Trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay vai trò của các CTCK là rất to lớn. Chính điều này đã thể hiện rõ tính cấp thiết của đề tài bởi thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động chưa được lâu và mục tiêu phát triển thị trường hoàn chỉnh không phải chỉ là mong muốn của CTCK mà còn là mong muốn của cả nền kinh tế. Những giải pháp hữu hiệu ngay thời điểm này để có thể vượt qua được những khó khăn và hoàn thiện những gì là do còn thiếu kinh nghiệm mà TTCK Việt Nam còn chưa làm được. Những giải pháp này có tính khả thi cao và có thể áp dụng ngay trong tương lai gần nếu có sự hỗ trợ mạnh mẽ của các chủ thể có liên quan đến TTCK và sự lỗ lực của bản thân công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN.
Do chứng khoán là một đề tài mới mẻ các tài liệu tham khảo cũng như nhận thức của em về vấn đề này vẫn chưa đầy đủ nên không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của người đọc để có thể hoàn thiện thêm bài viết và cũng là để bổ sung nhận thức của mình.
Để có thể hoàn thành bài viết này, em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ. Lê Hương Lan đã nhiệt tình hướng dẫn và góp ý cho em về phương pháp cũng như nội dung nghiên cứu đề tài.
Đồng thời, em xin chân thành cảm ơn tới ban lãnh đạo, các cô chú, anh chị cán bộ làm việc tại công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN đã giúp em rất nhiều trong quá trình thực tập tại công ty để em có thể hoàn thiện được đề tài này.
63 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động của công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa Công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN
2.3.1. Những kết quả đạt được
2.3.1.1. Đánh giá về các nghiệp vụ thực hiện
Qua sự phân tích về các nghiệp vụ của công ty ở trên ta thấy dù là CTCK NHNO&PTNT VN được coi là sinh sau đẻ muộn nhưng đã cố gắng triển khai tất cả các nghiệp vụ mình có thể và cũng đã đạt được những kết quả nhất định.
Trong 5 nghiệp vụ chính mà Công ty được phép thực hiện, nghiệp vụ môi giới được Công ty tiến hành nhiều nhất và trở thành hoạt động chủ chốt của Công ty bởi đây là hoạt động ít rủi ro, yêu cầu vốn pháp định không cao và được coi là hiệu quả nhất trong giai đoạn đầu đi vào hoạt động. Điều đó thể hiện một phần qua sự tăng lên đáng kể của tổng số tài khoản giao dịch được mở, giá trị giao dịch, khối lượng giao dịch cũng như phí môi giới mà Công ty thu được ngày càng tăng.
Nghiệp vụ tự doanh của Công ty so với thời gian đầu đã có phần cải thiện, thể hiện ở chỗ nếu như trước đây chủ yếu Công ty mua bán lô lẻ, mua bán chứng khoán niêm yết thì nay danh mục đầu tư của Công ty đã được đa dạng hoá hơn. Công ty bắt đầu tham gia giao dịch trái phiếu và cổ phiếu không niêm yết nhiều hơn trước. Doanh thu từ nghiệp vụ này cũng chiếm một tỷ trọng ngày một lớn trong cơ cấu doanh thu. Nhưng cũng phải nói rằng nếu đem so sánh với các CTCK khác trong điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều khó khăn như hiện nay thì hoạt động tự doanh của Công ty đã có kết quả đáng khích lệ vì đã cố gắng tự doanh một cách đa dạng cả cổ phiếu và trái phiếu, bước đầu đã bỏ qua được tâm lý sợ thua lỗ để tham gia tích cực nghiệp vụ này góp phần tăng sức cầu đáng kể cho thị trường, đặc biệt trong các giai đoạn thị trường giảm sức cầu.
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của Công ty cũng trong tình trạng chung của các CTCK hiện nay là hầu hết đều chưa triển khai nghiệp vụ này và có triển khai cũng chỉ ở mức độ thấp, tức là chỉ làm đại lý phát hành.
Tuy vậy, với vai trò làm đại lý phát hành kỳ phiếu cho NHNo&PTNT VN, Công ty cũng đã làm rất tốt và đem lại cho Công ty một khoản doanh thu đáng kể. Hơn nữa để tạo ra lượng khách hàng tiềm năng cho nghiệp vụ này, Công ty cũng tích cực xúc tiến những hoạt động tư vấn cho các doanh nghiệp muốn cổ phần hoá hay niêm yết không vì mục đích lợi nhuận, mà chủ yếu là hi vọng họ sẽ trở thành khách hàng của Công ty trong nghiệp vụ bảo lãnh phát hành sau này. Điều này cho thấy Công ty đã ý thức được vai trò của nghiệp vụ này và đã có chính sách lâu dài để phát triển nghiệp vụ này.
Đối với nghiệp vụ tư vấn, nhận thức được đây là nghiệp vụ quan trọng và chủ yếu đối với các CTCK còn non trẻ nên Công ty đã triển khai nghiệp vụ ngay từ những buổi đầu qua nhiều hình thức phong phú. Công ty thực hiện tư vấn cho hai loại đối tượng chủ yếu là tư vấn cho tổ chức phát hành và tư vấn đầu tư cho khách hàng. Trong nghiệp vụ tư vấn Công ty hoạt động chủ yếu về khuyến khích khách hàng trước khi đầu tư, Công ty cố gắng cung cấp cho khách hàng nhiều tiện ích như: Đưa ra các bản tin chứng khoán hàng tuần và thực hiện tư vấn miễn phí. Tư vấn đầu tư là công việc đòi hỏi phải có năng lực phân tích cao, nhạy bén với tình hình thị trường nên Công ty đã chú trọng việc đào tạo những cán bộ giỏi để thực hiện nghiệp vụ này. Các hoạt động bổ trợ khác cũng được công ty thực hiện một cách đa dạng nhằm đem lại lợi ích cho khách hàng.
Nhìn chung, Công ty đã có hướng phát triển tất cả các nghiệp vụ trong tương lai thể hiện ở chỗ Công ty luôn chú trọng những nghiệp vụ có thể hỗ trợ và tạo điều kiện cho các nghiệp vụ khác phát triển, đồng thời tích cực xây dựng một lượng khách hàng tiềm năng để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của Công ty khi mở rộng phạm vi hoạt động sau này
2.3.2. Những hạn chế trong hoạt động kinh doanh
Không thể phủ nhận là sau hơn hai năm đi vào hoạt động, những kết quả kinh doanh của Công ty là rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi những hạn chế mà hầu hết các CTCK trong buổi đầu hoạt động đều gặp phải.
