Chuyên đề Giải pháp mở rộng cho vay đối với kinh tế tư nhân tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Thanh Hóa

Việc mở rộng cho vay của Ngân Hàng đối với kinh tế tư nhân có hiệu quả hay không phụ thuộc chủ yếu vào bản thân khu vực này. bởi lẽ kinh tế tư nhân có làm ăn nghiêm chỉnh và hiệu quả thì Ngân hàng mới có đủ niềm tin để cho vay. Với đặc thù linh hoạt, dễ thích ứng các doanh nghiệp tư nhân cần phải phát huy hơn nữa năng lực sản xuất kinh doanh của mình nâng cao hiệu quả hoạt động, đồng thời phải xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn với tầm nhìn xa hơn chứ không kinh doanh bó hẹp như hiện nay. Cần lập kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp đủ sức tiếp cận những tiến bộ mới về khoa học quản lý, về công nghệ mới, biết sự báo và tiếp cận với thị trường để chủ động hội nhập vào tiến trình toàn cầu hóa và khu vực hóa. Cần học tập cung cách quản lý chuyên nghiệp, đồng thời các doanh nghiệp tư nhân cần phải liên kết với nhau thành các hiệp hội tương trợ giúp đỡ nhau về mặt quản lý, công nghệ để cùng phát triển. Nghiêm chỉnh chấp hành chế độ kế toán hiện hành của nhà nước, phải trung thực trong quan hệ với Ngân Hàng, có như thế mới tạo được lòng tin của Ngân Hàng đối với các doanh nghiệp tư nhân.

doc74 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1613 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng cho vay đối với kinh tế tư nhân tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Thanh Hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một trong những phương hướng hoạt động cơ bản của ngành Ngân Hàng là nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống mức tối thiểu. Trong quan hệ tín dụng việc phát sinh nợ quá hạn là điều không thể tránh khỏi. Khi đến hạn trả nợ hoặc hết hạn cho vay theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng mà khách hàng không trả được nợ thì số nợ đến hạn phải chuyển sang nợ quá hạn và khách hàng phải chịu mức lãi suất cao hơn áp dụng đối với các khoản nợ quá hạn theo quy định. Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn (%) = --------------------------- x 100 Tổng dư nợ Theo nguyên lý, trong hoạt động kinh doanh luôn có sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ của Ngân Hàng. Lợi nhuận càng lớn đồng nghĩa với rủi ro càng cao. Do đó bên cạnh những kết quả đã đạt được trong mở rộng cho vay kinh tế tư nhân thì trong những năm qua chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Thanh Hóa vẫn rơi vào tình trạng nợ quá hạn cao đối với việc cho vay loại hình này, mặc dù có giảm đáng kể qua các năm. Ban lãnh đạo Ngân Hàng đã có những biện pháp hợp lý nhằm ngăn ngừa và xử lý nợ quá hạn, làm cho tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ giảm xuống và có những biểu hiện đáng mừng. Chúng ta có thể xem xét bảng sau để có cái nhìn tổng quát hơn về tình hình nợ quá hạn tại chi nhánh NHCT TH: Bảng 11:Thống kê nợ quá hạn kinh tế tư nhân ( KTTN) Đơn vị: % Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 -Nợ quá hạn KTTN / Dư nợ KTTN tại chi nhánh -Nợ quá hạn KTTN/ Dư nợ KTTN toàn tỉnh 1,3 1,15 1,05 1,6 0,65 1.75 (Nguồn:Báo cáo tổng hợp hoạt động kinh doanh 2005, 2006, 2007 NHCT TH) Qua ba năm gần đây tỷ lệ Nợ quá hạn KTTN/ Dư nợ KTTN đang ngày càng giảm đi. So sánh với con số chung của cả tỉnh thì tỷ lệ này vẫn ở mức thấp điều đó chứng tỏ chất lượng tín dụng cấp cho kinh tế tư nhân tại chi nhánh là khá cao so với các Ngân Hàng khác trên cùng địa bàn và đang ngày càng được cải thiện hơn nữa. Tuy nhiên cần nói thêm về con số 1,3% nợ quá hạn trong năm 2005. Năm 2005 nợ quá hạn kinh tế tư nhân của chi nhánh là 1.166,92 triệu đồng, một con số khá cao nhưng lại tập chung chủ yếu vào một khách hàng đó là công ty trách nhiệm hữu hạn Bình Phát với số nợ quá hạn lên tới 826,3 triệu đồng. Sở dĩ nợ quá hạn cao như thế vì theo quy chế cho vay 1627 thì khi khách hàng đến kỳ mà không trả được gốc hoặc lãi của khoản vay thì toàn bộ dư nợ của khách hàng đó sẽ chuyển sang nợ quá hạn, khiến cho tỷ lệ nợ quá hạn đó có thể tăng lên một cách đột biến. Đây là hiện tượng nợ quá hạn cao do một cá nhân gây ra không phải là tình trạng chung, không mang tính quy luật. Năm 2006 là năm hệ thống ngân hàng đã chuyển mình thực sự, là năm gặp rất nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong bước đầu tiến vào quá trình hội nhập quốc tế nhưng chất lượng tín dụng không ngừng được nâng cao, chứng tỏ chi nhánh ngân hàng công thương thanh hoá đã chuẩn bị rất kỹ cả về chất và lượng trước thềm hội nhập. Vì vậy vẫn có thể nói là chất lượng tín dụng cấp cho kinh tế tư nhân tại chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Thanh Hóa nhìn chung là khá tốt tạo điều kiện tiếp tục mở rộng cho vay đối với loại hình kinh tế tiềm năng này. 2.3.3- Mở rộng cho vay đối với kinh tế tư nhân phân theo thời hạn tín dụng tại chi nhánh NHCT Thanh Hóa. Các ngân hàng đã thự sự chú ý tới việc phân chia cơ cấu về thời hạn của các khoản vay, ngân hàng phải phân chia sao cho vừa đảm bảo tính thanh khoản vừa bảo đảm hạn chế rủi ro. Việc phân chia này vừa mang tính rủi ro vừa mang tính sinh lời của tài sản. Các khoản cho vay ngắn hạn ít rủi ro nhưng kém sinh lời, trong khi đó các khoản cho vay dài hạn tuy chịu nhiều rủi ro hơn nhưng mang lại lợi nhuận cao hơn rất nhiều so với các khoản cho vay ngắn hạn, đó là điều rất dễ hiểu do tuân theo nguyên lý ”Sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận”. Sau đây là tình hình cho vay ngắn, trung và dài hạn đối với kinh tế tư nhân tại chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Thanh Hóa: Bảng 12: Dư nợ kinh tế tư nhân phân theo thời hạn tín dụng Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) % tăng giảm Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) % tăng giảm Tổng dư nợ KTTN 89.762,96 100 163.195,2 100 81,8 295.188 100 80,88 Cho vay ngắn hạn 80786,664 90 142.224,46 87,15 76,05 242.733,1 82,23 70,67 Cho vay trung & dài hạn 8.976,296 10 20.807,388 12,75 131,9 52.454,9 17,77 152,1 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp hoạt động kinh doanh 2005,2006,2007NHCT_TH) Nhìn chung Các khoản cho vay ngắn, trung và dài hạn đối với kinh tế tư nhân tại ngân hàng tăng nhanh qua các năm tuy nhiên Ngân Hàng vẫn đặc biệt chú trọng tới cho vay ngắn hạn bởi lẽ các khoản cho vay có thời hạn ngắn thường chịu ít rủi ro mà vẫn đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. Tất nhiên tỷ trọng cho vay dài hạn trong ngân hàng thường thấp hơn rất nhiều so với cho vay ngắn hạn, các ngân hàng rất hạn chế các khoản cho vay dài hạn bởi lẽ các khoản cho vay dài hạn gặp rất nhiều rủi ro, việc phân chia cơ cấu thời hạn khoản vay bất hợp sẽ gây nguy hiểm cho ngân hàng, có thể ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và dễ dàng sụp đổ. Trong những năm vừa qua tỷ trọng cho vay dài hạn tại chi nhánh cũng đã tăng nhanh điều này chứng NHCT TH đang thực sự chú trọng tới việc mở rộng cho vay trung và dài hạn theo đúng định hướng của NHCT Việt Nam. Đồng thời năm 2007 là năm đầu tiên nước ta bước vào hội nhập kinh tế quốc tế, nhu cầu các khoản vay trung và dài hạn trên thị trường là rất lớn, sớm nhận biết được điều đó NHCT TH đã tăng cường mở rộng cho vay trung và dài hạn rất nhanh, các khoản cho vay trung và dài hạn đối với kinh tế tư nhân năm 2007 tăng nhanh, lên tới 152,1% so với cùng kỳ năm 2006. Việc phân chia cơ cấu thời hạn các khoản vay hợp lý sẽ giúp ngân hàng mở rộng thị trường, nâng cao lợi nhuận. 