Chuyên đề Giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro đối với dịch vụ thẻ tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Sau gần hai mươi năm thựchiện cải cách và đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn đặc biệt về mặt kinh tế. Bước sang thế kỷ 21, đặc biệt với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO nước ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn. Đứng trước sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế nước nhà, ngân hàng với tư cách là một doanh nghiệp đặc biệt, một tổ chức tài chính cũng chuyển mình theo guồng quay mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước. Bởi vậy ngân hàng đã không ngừng đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ bằng việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ chất lượng và tiện dụng. Thẻ là một trong những dịch vụ như vậy. Tong khi trên thế giới thẻ đã trở thành một phương tiện thanh toán vô cùng phổ biến và không thể thiếu trong đời sống hàng ngày thì tại Việt Nam thẻ mới chỉ phát triển. Tuy nhiên nó đã có những đóng góp vô cùng to lớn vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam thông qua việc giảm bớt thói quen sử dụng tiền mặt, áp dụng công nghệ hiện đại trong thanh toán để giảm thời gian giao dịch và giảm các chi phí quản lý và các bất tiện khác do nền kinh tế tiền mặt đem lại. Sự phát triển của hoạt động thẻ trong nền kinh tế đem lại những lợi ích vô cùng to lớn cho cả người dân lẫn tổ chức. Với sự mở rộng của mạng lưới ATM và các đơn vị chấp nhận thẻ như hiện nay người dân chỉ cần cầm theo một tấm thẻ nhỏ gọn là có thể đi ra ngoài mua sắm, chi tiêu. Như vậy có thể thấy cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là sự kiện Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào tháng 11 năm 2006, thì việc phát triển rộng rãi của thị trường thẻ ở Việt Nam là một tất yếu khách quan. Tham gia hoạt động kinh doanh thẻ từ những ngày đầu tiên tại Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam luôn chú trọng phát triển sản phẩm, nghiên cứu ứng dụng các công nghệ mới, nâng cao chất lượng dịch vụ, tiện ích sử dụng thẻ cho khách hàng. Doanh số phát hành, thanh toán và sử dụng thẻ của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam luôn đạt tốc tăng trưởng cao, chiếm hơn 50% doanh số trên thị trường. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được Ngân hàng Ngoại Thương cũng phải đối mặt với những rủi ro trong quá trình kinh doanh thẻ, sự tấn công của các tổ chức tội phạm thẻ quốc tế khi chúng chuyển hướng sang thị trường Việt Nam. Từ năm 2002 đến nay tình hình giả mạo trong thanh toán và sử dụng thẻ tại ngân hàng Ngoại thương đang tăng với tốc độ đáng ngại gây tổn thất cho ngân hàng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, đòi hỏi ngân hàng phải có sự quan tâm thích đáng đến hoạt động quản lý rủi ro trong quá trình kinh doanh thẻ của ngân hàng mình. Là một sinh viên của trường ĐH KTQD, có cơ hội thực tập tại Phòng quản lý thẻ Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, với mong muốn hoạt động kinh doang thẻ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ngày càng an toàn, hiệu quả em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro đối với dịch vụ thẻ tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam” Thông qua đề tài, tác giả sẽ phân tích, đánh giá kết quả hoạt động phát triển dịch vụ thẻ tín dụng, thực trạng rủi ro trong các hoạt động này tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Qua đó đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm giảm thiểu tổn thất , hạn chế rủi ro nâng cao hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp chọn mẫu, tổng hợp và khái quát, kết hợp nghiên cứu lý thuyết với phân tích thực trạng để phân tích, chứng minh và đề xuất giải pháp. Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Quản lý rủi rođối với dịch vụ thẻ tín dụng của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng quản lý rủi rođối với dịch vụ thẻ tín dụng tại NHNTVN. Chương 3: Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong phát triển dịch vụ thẻ tín dụng tại NHNTVN Với trình độ và thởi gian còn hạn chế nên bài viết ko thể tránh khỏi những thiếu sót và tồn tại nhất định. Với tinh thần cầu thị, em rất mong được sự chỉ bảo đóng góp ý kiến của các thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn! MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. QUẢN LÝ RỦI RO ĐỐI VỚI DỊCH VỤ THẺ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 4 1.1. Những vấn đề chung về thẻ. 4 1.1.1. Lịch sử phát triển của thẻ 4 1.1.2. Khái niệm và Phân loại thẻ 6 1.1.2.1 Khái niệm 6 1.1.2.2 Phân loại 7 1.1.3. Các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh thẻ 7 1.1.4 Các nghiệp vụ dịch vụ thẻ tín dụng 10 1.1.4.1 Nghiệp vụ phát hành thẻ 10 1.1.4.2 Nghiệp vụ thanh toán thẻ 12 1.1.4.3 Nghiệp vụ tra soát, xử lý khiếu nại 15 1.2 Quản lý rủi ro đối với dịch vụ thẻ tín dụng của ngân hàng thương mại. 17 1.2.1 Rủi ro đối với dịch vụ thẻ tín dụng của ngân hàng thương mại. 17 1.2.1.1 Khái niệm: 17 1.2.1.2 Các hình thức rủi ro trong dịch vụ thẻ tín dụng 18 1.2.2 Nội dung quản lý rủi ro đối với dịch vụ thẻ tín dụng của ngân hàng thương mại 23 1.2.2.1 Phòng tránh rủi ro trong dịch vụ thẻ 23 1.2.2.2 Xử lý rủi ro trong dịch vụ thẻ 26 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý rủi ro trong dịch vụ thẻ tín dụng của ngân hàng thương mại 26 1.3.1 Nhân tố khách quan: 26 1.3.2 Nhân tố chủ quan 28 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO DỊCH VỤ THẺ TÍN DỤNG TẠI NHNTVN 31 2.1 Khái quát thực trạng phát triển dịch vụ thẻ tín dụng tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 31 2.1.1 Sự hình thành và phát triển thẻ tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 31 2.1.1.1 Giai đoạn 1990-1995 31 2.1.1.2 Giai đoạn 1996-1999 32 2.1.1.3 Giai đoạn từ năm 2000 đến nay 32 2.1.2 Thực trạng dịch vụ thẻ tín dụng tại Ngân hàn Ngoại thương Việt Nam 33 2.1.2.1 Thực trạng phát hành thẻ 33 2.1.2.2 Thực trạng thanh toán thẻ 38 2.2.1 Rủi ro trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 46 2.2.1.1 Giả mạo thẻ 46 2.2.1.2 Rủi ro kỹ thuật 55 2.2.2 Hoạt động quản lý rủi ro tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 55 2.2.2.1 Phòng tránh rủi ro trong dịch vụ thẻ 55 2.2.2.2 Xử lý rủi ro trong dịch vụ thẻ 58 2.3 Đánh giá thực trạng quản lý rủi ro đối với dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 61 2.3.1 Kết quả đạt được 61 2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 62 2.3.2.1 Hạn chế 62 2.3.2.2 Nguyên nhân hạn chế 64 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ RỦI RO ĐỐI VỚI DỊCH VỤ THẺ TÍN DỤNG TẠI NHNTVN 67 3.1 Định hướng phát triển dịch vụ thẻ tại NHNTVN 67 3.1.1 Tiềm năng phát triển dịch vụ thẻ 67 3.1.1.1 Tiềm năng đối với thẻ tín dụng quốc tế. 67 3.1.1.2 Tiềm năng đối với thẻ ghi nợ nội địa. 69 3.1.2 Định hướng phát triển dịch vụ thẻ tại NHNTVN 71 3.2 Giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro đối với dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 72 3.2.1 Hoàn thiện tổ chức hoạt động Quản lý rủi ro trong hệ thống thẻ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 72 3.2.2 Nâng cao trình độ chuyên môn đạo đức cán bộ thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 74 3.2.3 Hạn chế tình trạng giả mạo trong hoạt động thanh toán và phát hành thẻ 75 3.2.3.1 Xây dựng hệ thống chấm điểm và phân loại khách hàng 75 3.2.3.2 Thông tin hướng dẫn sử dụng thẻ an toàn 76 3.2.3.3 Thiết lập các hạn mức sử dụng và chấp nhận thẻ 77 3.2.3.4 Hướng dẫn và thường xuyên kiểm tra công tác thanh toán thẻ tại các đơn vị chấp nhận thẻ 80 3.2.3.5 Theo dõi các báo cáo hoạt động thẻ và chương trình quản lý rủi ro toàn cầu của các Tổ chức thẻ quốc tế 81 3.2.3.6 Phát hành thẻ chip thay thế thẻ mã hoá bằng băng từ 83 3.2.4 Xây dựng hệ thống dự phòng cho hoạt động thẻ 84 3.2.5 Phối hợp với các tổ chức kinh doanh thẻ trong nước và quốc tế trong công tác ngăn ngừa và phát hiện rủi ro 84 3.3 Kiến nghị với các cơ quan hữu trách 85 3.3.1 Chính Phủ 85 3.3.2 Ngân hàng Nhà nước 86 3.3.3 Hiệp hội thẻ của các ngân hàng phát hành và thanh toán thẻ Việt Nam 88 KẾT LUẬN 89 TÀI LIỆU THAM KHẢO 93