Đối với các hoạt động kinh doanh thì hoạt động môi giới được coi là hoạt động chủ yếu của Công ty, song chưa đủ để khẳng định hoạt động này trong thời gian qua đã đạt được hiệu quả mong muốn. Nhìn chung, nội dung thực hiện môi giới của Công ty chủ yếu vẫn là trung gian thực hiện lệnh mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Nếu như ở nước ngoài có sự gắn bó mật thiết giữa môi giới và tư vấn thì ở ta, hàm lượng tư vấn trong hoạt động môi giới còn hết sức hạn chế. Cũng như hầu hết các CTCK, Công ty cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ cung cấp thông tin về tổ chức phát hành có chứng khoán được niêm yết, thông báo kết quả mua bán chứng khoán và thông tin về giá chứng khoán mà khách hàng quan tâm. Các dịch vụ của nhà môi giới toàn phần không được triển khai thực hiện. Thêm vào đó, các dịch vụ đi kèm như cầm cố chứng khoán và ứng trước tiền bán chứng khoán chưa thực sự phát triển, vì vậy một mặt chưa tạo điều kiện cho khách hàng có nhiều cơ hội trong đầu tư chứng khoán, mặt khác cũng là một hạn chế trong việc phát triển hoạt động môi giới của Công ty. Tóm lại, hoạt động môi giới của Công ty hiện nay còn hạn chế, đơn giản, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Đối với tự doanh thì nhìn chung Công ty vẫn thực hiện tự doanh với phương châm "thận trọng, bảo toàn vốn", việc mua bán để thực hiện nghiệp vụ tự doanh của Công ty vẫn manh mún, chưa tương xứng với tiềm lực về vốn, nhân lực cũng như khả năng của Công ty. Tuy nhiên, nếu xét nghiệp vụ tự doanh với đúng nghĩa là nghiệp vụ mà Công ty thực hiện để kiếm lời cho bản thân vừa để bình ổn thị trường thì có thể nói Công ty hiện nay chưa làm được điều này, mặc dù nghiệp vụ tự doanh đóng vai trò ngày càng quan trọng trong hoạt động của Công ty. Trong giai đoạn đầu của thị trường chứng khoán, có nhiều ý kiến cho rằng sở dĩ có tình trạng như vậy là do thị trường mới phát triển, hàng hoá chưa nhiều, cầu còn vượt xa cung nên các CTCK gặp khó khăn trong việc thực hiện tự doanh. Nhưng tính đến thời điểm này, có thể nói hàng hoá trên thị trường đã được cải thiện đáng kể (với 23 loại cổ phiếu và hơn 40 loại trái phiếu được niêm yết) mà Công ty vẫn giữ phương thức thực hiện tự doanh dè dặt như vậy là một điều cần xem lại. Và lẽ dĩ nhiên với phương châm hoạt động và thực tế thực hiện tự doanh như vậy, vai trò kiến tạo và bình ổn thị trường thông qua hoạt động tự doanh của Công ty khó có thể phát triển.
Trong hoạt động tư vấn đầu tư là hoạt động chủ yếu cho những CTCK còn non trẻ nhưng xét một cách toàn diện thì Công ty còn dè dặt trong việc triển khai hoạt động này. Mặc dù thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động trong một thời gian nhất định nhưng đây vẫn là điều khá mới mẻ đối với công chúng đầu tư, hơn nữa các nhà đầu tư hiện nay rất đa dạng, ở đủ mọi lứa tuổi, thành phần xã hội với mức độ hiểu biết về chứng khoán khác nhau. Có thể nhận xét một cách chung nhất là các nhà đầu tư Việt Nam chưa mang tính chuyên nghiệp. Bởi vậy họ rất cần đến những lời khuyên bổ ích từ phía các CTCK trong các quyết định đầu tư. Với một tiềm năng về khách hàng như vậy mà Công ty vẫn đang trong tình trạng chờ đợi nhà đầu tư tìm đến với mình chứ chưa chủ động tìm đến họ để thực hiện các hoạt động tư vấn.
Còn hoạt động quản lý danh mục đầu tư và hoạt động bảo lãnh phát hành là những hoạt động đòi hỏi Công ty phải có được uy tín đối với các nhà đầu tư, nhưng do thành lập chưa lâu nên khó có thể có được lòng tin của khách hàng ngay từ buổi đầu. Vì vậy các hoạt động này chưa được Công ty tiến hành và mới chỉ dừng lại ở việc làm đại lý phát hành.
2.3.3. Những nguyên nhân chủ yếu
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
* Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện
Cho đến nay, các văn bản qui phạm pháp luật điều chỉnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán có thể kể tới vài chục văn bản, nằm rải rác ở nhiều lĩnh vực, do nhiều cấp có thẩm quyền ban hành, dưới nhiều hình thức khác nhau như luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư. Tuy nhiên các văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành kinh doanh và quản lý Nhà nước về chứng khoán đều là những văn bản có giá trị dưới luật.
Nhìn một cách tổng thể, tuy chưa có một đạo luật chung về phát hành và kinh doanh chứng khoán như ở một số nước trên thế giới, nhưng trên thực tế khung pháp lý về chứng khoán với ba bộ phận cấu thành tối thiểu cần có, gồm: (1) những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành, (2) điều kiện và thể thức kinh doanh, (3) quản lý Nhà nước và giám sát về chứng khoán và thị trường chứng khoán đã hình thành.
Tuy nhiên về mặt nội dung, các quy định hiện có còn bộc lộ một số hạn chế nhất định, đó là sự thiếu đồng bộ và nhất quán trong việc điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt động chứng khoán nói chung và hoạt động kinh doanh chứng khoán nói riêng. Đối với việc thành lập và hoạt động của CTCK, việc áp dụng luật doanh nghiệp tạo ra một khung pháp lý thông thoáng hơn cho hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và các CTCK nói riêng, trong đó việc được phép thành lập CTCK dưới dạng công ty TNHH một thành viên đã tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng thương mại thành lập CTCK trực thuộc. Nhưng đi kèm với nó cũng phải có những điều kiện thay đổi liên quan đến tổ chức và hoạt động của CTCK hiện hành, cụ thể là các quy định về thủ tục cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán, giấy phép phát hành nghề kinh doanh chứng khoán, việc lập chi nhánh, văn phòng đại diện, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập CTCK. Ngoài ra, còn có một số bất cập trong các luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh, thâu tóm, mua bán công ty, phá sản, giải thể, thanh lý công ty như: Luật dân sự không cho phép bán tài sản khi chưa thuộc sở hữu của người bán, như vậy trong tương lai khi có đủ điều kiện chúng ta cũng không thể cho phép CTCK, nhà đầu tư thực hiện việc bán khống; luật doanh nghiệp không quy định rõ việc thâu tóm, mua bán công ty và bảo vệ lợi ích của cổ đông thiểu số ở các công ty cổ phần, trong khi khung pháp lý về chứng khoán hiện đang ở mức nghị định 144/2003/NĐ-CP lại chưa quy định cụ thể và chi tiết vấn đề này; hay như luật phá sản coi tất cả các chủ nợ như nhau, trong khi luật này ở các nước phân thành các loại chủ nợ khác nhau, trong đó các chủ nợ phụ trợ là loại hình phổ biến và ảnh hưởng rất lớn đến việc phá sản của các công ty nói chung và CTCK nói riêng.
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do chúng ta chưa có bộ luật riêng về chứng khoán và kinh doanh chứng khoán, các hoạt động liên quan đến chứng khoán và kinh doanh chứng khoán do nhiều luật khác nhau cùng điều chỉnh, do đó, những mâu thuẫn, chồng chéo là điều không tránh khỏi.
* Thị trường chứng khoán còn non trẻ, hoạt động còn nhiều hạn chế.
Thị trường chứng khoán đi vào hoạt động đã gần 4 năm nhưng thời gian này không phải là dài để xây dựng thị trường chứng khoán của một quốc gia. Cho đến nay thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn mang tính sơ khai và còn những hạn chế và bất cập ở nhiều mặt. Song ở đây sẽ chỉ đề cập đến những hạn chế làm ảnh hưởng đến hoạt động của CTCK. Có thể nêu thành 3 vấn đề: (1) thị trường chứng khoán Việt Nam không có sự phát triển của thị trường OTC làm tiền đề; (2) hàng hoá trên thị trường còn nghèo nàn; (3) ảnh hưởng của các quyết định hành chính của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước tới hoạt động của thị trường.
Trong lịch sử phát triển thị trường chứng khoán thế giới, ngoại trừ Trung Quốc, thị trường chứng khoán tập trung được hình thành sau một thời gian hình thành và phát triển thị trường chứng khoán bán tập trung hay còn gọi là thị trường OTC. Đó là nơi trao đổi chứng khoán của tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ. OTC cũng là nơi để các doanh nghiệp thăm dò, tìm hiểu và làm quen dần với hoạt động của thị trường chứng khoán. Đây là nơi để mọi tầng lớp dân cư tiếp cận với các loại chứng khoán, cũng là nơi tạo uy tín, danh tiếng cho các doanh nghiệp thêm vững chắc, tự tin bước vào thị trường chứng khoán tập trung như một sự rèn luyện. Việt Nam ngay từ đầu đã thành lập ngay thị trường tập trung nên cả công chúng và các doanh nghiệp còn nhiều bỡ ngỡ, e dè, do đó hạn chế tham gia của họ vào thị trường.