2.3.4- Mở rộng cho vay đối với kinh tế tư nhân phân theo loại hình sản xuất kinh doanh tại chi nhánh NHCT Thanh Hóa. Kinh tế tư nhân tồn tại dưới nhiều hình thức như: Hộ kinh doanh cá thể, công ty cổ phần, công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn. Sau đây ta xem xét hoạt động cho vay kinh tế tư nhân tại chi nhánh theo loại hình sản xuất kinh doanh. Bảng13: Dư nợ kinh tế tư nhân phân theo loại hình sản xuất kinh doanh: Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) % Tăng giảm Số tuyệt đối Tỷ trọng(%) % Tăng giảm Dư nợ KTTN -Công ty cổ phần -Công ty tư nhân -Công ty TNHH -Khách hàng cá thể 89.762,96 22.710 6.552,7 13.643,97 46.856,29 100 25,3 7,3 15,2 52,2 163.195,2 27.579,99 10.118,1 38.187,67 87.309,44 100 16,9 6,2 23,4 53,5 81,8 21,4 54,4 179,9 83,33 295.188 113.942,6 12.397,9 74.682,56 94.164,94 100 38,6 4,2 25,3 31,9 80,88 313,1 22,53 95,56 7,85 (Nguồn: Báo cáo tín dụng2005, 2006, 2007 chi nhánh NHCT TH) Qua ba năm 2005, 2006, 2007 đã có sự chuyển dịch trong cơ cấu dư nợ kinh tế tư nhân phân theo loại hình sản xuất kinh doanh. Nếu trong năm 2005, 2006 dư nợ đối với khách hàng cá thể chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ cho vay kinh tế tư nhân thì đến năm 2007 tỷ trọng này đã giảm xuống chỉ còn hơn một nửa so với năm 2006. Do trong năm 2007 các loại hình công ty cổ phần và công ty trách nhiện hữu hạn trên địa bàn thực sự phát triển rất mạnh nên chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ kinh tế tư nhân cũng là điều dễ hiểu. 2.3.5- Những thành tựu đạt được trong việc mở rộng cho vay đối với kinh tế tư nhân tại chi nhánh NHCT Thanh Hóa. Với việc mở rộng cho vay đối với kinh tế tư nhân mà chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Thanh Hoá đã thu được những thành công đáng kể: Dư nợ cho vay kinh tế tư nhân không ngừng tăng qua các năm. Đặc biệt loại hình công ty cổ phần đã có sự tăng trưởng rất nhanh về dư nợ , năm 2007 tăng hơn 3 lần so với năm 2006. Đây là một con số khá cao, thấy được sự phát triển mạnh mẽ của loại hình công ty cổ phần trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa cũng như mọi nỗ lực cố gắng của ngân hàng trong việc mở rộng cho vay đối với loại hình công ty này. Sở dĩ hoạt động cho vay các công ty cổ phần thu được nhiều thành công như vậy là do có một bộ phận lớn các doanh nghiệp nhà nước chuyển sang loại hình công ty cổ phần theo tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước có vốn tự có lớn, trang thiết bị hiện đại chuyển sang một doanh nghiệp với một cơ chế mới tự làm tự hưởng, các doanh nghiệp này với xuất phát điểm cao nên thường làm ăn rất hiệu quả, đảm bảo khả năng trả nợ. Mặt khác các doanh nghiệp này thường là những khách hàng trước đây của Ngân Hàng nên việc cho vay rất thuận tiện và tin tưởng. Cùng với sự tăng trưởng dư nợ như vậy thì số lượng khách hàng cá nhân và doanh nghiệp tư nhân cũng không ngừng gia tăng qua các năm, tạo những bước tiến đáng kể trong việc đa dạng hoá khách hàng, nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro tại ngân hàng. Cùng với những cố gắng mở rộng cho vay kinh tế tư nhân thì chi nhánh cũng thực hiện đúng quy định trong cho vay nhờ đó tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ kinh tế tư nhân ở mức thấp so với các Ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Có thể nói mở rộng cho vay đối với kinh tế tư nhân là xu hướng tất yếu của các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam trong thời buổi hội nhập hiện nay. 2.3.6- Những hạn chế và nguyên nhân của hoạt động mở rộng cho vay đối với kinh tế tư nhân. Hạn chế: Hiện nay các ngân hàng đang tích cực mở rộng hoat động cho vay đối với tất cả các loại hình kinh tế theo định hướng của chính phủ nhằm thúc đẩy sự phát triển một cách đồng bộ trên mọi lĩnh vực, mọi thành phần trong nền kinh tế. Tuy nhiên, mặc dù đã có sự tăng trưởng nhất định nhưng tỷ trọng cho vay kinh tế tư nhân của chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Hóa đang còn chưa cao, một mặt do loại hình này chưa thực sự được ngân hàng chú trọng, mặt khác do các điều kiện vay vốn của kinh tế tư nhân chưa đáp ứng được các yêu cầu mà ngân hàng đặt ra, nên mặc dù ngân hàng đã tạo mọi điều kiện nhưng khả năng tiếp cận vốn của loại hình này còn gặp rất nhiều khó khăn. Nguồn vốn cho vay trong ngân hàng chủ yếu là nguồn ngắn hạn, tỷ trọng cho vay dài hạn trong tổng nguồn thấp, mà hiện nay kinh tế tư nhân đang rất cần nguồn vốn dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất ban đầu hay mở rộng sản xuất, đầu tư trang thiết bị, máy móc...Thanh Hóa là một tỉnh đang dần phát triển, tỷ trọng thương mại, dịch vụ chưa cao, ngược lại tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp khá cao nên nhu cầu vay vốn phát triển các vùng trang trại, đánh bắt thủy hải sản tương đối nhiều, tuy nhiên các khoản vay thường ẩn chứa nhiều rủi ro, kinh tế tư nhân thường khó khăn trong việc thế chấp vay vốn, tài sản bảo đảm không đủ điều kiện vay, chưa tạo được uy tín đối với ngân hàng. Mặt khác: Quan điểm, nhận thức về sự cần thiết hướng tới đối tượng khách hàng DNV&N chưa triệt để. Vẫn còn tình trạng ưu ái, tập trung giao dịch với các Doanh nghiệp lớn, DNNN, e ngại phát triển khách hàng DNV&N, ngoài quốc doanh. Trong cho vay DNV&N, DNNQD vẫn còn thói quen quan tâm tới TSBĐ nhiều hơn là phương án kinh doanh/dự án đầu tư. Hệ thống thông tin tại chi nhánh NHCT Thanh Hóa về khách hàng nói chung và DNV&N nói riêng còn nhiều bất cập, thiếu tin cậy, chưa phục vụ được cho hoạt động kinh doanh. Đến nay sau 2 năm NHCT thực hiện quản lý theo khách hàng nhưng thông tin, số liệu theo phân loại khách hàng vẫn chưa hoàn chỉnh. Nguyên nhân cả từ 2 phía Hội sở chính và chi nhánh, cán bộ nhập dữ liệu chưa quan tâm đúng mức tới