docx97 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro đối với dịch vụ thẻ tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiều những báo cáo, tổng hợp mang tính tổng kết về tình hình quản lý rủi ro. Nhìn chung thì thông tin qua lại giữa trung tâm thẻ và các chi nhánh chủ yếu chỉ mang tính một chiều. * Chưa có bộ phận quản lý rủi ro độc lập Hiện nay phòng thẻ của NHNTVN vẫn chưa có một bộ phận quản lý rủi ro độc lập, chuyên trách. Hầu hết các cán bộ phòng thẻ vừa phải làm công việc chuyên môn vừa phải thực hiện nghiệp vụ quản lý rủi ro trong phần công việc của mình (tất nhiên vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc hai tay cũng như nguyên tắc kiểm tra chéo của ngân hàng) Nhưng việc không có sự phân công rõ ràng trong công việc khiến cho hoạt động quản lý rủi ro vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Bởi nếu có một bộ phận quản lý rủi ro độc lập thì đây sẽ là đầu mối xử lý những vấn đề liên quan đến hoạt động thẻ. Bộ phận này vừa có trách nhiệm thu thập, phân tích, tổng kết, làm báo cáo về các hoạt động trong lĩnh vực thẻ, vừa đưa ra những đánh giá những góp ý cần thiết nhằm nâng cao tính an toàn trong hoạt động chuyên môn, đồng thời là đầu mối quan hệ với trung tâm thẻ, với các chi nhánh khác trong cung cấp, trao đổi và tiếp nhận thông tin: các yêu cầu tra soát, suất trình chứng từ, danh sách blluetin...từ đó cập nhật phổ biến cho các cán bộ chuyên môn theo từng bộ phận. Mặt khác việc có một bộ phận quản lý rủi ro riêng không những giúp phân công rõ chuyên môn nghiệp vụ và trách nhiệm liên quan mà còn giúp quản lý tập trung và thống nhất. Tránh tình trạng cán bộ vừa phải làm công tác chuyên môn vừa phải đảm đương trách nhiệm quản lý rủi ro. Tất nhiên, trong mỗi nghiệp vụ chuyên môn của mình mỗi cán bộ phải luôn có ý thức và trách nhiệm về các biện pháp phòng tránh rủi ro cũng như tuân thủ những quy định đã được đề ra. Bởi vì đơn giản nếu không có được điều đó thì với mọi biện pháp phòng tránh rủi ro, mọi hệ thống quản lý rủi ro cho dù có chặt chẽ đến đâu cũng không thể ngăn chặn được rủi ro xảy ra. 2.3.2.2 Nguyên nhân hạn chế Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất: là do công tác đào tạo hướng dẫn các đơn vị chấp nhận thẻ cũng như tình hình kiểm tra, kiểm soát các đơn vị chấp nhận thẻ. Việc mở rộng mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ là một yêu cầu cấp thiết tuy nhiên song song với việc mở rộng mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ cũng nên chú trọng vào công tác kiểm tra, kiểm soát các đơn vị chấp nhận thẻ mới tức là đủ yêu cầu mới cho phép làm đơn vị chấp nhận thẻ đồng thời liên tục kiểm tra các đơn vị chấp nhận thẻ cũ xem tình hình hoạt động kinh doanh cụ thể. Lý do phải thường xuyên đề cao công tác này là để hạn chế các đơn vị chấp nhận thẻ “ma” lập nên để cố tình chấp nhận các thẻ thanh toán giả. Điều này nếu xảy ra là rất nguy hiểm cho ngân hàng và đây cũng là gian lận khó phát hiện nhất và đem lại thiệt hại to lớn nhất trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ. Do yêu cầu mở rộng nhanh chóng mạng lưới các đơn vị chấp nhận thẻ, cùng với sự thiếu hụt nhân lực để có thể đảm bảo tốt công việc này và thêm nữa đây là một yếu tố rất nhạy cảm và khó kiểm tra. Đòi hỏi phải thường xuyên kiểm tra vì có thể giai đoạn đầu là một đơn vị chấp nhận thẻ tốt nhưng về sau có thể biến tướng trở thành đơn vị chấp nhận thẻ giản lận.Chính vì vậy việc tổ chức công tác đào tạo với các đơn vị chấp nhận thẻ và thường xuyên kiểm tra kiểm soát là vô cùng cần thiết và cần được thực hiện thường xuyên tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Thứ hai: là về công tác đào tạo nguồn nhân lực. Kinh doanh thẻ là hình thức kinh doanh dựa trên tiến bộ của khoa học kỹ thuật vì bản thân thẻ thanh toán là thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Do vậy Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam mà cụ thể là phòng thẻ cần phải cho cán bộ được liên tục đào tạo để tiếp thu được các công nghệ mới của các Tổ chức thẻ Quốc tế. Nếu không sẽ rất nguy hiểm khi các tội phạm thẻ có thể dễ dàng tiếp cận các công nghệ hiện đại trước ngân hàng. Điều này sẽ gây tổn thất to lớn và khó phát hiện nếu nguồn nhân lực không được đào tạo liên tục để cập nhật được những kỹ thuật mới nhất. Thứ ba: là về các cơ sở vật chất kỹ thuật. Các cơ sở vật chất kỹ thuật cần được nâng cấp và cải tiến đồng bộ song song cùng với sự phát triển của các sản phẩm mới. Nếu không sẽ gây ra các sự cố về kỹ thuật gây nên những tổn thất to lớn hoặc tạo ra những lỗ hổng trong bảo mật mà tội phạm thẻ có thể lợi dụng để lấy cắp tiền từ tài khoản của khách hàng gây nên những thiệt hại cho cả khách hàng và ngân hàng. Nguyên nhân khách quan Thứ nhất: là do sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự xâm nhập nhanh chóng của Internet vào đời sống xã hội khiến cho những người bình thường chỉ cần với một máy tính có khả năng kết nối internet đã có khả năng tiếp cận những thông tin nhạy cảm về nhiều thẻ tín dụng và chủ thẻ. Chính điều này đã làm nảy sinh nhiều tội phạm thẻ không chuyên nghiệp ở nhiều nơi trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nó chính là mối nguy hiểm đối với hoạt động kinh doanh thẻ ở Việt Nam nói chung và Ngân hàng Ngoại thương nói riêng. Thứ hai: là do chưa có những văn bản pháp luật chính thức quy định những hình phạt đối với tội phạm thẻ, đặc biệt là tội phạm thẻ qua mạng. Điều này đã tạo điều kiện cho không ít những vụ phạm tội trộm cắp thẻ qua mạng internet xảy ra trong thời gian vừa qua. Do không có khung luật điều chỉnh vấn đề này nên chỉ có những tội phạm thẻ có những bằng chứng rõ ràng về việc trộm cắp và sử dụng thông tin thẻ tín dụng của người khác hoặc do các tổ chức thẻ thế giới có thông báo về mới bị bắt còn lại rất nhiều những tội phạm nhỏ lẻ khác vẫn ung dung ngoài vòng pháp luật. Từ những đối tượng này sẽ có nguy cơ dẫn đến những vụ làm giả thẻ trong tương lai hoặc bán những thông tin này cho tổ chức tội phạm thẻ ở nước ngoài qua internet gây ra những vụ làm giả thẻ lớn, gây thiệt hại nhiều nghìn USD. Thứ ba: là nguyên nhân về phía người chủ sử dụng thẻ. Do chưa hiểu biết kỹ về các đặc tính cũng như quy trình chuẩn của việc sử dụng thẻ để thanh toán nên nhiều chủ thẻ Việt Nam nhiều khi trong quá trình sử dụng thẻ đã vô tình để lộ những thông tin bí mật từ thẻ tín dụng của mình. Điều này đã tạo điều kiện cho bọn tội phạm làm thẻ giả rút tiền từ tài khoản của khách hàng. Nó không chỉ gây ra thiệt hại về phía khách hàng mà nhiều khi còn gây ra sự mất uy tín của ngân hàng do khách hàng không hiểu biết rõ nên cho rằng nguyên nhân là do sự bảo mật kém của ngân hàng chứ không phải lỗi ở mình. Hoặc là gây nên tâm lý sợ sử dụng thẻ do cảm thấy nó quá mất an toàn. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ RỦI RO ĐỐI VỚI DỊCH VỤ THẺ TÍN DỤNG TẠI NHNTVN 3.1 Định hướng phát triển dịch vụ thẻ tại NHNTVN 3.1.1 Tiềm năng phát triển dịch vụ thẻ Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển dịch vụ thẻ nói chung và về số lượng thẻ phát hành và hệ thống thanh toán cũng như là hệ thống các điểm chấp nhận thanh toán thẻ nói riêng bởi thị trường thẻ Việt Nam chỉ mới phát triển, các hình thức thanh toán và sử dụng thẻ vẫn còn ở giai đoạn sơ khai. Ngày càng có nhiều người tiêu dùng Việt Nam lựa chọn hình thức thanh toán bằng thẻ tín dụng, thẻ ATM trước hết bởi hình thức thanh toán hiện đại, phù hợp với nhu cầu của một số điểm mua bán như: mua hàng hoá qua mạng, đặt vé máy bay, thanh toán tiền phí... 3.1.1.1 Tiềm năng đối với thẻ tín dụng quốc tế. Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương là khu vực có tốc độ phát triển thanh toán thẻ tín dụng cao nhất thế giới. Chỉ riêng giá trị thanh toán của 2 loại thẻ thông dụng nhất là Visa và MasterCard của khu vực này tăng từ 206,52 tỷ USD năm 1995 lên tới 594,87 tỷ USD năm 2000, con số này của năm 2005 xấp xỉ đạt 1500 tỷ USD, đạt mức tăng trưởng lớn nhất so với các khu vực còn lại trên thế giới. Thị trường thẻ hiện đại sẽ kéo khách du lịch gián tiếp giúp ngành du lịch phát triển. Hiện hầu hết các nước đều hạn chế công dân của mình mang tiền mặt ra nước ngoài, nhưng không qua hạn chế việc dùng thẻ thanh toán quốc tế. Chính vì thế mà nếu có một hệ thống thanh toán thẻ hiện đại nhằm tạo điều kiện cho khách du lịch nước ngoài thực hiện thanh toán điện tử thuận tiện và dễ dàng sẽ tăng đáng kể nguồn thu cho ngành du lịch. Theo thống kê của tổng cục du lịch Việt Nam trong năm 2007 có khoảng 2,5 triệu khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tăng 28% so với năm 2006, hầu hết khách du lịch này đến từ Đài Loan, Mỹ, Nhật Bản, Australia, những nơi thẻ thanh toán được sử dụng rộng rãi. Thanh toán thẻ quốc tế đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy du lịch và thúc đẩy việc tiêu tiền của khách du lịch. Thanh toán bằng thẻ giảm thiểu những khó khăn mà du khách gặp phải trong thanh toán tiền mặt và giảm chi phí giao dịch. Thanh toán điện tử là một bộ phận ngày càng quan trọng trong ngành du lịch quốc tế và là một kênh quan trọng trong phân phối doanh thu của du lịch cho Việt Nam. Kể từ khi thẻ tín dụng được sử dụng tại thị trường Việt Nam năm 1996 thì cho tới năm 2001 trên toàn quốc đã có khoảng 15.000 thẻ quốc tế. Tuy nhiên đến cuối năm 2006 các ngân hàng đã phát hành được 235.500 thẻ quốc tế. Trong lĩnh vực thẻ thanh toán thì đây là một sự phát triển mạnh nhưng so với sự phát triển của nền kinh tế trong 5 năm gần đây ( trong 5 năm gần đây GDP của Việt Nam luôn tăng trưởng 7-8% mỗi năm, đứng thứ 2 Châu Á chỉ sau Trung Quốc) thì thị trường này mới chỉ thực sự bắt đầu được khai phá và tiềm năng còn rất nhiều. Mặc dù tốc độ phát triển của thẻ tín dụng trong thời gian qua rất lớn nhưng doanh số thanh toán thẻ cũng chỉ đạt 320 triệu USD trong năm 2004. Trong khi đó thì theo dự đoán của tổ chức thẻ tín dụng quốc tế thì với tốc độ tăng trưởng như những năm qua thị trường thẻ Việt Nam sẽ đạt mức tăng 540 triệu USD năm 2006. Như vậy có thể thấy sự phát triển của thẻ tín dụng quốc tế hiện nay vẫn vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng phát triển kinh tế xã hội mang lại và vẫn còn nhiều cơ hội phát triển cho các ngân hàng. Mặt khác, Việt Nam đang là đích nhắm mới của nhiều tổ chức thẻ tín dụng quốc tế lớn trong đó có Visa. Các chuyên gia của Visa không giấu giếm rằng thị trường Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng và trở thành mục tiêu phát triển quan trọng của họ. Thời gian tới tập đoàn này sẽ phối hợp với hệ thống ngân hàng trong nước để mở rộng thị phần. Hiện trên thế giới có 20 triệu điểm chấp nhận thanh toán thẻ Visa, trong đó ở Viêt Nam có hơn 10.000 điểm. Hơn một thập kỷ qua, Visa và các ngân hàng thành viên đã tập trung chủ yếu và việc tăng số lượng điểm chấp nhận thẻ phục vụ cho khách du lịch và các doanh nhân đến thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Tuy nhiên tập đoàn này cho rằng con số 10.000 là con số quá nhỏ bé so với những gì mà Visa có thể làm được và so với tầm vóc của nền kinh tế Việt Nam. Số điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ Visa của Việt Nam chỉ chiếm 2% trong tổng số 500.000 điểm chấp nhận thẻ Visa ở Đông Nam Á. Tại Việt Nam mỗi khách du lịch chi tiêu qua thẻ 237 triệu USD mỗi năm tại 6000 điểm chấp nhận thanh toán thẻ Visa. Con số chi tiêu của người Việt Nam qua thẻ Visa chỉ chiếm 0,13% tổng chi tiêu trong khi con số này ở Malaysia là 7% và ở Philipines là 5%. Việt Nam đang bỏ lỡ nhiều cơ hội kiếm tiền từ khách du lịch và khuyến khích việc tiêu dùng của dân chúng, mà qua đó sẽ thúc đẩy các ngành kinh tế và tăng tốc lượng tiền luân chuyển trong xã hội. Như vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ là điều kiện để phát triển ngành kinh doanh thẻ và ngược lại thẻ tín dụng phát triển sẽ thúc đẩy nhiều ngành dịch vụ khác cùng phát triển, nhờ đó sẽ tác động không nhỏ đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Vì thế, thị trường thẻ tín dụng Việt Nam đang có cơ hội để tăng tốc và mở rộng cả về chất và lượng trong những năm tới đây. 3.1.1.2 Tiềm năng đối với thẻ ghi nợ nội địa. Theo thống kê tỷ lệ dân thành thị chiếm khoảng 24% dân số cả nước, tức là khoảng 20 triệu người. Chỉ cần khuyến khích được 15-20% số người ở thành phố tham gia sử dụng thẻ ghi nợ, các ngân hàng ở Việt Nam đã có thể phát hành được 3-4 triệu thẻ. Điều này trên thực tế không phải là không thể không thực hiện, bởi khi đánh giá tiềm năng phát triển thẻ thanh toán của một nước, người ta thường căn cứ vào 2 yếu tố: thu nhập dân cư và cơ cấu độ tuổi. Trước hết thu nhập sẽ tăng từ 600 USD/1 người/1năm lên 1000 USD /1 người/1 năm vào năm 2010. Tuy vẫn là một nước có thu nhập bình quân đầu người thấp, thu nhập giữa các nhóm dân cư còn quá chênh lệch nhưng chắc chắn sẽ có một bộ phận dân cư có thu nhập khá. Đặc biệt là ở một số đô thị lớn, với tốc độ tăng trưởng bình quân GDP 8%/ năm như hiện nay, GDP bình quân đầu người ở các đô thị có thể lên đến vài nghìn thậm chí cả chục nghìn USD một năm. Với một đất nước dân số trẻ như Việt Nam, số người ở độ tuổi dưới 30 chiếm hơn 60% dân số, trong vòng 5-10 năm nữa sẽ có những thay đổi đáng kể về mặt cơ cấu độ tuổi theo hướng thuận lợi cho việc ứng dụng sản phẩm mang tính công nghệ cao như dịch vụ thanh toán qua thẻ. Đó là trong số 24% dân số thành thị, có khoảng 30% số người đang học tập và công tác ở độ tuổi 15-30 có những kiến thức cơ bản về tin học và có khả năng tiếp nhận dịch vụ mới dựa trên nền tảng công nghệ. Nếu các ngân hàng nắm bắt được cơ hội này và tận dụng tốt khai thác tối đa thì số lượng 10triệu thẻ lưu thông sẽ không phải là một tương lai rất xa. Hiện nay mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ chưa rộng và chưa đa dạng phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của người Việt Nam. Tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt trong chi tiêu của người Việt Nam còn rất thấp. Cùng với việc phát triển mạnh sử dụng thẻ ghi nợ của người dân Việt Nam và trên cơ sở tăng tỷ trọng chi tiêu cá nhân bằng thẻ, các ngân hàng có thể đạt được một doanh số khổng lồ. Với mức chi tiêu sinh hoạt cá nhân tối thiểu 500.000 đến 1.000.000 VNĐ/ 1tháng tính trên 10 triệu thẻ ghi nợ các ngân hàng có doanh số sử dụng và thanh toán thẻ nội địa từ 5.000 đến 10.000 tỷ VNĐ/1 tháng. Đây quả