Vấn đề về hàng hoá, như chúng ta đều biết đối với bất kỳ thị trường nào thì hàng hoá luôn là yếu tố quan trọng, quyết định đến hoạt động và tồn tại của thị trường. Đối với thị trường chứng khoán cũng vậy, có thể nói thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn đầu lâm vào tình trạng khan hiếm hàng hoá nghiêm trọng, gây nên sự mất cân đối lớn giữa cung và cầu, làm cho những yếu tố của thị trường trở nên sai lệch. Cho đến nay, lượng hàng hoá trên thị trường tập trung đã được cải thiện, tuy nhiên, xét một cách toàn diện thì quy mô giao dịch của thị trường vẫn còn nhỏ bé, thị trường phát triển chậm chưa tương xứng với vai trò một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Ngoài ra tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước- nguồn cung cấp hàng hoá tiềm năng cho thị trường chứng khoán, diễn ra quá chậm. Các công ty có đủ điều kiện niêm yết còn ít vì nhiều công ty vì một lý do nào đó chưa hoặc không muốn tham gia niêm yết.
Về phía những nhà quản lý thị trường, mà ở đây là Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, cũng còn những hạn chế nhất định trong quá trình quản lý, giám sát hoạt động thị trường. Cụ thể việc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước thực hiện quản lý, điều hành thị trường thông qua các quyết định hành chính của mình. Dĩ nhiên, không thể phủ nhận đây là việc làm cần thiết để bảo vệ các nhà đầu tư và hướng cho thị trường trong giai đoạn đầu đi theo đúng con đường đã định, song mặt trái của nó là gây ra những tác động tiêu cực đến thị trường. Sở dĩ như vậy là do các quyết định hành chính mà Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đưa ra đôi khi mang tính chất tình thế, tạm thời và hơi đột ngột, làm cho các nhà đầu tư "không kịp trở tay" và trở nên lưỡng lự khi tham gia giao dịch trên thị trường. Đơn cử một ví dụ điển hình là Uỷ ban chứng khoán Nhà nước liên tục đưa ra các quyết định về sự thay đổi biên độ giao động giá cả trong giao dịch, làm cho các nhà đầu tư cảm thấy quyết định đầu tư của mình bị can thiệp sâu và bất ngờ, làm ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của họ, gây cho họ tâm lý bất ổn, chán nản. Thời gian gần đây, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã chú ý hơn đến vấn đề này bằng cách đưa ra một lộ trình thực hiện các quyết định hành chính của mình và thông báo trước cho các nhà đầu tư khi quyết định đó sắp được đưa vào thực tế. Tuy nhiên, dù sao thì việc quản lý thị trường thông qua các biện pháp hành chính cũng không phải là một phương pháp tốt bởi nó ít nhiều cũng gây tổn thương cho thị trường và tác động tiêu cực đến tâm lý và hành vi của các nhà đầu tư.
Tóm lại, hàng hoá ít thì cũng không thể có nhiều người mua, và khi nhà đầu tư không được chủ động trong các quyết định của mình thì tất yếu họ cũng không mặn mà lắm với việc mua bán giao dịch. Do đó, hai vấn đề nêu trên từ phía thị trường chứng khoán chính là nguyên nhân hạn chế hoạt động kinh doanh của CTCK.
* Nhận thức của các doanh nghiệp và người đầu tư về dịch vụ của các CTCK còn hạn chế.
Đây cũng là một nguyên nhân gây khó khăn cho CTCK trong việc triển khai các hoạt động của mình. Ví dụ như đối với hoạt động bảo lãnh phát hành, các doanh nghiệp là chủ thể tạo nên "cầu" về bảo lãnh phát hành, là đối tượng để các CTCK thực hiện hoạt động này. Song nhìn chung, hiện nay nhiều doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức hết được ý nghĩa cũng như lợi ích của việc để cho các CTCK thực hiện bảo lãnh phát hành khi họ có ý định huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán ra thị trường. Điều này cản trở việc triển khai mở rộng hoạt động bảo lãnh phát hành của Công ty.
Tương tự, hoạt động quản lý danh mục đầu tư cũng gặp khó khăn do người đầu tư không mấy quan tâm đến loại hình dịch vụ mới mẻ này. Danh mục hàng hoá trên thị trường chưa nhiều cộng với thói quen tự mình thực hiện các quyết định đầu tư khiến cho nhiều nhà đầu tư nghĩ rằng việc để người khác quản lý vốn và đầu tư đầu tư hộ mình là không cần thiết. Người đầu tư chưa thấy được lợi ích khi có một danh mục đầu tư hợp lý: Giảm thiểu được rủi ro, tránh được nguy cơ mất trắng và vốn liếng của họ được các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm quản lý một cách tốt nhất. Do đó, họ không mấy mặn mà với dịch vụ quản lý danh mục đầu tư của Công ty và bỏ qua cơ hội được sử dụng một dịch vụ tốt và có hiệu quả trong đầu tư.
Đối với hoạt động môi giới, có những nhà đầu tư vẫn bị ảnh hưởng bởi định kiến xã hội, coi môi giới là nghề không tốt, đồng nghĩa với nghề "chỉ trỏ", là nghề của những người làm trung gian mua bán theo kiểu" cò mồi" để kiếm lợi bất chính. Vì vậy, đôi khi họ thiếu tin tưởng vào nhân viên môi giới của CTCK. Cho dù đây không phải là ý kiến của số đông các nhà đầu tư song nó cũng là một mặt tồn tại làm ảnh hưởng phần nào đến quá trình tác nghiệp của CTCK.
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
* Công ty chưa chủ động đến với khách hàng
Thực tế cho thấy, hiện tại chủ yếu vẫn là các khách hàng tìm đến với Công ty vì họ cần dịch vụ chứ Công ty chưa tự tìm đến với khách hàng nhằm mở rộng thị trường hoạt động trong khi khách hàng là nguồn sống của Công ty. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay thì đây quả là điều khó chấp nhận. Điều này có thể được giải thích do số lượng nhà đầu tư ngày một đông mà giữa các CTCK chưa có sự cạnh tranh lớn lắm. Do vậy mà công ty có thể thụ động trong việc tìm kiếm khách hàng để tạo các cơ hội thực hiện các hợp đồng dịch vụ cho họ. Ngoài ra các biện pháp nhằm thu hút hấp dẫn khách hàng cũng chưa được Công ty chú trọng, mới chỉ là hình thức hết sức đơn giản như gửi thiếp chúc mừng tới khách hàng vào các dịp lễ tết. Trong khi đó, ở các nước phát triển những việc như thế này lại rất được quan trọng và họ thường bỏ ra kinh phí khá lớn để thực hiện.
Trong giai đoạn hiện nay những vấn đề này chưa có ảnh hưởng gì lớn lắm đến hoạt động của Công ty nhưng chắc chắn rằng trong tương lai không xa khi thị trường phát triển, sự cạnh tranh giữa các công ty trở nên gay gắt hơn thì đây có thể trở thành nguyên nhân gây hạn chế không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của Công ty.