tính chính xác của thông tin, thiếu sự kiểm tra, đôn đốc kịp thời của cấp quản lý, đồng thời quy chế chịu trách nhiệm về thông tin số liệu chưa chặt chẽ, rõ ràng. Công tác tuyên truyền quảng bá hoạt động phục vụ KH DNV&N của NHCT còn hạn chế Các sản phẩm hiện có tuy khá đa dạng nhưng quy trình, thủ tục chưa được thiết kế riêng phù hợp với đối tượng khách hàng quy mô nhỏ. Vấn đề cán bộ: Vẫn còn thiếu cán bộ cả về số lượng và chất lượng. Do đặc thù số lượng KHDNV&N đông, qui mô nhỏ, việc bố trí đủ cán bộ phục vụ nhóm khách hàng này là một khó khăn chung của hệ thống NHCT, đồng thời chúng ta cũng thiếu một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về tài trợ cho DNV&N. Nguyên nhân: Về phía ngân hàng: Các thủ tục vay vốn của hệ thống NHCT nói chung và tại chi nhánh nói riêng còn rườm rà, phức tạp: Thủ tục vay vốn chưa thông thoáng, rườm rà, phức tạp là nguyên nhân làm cho chi phí giao dịch vay vốn tăng cao gây khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn của kinh tế tư nhân. Như ta đã nói ỏ trên thì kinh tế tư nhân trên địa bàn chủ yếu còn nhỏ lẻ, quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu khi chi phí tiếp cận vốn vay cao thì sẽ gây rất nhiều khó khăn khi vay vốn. Trên thực tế, các khoản vay dù nhỏ hay lớn đều phải thông qua rất nhiều khâu, nhiều bước, thủ tục vay không khác nhau là mấy nên cán bộ tín dụng thường có tâm lý ngại cho vay các khoản vay nhỏ lẻ, đây cũng là một yếu tố gây khó khăn trong việc tiếp cận vốn của kinh tế tư nhân. Mặt khác: Một số khoản phí của NHCT cao hơn của các ngân hàng khác (như phí chuyển tiền), một số khoản phí NHCT áp dụng nhưng các ngân hàng khác chưa áp dụng (như phí cung cấp bản sao chứng từ, phí thay đổi giá trị bảo đảm nhưng không thay đổi TSBĐ,...) phần nào ảnh hưởng đến khả năng thu hút khách hàng. Vấn đề định giá tài sản bảo đảm: Hiện nay việc định giá tài sản bảo đảm của ngân hàng thường thấp hơn rất nhiều so với giá trị thực của nó, nên nhiều khách hàng không đủ điều kiện vay vốn do tài sản bảo đảm chưa đáp ứng được điều kiện cho vay của ngân hàng. Đây là vấn đề gây khó khăn cho kinh tế tư nhân trong việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Mặt khác, Quy định về bảo đảm tiền vay của chi nhánh NHCT Thanh Hóa còn một số điểm bất cập như còn phân biệt đối xử giữa DNNN và DN ngoài quốc doanh về mức cho vay không có TSBĐ tối đa, sổ tay tín dụng quy định bắt buộc Chi nhánh thuê tư vấn định giá trong trường hợp giá quyền sử dụng đất cao hơn khung giá quy định của nhà nước (trong khi các Ngân hàng khác không thực hiện quy định này). Hiện nay các ngân hàng thuơng mại nói chung và ngân hàng công thương trên địa bàn nói riêng đang thực sự thiếu vốn: Trong những ngày trước và sau Tết Nguyên Đán, các ngân hàng thương mại (NHTM) thực sự thiếu vốn và tăng lãi suất huy động lên rất cao. Tại ngân hàng công thương thanh hoá nguồn vốn tăng trưởng thấp dưới 1%, thị phần huy động vốn chiếm 13% giảm 0,8% so với năm 2006.. Năm 2007 nguồn vốn tiền gửi dân cư giảm 0,9% so với đầu năm do khách hàng đã chia sẻ sang các ngân hàng thương mại cổ phần và đầu tư vào các lĩnh vực khác. Tỷ giá ngoại tệ USD bị mất giá, đầu năm tỷ giá là: 16.091VNĐ/USD đến cuối năm là 16.020 VNĐ/USD nên dẫn đến tiền gửi bằng USD giảm ngay từ đầu năm 8,8% đến cuối năm giảm 10,3%. Giá vàng liên tục tăng, giá cả sinh hoạt tăng đột biến làm cho khách hàng có tiền gửi tính đến khả năng sinh lời của tiền chính vì thế nguồn vốn tại chi nhánh bị hạn chế. Hiện nay có NHTM cổ phần đã áp dụng mức lãi suất 12%/năm đối với loại kỳ hạn 3 tháng; 12,6%/năm đối với loại kỳ hạn 6 tháng và 13,8%/năm đối với loại kỳ hạn 12 tháng. Vậy thực chất của tình hình này là gì? Các ngân hàng có thực sự thiếu vốn và vì sao phải tăng lãi suất? Câu trả lời xuất phát từ chính quá trình khai thác sử dụng vốn của các NHTM cổ phần và từ chính đặc điểm trong mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng. Một số nguyên nhân chính là: Thứ nhất: Trong các tháng cuối năm 2007, đặc biệt là trong tháng 12-2007 các ngân hàng đẩy mạnh cho vay với tốc độ tăng trưởng rất cao, 14,2% so với tháng 11-2007. Diễn biến này một mặt gắn liền với nhu cầu vốn cuối năm gia tăng, mặt khác các ngân hàng đẩy mạnh tăng dư nợ tín dụng để bảo đảm thực hiện quy định về cho vay chứng khoán theo Chỉ thị số 03 của NHNN. Chính vì lẽ đó tạo ra nhu cầu vốn rất lớn và việc tăng mạnh và tăng cao lãi suất huy động của một số TCTD. Thứ hai: Trên thị trường liên ngân hàng, phần lớn các NHTM cổ phần nhỏ (có quy mô vốn thấp, hoạt động dịch vụ kém phát triển và chủ yếu là kinh doanh tín dụng) thường là các ngân hàng đi vay. Trong khi đó nhóm các ngân hàng này cũng chính là các ngân hàng có dư nợ tín dụng lớn hơn so với tổng huy động vốn, tỷ lệ dư nợ tín dụng so với tổng huy động vốn cao hơn 100%, thậm chí có NHTM cổ phần tỷ lệ này trên 200%. Một bộ phận vốn sử dụng cho vay khách hàng và nền kinh tế được các tổ chức tín dụng này vay từ thị trường liên ngân hàng. Song, bản chất của thị trường này là đáp ứng nhu cầu về thanh khoản, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn nhờ luân chuyển được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi (qua đêm, ngày, tuần), nhờ vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đây chính là nguyên nhân cơ bản tác động trực tiếp đến thị trường liên ngân hàng. Cùng với hiệu ứng nhu cầu vốn dịp Tết Nguyên đán đã làm nóng thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ trên địa bàn trong thời gian qua.   Thứ ba: Một bộ phận các NHTM cổ phần lớn (quy mô vốn lớn, dịch vụ phát triển mạnh, quản lý tốt) sử dụng vốn hợp lý hơn, cơ cấu nguồn và cơ cấu tín dụng hợp lý (dư nợ tín dụng so với tổng huy động vốn dưới 100%, có ngân hàng chỉ khoảng 50%-60%) – thường là các ngân hàng cho vay trên thị trường liên ngân hàng. Chính việc quan hệ một chiều (các ngân hàng thường xuyên cho vay và nhóm các ngân hàng thường xuyên đi vay) cũng tạo ra những hạn chế nhất định trong quan hệ trên thị trường liên ngân hàng, làm xuất hiện hiện tượng "kinh doanh" quá mức ngay trên thị trường này. Trong một số trường hợp lãi suất đẩy lên quá cao vì nhu cầu thanh khoản và các ngân hàng đi vay không có sự lựa chọn nào khác. Chính vì sự thiếu hụt vốn như vậy trong thời gian qua nên việc cho vay vốn đối với kinh tế tư nhân tại chi nhánh còn nhiều hạn chế. Về phía kinh tế tư nhân: Tính rủi ro trong sản xuất kinh doanh cao: Vấn đề lớn nhất lớn nhất từ phía kinh tế tư nhân là quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ, năng lực tài chính không mạnh nên hạn chế khả năng đầu tư và khó đáp ứng được yêu cầu về mức vốn tự có tối thiểu để được