thực là một con số không nhỏ chút nào và rất đáng để các ngân hàng thương mại Việt Nam quan tâm. Tuy nhiên với xuất phát điểm như hiện nay, thị trường Việt Nam phải giải quyết được vấn đề phát triển phát hành thẻ hay mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ. Đây là 2 công việc phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Phát triển phát hành thẻ sẽ thúc đẩy việc mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ, ngược lại việc mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành và sử dụng thẻ. Các ngân hàng phải tập trung phát triển mạnh và đều cả 2 lĩnh vực trên. Ngoài ra hiện nay các ngân hàng Việt Nam còn có một thuận lợi đó là hiện nay dịch vụ ở phát hành và thanh toán thẻ ghi nợ nội địa ở Việt Nam chưa mở rộng cho các ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng Việt Nam cần tranh thủ cơ hội này để chiếm lĩnh thị trường trước khi các ngân hàng nước ngoài được phép tham gia dịch vụ này. Như vậy có thể nói thị trường thẻ Việt Nam hứa hẹn sẽ là thị trường kinh doanh đầy hấp dẫn đối với các ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới. 3.1.2 Định hướng phát triển dịch vụ thẻ tại NHNTVN Hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại đang có xu hướng chuyển mục tiêu kinh doanh sang khu vực dân cư thay vì tiếp tục khai thác lợi nhuận từ các tổ chức kinh tế (mảng hoạt động nhiều rủi ro). Dịch vụ thẻ ngân hàng là một trong những lựa chọn hàng đầu trong chiến lược mở rộng cung ứng dịch vụ ngân hàng bán lẻ tới dân chúng Việt Nam hiện nay. Và NTNTVN cũng đang xác định mục tiêu đó. - Tiếp thu kịp thời và tiếp cận nhanh chóng các công nghệ thanh toán thẻ hiện đại trên thế giới. - Phấn đấu nâng tầm hiện đại hoá quá trình thanh toán qua ngân hàng, trang bị đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật, máy móc thiết bị cần thiết phục vụ cho quá trình phát hành và thanh toán thẻ. - Đẩy mạnh ứng dụng dịch vụ thẻ ngân hàng ở Việt Nam cần gắn liền với công nghệ thẻ quốc tế, và tiêu chuẩn kỹ thuật các quy định có tính nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế. - Củng cố và hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán và phát hành thẻ tại các ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh thẻ. Tạo thói quen sử dụng thẻ trong các giao dịch thanh toán, mua bán hàng hoá dịch vụ... - Xây dựng phát triển mạng lưới cơ sở chấp nhận thanh toán rộng khắp, tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng thẻ. Phấn đấu có từ 5-10% dân số Việt Nam sử dụng thẻ. - Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ tại Việt Nam. - Xây dựng một trung tâm chuyển mạch thanh toán thẻ để đảm bảo sử dụng đa dạng các loại thẻ của nhiều ngân hàng trong nước và trên thế giới. 3.2 Giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro đối với dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 3.2.1 Hoàn thiện tổ chức hoạt động Quản lý rủi ro trong hệ thống thẻ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Được thành lập vào cuối năm 2004, nhóm Quản lý rủi ro đã góp phần đáng kể vào việc hạn chế rủi ro trong kinh doanh thẻ của ngân hàng. Tuy nhiên do mới đi vào hoạt động nên cơ cấu tổ chức cũng như chức năng nhiệm vụ còn chưa được rõ ràng, hoàn thiện. Để phát huy các kết quả đạt được góp phần đẩy lùi, hạn chế rủi ro, tổn thất cho ngân hàng, nhóm Quản lý rủi ro (tương lai là Phòng Quản lý rủi ro khi Trung tâm Thẻ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thành lập) cần được phát triển đến một trình độ chuyên sâu hơn, bao gồm các chức năng nhiệm vụ: Nghiên cứu xây dựng các quy định, quy trình nghiệp vụ và an ninh trong lĩnh vực thanh toán và phát hành thẻ nhằm hạn chế tối đa tổn thất cho ngân hàng. Phối hợp với các phòng ban chuyên môn nghiên cứu xây dựng quy chế tín dụng riêng cho việc phát hành và thu hồi nợ thẻ tín dụng. Xấy dựng quy trình đánh giá tín dụng dành cho việc đánh giá các ĐVCNT để loại bỏ những đơn vị có rủi ro cao. Liên hệ với các Tổ chức thẻ Quốc tế để cập nhật các thông tin về quản lý rủi ro (bulletin/ hot cards) và thông báo cho các chi nhánh Theo dõi các báo cáo giao dịch thanh toán thẻ, sử dụng thẻ trong hệ thống thẻ Ngân hàng Ngoại thương để phát hiện sớm các trường hợp có nghi ngờ giả mạo, đề ra các biện pháp xử lý thích hợp, kịp thời, hạn chế tổn thất cho ngân hàng. Xử lý các trường hợp rủi ro trong thanh toán như tra soát, bồi hoàn. Phối hợp với các chi nhánh và là đầu mối liên hệ với các cơ quan pháp luật để xử lý, điều tra và quản lý các trường hợp giao dịch giả mạo, thẻ giả mạo, mất cắp, thất lạc ... Về cơ cấu tổ chức, cần bổ sung thêm cán bộ cho nhóm Quản lý rủi ro tại Phòng Quản lý Thẻ và tất cả các cán bộ đều phải là cán bộ chuyên trách, làm việc liên tục các ngày trong tuần. Do hoạt động kinh doanh thẻ diễn ra liên tục nên không thể để cán bộ rủi ro làm công tác kiêm nhiệm và bán thời gian vì khi rủi ro xảy ra càng phát hiện sớm và xử lý kịp thời thì càng giảm thiểu được tổn thất cho ngân hàng. Trong thời gian trước mắt, nhóm Quản lý rủi ro tại Phòng Quản lý Thẻ, ngoài 1 cán bộ phụ trách nhóm cần có ít nhất 3 cán bộ nghiệp vụ hàng ngày để chấm, theo dõi các báo cáo cũng như xử lý các trường hợp có dấu hiệu và hành vi giả mạo. Bên cạnh đó, ở các Chi nhánh của NHNTVN trong cả nước, mỗi Chi nhánh cần có một cán bộ thẻ làm đầu mối chịu trách nhiệm phối hợp hành động với nhóm Quản lý rủi ro khi phát hiện các trường hợp giả mạo trong quá trình hoạt động. Đặc biệt cán bộ nhóm Quản lý rủi ro phải là những người có kiến thức chuyên môn về thẻ ngân hàng, có kinh nghiệm lâu năm và nắm vững các quy trình nghiệp vụ phát hành, thanh toán và thẻ ngân hàng có như vậy mới phát hiện sớm các rủi ro và đề xuất các giải pháp thích hợp ngăn chặn rủi ro trong quá trình hoạt động. 3.2.2 Nâng cao trình độ chuyên môn đạo đức cán bộ thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Như trên đã nói, cán bộ thẻ là những người thường xuyên và trực tiếp tiếp xúc hàng ngày với khách hàng, với toàn bộ hoạt động kinh doanh thẻ của ngân hàng. Kiến thức chuyên môn về thẻ ngân hàng và ý thức của đội ngũ cán bộ thẻ có vai trò quan trọng trong việc phát hiện và ngăn ngừa các hành vi gian lận trong hoạt động thẻ. Phòng Quản lý thẻ phải làm đầu mối tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm nghiệp vụ cho toàn bộ cán bộ thẻ trong hệ thống trong hoạt động kinh doanh thẻ nói chung và hoạt động phòng chống rủi ro thẻ nói riêng. Bên cạnh đó thường xuyên cử cán bộ tham gia các khoá học về giả mạo thẻ do các Tổ chức thẻ Quốc tế tổ chức cho các ngân hàng thành viên để cập nhật được các thông tin mới về tình hình giả mạo, các phương thức giả mạo mới và các biện pháp phòng tránh. Các cán bộ sau khi tham dự các khoá học nước ngoài về có trách nhiệm viết báo cáo và trình bày kiến thức thu được từ khoá học cho các đồng nghiệp trong phòng. Bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn trong công tác phòng chống giả mạo thẻ cũng cần chú ý đến việc giáo dục đạo đức, nâng cao ý thức trách nhịêm cho đội ngũ cán bộ thẻ trong hệ thống. Gian lận do chính đội ngũ cán bộ thẻ thực hiện là những gian lận tinh vi nhất, khó phát hiện nhất và gây tổn thất nghiêm trọng cho ngân hàng. Do đó cần thực hiện công tác quản lý cán bộ tốt, phân công quyền hạn trách nhiệm của mỗi cán bộ một cách rõ ràng, thường xuyên quan tâm đến đời sống, tâm tư tình cảm của cán bộ, gắn quyền lợi của cán bộ với hoạt động kinh doanh thẻ của ngân hàng để từ đó mỗi cán bộ nâng cao ý thức trách nhiệm của mình đối với việc hạn chế rủi ro