* Hoạt động của Công ty còn nhiều hạn chế
Có thể nói đây là thực tế khá bức xúc. Tuy đủ điều kiện để thực hiện tất cả các hoạt động kinh doanh nhưng Công ty cũng mới chỉ triển khai một số hoạt động phổ biến như: Môi giới, tự doanh. Các hoạt động khác rất ít được thực hiện, thậm chí bỏ ngỏ. Điển hình là hoạt động bảo lãnh phát hành và quản lý danh mục đầu tư. Các dịch vụ phụ trợ ở Công ty tuy có nhiều, do có thế mạnh là CTCK trực thuộc NHNo&PTNT VN nhưng chưa có biện pháp để đưa dịch vụ này đến với khách hàng nên về cơ bản chúng chưa được sử dụng. Có thể nói, khách hàng chưa thoả mãn đối với những dịch vụ mà Công ty đang triển khai. Ngay như hoạt động môi giới được đánh giá là được thực hiện tốt nhưng cũng chưa làm khách hàng vừa lòng vì theo họ phí môi giới còn quá cao. Bên cạnh đó còn có rất nhiều các nhu cầu khác của khách hàng chưa được Công ty tìm hiểu để từ đó đưa ra các dịch vụ, tiện ích mới phục vụ khách hàng.
Tóm lại, sự phát triển không đồng đều các hoạt động của Công ty là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế trong qúa trình hoạt động của Công ty trong thời gian qua.
* Nguồn nhân lực của Công ty chưa đáp ứng được yêu cầu
Nhân tố con người là một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của thị trường chứng khoán nói chung hay CTCK nói riêng. Đối với CTCK NHNo&PTNT VN đây cũng là một vấn đề bất cập. Đội ngũ cán bộ hiện nay không thể nói là không có trình độ. Đa số đều được đào tạo khá bài bản qua các trường đại học hoặc qua các khóa học của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Tuy nhiên, để đáp ứng cho yêu cầu phát triển của thị trường thì lực lượng nhân sự hiện nay nhìn chung chưa đáp ứng được. Chúng ta cần phải có một đội ngũ chuyên gia được đào tạo chuyên nghiệp và đồng đều, vừa có tri thức, vừa có kinh nghiệm trong các lĩnh vực phân tích thị trường, quản lý rủi ro, tư vấn đầu tư... Một đội ngũ như thế phải là sản phẩm của một nền đào tạo chính quy, có bề dày năm tháng, đồng thời là sản phẩm của một môi trường tài chính phát triển đến một độ chín mùi nhất định. Trong điều kiện thị trường chứng khoán nước ta chưa thể đòi hỏi phải có ngay một đội ngũ nhân viên như vậy. Điều này đòi hỏi Công ty phải nỗ lực hơn nữa trong việc bồi dưỡng, đào tạo cho đội ngũ cán bộ của mình để từng bước hình thành một lớp chuyên gia lành nghề. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là hiện nay Công ty không dám có những bước thử nghịêm đối với nhân viên của mình. Bên cạnh đó, việc kiêm nhiệm của đội ngũ lãnh đạo của Công ty cũng là một hạn chế và gây ảnh hưởng đến việc phát triển các hoạt động kinh doanh của Công ty.
* Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ giao dịch còn hạn chế
Công nghệ hiện đại là một trong số những điều kiện tiên quyết giúp đảm bảo được các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán. Để tạo ra một thị trường công bằng, công khai, hiệu quả, cần phải có hệ thống thu thập, phân tích, xử lý và công bố thông tin đủ hiện đại. Chẳng hạn đối với hoạt động môi giới để có thể triển khai được một cách hiệu quả cần được sự trợ giúp của công nghệ hiện đại trong việc xử lý lệnh nhanh chóng, chính xác, giúp truyền thông trên diện rộng, kết nối được nhiều văn phòng chi nhánh thành mạng thống nhất giúp công tác kiểm soát, kiểm tra phát triển các vấn đề liên quan đến lợi ích của khách hàng. Phần mềm máy tính của Công ty do Công ty tin học cung cấp có ưu điểm là chi phí rẻ song lại gặp khó khăn ở chỗ các công ty phần mềm tin học chưa thông thạo về hoạt động kinh doanh chứng khoán, trong khi hoạt động kinh doanh của Công ty lại phát sinh thường xuyên, đòi hỏi phải có những sửa đổi chương trình do vậy chưa thể thiết kế chương trình ổn định.
Như vậy, có thể nói nếu Công ty tập chung đầu tư nhiều hơn nữa cho các trang thiết bị và cơ sở vật chất kỹ thuật thì sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư hơn và nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện nghiệp vụ.
Chương 3
Các giải pháp hoàn thiện và phát triển
hoạt động của công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN
3.1. Định hướng phát triển của Công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT Việt nam.
Kế hoạch và chiến lược của Công ty cho đến năm 2010 là Công ty sẽ trở thành CTCK hàng đầu của Việt nam, ngang bằng với khu vực. Cụ thể là: hoàn tất mạng lưới gần 10 chi nhánh, 200 đại lý nhận lệnh, tổng số có 600 cán bộ; hoàn thiện hệ thống công nghệ hiện đại, kinh doanh qua mạng, đội ngũ chuyên gia phân tích chia theo lĩnh vực, được hỗ trợ bởi hệ thống xử lý thông tin công suất lớn, doanh thu 50 triệu USD, lợi nhuận 10 triệu USD vào năm 2010.
Nhưng trước mắt, công ty đang trong thời kỳ chuyển giai đoạn. Kết thúc giai đoạn 1 (xây dựng công ty) chuyển sang giai đoạn 2 với nội dung chính là kiện toàn công ty về các mặt:
Kiện toàn cán bộ về quân số; chương trình đào tạo và quy hoạch dài hạn.
Kiện toàn mạng lưới trong đó hàng đầu là xây dựng 3 chi nhánh Hà nội - Tpp.HCM - Đà nẵng để đảm bảo xử lý nghiệp vụ theo 3 khu vực Miền Bắc, Miền Trung và Miền Nam và hoàn tất xây dựng hệ thống đại lý nhận lệnh lấy mạng lưới chi nhánh NHNo&PTNT Việt nam làm cơ sở.
Kiện toàn công nghệ với nội dung cơ bản là hệ thống thông tin công suất lớn, hiện đại và nối mạng toàn quốc.
Kiện toàn nghiệp vụ với nội dung chính là xây dựng hệ thống các quy trình nghiệp vụ đồng bộ, được vi tính hóa và triển khai toàn bộ 5 nghiệp vụ cơ bản của kinh doanh chứng khoán.
3.2. Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động của công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN.
3.2.1. Mở rộng phạm vi hoạt động của công ty theo hướng chuyên môn hóa hoạt động từng nghiệp vụ.
Hầu hết, các công ty chứng khoán đều được cấp phép tham gia các loại hình chứng khoán theo quy định hiện hành: Môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và quản lý danh mục đầu tư. Trong thời gian đầu hoạt động, hầu hết các công ty không tuyển dụng thêm nhân sự do tiết kiệm chi phí, nên các nhân viên kinh doanh đồng thời thực hiện nhiều nghiệp vụ, do đó khả năng hoạt động chuyên sâu không cao. Việc mở rộng hoạt động kinh doanh theo hướng chuyên môn hóa từng nghiệp vụ sẽ từng bước tiến tới hình thành đội ngũ nhân viên có chuyên môn sâu từng lĩnh vực, ví dụ như bộ phận chuyên phân tích đầu tư, bộ phận chuyên hoạt động bảo lãnh phát hành, bộ phận chuyên hoạt động môi giới và cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Mỗi bộ phận sẽ có những hình thức hoạt động riêng và đặc trưng của mình. Ví dụ như đối với bộ phận phân tích đầu tư làm nhiệm vụ chủ yếu là phân tích thị trường để đưa ra các quyết định đầu tư nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho khách hàng và cho cả công ty. Muốn phân tích được thị trường tốt, công ty phải có các biện pháp để thu thập thông tin một cách xác thực, nhanh chóng kết hợp với các biện pháp đối chiếu, thống kê, lượng hóa để phân tích và tổng hợp số liệu làm cơ sở để đưa ra các kết luận về doanh nghiệp, thị trường. Phân tích thị trường là một công việc rất phức tạp đòi hỏi hàm lượng chuyên môn cao, kinh nghiệm phong phú và khả năng nhận định sắc bén. Vì vậy phải có đội ngũ chuyên gia chuyên trách công việc này. Hay đối với bộ phận chuyên bảo lãnh phát hành cũng đòi hỏi đội ngũ nhân viên phải có trình độ chuyên môn cao trong việc xây dựng các chiến lược cho nghiệp vụ bảo lãnh phát hành như: chiến lược về khách hàng, chiến lược về sản phẩm và chiến lược phân phối sản phẩm; lựa chọn phương thức bảo lãnh thích hợp và xây dựng quy trình thực hiện bảo lãnh. Nếu đội ngũ nhân viên không có kiến thức sâu rộng về nghiệp vụ này thì các chiến lược đưa ra sẽ không có hiệu quả. Còn đối với bộ phận chuyên hoạt động môi giới lại đòi hỏi các nhân viên phải có kỹ năng chuyên nghiệp như: Kỹ năng chuyền đạt thông tin, kỹ năng tìm kiếm khách hàng, kỹ năng khai thác khách hàng và với thái độ công tâm, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Có được những kỹ năng này người nhân viên môi giới sẽ có được lòng tin với khách hàng và đó là kết quả mà mọi công ty chứng khoán đều mong muốn.