vay vốn ngân hàng. Mức vốn tự có nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp khiến cho các doanh nghiệp dễ đổ bể khi đối mặt với những diễn biến bất thường trong quá trình SXKD. Mặt khác, tính kế hoạch, tính chiến lược trong hoạt động sản xuất kinh doanh không cao, đặc biệt là khả năng xây dựng kế hoạch tài chính, phương án kinh doanh, dự án đầu tư rất hạn chế, hoạt động kinh doanh chủ yếu theo thương vụ rất dễ gặp rủi ro. Vấn đề cung cấp thông tin và báo cáo tài chính: Hầu hết là không đảm bảo tính minh bạch về các thông tin tài chính. Hệ thống báo cáo tài chính thường không đầy đủ, không cập nhật, kém tin cậy, nhiều hệ thống sổ sách kế toán khác nhau. Hơn nữa, các giao dịch của DNV&N, nhất là của các hộ kinh doanh, các cơ sở sản xuất thường theo phương thức mua bán trao tay không có hợp đồng kinh tế, một số trường hợp thậm chí không có hoá đơn, thanh toán bằng tiền mặt nên Ngân hàng rất khó đánh giá doanh số hoạt động thực tế cũng như xác minh nguồn trả nợ. Về vấn đề tài sản đảm bảo: Đối với Các DNV&N thường không có sự phân biệt rạch ròi giữa tài sản thuộc sở hữu của cá nhân chủ doanh nghiệp và tài sản của doanh nghiệp nên gây khó khăn cho việc nhận TSBĐ của Ngân hàng. Nguyên nhân khác: Về cơ chế và thủ tục hành chính của Nhà nước: Thủ tục công chứng, đăng ký/xoá đăng ký giao dịch bảo đảm rườm rà, mất thời gian (ĐKGDBĐ mất 5 ngày, xoá ĐKGDBĐ mất 5 ngày) và còn nhiều bất cập. Việc triển khai thành lập cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại nhiều địa phương còn chậm. Sở Công an một số tỉnh không hợp tác trong việc xác nhận vào bản sao đăng ký xe đối với trường hợp thế chấp xe ôtô... Quy định của nhà nước về chứng thư sở hữu tài sản chưa chặt chẽ: Ở nhiều địa phương, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tồn tại dưới cả 3 hình thức bìa đỏ, bìa hồng và bìa xanh; Nhà nước chỉ khuyến khích chứ không bắt buộc đổi chứng thư sở hữu mới. Điều này gây khó khăn cho Ngân hàng trong kiểm soát và thẩm định tính pháp lý của hồ sơ TSBĐ. Ngoài ra, tại một số địa phương, thủ tục hành chính về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho các doanh nghiệp nói chung còn chậm gây khó khăn cho việc hoàn thiện hồ sơ TSBĐ. Chính sách của Nhà nước đối với một số ngành không ổn định (lắp ráp xe máy, ô tô, chế biến gỗ…) gây khó khăn cho Doanh nghiệp khi đầu tư dài hạn. Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG TỈNH THANH HOÁ. 3.1. CÁC CHỈ TIÊU TÍN DỤNG NĂM 2008 VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU TẠI CHI NHÁNH NHCT TỈNH THANH HÓA. 3.1.1- Các chỉ tiêu chủ yếu: - Nguồn vốn huy động cuối kỳ: 1.265 tỷ đồng: Tỷ lệ tăng trưởng 13%-15% - Dư nợ cho vay và đầu tư: 1.500 tỷ đồng: tỷ lệ tăng trưởng 14%-15% ( không bao gồm tăng của dự án xi măng) - Tỷ lệ cho vay không có tài sản đảm bảo: tối đa 10% (năm 2007 là 7%) - Tỷ lệ cho vay doanh nghiệp nhà nước: tối đa 2% (năm 2007 là 0,4%) - Nợ nhóm 2: tối đa 2% (theo đăng ký của các phòng là11.800 triệu) - Nợ xấu (nhóm 3-5): tối đa 7 tỷ ( theo đăng ký của các phòng là 7 tỷ) - Thu hồi nợ đã xử lý rủi ro :3.440 trđ ( theo đăng ký của các phòng) - Thu nợ CP đã cấp nguồn: 50 trđ - Thu phí dịch vụ ngân hàng: 5 tỷ đồng, trong đó thu phí TTXNK là 1 tỷ đồng (các phòng đã đăng ký 4.700 trđ :tăng trưởng 20-22%) - Các chỉ tiêu tài chính: thực hiện theo kế hoạch NHCT VN giao. - Phát hành thẻ ATM: 12000 thẻ - Lợi nhuận : mục tiêu phấn đấu 25 tỷ đồng, trong đó lợi nhuận trong kinh doanh ngoại tệ là 1 tỷ đồng. - Số khách hàng mới tăng 20% ở tất cả các dịch vụ. - Chi trả kiều hối 10 triệu USD - Nghiệp vụ bảo lãnh:tăng 30% số dư và số món bảo lãnh so với năm 2007. 3.1.2- Các biện pháp thực hiện: Dành sự chỉ đạo và quan tâm đúng mức tới việc nâng cao NSLĐ. Mọi biện pháp chỉ đạo điều hành của ban giám đốc, của các phòng đều phải hướng tới nâng cao năng suất lao động trong toàn chi nhánh. Khuyến khchs các cán bộ tham gia đề tài nghiên cứu, các đề án khả thi nhằm nâng cao năng suất lao động. Thực hiện đồng bộ các giải pháp sắp xếp lại tổ chức mạng lưới và lao đông để khai thác tối đa nguồn lực về con người hiện có của chi nhánh. Mở thêm các dịch vụ nhằm tăng doanh thu và lợi nhuận nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên. Trong nhiều năm qua chi nhánh NHCT TH luôn đạt thứ hạng thi đua cao do ban giám đốc luôn tập trung chỉ đạo để hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu, kế hoạch được giao. Song hệ thống chỉ tiêu kế hoạch chỉ là định hướng phát triển chung của toàn hệ thống chưa tính đến các chi nhánh đặc thù. Song trong phân phối tiền lương thực tế của NHCT VN lại chủ yếu phụ thuộc vào năng suất lao động nên tiền lương của chi nhánh NHCT TH luôn ở mức bình quân của NHCT VN. Do đó từ năm 2008 phải tập trung cho công tác nâng cao năng suất lao động. Tập trung đẩy mạnh khai thác nguồn vốn: Công tác huy động vốn phải tiếp tục đặt lên vị trí hàng đầu. Đánh giá phân tích thị trường nguồn vốn tại địa phương, chủ động tìm kiếm khách hàng có tiềm năng về nguồn vốn cả trong và ngoài địa bàn, xoá bỏ tư tưởng ỷ lại, chờ đợi, phụ thuộc vào khách quan. Phân tích các nguyên nhân, các điều kiện có thể tăng được nguồn vốn không nhất thiết chỉ chờ đợi vào nguồn truyền thống là tiền gửi doanh nghiệp và tiền gửi dân cư. Trong hai nguồn truyền thống này cũng cần phân tích kỹ để khai thác có hiệu quả hơn. Từng phòng được giao chỉ tiêu nguồn vốn phải chủ động khai thác và tìm hiểu khách hàng. Đổi mới, cải tiến chất lượng dịch vụ và phong cách giao dịch, thực hiện linh hoạt, nhạy bén công cụ lãi suất, chính sách khách hàng, khuyến khích cán bộ công nhân viên của chi nhánh có đề tài nghiên cứu phát triển nguồn vốn. Tăng cường công tác quản lý tín dụng kể cả quản lý của ban giám đốc về công tác tín dụng và quản lý của từng cán bộ tín dụng đối với từng khoản vay, nâng cao chất lượng và khả năng sinh lời của đồng vốn đầu tư: Yêu cầu đối với cán bộ tín dụng phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện tín dụng mới được giải ngân, thường xuyên phân tích đánh giá chấm điểm tín dụng. Chấp hành và thực hiện đúng cơ chế, quy chế, quy trình tín dụng, nâng coa chất lượng thẩm định dự án, phương án đả bảo tính pháp lý của hồ sơ cho vay trước khi giải ngân, thực hiện nghiêm túc việc phân loại nợ. Mỗi quý một lần phải tổ chức phân tích tất cả các khoản nợ dưới tiêu chuẩn để có biện pháp thích hợp trong xử lý. Tiến hành phân loại cán bộ tín dụng ngay từ đầu năm để sắp xếp, bố trí lại cán bộ tín dụng cho hợp lý ngay trong tháng 1/2008 để ổn định công việc, những cán bộ tín dụng đang quản lý dư nợ, quản lý số lượng khách hàng quá thấp không bố trí làm cán bộ tín dụng