học và phù hợp với quy định chung của Bộ Tài chính, Sở tài chính, nhằm đảm bảo sự thống nhất, tạo điều kiện cho việc theo dõi quản lý tài chính được chặt chẽ chính xác.
- Xác định rõ ràng vai trò và trách nhiệm của chủ tài khoản trong quản lý tài chính của đơn vị. Từ đó tạo điều kiện cho việc quản lý được thu về một mối, thiết lập được tính kỷ luật, kỷ cương trong quản lý tài chính.
b) Thực hiện tốt công tác tuyên truyền về vai trò của giáo dục đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và trách nhiệm của nhân dân
Tổ chức tốt các biện pháp tuyên truyền về vai trò của giáo dục để nhân dân thấy rõ tầm quan trọng của chiến lược phát triển con người đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ có phát triển nguồn nhân lực một cách hợp lý, cân đối lao động giữa các ngành nghề, kết hợp với đội ngũ lao động trí thức mới là động lực quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.
Ngoài các hình thức tuyên truyền về vai trò của giáo dục còn để nhân dân nhận thức được rằng: sự nghiệp giáo dục không chỉ riêng của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của nhân dân, xây dựng một nền giáo dục toàn dân, nhân dân có trách nhiệm cùng nhà nước xây dựng sự nghiệp giáo dục ngày càng vững mạnh.
3.3 Kiến nghị
Để có thể thực hiện tốt các giải pháp đã nêu, theo em cần phải có những điều kiện đảm bảo sau đây:
Thứ nhất: phải có sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương trong công tác quản lý chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo. Chỉ có trên cơ sở nhận thức rõ vai trò của giáo dục - đào tạo và tầm quan trọng của công tác quản lý chi NSNN cho giáo dục - đào tạo thì các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương mới chỉ đạo các ban, ngành địa phương tích cực quan tâm đến đầu tư ngân sách, quản lý ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo.
Thứ hai: về khuôn khổ pháp lý. Trung ương cần bổ sung sửa đổi các quy định trong quản lý tài chính, ngân sách từ luật NSNN đến các văn bản dưới luật đảm bảo phát huy tối đa tính chủ động sáng tạo của địa phương trong quản lý tài chính, ngân sách. Trong đó cần thiết phải quy định rõ và đơn giản hơn quy trình lập dự toán ngân sách, cải tiến quy trình chi ngân sách; quy định rõ trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan KBNN trong lĩnh vực NSNN, bổ sung các quy định trách nhiệm của cơ quan phê chuẩn, cơ quan thẩm định quyết toán đồng thời quy định rõ về phân công, phân cấp cho địa phương trong việc xây dựng định mức phân bổ ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và ngân sách cấp dưới.
Thứ ba: phải đảm bảo cân đối được nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục - đào tạo. Trong điều kiện nguồn thu ngân sách của Sơn La còn hạn hẹp, chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo chủ yếu từ nguồn trợ cấp cân đối của Trung ương, khả năng chi trả nhờ có nguồn thu vượt dự toán của địa phương không đáng kể. Muốn đạt được một cơ cấu đầu tư chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo hợp lý, phải có một lượng ngân sách tăng lên nhất định. Vì vậy, ngoài việc tích cực tranh thủ sự quan tâm của các Bộ, ngành ở Trung ương, phải soát xét lại các chính sách đặc thù của địa phương đã ban hành trên cơ sở dự kiến để nguồn ngân sách có thể đáp ứng được, khắc phục tình trạng một số chính sách địa phương ban hành không có nguồn để bố trí.
Thứ tư: phải có các chính sách hợp lý giải quyết tình trạng thừa thiếu giáo viên hiện nay ở các cấp học hiện nay. Yếu tố này không những tác động đến cơ cấu chi ngân sách cho các cấp học mà còn ảnh hưởng đến các khâu khác của quá trình quản lý chi ngân sách. Sẽ không có một cơ cấu chi, quy trình phân bổ dự toán hợp lý nếu không giải quyết được tình trạng này. Vì vậy, song song với các chính sách sắp xếp lại đội ngũ giáo viên hiện có, cần có các quy định chặt chẽ từ khâu tuyển dụng.