Trong tương lai, công ty sẽ phát triển tất cả các nghiệp vụ mà mình được phép, nếu không có sự chuyên môn hóa trong từng nghiệp vụ thì việc mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh không làm cho công ty phát triển hơn mà trái lại sẽ càng gây khó khăn hơn cho công ty. Bởi lẽ khi đó một nhân viên sẽ có thể kiêm nhiệm thực hiện nhiều nghiệp vụ hơn nhưng lại không có chuyên môn cao trong tất cả các nghiệp vụ thì tất yếu sẽ dẫn đến công ty hoạt động không hiệu quả. Chuyên môn hóa từng nghiệp vụ sẽ làm cho năng lực hoạt động nghiệp vụ của công ty được nâng cao, kết hợp với việc mở rộng phạm vi hoạt động là một trong những giải pháp quan trọng thúc đẩy công ty phát triển.
3.2.2. Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ và nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng.
Một đặc trưng của CTCK là các bộ phận nghiệp vụ hoạt động tương đối độc lập, nhưng điều này không có nghĩa là chúng không có sự liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau. Trái lại, giữa các nghiệp vụ hoạt động của công ty có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung hỗ trợ và ảnh hưởng lẫn nhau rất nhiều. Ví dụ, nghiệp vụ tự doanh của công ty không hiệu quả thì công ty khó có thể phát triển mạnh nghiệp vụ tư vấn đầu tư và quản lý danh mục đầu tư bởi khách hàng dễ dàng đặt ra câu hỏi: công ty còn không thể đưa ra một chiến lược đầu tư hợp lý cho chính mình thì lấy gì đảm bảo công ty sẽ thực hiện đầu tư và tư vấn tốt cho khách hàng? Hay để thực hiện tốt nghiệp vụ bảo lãnh phát hành công ty cũng cần thực hiện tốt các nghiệp vụ môi giới, tư vấn và tự doanh. Nghiệp vụ môi giới giúp nắm bắt nhu cầu của các nhà đầu tư trên thị trường, giúp định giá và làm trôi chảy các kênh phân phối chào bán chứng khoán. Nghiệp vụ tự doanh mang đến kỹ năng tạo thị trường và ổn định giá chứng khoán mới phát hành.
Để nâng cao chất lượng dịch vụ công ty không còn cách nào hơn là phải thực hiện đa dạng hóa, phát triển đồng đều các nghiệp vụ của mình tạo nên sức mạnh tổng hợp cho công ty. Chất lượng dịch vụ được nâng cao công ty sẽ tạo được uy tín trên thị trường hoạt động kinh doanh có điều kiện phát triển hơn và do đó có thể nâng cao tiềm lực về vốn. Ngược lại, uy tín và tiềm lực về vốn của công ty tăng lên có tác dụng thúc đẩy quá trình phát triển, thực hiện tốt hơn nữa các nghiệp vụ hoạt động.
Để làm được điều này công ty một mặt phải chú trọng hoàn thiện hơn nữa các nghiệp vụ đã triển khai, mặt khác phải tập trung nghiên cứu thị trường để triển khai mở rộng các nghiệp vụ khác như bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư khắc phục dần tình trạng nhu cầu của thị trường đối với các dịch vụ của CTCK không phải không có nhưng nghiệp vụ vẫn chưa được triển khai hoặc vẫn trong tình trạng bị bỏ ngỏ hoặc được thực hiện rất hạn chế.
Đối với nghiệp vụ bảo lãnh phát hành đây là nghiệp vụ còn rất mới mẻ đối với cả người thực hiện lẫn khách hàng và nó rất phức tạp. Bởi vậy, không thể đòi hỏi công ty phải triển khai ngay lập tức và có hiệu quả đối với nghiệp vụ này. Tuy nhiên, trong tương lai đây sẽ là nghiệp vụ chiếm một vị trí không nhỏ trong hoạt động của công ty. Vì vậy, trước hết ta phải chuẩn bị điều kiện để sớm đưa nghiệp vụ bảo lãnh phát hành vào thực tế hoạt động như việc tăng cường công tác tìm kiếm và tư vấn tài chính doanh nghiệp để có thể tạo được những khách hàng tiềm năng sau này. Đồng thời, tào tạo những các cán bộ có chuyên môn cao để có thể tiến hành các nghiệp vụ có hiệu quả.
Đối với nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư công ty cần tích cực trau dồi kinh nghiệm, nâng cao năng lực phân tích xu thế diễn biến thị trường để có thể đưa ra phương án đầu tư tốt nhất với nguồn vốn được khách hàng uỷ thác. Để thực hiện nghiệp vụ này công ty cũng cần hoàn thiện nghiệp vụ tự doanh của mình bởi đó chính là một cách quảng cáo hữu hiệu cho trình độ, khả năng và kinh nghiệm của công ty trong việc quản lý danh mục đầu tư. Công ty cần chủ động tiềm kiếm khách hàng và thuyết phục họ về lợi ích mà họ có thể nhận được khi tham gia vào dịch vụ này.
Đối với nghiệp vụ tư vấn đầu tư nhu cầu của khách hàng đối với nghiệp vụ này rất lớn. Bởi vì đa số các nhà đầu tư trên thị trường hiện nay là các nhà đầu tư nhỏ, không chuyên. Do đó, họ vẫn còn bỡ ngỡ trong lĩnh vực kinh doanh mới mẻ này. Họ rất cần những lời khuyên từ những người có kiến thức sâu rộng hơn và nhiều kinh nghiệm hơn trong lĩnh vực chứng khoán để giúp họ đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn nhất. Công ty cần sớm đưa ra kế hoạch cụ thể để thực hiện tư vấn cho khách hàng nhằm mục đích thu phí, tăng doanh thu cho công ty như: đưa ra văn bản quy định rõ về quyền lợi, nghĩa vụ của các bên cũng như giới hạn trách nhiệm của công ty đối với nội dung tư vấn, đưa ra một biểu phí tư vấn cụ thể đối với từng đối tượng khách hàng.
Ngoài các dịch vụ hiện nay theo nhu cầu thực tế của khách hàng, công ty cần chủ động tìm kiếm các hình thực dịch vụ phù hợp cung cấp cho khách hàng trên nguyên tắc tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh chứng khoán, từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ để thu hút khách hàng bằng các tiện ích phục vụ cho hoạt động đầu tư của khách hàng.