nữa, xây dựng lộ trình nâng cao năng suất lao động của cán bộ tín dụng, thực hiện nghiêm túc việc tách bạch ba khâu: Quan hệ khách hàng, đánh giá rủi ro tín dụng và quyết định tín dụng. Phòng quản lý rủi ro phát huy hơn nữa vai trò kiểm soát tín dụng, qua đó tham mưu cho ban giám đốc chỉ đạo để tuàng cán bộ tín dụng, các phòng có liên quan phải thực hiện đầy đủ các điều kiện tín dụng và đúng quy chế, quy trình góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ và công tác phát hành thẻ, hoạt động kinh doanh đối ngoại: Thu dịch vụ trên doanh thu của chi nhánh NHCT TH còn chiếm tỷ lệ thấp ( 3-4%) tốc độ tăng trưởng thu dịch vụ hàng năm không cao (12-15%) trong khi ban giám đốc luôn quan tâm và đặt kỳ vọng cao. Năm 2008 cần tạo ra sự phát trển vượt bậc, mang tính đột phá trong việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ và thu dịch vụ. Cần xoá bỏ tư tưởng trông chờ việc khách hàng đến với ngân hàng khi họ cần sử dụng dịch vụ mà phải đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng bá các dịch vụ ngân hàng, tích cực khai thác để có nguồn thu như: mở tài khoản cá nhân, mở tài khoản ATM và khuyến khích khách hàng thanh toán qua thẻ, vừa tăng thêm nguồn vốn vừa tăng thêm nguồn thu dịch vụ. Quảng bá và tiếp thị tích cực hơn nữa dịch vụ chi trả kiều hối cùng với việc triển khai và mở rộng cho vay xuất khẩu lao động. Tích cực tuyên truyền tiếp thị các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu mở tài khoản và sử dụng các dịch vụ trong thanh toán XNK. Phòng kế toán tài chính cần phân tích đầy đủ các yếu tố làm tăng doanh thu để triển khai và khai thác có hiệu quả. Tiếp tục triển khai mạnh mẽ cuộc vận động các doanh nghiệp mở thẻ cho cán bộ công nhân viên và thanh toán tiền lương qua thẻ theo chỉ thị 20 của thủ tướng chính phủ. Giao chỉ tiêu cụ thể cho từng phòng, từng cán bộ về phát triển thẻ, vận động cơ quan doanh nghiệp thanh toán lương qua thẻ của ngân hàng công thương. Sắp xếp lại mạng lưới tổ chức và nhân sự theo doanh nghiệp cổ phần và theo cơ chế tiền lương mới: Bộ máy tổ chức và mạng lưới hoạt động phải thực hiện hiệu quả, thúc đẩy tăng suất lao động, xây dựng lộ trình phát triển quy mô điểm giao dịch, phòng giao dịch theo từng thời gian cụ thể. Thành lập một nhóm nghiên cứu đề tài tính toán đầy đủ chi phí cho các phòng giao dịch và chi trả tiền lương như NHCT VN trả lương cho chi nhánh hiện nay. Đặc biệt coi trọng công tác cán bộ nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng phong cách văn hoá kinh doanh, lề lối làm việc có kỷ luật , kỷ cương xác định rõ trách nhiệm của từng cán bộ trong quản trị hệ thống, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, giữ nghiêm kỷ luật điều hành. Tiếp tục xây dựng và bổ sung một số cơ chế động lực, thúc đẩy tăng năng suất lao động: Năm 2008 chi nhánh phải xây dựng lại cơ chế tiền lương nội bộ sau khi ngân hàng công thương việt nam ban hành cơ chế lương mới, điều chỉnh lại cơ chế thi đua khen thưởng, ban hành chiến lược khách hàng: tất cả đều hướng tới tăng năng suất lao động, và tăng lợi thế cạnh tranh của chi nhánh NHCT Thanh Hoá. Xây dựng phong cách giao dịch văn minh hiện đại mang lại lợi ích tối đa cho khách hàng và cho ngân hàng. Từng phòng nghiệp vụ phải rà soát lại tất cả các quy trình nghiệp vụ, thao tác các thủ tục trong giải quyết công việc, kiên quyết gỡ bỏ những thủ tục phiền hà không cần thiết, thiếu khoa học gây ách tắc, tiếp tục đổi mới phong cách giao dịch, phục vụ tận tình, hướng dẫn chu đáo, thao tác chính xác, rút ngắn thời gian trong từng giao dịch, tạo mối quan hệ thân thiện thoải mái giữa khách hàng và ngân hàng. Công khai hoá tất cả các hồ sơ, thủ tục, thời gian giải quyết công việc cho khách hàng nhất là khách hàng vay vốn. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho các công trình xây dựng, cải tạo sửa chữa mua sắm trang thiết bị: Cần nâng cấp cơ sở vật chất các điểm giao dịch, phòng giao dịch khang trang hiện đại. Hoàn thành cải tạo nhà làm việc khu B trước kỷ niệm 20 năm xây dựng và phát triển chi nhánh, khởi công xây dựng phòng giao dịch số 3 và số 6 trước quý 4/2008. Tiến hành các bước theo thủ tục để khởi công xây dựng phòng GD số 1 và cải tạo khách sạn ngân hoa trước quý 1 năm 2009. Hiện đại hoá các trang thiết bị, phương tiện làm việc. Đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn trong mọi hoạt động của chi nhánh: Năm 2007 chi nhánh NHCT TH vinh dự được bộ công an tặng cờ thi đua về phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc. Do vậy trách nhiệm đặt ra cho ngân hàng là phải tiếp tục đảm bảo an ninh trật tự, bảo đảm an toàn trong mọi hoạt động của chi nhánh. Đẩy mạnh thực hiện hani luật phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. 3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CỤ THỂ NHẰM MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI CHI NHÁNH NHCT THANH HÓA. Để mở rộng cho vay kinh tế tư nhân có hiệu quả thì ngân hàng cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Đơn giản hoá thủ tục vay vốn: Hiện nay, thủ tục vay vốn của ngân hàng còn rườm rà, phức tạp gây nhiều bất lợi trong việc tiếp cận vốn của nền kinh tế nói chung và đặc biệt là đối với loại hình kinh tế tư nhân, vì vậy điều cần nhất lúc này của chi nhánh là đơn giản hoá thủ tục vay vốn nhưng vẫn phải bảo đảm được an toàn khoản vay. Đa dạng hoá phương thức cho vay: Theo quy định thì phương thức cho vay của ngân hàng có nhiều dạng như: cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay từng lần, cho vay luân chuyển… Nhưng trên thực tế chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Thanh Hoá chủ yếu áp dụng phương thức cho vay từng lần đối với kinh tế tư nhân là chủ yếu, phương thức cho vay này an toàn nhưng không phù hợp với loại hình kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh chủ yếu là có quy mô vừa và nhỏ, nhu cầu của các khoản vay thường ngắn hạn, các khoản vay không lớn nhưng thường xuyên nhằm bổ sung vốn lưu động. Thủ tục các khoản vay này phức tạp đôi khi làm lỡ mất cơ hội kinh doanh của khách hàng, vì vậy ngân hàng cần đa dạng hoá phương thức cho vay áp dụng hình thức cho vay theo hạn mức hoặc cho vay luân chuyển thì rất phù hợp với nhu cầu vốn ngắn hạn của kinh tế tư nhân. Cho vay theo mức lãi suất phù hợp: Lãi suất là chi phí của vệc sử dụng vốn, tác động trực tiếp đến lợi nhuận kinh doanh, đây là vấn đề rất nhạy cảm có thể tác động đến quết định vay vốn của khách hàng. Nếu ngân hàng đưa ra mức lãi suất quá cao sẽ làm tăng chi phí kinh doanh đồng thời làm giảm thu nhập của khách hàng khi đó họ phải cân nhắc việc tìm nguồn khác để thay thế vay vốn ngân