Thứ năm: về con người và cơ sở vật chất. Cần củng cố tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý tài chính trong ngành giáo dục, cần phải bổ sung thêm lực lượng làm công tác quản lý tài chính cho Sở Giáo dục - đào tạo để có thể thực hiện tốt công tác quản lý, kiểm tra việc sử dụng kinh phí tại các đơn vị cơ sở. Đổi mới khâu mua sắm, trang bị tài sản phục vụ công tác quản lý theo hướng ngày càng hiện đại hoá. Việc mua sắm tài sản phải cân đối với nhiệm vụ được giao, không chỉ đơn thuần là việc mua sắm tài sản, trang thiết bị đắt tiền mà thực chất của nó là cung cấp đầy đủ các trang thiết bị cần thiết, phục vụ cho công tác quản lý. Vì vậy vẫn cần thiết phải dành một khoản kinh phí hợp lý cho công tác quản lý, ưu tiên tin học hoá việc quản lý cấp phát kinh phí.
KẾT LUẬN
Chúng ta đang sống ở thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học - công nghệ, thế kỷ đỉnh cao về trí tuệ, trong đó giáo dục – đào tạo luôn được coi là nền móng đối với chiến lược phát triển con người và chiếm một vị trí trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trên tinh thần đó, mặc dù kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn nhưng sự nghiệp giáo dục – đào tạo vẫn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng phát triển, thể hiện ở việc ngân sách hàng năm dành cho giáo dục - đào tạo ngày một tăng lên. (năm 2007 là 55.300 tỷ đồng; năm 2008 là 66.770 tỷ đồng).
Chi ngân sách nhà nước nói chung và chi thường xuyên ngân sách nhà nước nói riêng cho giáo dục – đào tạo là một khoản chi lớn, vì vậy cần phải quản lý khoản chi này thật chặt chẽ và có hiệu quả. Xuất phát từ yêu cầu đó, đề tài đã đi sâu và giải quyết được những vấn đề sau: i) Khái quát được những vấn đề về NSNN và chi thường xuyên NSNN cho giáo dục - đào tạo, qua đó tìm hiểu về công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho giáo dục - đào tạo; ii) Đưa ra được thực trạng về công tác quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho giáo dục - đào tạo trên địa bàn tỉnh Sơn La qua các năm 2007, 2008 và 2009. iii) Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho giáo dục – đào tạo trên địa bản tỉnh Sơn La.
Do khả năng và hiểu biết còn hạn chế cũng như chưa có kinh nghiệm thực tiễn nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được những ý kiến góp ý, sửa chữa của thầy, cô để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sở Tài chính Sơn La, Quyết toán chi Ngân sách nhà nước năm 2007, 2008 và 2009
- Sở Giáo dục – đào tạo, Báo cáo tổng kết năm học 2008-2009; Phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm học 2009 - 2010
- Sở Tài chính và Sở giáo dục và đào tạo, Hướng dẫn liên ngành số 15/HDLN-STC-SGD&ĐT ngày 5 tháng 3 năm 2007 hướng dẫn về việc phân cấp ngân sách sự nghiệp giáo dục.
- Luật Ngân sách nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi năm 2002, có hiệu lực năm 2004
- Vũ Cương, Kinh tế và tài chính công, NXB thống kê 2002
- Nguyễn Ngọc Hùng, Quản lý ngân sách nhà nước, Nxb thống kế 2006
- Vũ Thị Nhài, Quản lý tài chính công ở Việt Nam, Nxb tài chính 2007
- Nguyễn Hữu Tài, Giáo trình Lý thuyết tài chính - tiền tệ, NXB Đại học Kinh tế quốc dân 2007
- Tạp chí cộng sản điện tử, số 24 (192) năm 2009, Định hướng phát triển giáo dục Việt Nam đầu thế kỉ XXI.
- Bộ Tài chính, thông tư số 79/2003/TT-BTC ngày 13/8/2003 hướng dẫn chế độ quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN.