3.2.3. Chính sách đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực.
Trong thời gian đầu hoạt động, Công ty không tuyển dụng nhân sự mà chỉ điều chuyển cán bộ từ các phòng, ban tại Ngân hàng mẹ. Do đó, khả năng hoạt động chuyên môn không cao. Để có thể mở rộng nghiệp vụ phạm vi kinh doanh theo hướng chuyên môn hóa sâu theo từng nghiệp vụ, bản thân nhân viên của Công ty cũng phải được đào tạo kỹ năng chuyên sâu thì mới có thể đáp ứng được nhu cầu của hoạt động kinh doanh. Do đó, đào tạo và sử dụng nhân lực luôn là 1 yêu cầu hàng đầu đặt ra cho Công ty. Công ty cần phát huy vai trò chủ động của mình trong việc tuyển chọn và cử các nhân viên kinh doanh đi học đào tạo chuyên sâu. Công ty có thể áp dụng các biện pháp sau:
Cử cán bộ tham gia các chương trình đào tạo và khóa huấn luyện ở trong và ngoài nước về phục vụ cho Công ty.
Phối hợp với các đơn vị nghiên cứu, tận dụng các nguồn tài trợ để tổ chức các khóa nâng cao trình độ cho nhân viên tài chính Công ty.
Khuyến khích và đào tạo điều kiện để các nhân viên tự túc đi học tập và nghiên cứu sau đó về phục vụ Công ty.
Thực hiện các chương trình tự nghiên cứu, thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo phổ biến kiến thức trong nội bộ Công ty.
Có các chính sách hỗ trợ việc thuyên chuyển, điều động để phát huy các thế mạnh của từng cá nhân trong Công ty.
Chuẩn hóa các tiêu chuẩn về nhân viên của Công ty về bộ máy nhân lực, từ đó có những hình thức khen thưởng thích đáng.
Hàng năm trích lập quỹ đào tạo để phục vụ cho các mục đích về nhân lực trong thời gian tiếp theo.
Trong chính sách nhân lực các CTCK nên thực hiện chính sách “hòa nhập”, đó là việc kết hợp hài hòa giữa lợi ích khách hàng với lợi ích công ty thông qua sự tôn trọng và hỗ trợ những sáng tạo năng động của các đơn vị kinh doanh như phòng giao dịch, các chi nhánh, các bộ phận nghiệp vụ... Một lý do của chính sách hòa nhập là do những biến động trên thị trường chứng khoán nhiều khi không lường trước được nên các đơn vị kinh doanh cần được trao quyền tự quyết trong một phạm vi nhất định mà không gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động dài hạn của công ty. Điều này sẽ giúp công ty nắm bắt được những cơ hội đến nhanh chóng và tránh được rủi ro khi có những thay đổi bất thường của TTCK.
3.2.4. Mở rộng mạng lưới chi nhánh, đại lý nhận lệnh.
Hiện nay có một thực tế phát sinh là các Công ty phát hành rất muốn các CTCK mở chi nhánh hay đại lý nhận lệnh tại địa phương mình để phục vụ cho cổ đông có nhu cầu chuyển nhượng. Hơn nữa, còn rất nhiều Tỉnh, Thành phố có lượng khách hàng tiềm năng không nhỏ mà NHNO&PTNT VN đã có chi nhánh, Công ty chưa khai thác. Vì vậy, để đáp ứng nhanh chóng, đầy đủ và kịp thời nhu cầu của các khách hàng ở nhiều nơi khác nhau, Công ty cần mở rộng địa điểm nhận lệnh cũng như đa dạng hóa phương thức nhận lệnh ở những Tỉnh, Thành phố có lượng khách hàng tiềm năng hay khu vực trọng điểm và thực hiện nhận lệnh của khách hàng thông qua các phương tiện phổ biến như điện thoại, fax...
3.2.5. Xây dựng hệ thống các quy trình nghiệp vụ đồng bộ và được vi tính hóa.
Chứng khoán là một lĩnh vực mới mẻ đối với Việt Nam, do đó khi các CTCK đi vào hoạt động thì việc xây dựng một quy trình nghiệp vụ chính xác, chặt chẽ và logic ngay từ buổi đầu là một điều rất khó khăn. Với mục tiêu kinh doanh thống nhất có bài bản công ty sẽ soạn thảo và ban hành các quy trình nghiệp vụ mới, đồng thời sửa đổi bổ sung các quy trình đã ban hành cho phù hợp với tình hình thực tế. Để hoạt động kinh doanh được tiến hành một cách hiệu quả đòi hỏi các nhân viên công ty phải tuân thủ những quy trình đã được đặt ra. Tuy nhiên, những quy trình này vừa phải đáp ứng được những yêu cầu hết sức đa dạng của khách hàng, vừa đảm bảo nhanh chóng nhưng cũng phải đủ và đúng các bước theo quy định. Muốn vậy giải pháp tốt nhất là cần phải thực hiện vi tính hóa, các quy trình nghiệp vụ sẽ được xây dựng thành những phần mềm để các nhân viên có thể sử dụng nhanh chóng và dễ dàng thay vì phải thực hiện lặp đi lặp lại những bước tiến hành nghiệp vụ một cách thủ công. Vi tính hóa các quy trình nghiệp vụ sẽ giúp công ty tiết kiệm được rất nhiều về nhân lực và thời gian.
Trong thời điểm hiện nay giải pháp này là đặc biệt quan trọng và trong tương lai các quy trình nghiệp vụ này cần phải được kiện toàn hơn nữa. Khi nghiệp vụ nhiều nên khách hàng cũng đông hơn sẽ có nhiều vấn đề phát sinh vì thế những quy trình nghiệp vụ nào không đáp ứng được những yêu cầu khắt khe sẽ bị thay thế bởi những quy trình khác tiện lợi hơn. Vì thế đây không phải là giải pháp trước mắt mà nó còn là giải pháp lâu dài sẽ luôn gắn liền với các hoạt động nghiệp vụ của công ty trong tương lai.
3.3. Kiến nghị.
3.3.1. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước.
3.3.1.1. Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của các CTCK nói riêng và cho TTCK Việt nam nói chung.
Trước mắt, việc cần làm là đồng bộ hóa các văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK với các văn bản khác có liên quan để có sự đồng nhất giữa các văn bản quy phạm luật điều chỉnh các hoạt động về chứng khoán và TTCK.
Đối với hoạt động của các CTCK, UBCKNN cần đưa ra các giải pháp tháo bỏ những ràng buộc, hạn chế không cần thiết để tạo một môi trường hoạt động thông thoáng, chủ động cho các CTCK. Bên cạnh các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán trước đây, cần phải bổ sung thêm nghiệp vụ tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán, là nghiệp vụ cung cấp dịch vụ cho khách hàng trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán, tái cơ cấu tài chính, chia tách sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp, lập phương án giúp đỡ các tổ chức niêm yết. Cho phép các CTCK được thực hiện nghiệp vụ môi giới và tự doanh các chứng khoán chưa niêm yết. Cho phép các CTCK được nhận lệnh từ xa qua các phương tiện điện thoại, fax...
Vấn đề mấu chốt trong quá trình soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thực hiện công tác quản lý Nhà nước chính là sự thay đổi quan niệm của cơ quan quản lý Nhà nước. Thực tiễn của thị trường luôn luôn biến động và đi trước so với luật pháp, vì vậy, các CTCK cần phải được thực hiện những hoạt động kinh doanh mà pháp luật không cấm chứ không phải là chỉ được thực hiện những hoạt động mà pháp luật cho phép.
3.3.1.2. Tăng cung hàng hóa cho thị trường về số lượng, chất lượng.
Nhanh chóng triển khai việc thực hiện Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/06/2002 về CPH DNNN, đồng thời kết hợp với việc lựa chọn các doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn đưa ra niêm yết tại TTGDCK, gắn việc CPH DNNN với việc niêm yết trên TTCK. Thực hiện giảm hoặc bán hết cổ phần của Nhà nước trong các doanh nghiệp CPH mà Nhà nước không cần nắm giữ để tăng số lượng cổ phiếu giao dịch trên thị trường.