hàng. Kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh chủ yếu là vừa và nhỏ do vậy ngân hàng cần phải xây dựng chính sách lãi suất phù hợp với từng loại hình, đặc biệt đối với lãi suất cho vay trung và dài hạn không nên cố định mà phải linh hoạt thay đổi theo từng thời kỳ nhằm tránh rủi ro cho cả ngân hàng lẫn khách hàng khi có sự biến động lãi suất trên thị trường. Về cơ chế chính sách khách hàng, Maketing, khuyến mại: Thực hiện tốt chính sách khách hàng đối với những khách hàng chiến lược, khách hàng tiềm năng. Công tác tiếp thị , khuyến mại, quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng phải được chú trọng, ngân hàng phải coi việc chăm sóc khách hàng là việc làm thường xuyên, dưới mọi hình thức, tuỳ từng khách hàng để có chính sách thích hợp, không chỉ coi việc khuyến mại bằng tiền hoặc những giá trị hiện vật quy ra tiền phải kết hợp hài hoà, đôi khi việc đáp ứng nhu cầu nhỏ của khách hàng lại có giá trị cao hơn nhiều lần việc tiếp thị khuyến mại dưới hình thức tài chính. Cần phải tiến hành nghiên cứu thị trường và đưa ra những chính sách maketing phù hợp. Về công tác đào tạo nguồn nhân lực trong ngân hàng: Thực tế cho thấy: Chất lượng các bộ quết định đến hiệu quả công tác thu hút khách hàng mới, quyết định quy mô và hiệu quả kinh doanh của chi nhánh. Tăng cường đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tín dụng một cách toàn diện, để có đủ năng lực, kiến thức, đảm đương công việc trong tiến trình hiện đại hoá ngân hàng như kiến thức về kinh tế_xã hội, kiến thức về thị trường, trình độ ngoại ngữ, vi tính…nâng cao khả năng phân tích tín dụng. Chi nhánh cần thường xuyên mời các chuyên viên nghiệp vụ về tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ chi nhánh, hoặc tổ chức các khóa cho cán bộ ngân hàng đi học nâng cao trình độ nghiệp vụ…. Nhóm giải pháp khác: Thứ nhất, Về mục tiêu chiến lược nhất quán đối với loại hình kinh tế tư nhân:  Ngân Hàng phải xây dựng và tổ chức thực hiện mục tiêu đầu tư vốn cho kinh tế tư nhân trên các phương diện: Nguồn vốn huy động, tỷ lệ đầu tư cho kinh tế tư nhân trên tổng dự nợ toàn hệ thống và trên từng địa bàn, từng khu vực. Lộ trình phát triển sản phẩm trọn gói phù hợp với loại hình kinh tế tư nhân theo các địa bàn thành phố, khu công nghiệp và vùng nông thôn. Tổ chức quản trị rủi ro thông qua hoàn thiện các qui trình nghiệp vụ, xây dựng các hạn mức quản lý, các biện pháp phân tán rủi ro, bảo đảm tài sản, sự tuân thủ và nhất quán trong thực hiện, các chế tài về hành chính, tài chính. Thứ hai, Xây dựng mô hình tổ chức chuyên nghiệp, chuyên môn sâu phục vụ loại hình kinh tế tư nhân Ngân Hàng cần tổ chức mô hình hoạt động theo hướng chuyên môn hoá với việc hình thành hệ thống từ Ban chuyên môn tại Trụ sở chính đến các phòng khách hàng tại các chi nhánh. Theo đó Ban chuyên môn tại Trụ sở chính thực hiện chức năng đầu mối nghiên cứu các chính sách, tổ chức thực hiện các qui trình nghiệp vụ, kế hoạch mục tiêu về vốn, sản phẩm cho loại hình kinh tế tư nhân, các phòng tại chi nhánh là các trạm tiếp thị, cung cấp sản phẩm trực tiếp đến khách hàng. Tập trung đào tạo sâu kiến thức về đăng ký kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, chính sách hỗ trợ phát triển, phát luật, đến các kĩ năng tiếp cận, tác nghiệp cho vay, cung cấp sản phẩm dịch vụ, xử lý rủi ro, nhằm tạo ra một đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp, có trình độ phục vụ tốt. Thứ ba, chuẩn hoá về cơ chế, chính sách, qui trình thủ tục cho vay, cung cấp dịch vụ cho loại hình khách hàng kinh tế tư nhân. Chính sách khách hàng dựa trên các mục tiêu chiến lược phải nhất quán, rõ ràng, các qui trình, thủ tục được thiết kế riêng biệt, phù hợp với từng nhóm khách hàng. Bảo đảm sự thống nhất, đơn giản, chặt chẽ, tiến tới chuẩn theo hệ thống quản lý chất lượng ISO. Mở rộng, tăng cường phân quyền có điều kiện, thay thế phân quyền hiện tại (chỉ quan tâm tới hạn mức phán quyết theo chi nhánh, không quan tâm tới hạn mức đối với một khách hàng vay tại nhiều chi nhánh, nhóm ngành hàng quan hệ...), tiến tới phân quyền cho Trưởng ban tại Trụ sở chính. Việc phân cấp phải đi kèm với kiểm soát trực tiếp của Trụ sở chính thông qua hệ thống IPCAS. Thứ tư, xây dựng gói sản phẩm phù hợp Đặc thù hoạt động của loại hình kinh tế tư nhân là tính đa dạng về ngành nghề kinh doanh và sự chênh lệch lớn về trình độ quản lý. Vấn đề đặt ra là để có thể tiếp cận và phục vụ ngày càng nhiều, tốt hơn đối với nhóm khách hàng này phải xây dựng được một gói sản phẩm đa dạng, phù hợp: Cho vay, thấu chi, bao thanh toán, cho thuê tài chính, góp vốn, đầu tư, bảo lãnh; các sản phẩm dịch vụ thanh toán, ngân quĩ, tư vấn, bảo hiểm cũng sẽ được chia nhỏ với những chính sách phí dịch vụ phù hợp. Thứ năm, xây dựng hệ thống chấm điểm và xếp hạng tín dụng phù hợp với từng phân khúc thị trường gắn với ứng dụng tin học, bảo đảm tính công khai minh bạch, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển. Phân chia hệ thống chấm điểm: Khách hàng thuộc loại hình kinh tế nhà nước, khách hàng thuộc loại hình kinh tế tư nhân. Trong đó khác với tính chuẩn hoá đối với kinh tế nhà nước , hệ thống chấm điểm khách hàng là kinh tế tư nhân cần linh hoạt, đơn giản hơn. Thứ sáu, hoàn thiện hệ thống hỗ trợ quản lý: Hệ thống thông tin nội bộ giúp cho việc quản lý khách hàng quan hệ: Thông qua hệ thống hiện đại hoá IPCAS giai đoạn 2, khách hàng sẽ phải quản lý tập trung tại Trụ sở chính từ khâu cấp mã, quản lý thông tin, thực hiện phê duyệt các quyết định và giám sát, cung cấp cho các chi nhánh trong hệ thống. Xây dựng trên trang Web của Ngân Hàng Công Thương Thanh Hóa, mục thông tin riêng về kinh tế tư nhân với đầy đủ các thông tin về chính sách tín dụng, các thủ tục cho vay, các sản phẩm dịch vụ, sản phẩm mới, sản phẩm khuyến  mãi... nhằm rút ngắn quá trình tiếp cận giữa kinh tế tư nhân và Ngân Hàng Công Thương Thanh Hóa. Thứ bảy, tăng cường các mối quan hệ Xây dựng mối liên hệ qua lại thường xuyên, xâm nhập lẫn nhau giữa Ngân Hàng Công Thương với kinh tế tư nhân. Mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức Quốc tế, tranh thủ khai thác các nguồn tài trợ cho loại hình kinh tế tư nhân, tạo ra sự đa dạng các nguồn vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn ngoại tệ đầu tư cho các dự án sản xuất hàng xuất khẩu. Mở rộng hợp tác, học tập kinh nghiệm về mô hình quản lý tín dụng, đầu tư cho loại hình kinh tế tư nhân tại các tổ chức tín dụng trong khu vực và trên thế giới tạo ra các cơ hội nhận tài trợ về đào tạo, học hỏi kinh nghiệm, góp phần nâng cao các kĩ năng đầu tư cho loại hình kinh tế tư nhân. Thứ tám, giải pháp về nguồn vốn và