tổn thất trong quá trình kinh doanh thẻ của ngân hàng. 3.2.3 Hạn chế tình trạng giả mạo trong hoạt động thanh toán và phát hành thẻ 3.2.3.1 Xây dựng hệ thống chấm điểm và phân loại khách hàng Phần lớn thẻ tín dụng được phát hành tại ngân hàng hiện nay vẫn chưa được sử dụng với đúng tính chất của nó. Ngân hàng phát hành thẻ tín dụng trên cơ sở đánh giá về năng lực pháp lý và năng lực tài chính của chủ thẻ, trừ những trường hợp đặc biệt khách hàng không thể chứng minh được năng lực tài chính mà vẫn có nhu cầu sử dụng thẻ thì ngân hàng mới yêu cầu tài sản thế chấp để phát hành. Từ trước đến nay chủ yếu thẻ phát hành tại Ngân hàng Ngoại thương phát hành dưới dạng thế chấp nên rủi ro do chủ thẻ không thanh toán được sao kê hầu như không có. Tuy nhiên điều đó cũng đã hạn chế số lượng khách hàng đến phát hành thẻ. Trước sức ép cạnh tranh ngày càng lớn trên thị trường, phát hành tín chấp là một xu thế tất yếu Ngân hàng Ngoại thương sẽ phải áp dụng trong thời gian tới. Để thẩm định chính xác một khách hàng, lựa chọn được cho mình những khách hàng tốt có nhu cầu thực sự thì ngay từ bây giờ ngân hàng Ngoại thương cần xây dựng cho mình một hệ thống chấm điểm tín dụng và phân loại khách hàng riêng cho lĩnh vực thẻ. Hệ thống chấm điểm này căn cứ trên các thông tin về thu nhập, về địa vị xã hội, cơ quan công tác, thâm niên, số lượng thẻ đã phát hành, lịch sử quá trình sử dụng thẻ của khách hàng ... Hệ thống chấm điểm này có tính thống nhất tập trung trong toàn hệ thống, đảm bảo toàn bộ cán bộ thẻ các chi nhánh có thể truy cập để tham khảo thông tin trước khi ra quyết định. Khách hàng phát hành thẻ khác với khách hàng đến vay tại phòng tín dụng của ngân hàng nên thông tin, tiêu chí thẩm định, đánh giá cũng khác với hệ thống thông tin, tiêu chuẩn tín dụng của ngân hàng. Đây là một hệ thống hoàn toàn mới mẻ với ngân hàng Ngoại thương nên trong giai đoạn đầu ngân hàng có thể nghiên cứu mua một chương trình có sẵn mà các ngân hàng nước ngoài đang sử dụng và sửa đổi cho phù hợp với điều kiện thực tế trong nước. Không chỉ thẩm định và phân loại khách hàng phát hành thẻ, ngân hàng cũng cần nâng cao chất lượng thẩm định đơn vị chấp nhận thẻ. Đối với các cơ sở kinh doanh muốn ký hợp đồng chấp nhận thanh toán thẻ ngoài giấy phép kinh doanh, quyết định thành lập doanh nghiệp ... ngân hàng cũng cần xem xét các báo cáo tài chính của đơn vị để đánh giá kết quả cũng như hiệu quả kinh doanh của đơn vị. Hiện nay cán bộ thẻ chưa được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ tín dụng nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc thẩm định năng lực tài chính của đơn vị chấp nhận thẻ. Để giải quyết vấn đề này trước mắt phòng thẻ các Chi nhánh có thể phối hợp với phòng tín dụng để thẩm định đơn vị chấp nhận thẻ. Trong tương lai có thể tiếp tục áp dụng mô hình này hoặc tổ chức đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định tài chính cho cán bộ thẻ làm công tác Marketing thẻ. 3.2.3.2 Thông tin hướng dẫn sử dụng thẻ an toàn Chủ thẻ là những người trực tiếp sử dụng thẻ để thanh toán, chủ thẻ sử dụng thẻ đúng cách sẽ đảm bảo việc thực hiện giao dịch thanh toán thành công và an toàn. Tuy nhiên đây là một sản phẩm mới xuất hiện trên thị trường nên không phải chủ thẻ nào cũng biết cách sử dụng. Chính vì vậy để hạn chế các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình sử dụng thẻ ngân hàng cần xây dựng ấn phẩm hướng dẫn cũng như các lưu ý đối với khách hàng trong quá trình sử dụng thẻ. Thông tin hướng dẫn sử dụng thẻ cần lưu ý các nội dung sau: Bảo quản các thông tin thẻ: Số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thẻ, số PIN, mã số bí mật của thẻ ... là những thông tin quan trọng, cần thiết cho việc thực hiện thanh toán thẻ. Đây là những thông tin giúp ngân hàng định danh khách hàng và kiểm tra khả năng thanh toán của chủ thẻ. Nếu như khách hàng để lộ các thông tin này các tổ chức thẻ có thể lợi dụng để thực hiện các giao dịch không yêu cầu có sự xuất trình thẻ thanh toán hoặc làm thẻ giả để thanh toán hàng hoá và rút tiền mặt tại hệ thống ATM. Trong hướng dẫn sử dụng thẻ, ngân hàng khuyến cáo khách hàng bảo quản thông tin thẻ, không để lộ các thông tin thẻ của mình cho người khác biết, cẩn thận trong việc mua sắm trên mạng, không nên mua sắm hàng hoá, cung cấp thông tin thẻ để thực hiện thanh toán trên các trang Web hay cho các đơn vị chấp nhận thẻ không tin cậy, chủ thẻ không biết rõ ... Các lưu ý trong quá trình thanh toán thẻ: Để thực hiện việc thanh toán bằng thẻ, các chủ thẻ phải đưa thẻ cho đơn vị để thực hiện giao dịch thanh toán. Tình trạng thẻ bị skimming, giao dịch thanh toán bị thực hiện nhiều lần, số tiền cấp phép lớn hơn số tiền khách hàng phải thanh toán ... đều phát sinh trong quá trình thanh toán này và gây tổn thất cho ngân hàng cũng như phiền phức cho chủ thẻ. Để hạn chế rủi ro có thể xảy ra, ngân hàng khuyến cáo chủ thẻ yêu cầu đơn vị tiến hành cà thẻ thanh toán trong phạm vi kiểm soát, tầm nhìn của mình để đề phòng đơn vị skimming thẻ. Khách hàng chỉ ký vào hoá đơn thanh toán đã điền đầy đủ và chính xác các thông tin giao dịch, không ký trước cho đơn vị, yêu cầu đơn vị huỷ hoá đơn giao dịch trước mặt mình nếu không thực hiện thanh toán nữa. Ngoài ra, nếu chủ thẻ phát hiện có bất kỳ dấu hiệu nghi ngờ giả mạo nào trong quá trình thanh toán thì chủ thẻ nên liên lạc ngay với ngân hàng phát hành thẻ để theo dõi và có các biện pháp xử lý kịp thời hạn chế các rủi ro có thể xảy ra. 3.2.3.3 Thiết lập các hạn mức sử dụng và chấp nhận thẻ Việc thiết lập các hạn mức sử dụng và thanh toán thẻ có tác dụng hạn chế tổn thất cho ngân hàng và khách hàng khi có rủi ro xảy ra trong quá trình sử dụng thẻ. Ngân hàng Ngoại thương nên thiết lập các hạn mức sau: Hạn mức chi tiêu ngày: là số tiền tối đa và số lần tối đa mà chủ thẻ có thể thanh toán hàng hóa dịch vụ hoặc rút tiền mặt trong một ngày. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên xây dựng nhiều hạn mức chi tiêu ngày theo từng loại thẻ, từng hạng thẻ và theo hạn mức tín dụng của chủ thẻ. Hạn mức này nên có sự phân biệt giữa các giao dịch thanh toán hàng hoá dịch vụ và rút tiền mặt: số tiền rút tối đa và số lần rút tối đa bao giờ cũng phải thấp hơn số tiền và số lần tối đa thanh toán hàng hoá dịch vụ. Hạn mức này nhằm mục đích quản lý chi tiêu cho khách hàng, hạn chế rủi ro cho những loại hình sử dụng thẻ có độ rủi ro cao, giảm thiểu tổn thất trong những trường hợp khách hàng làm mất thẻ, thất lạc hoặc thẻ bị lợi dụng. Hạn mức thanh toán dự phòng tại ngân hàng thanh toán: Hạn mức này được các ngân hàng phát hành thiết lập cho các ngân hàng thanh toán và được đặt tại máy chủ của ngân hàng thanh toán. Trong trường hợp hệ thống xử lý giao dịch của ngân hàng thanh toán không kết nối được với ngân hàng phát hành để cấp phép giao dịch vì một lý do nào đó hoặc hệ thống xử lý giao dịch của ngân hàng phát hành xử lý quá chậm (hơn 10 giây /giao dịch) thì hạn mức này được áp dụng để tạo sự thuận tiện cho khách hàng sử dụng thẻ. Hạn mức này thường được các ngân hàng mới phát hành thẻ áp dụng triệt để do còn ít kinh nghiệm về quản lý hệ thống và xử lý nghiệp vụ trong thời gian đầu triển khai phát hành thẻ. Tuy nhiên, với thời gian hoạt động và kinh nghiệm tích luỹ được cũng như khả năng xử lý sự cố, Ngân hàng Ngoại thương nên đặt hạn mức này bằng 0 để hạn chế rủi ro. Hạn mức thanh toán dự phòng tại các Tổ chức thẻ Quốc tế. Theo quy định của các Tổ chức thẻ Quốc tế, các ngân hàng phát hành phải thiết lập hạn mức thanh toán dự phòng tại