Khẩn trương chuẩn bị các điều kiện để đưa TTGDCK Hà nội đi vào hoạt động để mở rộng lượng doanh nghiệp niêm yết trên TTCK.
Thực hiện thí điểm đưa một số doanh nghiệp liên doanh và NHTM cổ phần ra niêm yết.
Khuyến khích thành lập quỹ đầu tư chứng khoán để đa dạng hóa chủng loại chứng khoán.
Tăng thêm các loại trái phiếu đô thị, trái phiếu công trình, trái phiếu do các loại hình doanh nghiệp phát hành như trái phiếu Tổng công ty Bưu chính viễn thông, điện lực, dầu khí... Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát hành trái phiếu trên TTCK.
Thực hiện chính sách bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, hạn chế cơ bản các chế độ ưu đãi vốn đối với DNNN. Ban hành chính sách ưu đãi hợp lý đối với các công ty niêm yết, các quỹ đầu tư, đặc biệt là ưu đãi về thuế.
3.3.1.3. Tạo điều kiện cho bên nước ngoài tham gia vào TTCK Việt nam.
Sự tham gia ngày càng nhiều của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo tâm lý cho người đầu tư trong nước. Với kinh nghiệm và trình độ phân tích, đánh giá về triển vọng của các công ty niêm yết hơn hẳn các nhà đầu tư trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài chính là động lực để các nhà đầu tư cũ bớt lo lắng và tiếp tục mua cổ phiếu đồng thời là sức thu hút lôi kéo thêm các nhà đầu tư mới tham gia thị trường. Kinh nghiệm quản trị, uy tín cũng như năng lực tài chính của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ góp phần làm thay đổi bộ mặt của các công ty cổ phần trong nước. Trong giai đoạn phát triển tiếp theo của thị trường, việc mở rộng cánh cửa TTCK cho các nhà đầu tư nước ngoài là rất cần thiết.
Ngoài ra, chúng ta cần từng bước nới lỏng dần các quy định hạn chế sự tham gia của các đối tác nước ngoài vào thị trường để thu hút đầu tư và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt nam học hỏi kinh nghiệm, tiếp xúc với công nghệ hiện đại của ngành chứng khoán, nâng cao thế lực cạnh trạnh, sớm hội nhập với sự phát triển của TTCK khu vực và quốc tế.
3.3.1.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK.
Theo các chuyên gia kinh tế, nguồn vốn tiết kiệm trôi nổi trong đại bộ phận dân cư chưa được khai thác và luân chuyển trên thị trường vốn ở nước ta là rất lớn, ước tính xấp xỉ 5-7 tỷ USD, ước tính hàng năm Việt kiều gửi tiền về nước cho thân nhân khoảng 2 tỷ USD. Như vậy, có thể thấy rằng tiềm năng vốn đầu tư trong công chúng vào TTCK vẫn còn rất lớn nếu biết khai thác đúng cách. Khó khăn lớn nhất hiện nay trong việc khơi thông dòng chảy vốn tiết kiệm vào thị trường là đại bộ phận công chúng ở nước ta vẫn chưa có ý niệm gì về TTCK và đầu tư chứng khoán. Hình thức đầu tư phổ biến hiện nay là cất trữ tại nhà, mua đất, tích trữ vàng, nắm giữ ngoại tệ mạnh, gửi tiết kiệm hoặc các dạng đầu tư truyền thống khác. Do đó, việc tuyên truyền phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK là việc làm rất cần thiết để hướng tới tạo lập một nền văn minh đầu tư.
Vì thế, UBCKNN nên phối hợp với các ban ngành địa phương tổ chức các lớp phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK, trong đó cần thức tỉnh các doanh nghiệp những ưu điểm và hạn chế khi tham gia huy động vốn trên thị trường này.
ở quy mô lớn hơn, cần phải có biện pháp đẩy mạnh quá trình phổ biến kiến thức vào đông đảo công chúng, đặc biệt phải khuyến khích các chương trình đào tạo về chứng khoán và TTCK, cũng như các khóa huấn luyện nâng cao cho lớp cán bộ, sinh viên và những người có thiên hướng hoạt động trong ngành chứng khoán. Nhà nước nên hỗ trợ kinh phí để cử cán bộ khoa học đi đào tạo tại nước ngoài, cấp vốn cho các trung tâm nghiên cứu kinh tế về chứng khoán, qua đó tạo ra những chuyên gia giỏi tham mưu các vấn đề về ngành công nghệ chứng khoán.
3.3.1.5. Tăng cường chế độ công bố thông tin.
Việc công bố thông tin là khâu không thể thiếu trong quá trình hoạt động kinh doanh chứng khoán và cung cấp dịch vụ cho nhà đầu tư của các CTCK. Để các CTCK nắm bắt tốt các thông tin và thực hiện tốt các chức năng cung cấp thông tin cho khách hàng, cần có sự phối hợp và giúp đỡ từ các phía có liên quan:
Về phía UBCKNN và TTGDCK.
UBCKNN và TTGDCK cần quy định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ phải cung cấp thông tin của các tổ chức phát hành và các bên tham gia khác trên thị trường một cách kịp thời và công bằng đối với tất cả các CTCK.
UBCKNN và TTGDCK nên tổ chức định kỳ với các CTCK và các nhà đầu tư, từng bước xây dựng nề nếp hội thảo, phản biện với tinh thần xây dựng, tránh đưa hoặc thu thập ý kiến chỉ theo một hướng.
Tăng cường thông tin về thị trường để định hướng người đầu tư, bác bỏ những thông tin sai lệch, gây hoang mang hoặc gây nhiễu. Cần sớm xây dựng một tờ thông tin chính thức của UBCKNN, bên cạnh tờ Tin thị trường chứng khoán của TTGDCK để đưa ra những quan điểm chính thức của UBCKNN về những vấn đề chứng khoán và TTCK, tạo điều kiện cho công chúng đầu tư và những người muốn tìm hiểu lĩnh vực này có được những thông tin đáng tin cậy.
Cần xử lý nghiêm các hành vi vi phạm chế độ công bố thông tin trên TTCK, công khai các vi phạm và mức độ xử lý về công bố thông tin của các tổ chức niêm yết và các đối tượng khác có liên quan trên những phương tiện thông tin đại chúng.
Về phía công ty niêm yết:
Mỗi công ty cần xây dựng quy trình công bố thông tin của mình trên cơ sở quy trình công bố thông tin mẫu của TTGDCK. Các công ty cũng cần lập ra một bộ phận chuyên trách theo dõi việc công bố thông tin. Tiến tới chuẩn mực hóa chức vụ, tiêu chuẩn của người chịu trách nhiệm công bố thông tin.
Cần phổ biến các vấn đề về công bố thông tin trong nội bộ công ty, đồng thời tăng cường giám sát để hạn chế việc rò rỉ thông tin ra bên ngoài trước khi báo cáo với UBCKNN, TTGDCK và công khai ra thị trường.
Chủ động trong việc cung cấp thông tin cho cổ đông về tình hình kinh doanh sau mỗi quý hoặc nửa năm. Tổ chức các buổi giới thiệu về công ty.
Về phía Nhà nước:
Cần chỉnh sửa pháp luật về chứng khoán và TTCK để thống nhất quản lý Nhà nước về việc phát hành và kinh doanh chứng khoán, khắc phục sự bình đẳng giữa các công ty niêm yết và không niêm yết trong nghĩa vụ công bố thông tin khi phát hành chứng khoán ra công chúng.
áp dụng các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế vào Việt nam, đồng thời ban hành quy định bắt buộc các DNNN và công ty cổ phần có một mức vốn nhất định trở lên phải thực hiện kiểm toán các báo cáo tài chính hằng năm và công khai ra công chúng. Bên cạnh đó, cần tăng cường kỷ luật tài chính doanh nghiệp và xử lý nghiêm mọi vi phạm.