việc sử dụng nguồn vốn: Ngân Hàng cần thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động vốn, gia tăng việc huy động vốn dài hạn với mức độ hợp lý để tránh rủi ro thanh khoản và tác động làm tăng lãi suất thị trường; khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn dài hạn của tổ chức tài chính quốc tế tài trợ cho các Dự án tín dụng đối với nông thôn, Dự án tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa: tích cực xử lý nợ tồn đọng để tăng khả năng vốn khả dụng. Phát triển đa dạng các sản phẩm huy động vốn, kết hợp mở rộng màng lưới với nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo ra nguồn vốn chi phí thấp, thời gian dài để đầu tư trung dài hạn. Cân đối tỷ lệ vốn cố định hàng năm dành cho đầu tư khách hàng kinh tế tư nhân, trên cơ sở chiến lược và mục tiêu chung hàng năm. Đẻ đảm bảo tính an toàn của khoản vay Ngân Hàng phải chấn chỉnh việc định kỳ hạn trả nợ gốc, lãi vốn vay đối với khách hàng, nhất là hộ sản xuất ở khu vực nông thôn cho phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh của cây trồng, vật nuôi và khả năng trả nợ của hộ sản xuất, áp dụng phổ biến phương thức tín dụng đồng tài trợ đối với cả doanh nghiệp nhỏ và vừa, chủ trang trại. Cần rà soát, đơn giản hoá thủ tục cho vay và rút ngắn thời gian giải quyết cho vay. Tổ chức theo dõi và thực hiện việc đánh giá chất lượng tín dụng và các khoản nợ xấu; đề cao vai trò trách nhiệm và tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cán bộ tín dụng. Thứ chín, về chính sách ưu đãi đối với kinh tế tư nhân Xây dựng một số chính sách ưu đãi cần thiết đối với kinh tế tư nhân: Chính sách ưu đãi lãi suất, ưu đãi về phí dịch vụ, quyền mua bán ngoại tệ, điều kiện vay vốn, thế chấp... theo hướng các khách  hàng xếp loại A, quan hệ vay vốn thường xuyên, trả nợ tốt sẽ áp dụng lãi suất cho vay ưu đãi; khách hàng kinh doanh hàng xuất khẩu sẽ được ưu tiên vay ngoại tệ, khách hàng mở quan hệ lần đầu sẽ được miễn giảm phí dịch vụ… Thứ mười là: Hiện đại hoá ngân hàng và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt: Ngân hàng cần tăng mức vốn đầu tư để trang bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, các dự án đầu tư công nghệ cần tính toán kỹ lưỡng để sử dụng công suất phù hợp với chiến lược mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Hiện nay tại chi nhánh số lượng khách hàng ở các phòng giao dịch tương đối đông, quy mô kinh doanh ba năm trở lại đây ở các phòng giao dịch tăng rất nhanh, để có thể cạnh tranh với các ngân hàng khác chi nhánh cần phải cải tạo cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị hiện đại hơn. Thực hiện Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến 2020 NHCT TH cần phải thực hiện tốt công tác thanh toán lương qua tài khoản cho các doanh nghiệp trên địa bàn cũng như các công nhân viên chức trong ngân hàng. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT: Đối với ngân hàng Công Thương Việt Nam Thứ nhất: Quy trình thủ tục các sản phẩm tín dụng áp dụng chung cho mọi đối tượng khách hàng, không phân biệt quy mô khách hàng, không phân biệt quy mô khoản vay nên có những điểm chưa phù hợp với loại hình kinh tế tư nhân. Do đó ngân hàng công thương VN nên điều chỉnh thay đổi những điểm không phù hợp với loại hình này. Thứ hai: Quy định về bảo đảm tiền vay của NHCT còn một số điểm bất cập như còn phân biệt đối xử giữa DNNN và DN ngoài quốc doanh về mức cho vay không có TSBĐ tối đa, STTD quy định bắt buộc Chi nhánh thuê tư vấn định giá trong trường hợp giá quyền sử dụng đất cao hơn khung giá quy định của nhà nước (trong khi các Ngân hàng khác không thực hiện quy định này). Nên NHCT nên sửa đổi cho phù hợp hơn. Thứ ba: Một số khoản phí của NHCT cao hơn của các ngân hàng khác (như phí chuyển tiền), một số khoản phí NHCT áp dụng nhưng các ngân hàng khác chưa áp dụng (như phí cung cấp bản sao chứng từ, phí thay đổi giá trị bảo đảm nhưng không thay đổi TSBĐ,...) phần nào ảnh hưởng đến khả năng thu hút khách hàng. NHCT nên chấn chỉnh cho phù hợp với đặc tính của loại hình này hơn. Đối với chi nhánh Ngân Hàng Công Thương tỉnh Thanh Hóa: - Ngân Hàng cần thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt: Một trong những điều quan tâm của khách hàng khi đến vay vốn ngân hàng là lãi suất, bởi lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mang lại cho họ. Do vậy, mức lãi suất phải hợp lý, hình thành trên cơ sở thoả thuận với khách hàng, hài hoà lợi ích ngân hàng và khách hàng. Đối với Kinh Tế Tư Nhân ( KTTN) nên thực hiện lãi suất dựa vào độ tín nhiệm của họ, xu thế sản xuất kinh doanh trên thị trường... - Nên góp vốn đầu tư, liên doanh, liên kết với kinh tế tư nhân: Để mở rộng tín dụng, ngân hàng không nhất thiết chỉ cho loại hình KTTN vay vốn mà có thể lựa chọn xem chủ thể nào làm ăn hiệu quả, có triển vọng thì ngân hàng có thể thoả thuận ký hợp đồng liên doanh, liên kết với những chủ thể đó để cùng sản xuất, kinh doanh. Như vậy, ngân hàng không những mở rộng được tín dụng mà còn có điều kiện xâm nhập thị trường từ đó tìm ra được những mặt mạnh, yếu của khách hàng, đồng thời vừa trực tiếp giám sát, quản lý vốn cho vay vừa tạo ra thu nhập cao do trực tiếp là người đầu tư vốn. Về phía KTTN, do có sự tư vấn, cộng tác của phía ngân hàng, doanh nghiệp sẽ làm ăn có hiệu quả hơn, hạn chế được rủi ro cho khách hàng và ngân hàng. Cách thức này là rất hiệu quả và cũng trong khả năng đầu tư, quản lý của ngân hàng vì loại hình KTTN thường có quy mô về vốn và phạm vi hoạt động không lớn. - Về chiết khấu các chứng từ có giá: Hình thức này có thể áp dụng với các DNVVN vì đây có thể là các doanh nghiệp nắm giữ nhiều các loại giấy tờ có giá như thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu chưa đến hạn thanh toán. Họ có thể đem những chứng từ có giá này đến ngân hàng xin chiết khấu để có thêm vốn sản xuất, kinh doanh. -  Về cho vay có đảm bảo bằng các khoản sẽ thu của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp tư nhân bán hàng nhưng do người mua chưa kịp thanh toán, dẫn đến làm cho doanh nghiệp bị thiếu vốn lưu động. Trong trường hợp này, ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời bằng cách cho vay theo tỷ lệ nào đó trên khoản sẽ thu. Tỷ lệ này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng các khoản nợ mà được ngân hàng thẩm định một cách chặt chẽ. - Về cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Ngân hàng cho vay chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động. Nghiệp vụ này còn mới và chưa được thực hiện rộng rãi. Trong tương lai cùng với việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, cần tăng cường hình thức cho vay nhằm