- Luật giáo dục năm 2005
- Mục lục Ngân sách nhà nước
- Sở giáo dục và đào tạo, Báo cáo kết quả thực hiện chỉ tiêu thi đua về công tác kế hoạch, thống kê, tài chính, xây dựng cơ sở vật chất và sách, thiết bị trường học năm học 2008-2009
- Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La, Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh năm 2009.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La, Sở Giáo dục và đào tạo, Báo cáo về tình hình thực hiện các nhiệm vụ năm 2009 của Sở Giáo dục và đào tạo Sơn La
- Web Bộ Tài Chính: www.mof.gov.vn
- Web Bộ Giáo dục – đào tạo: www.moet.gov.vn
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Nội dung đầy đủ
NSNN
Ngân sách nhà nước
KBNN
Kho bạc nhà nước
GD – ĐT
Giáo dục – đào tạo
MSSC
Mua sắm sửa chữa
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
GDTX
Giáo dục thường xuyên
KTTH – HN
Kỹ thuật tổng hợp - Hướng nghiệp
UBND
Ủy ban nhân dân
HĐND
Hội đồng nhân dân
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Trang
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NSNN CHO GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
2
1.1 Chi thường xuyên NSNN
2
1.1.1 NSNN
2
1.1.1.1 Khái niệm, bản chất, vai trò NSNN
2
1.1.1.2 Nội dung chi NSNN
4
1.1.2 Chi thường xuyên NSNN
6
1.1.2.1 Khái niệm
6
1.1.2.2 Nội dung
7
1.1.2.3 Đặc điểm
8
1.2 Vai trò chi NSNN cho GD – ĐT
9
1.2.1 Sự cần thiết của GD – ĐT
9
1.2.2 Vai trò chi NSNN đối với GD - ĐT
10
1.3 Quản lý chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT
12
1.3.1 Nội dung chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT
12
1.3.2 Nội dung quản lý chi thường xuyên NSNN cho GD - ĐT
13
1.3.2.1 Xây dựng định mức chi
13
1.3.2.2 Lập dự toán chi thường xuyên
15
1.3.2.3 Chấp hành dự toán chi
16
1.3.2.4 Quyết toán và kiểm toán các khoản chi
17
1.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến các khoản chi thường xuyên NSNN cho GD - ĐT
18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NSNN CHO GD – ĐT TẠI TỈNH SƠN LA
21
2.1 Một số nét cơ bản về GD – ĐT trên địa bàn tỉnh Sơn La
21
2.1.1 Khái quát về tỉnh Sơn La
21
2.1.1.1 Điều kiện tự nhiên
21
2.1.1.2 Tình hình kinh tế xã hội năm vừa qua
22
2.1.2 Tình hình GD – ĐT trên địa bàn tỉnh Sơn La năm 2009
25
2.1.2.1 Tình hình, kết quả triển khai nhiệm vụ năm 2009
25
2.1.2.2 Công tác đào tạo
27
2.1.2.3 Cơ sở vật chất trang thiết bị
29
2.2. Thực trạng quản lý chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT tại tỉnh Sơn La
29
2.2.1 Nguồn vốn đầu tư cho GD – ĐT ở tỉnh Sơn La
29
2.2.2 Tình hình phân cấp chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT trên địa bàn tỉnh Sơn La
31
2.2.3 Chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT trên địa bàn tỉnh Sơn La
32
2.2.4 Thực trạng quản lý chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT tại tỉnh Sơn La
38
2.2.4.1 Áp dụng định mức chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT tỉnh Sơn La
38
2.2.4.2 Lập và phân bổ dự toán chi thường xuyên NSNN cho giáo dục và đào tạo tỉnh Sơn La
40
2.2.4.3 Công tác điều hành, cấp phát NSNN cho giáo dục và đào tạo tại tỉnh Sơn La
41
2.2.4.4 Quyết toán và kiểm tra các khoản chi thường xuyên NSNN cho giáo dục - đào tạo tại tỉnh Sơn La
42
2.3 Đánh giá về công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho giáo dục – đào tạo trên địa bàn tỉnh Sơn La
43
2.3.1 Những kết quả đạt được
43
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân
45
2.3.2.1 Những hạn chế
2.3.2.2 Nguyên nhân
45
49
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NSNN CHO GD – ĐT TẠI TỈNH SƠN LA
51
3.1 Định hướng của tỉnh Sơn La cho vấn đề GD - ĐT
51
3.1.1 Định hướng chung của Nhà nước
51
3.1.2 Định hướng của tỉnh Sơn La
52
3.2 Giải pháp hoàn thiện quản lý chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT tỉnh Sơn La
53
3.2.1 Tăng cường công tác quản lý chi thường xuyên NSNN dành cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo tại các đơn vị tài chính các cấp
53
3.2.2 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát ngân sách cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo ở KBNN
55
3.2.3 Xây dựng cơ cấu chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT tại tỉnh một cách hợp lý
56
3.2.4 Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý
57
3.2.5 Các giải pháp hỗ trợ khác
58
3.3 Kiến nghị
59
Kết luận
61
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25619.doc