các Tổ chức thẻ Quốc tế. Đây là hạn mức các ngân hàng phát hành ủy quyền cho Tổ chức thẻ Quốc tế cấp phép cho các giao dịch thẻ do mình phát hành khi hệ thống xử lý giao dịch của ngân hàng thanh toán vì một lý do nào đó không kết nối được với ngân hàng phát hành hoặc hệ thống của ngân hàng phát hành xử lý quá thời gian cho phép (10 giây / giao dịch). Tùy từng tổ chức thẻ mà hạn mức này có thể do ngân hàng phát hành tự đặt hoặc phải đạt mức tối thiểu nào đó để đảm bảo chi tiêu cho khách hàng và không ảnh hưởng đến thương hiệu của các Tổ chức thẻ Quốc tế. Dựa trên tình hình sử dụng thẻ của khách hàng, theo thông lệ của Tổ chức thẻ Quốc tế, tùy từng thời kỳ phát triển khác nhau của hoạt động thẻ, Ngân hàng Ngoại thương cân nhắc xác định hạn mức dự phòng cho phù hợp. Trong những trường hợp đặc biệt, khi ngân hàng gặp giả mạo thẻ với quy mô lớn thì phải điều chỉnh hạn mức này bằng 0 để hạn chế tổn thất cho ngân hàng. Hạn mức thanh toán trần: Hạn mức thanh toán này được áp dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng thẻ của khách hàng tại những khu vực mà các đơn vị chấp nhận thẻ chưa được trang bị máy thanh toán thẻ tự động và kết nối trực tuyến với ngân hàng thanh toán. Hạn mức này quy định số tiền giao dịch tối đa mà đơn vị chấp nhận thẻ không cần xin cấp phép thanh toán. Với những giao dịch ứng tiền mặt và giao dịch thanh toán hàng hoá coi như tiền mặt: vàng, bạc, đá quý, chip chơi bạc ... hạn mức này luôn bằng 0 để giảm thiểu rủi ro, dịch vụ khách sạn là loại hình kinh doanh có hạn mức này đặt cao nhất. Với việc trang bị ngày càng nhiều thiết bị thanh toán thẻ tự động cũng như hoạt động cấp phép thanh toán thẻ luôn đạt tiêu chuẩn của các Tổ chức thẻ Quốc tế, thực hiện trong thời gian quy định thì Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên đặt hạn mức này bằng 0, yêu cầu tất cả các giao dịch thanh toán đều phải được cấp phép để hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất. 3.2.3.4 Hướng dẫn và thường xuyên kiểm tra công tác thanh toán thẻ tại các đơn vị chấp nhận thẻ Đơn vị chấp nhận thẻ là nhân tố vô cùng quan trọng không thể thiếu trong quá trình thanh toán thẻ, có vai trò quan trọng đến sự phát triển của dịch vụ thẻ nhưng cũng tiềm ẩn những rủi ro gây tổn thất cho ngân hàng. Ngay sau khi ký kết Hợp đồng chấp nhận thanh toán thẻ, ngân hàng đã tiến hành lắp đặt các thiết bị cần thiết và đào tạo cho nhân viên về quy trình chấp nhận thanh toán thẻ cho đơn vị. Tuy nhiên, tại các đơn vị chấp nhận thẻ nhân viên thanh toán thẻ thường xuyên thay đổi và nhân viên mới thường không được người cũ truyền đạt những kiến thức cần thiết dẫn đến việc chấp nhận thẻ gặp nhiều khó khăn và khả năng rủi ro xảy ra rất cao. Chính vì vậy ngân hàng cần thường xuyên tổ chức các khoá đào tào bồi dưỡng lại cho nhân viên chấp nhận thẻ các kiến thức về: Cách nhận biết thẻ: số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thẻ, các dấu hiệu bảo mật, biểu tượng các lại thẻ chấp nhận thanh toán. Cách chấp nhận thanh toán thẻ: các thao tác cần thiết để thực hiện việc thanh toán thẻ, cách cà thẻ xin cấp phép thanh toán giao dịch, đối chiếu thông tin in trên thẻ và thông tin được mã hoá, tên và chữ ký của chủ thẻ, cách settlement giao dịch thanh toán về ngân hàng ... Khuyến cáo nhân viên chấp nhận thẻ nhận biết các hành vi, thái độ có dấu hiệu nghi ngờ giả mạo của khách hàng cũng như cách thức giả quyết xử lý các tình huống nghi ngờ giả mạo Hướng dẫn cho đơn vị chấp nhận thẻ biết về hoạt động Skimming và cách quản lý nhân viên. Bên cạnh việc đào tạo trực tiếp nhân viên chấp nhận thẻ tại các đơn vị chấp nhận thẻ, ngân hàng cũng in các ấn phẩm hướng dẫn cách nhận biết và thanh toán thẻ dưới dạng đề can, stick, sách, tài liệu hướng dẫn, các thiết bị giúp phát hiện thẻ giả như kính lúp ... Ngoài việc đào tạo hướng dẫn đơn vị chấp nhận thẻ, ngân hàng phải tiến hành việc kiểm tra các đơn vị chấp nhận thẻ trong quá trình chấp nhận thanh toán.Cán bộ thẻ cần trực tiếp đến đơn vị chấp nhận thẻ để xem đơn vị có tiến hành kinh doanh thực sự không tránh trường hợp các đơn vị chấp nhận thẻ " ma " không có trụ sở, không tiến hành kinh doanh mà chỉ ký hợp đồng thanh toán để thực hiện các giao dịch giả mạo thanh toán thẻ. Cán bộ ngân hàng cũng cần kiểm tra thiết bị thanh toán tại đơn vị chấp nhận thẻ để đảm bảo đơn vị chấp nhận thẻ không sử dụng các thiết bị có khả năng lưu trữ thông tin giao dịch, không lắp đặt các thiết bị để skimming thẻ, ngăn chặn việc cung cấp thông tin thẻ cho bên thứ ba và bảo mật thông tin trong quá trình truyền thông tin về ngân hàng. Trong quá trình kiểm tra, cán bộ ngân hàng cần chú ý đến những biểu hiện có dấu hiệu nghi ngờ của đơn vị chấp nhận thẻ để phát hiện sớm những đơn vị có hành vi lừa đảo trong hoạt động chấp nhận thanh toán thẻ. 3.2.3.5 Theo dõi các báo cáo hoạt động thẻ và chương trình quản lý rủi ro toàn cầu của các Tổ chức thẻ quốc tế Càng phát hiện được sớm các hành vi gian lận thẻ, ngân hàng càng hạn chế được tổn thất xảy ra. Bên cạnh các biện pháp giáo dục, hướng dẫn khách hàng sử dụng và chấp nhận thẻ ngân hàng, hàng ngày nhóm Quản lý rủi ro cần tiến hành theo dõi các báo cáo về tình hình hoạt động thẻ trong hệ thống để phát hiện kịp thời các giao dịch giả mạo trong hệ thống thẻ của ngân hàng. Trên cơ sở các báo cáo về tình hình sử dụng thẻ do ngân hàng phát hành, báo cáo về hoạt động chấp nhận thanh toán thẻ của các đơn vị chấp nhận thẻ trong hệ thống, cán bộ rủi ro phân loại theo các nhóm giao dịch có dấu hiệu nghi ngờ giả mạo như: giao dịch với số tiền lớn, các giao dịch được thực hiện liên tục trong một thời gian ngắn từ cùng một số thẻ, các giao dịch thực hiện tại các đơn vị chấp nhận thẻ, tại các thị trường có mức độ rủi ro cao. Trên cơ sở phân loại, cán bộ quản lý rủi ro tiến hành xác minh để phát hiện các giao dịch giả mạo từ đó có các biện pháp xử lý kịp thời. Bên cạnh việc theo dõi báo cáo sử dụng và thanh toán thẻ của ngân hàng, cán bộ quản lý rủi ro cần xem các báo cáo về giả mạo thẻ của các Tổ chức thẻ Quốc tế để nắm được tình hình, diễn biến, xu hướng giả mạo trong hoạt động thẻ trên thế giới, trong khu vực cũng như của ngân hàng mình. Trên cơ sở các thông tin thu được, căn cứ vào thực tế hoạt động thẻ của ngân hàng mà đề xuất các giải pháp ngăn chặn giao dịch giả mạo có thể xảy ra đối với hoạt động thẻ của ngân hàng Ngoại thương. Để phòng chống giả mạo và lừa đảo trong hoạt động thanh toán thẻ các Tổ chức thẻ Quốc tế đều xây dựng các chương trình hỗ trợ các thành viên trong việc phát hiện giả mạo và quản lý rủi ro. Các chương trình này đã được sử dụng rất thành công tại rất nhiều thị trường trên thế giới nên Ngân hàng Ngoại thương cần phối hợp và khai thác tối đa chức năng của các dịch vụ sau: Dịch vụ cảnh báo về đơn vị chấp nhận thẻ quốc gia (National Merchant Alert Service - NMA ): NMAS lưu trữ thông tin về những đơn vị chấp nhận thẻ đã từng bị chấm dứt hợp động do có những hành vi liên quan đến giả mạo, có mức đòi bồi hoàn cao hoặc đã từng vi phạm các điều khoản trong hợp đồng chấp nhận thẻ. Khi ngân hàng thẩm định, chuẩn bị ký kết hợp đồng chấp nhận thanh toán thẻ với một đơn vị mới, ngân hàng có thể cập nhật cơ sở dữ liệu của NMAS và xác định xem đơn vị chấp nhận thẻ đó có nằm trong danh sách các đơn vị chấp nhận thẻ có độ rủi ro cao hay không. Đồng thời NMAS cũng có chế độ tự động thông báo cho ngân hàng thanh toán nếu có một đơn vị chấp nhận thẻ được đưa lên danh sách cảnh báo trong vòng 180 ngày sau khi ngân hàng có đưa ra yêu cầu được biết