mở rộng đầu tư tín dụng và nâng cao năng lực sử dụng công nghệ của NHTM đối với khách hàng. - Linh hoạt hình thức cho vay có đảm bảo Năng lực của loại hình KTTN thường lớn hơn so với tài sản thực có của họ. Do đó, muốn mở rộng tín dụng đồng thời tạo hướng cho loại hình, ngân hàng cần mạnh dạn áp dụng hình thức cho vay đảm bảo bằng hàng hoá, dịch vụ. Ngân hàng có thể giải quyết cho vay căn cứ vào tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh trang của sản phẩm đó trên thị trường. Tài sản bảo đảm tiền vay chỉ là phương tiện cuối cùng, là nguồn trả nợ khi rủi ro xảy ra, do vậy ngân hàng cần linh hoạt áp dụng hình thức thế chấp, tín chấp, bão lãnh… sao cho phù hợp. - Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng khi cho vay KTTN Chất lượng và hiệu quả tín dụng phụ thuộc phần lớn vào trình độ cán bộ tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, trình độ cán bộ tín dụng phải được chuẩn hoá, không ngừng nâng cao. Ngân hàng phải có nhiều chương trình đào tạo dưới nhiều hình thức: bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, tổ chức tập huấn, thi tình huống, đặc biệt là trình độ thẩm định dự án, phương án vay vốn, lựa chọn khách hàng, vận dụng các chế độ thể lệ tín dụng đã ban hành. Đội ngũ cán bộ thẩm định phải gồm những người am hiểu chuyên ngành, có kinh nghiệm tư vấn dự án, phương án sản xuất kinh doanh cho khách hàng. Mặt khác, ngân hàng phải có các chương trình phối, kết hợp chặt chẽ với các bên liên quan (ngoài ngân hàng) để thẩm định chính xác các dự án trước khi cho vay. - Thực hiện chính sách khách hàng đặc biệt đối với KTTN Đổi mới là phải tạo mọi điều kiện để phục vụ khách hàng nhanh hơn, chất lượng hơn, giúp khách hàng cạnh tranh lành mạnh, qua đó thu hút nhiều khách hàng có uy tín đến giao dịch, mở rộng thị phần tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng phải thường xuyên phân loại khách hàng – doanh nghiệp theo tiêu chí nhất định để có chính sách ưu đãi nhất định đối với các DN tư nhân vừa và nhỏ. Những doanh nghiệp có uy tín, có quan hệ tín dụng thường xuyên, trả nợ gốc và lãi đúng hạn thì phải được hưởng ưu đãi như giảm lãi suất tiền vay, tăng lãi suất tiền gửi, giảm phí dịch vụ... - Hoàn thiện hệ thống thông tin: Do số lượng khách hàng KTTN lớn, việc hoàn thiện hệ thống thông tin (bao gồm cả thông tin quản lý và thông tin phục vụ khách hàng) có ý nghĩa quan trọng và là một nhiệm vụ cấp thiết. Muốn có được các thông tin đáng tin cậy thì phải chấn chỉnh ngay từ khâu nhập dữ liệu từ Chi nhánh. Các trường số liệu về thông tin khách hàng cần đặc biệt lưu ý là đăng ký kinh doanh, loại hình doanh nghiệp. Đối với các Chi nhánh đã triển khai INCAS khi nhập dữ liệu các chương trình tín dụng cần lưu ý thêm các trường về mã facility, nguồn vốn và sử dụng vốn, mã tên sản phẩm. Hội sở chính cần sớm đưa ra qui chế phối hợp cung cấp thông tin và xác định rõ thẩm quyền cũng như trách nhiệm trong việc cung cấp, quản lý thông tin. Trên cơ sở đó, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng, làm căn cứ đưa ra các quyết định kinh doanh hiệu quả nhất đối với mỗi khách hàng. Đối với kinh tế tư nhân: Việc mở rộng cho vay của Ngân Hàng đối với kinh tế tư nhân có hiệu quả hay không phụ thuộc chủ yếu vào bản thân khu vực này. bởi lẽ kinh tế tư nhân có làm ăn nghiêm chỉnh và hiệu quả thì Ngân hàng mới có đủ niềm tin để cho vay. Với đặc thù linh hoạt, dễ thích ứng các doanh nghiệp tư nhân cần phải phát huy hơn nữa năng lực sản xuất kinh doanh của mình nâng cao hiệu quả hoạt động, đồng thời phải xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn với tầm nhìn xa hơn chứ không kinh doanh bó hẹp như hiện nay. Cần lập kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp đủ sức tiếp cận những tiến bộ mới về khoa học quản lý, về công nghệ mới, biết sự báo và tiếp cận với thị trường để chủ động hội nhập vào tiến trình toàn cầu hóa và khu vực hóa. Cần học tập cung cách quản lý chuyên nghiệp, đồng thời các doanh nghiệp tư nhân cần phải liên kết với nhau thành các hiệp hội tương trợ giúp đỡ nhau về mặt quản lý, công nghệ… để cùng phát triển. Nghiêm chỉnh chấp hành chế độ kế toán hiện hành của nhà nước, phải trung thực trong quan hệ với Ngân Hàng, có như thế mới tạo được lòng tin của Ngân Hàng đối với các doanh nghiệp tư nhân. KẾT LUẬN Trong thời buổi hội nhập kinh tế như hiện nay, các ngân hàng đang ngày càng nỗ lực mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước. Với sự phát triển của kinh tế tư nhân như hiện nay thi các ngân hàng ngày càng có cơ hội mở rộng hoạt động nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ tạo đà cho nền kinh tế phát triển. Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Thanh Hóa đã thực hiện theo chủ trương của đảng và nhà nước mở rộng cho vay đối với kinh tế tư nhân. Tuy nhiên việc mở rộng cho vay vẫn còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động đến. Để thực hiện tốt mở rộng cho vay đối với kinh tế tư nhân đòi hỏi ngân hàng cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, khắc phục những khó khăn, phát huy hơn nữa những ưu điểm sẵn có nhằm mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ tạo thế và lực cạnh tranh với các ngân hàng khác trong và ngoài tỉnh. Do trình độ và thời gian có hạn nên bài làm còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được những góp ý của thầy cô và bạn đọc để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1- Giáo trình ngân hàng thương mại _trường Đại Học KTQD 2- Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính_ MISHKIN 3- Sổ tay tín dụng Ngân Hàng Công Thương Việt Nam 4- Niên giám thống kê tỉnh Thanh Hoá 2005_2006 5- Báo cáo tổng hợp tình hình kinh doanh 2005, 2006, 2007 NHCT_TH 6- Tạp chí Ngân Hàng Công Thương Việt Nam số:1 Tháng 1 năm 2007 7- Tạp chí Ngân Hàng Công Thương Việt Nam số: 2 8- Tạp chí Ngân Hàng Công Thương Việt Nam số: 3 9- Tạp chí Ngân Hàng Công Thương Việt Nam số: 4 10-Tạp chí Ngân Hàng Công Thương Việt Nam số: 5 11-Tạp chí Ngân Hàng Công Thương Việt Nam số: 6 12-Tạp chí Ngân Hàng Công Thương Việt Nam số: 7 13-Tạp chí Ngân Hàng Công Thương Việt Nam số: 8 14-Tạp chí Ngân Hàng Công Thương Việt Nam số: 9 15-Tạp chí Ngân Hàng Công Thương Việt Nam số: 10 16-Tạp chí Ngân Hàng Công Thương Việt Nam số: 11 17-Tạp chí Ngân Hàng Công Thương Việt Nam số: 12 18-Tạp chí Ngân Hàng Công Thương Việt Nam số: 13 19-Hệ thống các văn bản luật Ngân Hàng 20-Luật doanh nghiệp 2006 21-Luật dân sự 22-Các website Ngân Hàng 23-Quản trị Ngân Hàng Thưong Mại_ PeterS. Rose 24-Ngân Hàng thương mại _ MISH KIN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11159.doc
Tài liệu liên quan