3.3.2. Đối với các Bộ, ngành liên quan.
NHNN cần nghiên cứu ban hành những quy định về quản lý ngoại hối, liên quan đến quy định chuyển tiền vào ra của người đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán. Một vấn đề nữa phát sinh liên quan đến dịch vụ cầm cố chứng khoán của các NHTM và một vài CTCK cùng với tổ chức sáng lập là NHTM, hay tổ chức có chức năng tín dụng cung cấp cho khách hàng là nhà đầu tư cá nhân những dịch vụ cầm cố chứng khoán. Vấn đề này về lâu dài rất cần có sự phối hợp giữa UBCKNN với các cơ quan liên quan, đặc biệt là NHNN vì có những thời kỳ tỷ lệ cầm cố một vài loại cổ phiếu lên đến gần 40% tổng số chứng khoán lưu ký tại TTGDCK.
Tổng Công ty bảo hiểm Việt nam cùng phối hợp với UBCKNN nghiên cứu loại hình bảo hiểm đầu tư chứng khoán cho các bên tham gia thị trường như nhà đầu tư, các CTCK, TTGDCK và các bên liên quan khác và các biện pháp triển khai thực hiện.
Bộ tài chính nghiên cứu bổ sung chính sách ưu đãi về thuế cho các CTCK. Theo Quyết định 39 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 74/2000/TT-BTC của Bộ tài chính về hướng dẫn quyết định này, các CTCK được tạm miễn nộp thuế GTGT đối với các hoạt động kinh doanh trong thời gian 3 năm (từ năm 2000 đến hết 2002) và được miễn 1 năm và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm hoạt động tiếp theo. Đến nay, thời hạn được hưởng ưu đãi thuế của các CTCK đã hết nhưng hoạt động của các công ty vẫn rất khó khăn do tính thiếu ổn định của thị trường. Do đó, Bộ tài chính cần phối hợp với UBCKNN thống nhất trình Chính phủ quy định và hướng dẫn cụ thể các ưu đãi mà CTCK được hưởng theo hướng: Bổ sung ngành chứng khoán vào danh mục các ngành nghề được hưởng mức thuế suất 25% dành cho đối tượng này. Cho phép các CTCK được hưởng thời hạn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp dài hạn (từ 3-5 năm) và lấy năm 2001 là năm đầu tiên làm căn cứ tính ưu đãi miễn thuế. Trong trường hợp thuế GTGT, không nên miễn mà nên điều chỉnh thuế suất ở mức thấp hơn, bởi Nếu được miễn thì họ không được khấu trừ đầu vào.
3.3.3. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam.
Công ty TNHH chứng khoán NHNO&PTNT Việt nam, tuy nói rằng có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập nhưng thực tế công ty vẫn chịu sự điều hành chung của chủ sở hữu, đôi khi sự can thiệp quá sâu của chủ sở hữu vào các hoạt động của công ty gây khó khăn cho Ban lãnh đạo công ty trong việc ra quyết định. Chẳng hạn như, quyết định mua bán chứng khoán của công ty phải thông qua Hội đồng đầu tư của ngân hàng xét duyệt, trách nhiệm mang tính chất tập thể chứ không mang tính cá nhân, điều này đã giúp cho công ty trong thời gian thực hiện hoạt động tự doanh tương đối an toàn. Nhưng đó là khi thị trường còn ít loại hàng hóa, giao dịch khớp lệnh định kỳ, chỉ có 1 phiên giao dịch 1 ngày, xu hướng biến động của thị trường thường theo 1 chiều, việc mua bán chưa sôi động, do đó các quyết định đầu tư chưa đòi hỏi nhiều tính nhanh chóng, kịp thời. Trong thời gian tới, khi thị trường đã có nhiều loại hàng hóa hơn và khó đoán biết thì việc ra quyết định như vậy sẽ hạn chế hoạt động của công ty, có thể làm công ty mất đi những cơ hội đầu tư cần nắm bắt nhanh nhạy và đòi hỏi những quyết định kịp thời. Nghiệp vụ tự doanh của CTCK là một hoạt động hết sức khó khăn và phức tạp. Nó có thể mang lại cho công ty những khoản lợi nhuận lớn nhưng ngược lại, nó cũng có thể gây cho công ty những tổn thất không nhỏ. Để thực hiện nghiệp vụ này một cách thành công, ngoài đội ngũ nhân viên phân tích thị trường có nghiệp vụ giỏi và nhanh nhạy với những biến động của thị trường, công ty cũng cần có một chế độ phân cấp quản lý và đưa ra những quyết định đầu tư hợp lý. ở một số nước phát triển, việc xây dựng chế độ phân cấp quản lý và ra quyết định đầu tư là một trong những vấn đề then chốt, quyết định sự sống còn của công ty. Do vậy, để hoạt động của công ty hiệu quả hơn, ngân hàng cần tạo thêm tính tự chủ cho công ty bằng việc cho phép bộ phận tự doanh của công ty được ra quyết định đầu tư nhằm đảm bảo quyết định nhanh chóng, kịp thời.
Là một ngân hàng hoạt động năng động, có nhiều chi nhánh và nhiều loại hình dịch vụ, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam cần tiếp tục kết hợp với CTCK NHNO&PTNT Việt nam trong việc mở chi nhánh, đại lý nhận lệnh và mở rộng các loại hình nghiệp vụ phụ trợ. Trong việc mở chi nhánh, đại lý nhận lệnh của công ty, Ngân hàng cần tạo điều kiện cho công ty sử dụng ngay hệ thống đường truyền số liệu sẵn có của hệ thống Ngân hàng. Khi tiến hành các nghiệp vụ phụ trợ, Ngân hàng cần đảm bảo phục vụ khách hàng của công ty nhiệt tình, nhanh chóng, chính xác nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu của họ.
Ngân hàng cũng nên gắn nghiệp vụ CTCK là một nghiệp vụ của ngân hàng. Các nhân viên ngân hàng cần tham gia vào hoạt động tiếp thị cho công ty, khi có khách hàng đến mở tài khoản tại ngân hàng thì giới thiệu, tư vấn cho họ về chứng khoán và đầu tư chứng khoán đồng thời giới thiệu, quảng cáo cho họ về công ty và các dịch vụ tiện ích của công ty.
Kết luận
Trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay vai trò của các CTCK là rất to lớn. Chính điều này đã thể hiện rõ tính cấp thiết của đề tài bởi thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động chưa được lâu và mục tiêu phát triển thị trường hoàn chỉnh không phải chỉ là mong muốn của CTCK mà còn là mong muốn của cả nền kinh tế. Những giải pháp hữu hiệu ngay thời điểm này để có thể vượt qua được những khó khăn và hoàn thiện những gì là do còn thiếu kinh nghiệm mà TTCK Việt Nam còn chưa làm được. Những giải pháp này có tính khả thi cao và có thể áp dụng ngay trong tương lai gần nếu có sự hỗ trợ mạnh mẽ của các chủ thể có liên quan đến TTCK và sự lỗ lực của bản thân công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN.
Do chứng khoán là một đề tài mới mẻ các tài liệu tham khảo cũng như nhận thức của em về vấn đề này vẫn chưa đầy đủ nên không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của người đọc để có thể hoàn thiện thêm bài viết và cũng là để bổ sung nhận thức của mình.
Để có thể hoàn thành bài viết này, em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ. Lê Hương Lan đã nhiệt tình hướng dẫn và góp ý cho em về phương pháp cũng như nội dung nghiên cứu đề tài.
Đồng thời, em xin chân thành cảm ơn tới ban lãnh đạo, các cô chú, anh chị cán bộ làm việc tại công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN đã giúp em rất nhiều trong quá trình thực tập tại công ty để em có thể hoàn thiện được đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0366.doc