thông tin về đơn vị chấp nhận thẻ đó. Dịch vụ phát hiện rủi ro (Risk Identification Service - RIS): RIS hỗ trợ các ngân hàng thanh toán trong việc theo dõi các hoạt động liên quan đến giả mạo tại các đơn vị chấp nhận thẻ. RIS thu thập thông tin về các hoạt động của các đơn vị chấp nhận thẻ như doanh số giao dịch, yêu cầu tra soát, bồi hoàn, số giao dịch giả mạo. Một chương trình đánh giá rủi ro sẽ sử dụng các thông số để đánh giá hoạt động của các đơn vị chấp nhận thẻ và khi các thông số đến một ngưỡng nào đó RIS sẽ gửi một bản báo cáo về đơn vị chấp nhận thẻ đến ngân hàng thanh toán thông qua hệ thống quản lý phân phối báo cáo. Trong báo cáo sẽ có các thông tin về hoạt động của các đơn vị chấp nhận thẻ và 6 mức cảnh báo dựa trên các thông tin đó. Dịch vụ thông tin giả mạo toàn cầu (Global Fraud Information Service - GFIS): dịch vụ này làm nhiệm vụ kết nối và lưu chuyển các thông tin về giả mạo, lừa đảo trong hoạt động thẻ giữa các tổ chức thành viên trên toàn cầu thông qua thư điện tử. Ngoài ra GFIS còn cung cấp các công cụ khác như: diễn đàn nơi các thành viên có thể trao đổi thông tin về điều tra và phòng chống giả mạo, số liệu thống kê định kỳ hàng tháng và quý về giả mạo thẻ, những thông tin cập nhật về luật pháp liên quan đến giả mạo thẻ tại các nước 3.2.3.6 Phát hành thẻ chip thay thế thẻ mã hoá bằng băng từ Hiện nay trên thế giới các ngân hàng đã bắt đầu sử dụng thẻ chip thay thế cho thẻ từ. Hiện tại để phục vụ cho việc thanh toán thực hiện được trên thẻ chip ngoài chip mã hoá thông tin vẫn sử dụng băng từ để mã hoá đảm bảo thẻ có thể thanh toán được cả trên các máy chấp nhận thanh toán thẻ chip và thẻ từ. Thẻ chip được mã hoá bằng thuật toán khó phát hiện hơn và sử dụng công nghệ hiện đại nhất hiện nay ngăn ngừa việc tổ chức tội phạm thẻ sử dụng thiết bị để đọc trộm thông tin mã hoá trong thẻ. Trước tình trạng các thiết bị ăn cắp thông tin được mã hoá trên thẻ từ xuất hiện ngày càng nhiều thì việc sử dụng thẻ chip thay thế sẽ góp phần hạn chế rủi ro cho ngân hàng trước tình trạng thẻ giả. Ngoài ra thẻ chip còn có khả năng lưu trữ được nhiều thông tin hơn về chủ thẻ và có thể cập nhật được các thông tin mới hoặc các thông tin thay đổi mà không cần in lại thẻ. Các thông tin về giao dịch thẻ, hạn mức tín dụng của thẻ cũng như tình trạng của thẻ được cập nhật và lưu trữ trong chip đảm bảo cho việc thanh toán ngay cả trong trường hợp đường truyền bị lỗi, không thực hiện việc liên lạc với ngân hàng phát hành, hạn chế rủi ro cấp phép qua hệ thống dự phòng của Tổ chức thẻ Quốc tế. 3.2.4 Xây dựng hệ thống dự phòng cho hoạt động thẻ Thẻ ngân hàng ra đời trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng. Hệ thống công nghệ, máy móc là nền tảng cho hoạt động thẻ, quyết định đến sự vận hành thông suốt, liên tục của hoạt động phát hành. Bất kỳ một sự cố nào của hệ thống dẫn đến sự ngưng trệ, tính chính xác của giao dịch trong quá trình thanh toán sẽ gây tổn thất cho ngân hàng. Tuy nhiên dù một hệ thống có vận hành tốt, trơn tru đến đâu cũng không thể đảm bảo không có sự cố, không có hỏng hóc, trong quá trình sử dụng không cần bảo dưỡng, thay thế, sửa chữa. Bên cạnh đó, các máy chủ, các thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động thẻ chưa sản xuất được trong nước mà phải nhập khẩu từ nước ngoài. Nếu như đến khi có sự cố mới bắt đầu mua và nhập khẩu máy thay thế thì sẽ không đảm bảo hệ thống vận hành liên tục, hoạt động thanh toán sẽ bị ngừng trệ, giảm uy tín và gây tổn thất cho ngân hàng. Chính vì vậy, Ngân hàng Ngoại thương cần chuẩn bị một hệ thống máy móc, thiết bị dự phòng cho hoạt động thẻ, sẵn sàng khi có sự cố xảy ra. 3.2.5 Phối hợp với các tổ chức kinh doanh thẻ trong nước và quốc tế trong công tác ngăn ngừa và phát hiện rủi ro Bất kỳ chủ thể nào tham gia hoạt động kinh doanh thẻ đều phải đối mặt với rủi ro. Khi rủi ro xảy ra nó không chỉ gây tổn thất cho ngân hàng phát hành mà cả ngân hàng thanh toán và các thành phần tham gia hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng. Bên cạnh đó các tổ chức tội phạm thẻ hoạt động ngày càng tinh vi, sử dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động giả mạo thẻ và mở rộng phạm vi hoạt động đến tất cả các quốc gia, các châu lục trên thế giới. Chính vì vậy phòng chống và hạn chế rủi ro trong kinh doanh thẻ không chỉ là sự nỗ lực cố gắng của một ngân hàng, một tổ chức đơn lẻ mà cần sự phối hợp, hợp tác của toàn bộ các ngân hàng, tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh thẻ. Nếu chỉ đơn lẻ một ngân hàng tiến hành công tác quản lý rủi ro thì các tổ chức tội phạm thẻ sẽ chuyển hướng tấn công sang các ngân hàng khác và khi giả mạo rủi ro trong hoạt động thẻ tăng cao sẽ gây mất lòng tin của khách hàng, ảnh hưởng đến hoạt động của toàn bộ thị trường thẻ. Chính vì vậy các ngân hàng tuy có thể cạnh tranh với nhau gay gắt trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ nhưng cần phải thống nhất với nhau trong công tác phòng chống giả mạo thẻ. Các ngân hàng chủ động trao đổi thông tin và phối hợp hành động với nhau và với các cơ quan pháp luật khi phát hiện các hành vi giả mạo thẻ trong hệ thống mình. Ở đâu chúng ta cũng cần nhấn mạnh đến vai trò của các cơ quan pháp luật vì đây là lực lượng đóng vai trò quan trọng để truy bắt và đưa ra xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động kinh doanh thẻ. 3.3 Kiến nghị với các cơ quan hữu trách 3.3.1 Chính Phủ Thị trường thẻ Việt Nam là thị trường mới phát triển nên hoạt động tội phạm trong lĩnh vực thẻ chưa nhiều và quy mô còn nhỏ. Hầu hết các vụ giả mạo thẻ và giao dịch giả mạo đều được các ngân hàng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan pháp luật ngăn chặn kịp thời. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thị trường tài chính và thị trường thẻ Việt nam, nước ta sẽ phải đối mặt với sự tấn công mang tính tổ chức của các tổ chức tội phạm thẻ quốc tế. Hiện nay trong Bộ luật hình sự Việt Nam, chúng ta chưa có quy định tội danh và khung hình phạt cho tội phạm làm và tiêu thụ thẻ giả cũng như hành vi lừa đảo hoặc cấu kết thực hiện các giao dịch thẻ giả mạo. Chính vì vậy, trong một số vụ án cấu kết giả mạo giao dịch thẻ và tiêu thụ thẻ giả bị phát hiện vừa qua, người phạm tội chủ yếu bị quy kết vào tội tiêu thụ tiền giả, đền lại số tiền lừa đảo cho ngân hàng hoặc cho ĐVCNT và chấp hành hình phạt theo quy định . Do đó Chính phủ cần sớm ban hành quy định tội danh và khung hình phạt nghiêm khắc trong Bộ luật hình sự cho loại tội phạm sử dụng thẻ giả và cấu kết lừa đảo giả mạo giao dịch thẻ. Các hoạt động giả mạo thẻ thường có liên quan đến yếu tố nước ngoài nên Chính phủ có thể tham khảo luật và quy định của các Tổ chức thẻ Quốc tế cũng như các quy định của Luật pháp quốc tế để ban hành các điều khoản có tính thực tiễn cao, phù hợp với thông lệ quốc tế, tránh những tranh chấp quốc tế có thể xảy ra mà không mâu thuẫn với hệ thống Pháp luật Việt Nam. 3.3.2 Ngân hàng Nhà nước Trong thời gian qua, Trung tâm thông tin tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phát huy vai trò là một thư viện lưu trữ các thông tin tín dụng của các tổ chức và cá nhân có quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng. Các thông tin thu thập từ các tổ chức tín dụng và một số các cơ quan hữu quan khác góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng quản lý tín dụng, phòng ngừa rủi ro cho hệ thống NHTM Việt Nam. Hiện tại thẻ tín dụng phát hành tại các ngân hàng thương mại trong nước chủ yếu phát hành dưới hình thức thế chấp và mức thế chấp thường cao hơn hạn mức chi tiêu của thẻ. Khi chủ thẻ không có khả năng thanh toán các khoản chi tiêu trong kỳ căn cứ vào các quy định trong Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ký kết giữa ngân hàng phát hành và chủ thẻ, ngân hàng phát hành sẽ chấm dứt hợp đồng sử dụng thẻ và dùng số tiền khách hàng thế chấp để thu hồi nợ. Chính vì vậy, tình trạng không thu hồi được nợ trong hoạt động phát hành thẻ của các ngân hàng trong nước hầu như không xảy ra. Tuy nhiên, khi thị trường tài chính ngân hàng được mở cửa cho các ngân hàng, tổ chức tài chính quốc tế tham dự, cùng với sự phát triển cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường thẻ thì phát hành thẻ tín dụng sẽ trở lại đúng với bản chất của thẻ tín dụng: ngân hàng phát hành căn cứ trên đánh giá của mình về uy tín và năng lực tài chính của khách hàng để quyết định hạn mức chi tiêu và phát hành tín chấp thẻ cho khách hàng. Điều đó cũng có nghĩa là ngân hàng phát hành sẽ phải đối mặt với rủi ro tín dụng trong hoạt động phát hành thẻ giống như hoạt động cho vay cá nhân và doanh nghiệp của ngân hàng. Bên cạnh việc bản thân các ngân hàng cần xây dựng cho mình một hệ thống chấm điểm khách hàng chính xác, khoa học thì các ngân hàng thương mại cũng cần sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước trong việc thu thập và lưu trữ thông tin tín dụng của chủ thẻ. Trong thời gian tới Ngân hàng Nhà nước cần sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng cho hoạt động thẻ theo hướng : Thu thập các thông tin về chủ thẻ tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo các tiêu thức: số lượng thẻ tín dụng đã phát hành, địa điểm phát hành, tình hình thanh toán sao kê, thanh toán nợ cho ngân hàng phát hành thẻ, có liên quan đến hành vi gian lận trong quá trình sử dụng thẻ bị ngân hàng phát hành chấm dứt sử dụng thẻ chưa ..... Những thông tin thu thập về chủ thẻ sẽ hỗ trợ ngân hàng phát hành đánh giá chính xác chủ thẻ từ đó hạn chế rủi ro trong hoạt động phát hành của ngân hàng. Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại cũng phải hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng nội bộ cho hoạt động thẻ. Thực hiện việc quản lý tập trung cơ sở dữ liệu khách hàng sử dụng thẻ: thông tin cá nhân, thông tin sử dụng thẻ..., thường xuyên cập nhập liên tục, đảm bảo tính chính xác và đồng bộ các thông tin về khách hàng. 3.3.3 Hiệp hội thẻ của các ngân hàng phát hành và thanh toán thẻ Việt Nam Hiệp hội thẻ của các ngân hàng phát hành và thanh toán thẻ Việt Nam thời gian qua đã có những bước phát triển đa dạng và mạnh mẽ, bước đầu thực hiện được tiêu chí của Hội là “ diễn đàn hợp tác và trao đổi kinh nghiệm của các ngân hàng phát hành và thanh toán thẻ Việt Nam ”. Hiệp hội thẻ ra đời đã có sự tham gia của hầu hết các ngân hàng Việt Nam. Các ngân hàng trong Hội đã thống nhất mức phí thanh toán tối thiểu và việc áp dụng thuế giá trị gia tăng áp dụng cho các cơ sở chấp nhận thẻ tại Việt Nam nhằm mục đích đảm bảo lợi nhuận cho tất cả các ngân hàng và thị trường thẻ cạnh tranh lành mạnh. Hội cũng đã thu thập tình hình khó khăn thuận lợi cũng như vướng mắc của các ngân hàng trong Hội về phát hành và thanh toán thẻ để cùng nhau đề ra các giải pháp khắc phục. Trong thời gian tới Hiệp hội thẻ cần tiếp tục phát huy vai trò “diễn đàn hợp tác trao đổi” của mình trong hoạt động phòng chống rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh thẻ tại thị trưòng Việt Nam. Hiệp hội thẻ cần đưa ra các quy định, quy chế đối với các thành viên trong việc cung cấp thông tin và phối hợp hành động phòng chống các hành vi gian lận trong lĩnh vực kinh doanh thẻ ngân hàng. Hiệp hội thẻ cũng là đầu mối tổ chức, nghiên cứu đưa ra các đề xuất hạn chế rủi ro trong kinh doanh thẻ, đầu mối liên lạc với các Tổ chức thẻ Quốc tế trong hoạt động phòng chống giả mạo thẻ và tổ chức các khoá học bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho các ngân hàng thành viên trong hoạt động phòng chống rủi ro kinh doanh thẻ đồng thời là cơ quan đưa ra những đề suất kiến nghị lên các cơ quan cấp trên. KẾT LUẬN Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt là một xu thế tất yếu của hầu hết các quốc gia trên thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Thẻ với tư cách là một phương tiện thanh toán hiện đại đã trở thành một vật phổ biến trong cuộc sống của người dân trong nền kinh tế phát triển. Tại Việt Nam còn rất nhiều cơ hội cho các NHTM Việt Nam phát triển sản phẩm và dịch vụ thẻ. Bên cạnh đó chúng ta cũng không bao giờ được quên những rủi ro luôn luôn rình rập khi phát triển dịch vụ mới mẻ này. Vấn đề này càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết khi chúng ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, hoà nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới . Trong khi các tổ chức thẻ trên thế giới đã có hàng chục năm phát triển với nhiều kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thẻ, với họ hoạt động phòng chống rủi ro vô cùng quan trọng trong sự phát triển chung của dịch vụ thẻ. Chúng ta thì chỉ có chưa đến 15 năm để phát triển dịch vụ này. Do vậy chúng ta còn rất thiếu kinh nghiệm trong hoạt động quản lý rủi ro chung. Chính vì lẽ đó mà bọn tội phạm thẻ xác định các quốc gia mới phát triển dịch vụ thẻ như là Việt Nam là nơi đến ưa thích khi sử dụng thẻ giả. Với mong muốn cho hoạt động thẻ của NHNTVN nói riêng và thị trương thẻ Việt Nam nói chung ngày càng phát triển và tránh được những rủi ro, bài viết đã cố gắng giúp người đọc có cái nhìn cơ bản và hệ thống về hoạt động quản lý rủi ro dịch vụ thẻ tín dụng bằng cách hệ thống hoá lại những vấn đề cơ bản về hoạt động này. Đồng thời bài viết cũng mong muốn cho người đọc thấy tầm quan trọng của hoạt động quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ nói chung, những vấn đề mà cụ thể ở đây là NHNTVN còn gặp phải trong hoạt động quản lý rủi ro dịch vụ thẻ tín dụng và những hướng giải quyết những vấn đề đó. Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng do kiến thức còn hạn chế, thời gian có hạn nên bài viết không tránh khỏi những sai sót nhất định. Em rất mong sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn để khoá luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo Thạc sỹ. Trần Tất Thành - Giảng viên trường ĐH KTQD và các anh chị trong phòng quản lý thẻ của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành tốt bài khoá luận này. Em xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo tổng kết của phòng thẻ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam các năm từ 2004-2007 2. Webside Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam VCB.com.vn 3. Webside Thế giới @/thông tin, tin tức- ATM thời mở cửa 6/12/2007 Thegioi@.com.vn 4. Tạp chí ngân hàng-số chuyên đề- ngày 18/11/2005 5. Quản trị ngân hàng thương mại – Peter S.Rose – NXB tài chính. 6. Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ban hành theo quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam. 7. Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ của giám đốc NHNTVN. 8. Tạp chí NHNTVN các năm 2001-2006 9. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại – Đavid cox – nxb chính trị quốc gia. MỤC LỤC Sơ đồ 1.1 : Sơ đồ nghiệp vụ phát hành thẻ 11 Sơ đồ 1.2 : Sơ đồ nghiệp vụ chấp nhận thanh toán thẻ 12 Sơ đồ 1.3: Sơ đồ nghiệp vụ thu tiền và thu nợ 14 Sơ đồ 1.4: Sơ đồ nghiệp vụ tra soát, xử lý khiếu nại 15

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNH 103.docx
Tài liệu liên quan