Mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở Giao dịch nhằm giúp các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát huy được vai trò của mình trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Qua việc tìm hiểu thực trạng tín dụng đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở Giao Dịch, nắm được những khó khăn vướng mắc trong hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, em mạnh dạn đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
64 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1519 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tích, thẩm định dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh
Mục tiêu của công việc này là đư ra kết luận về tính khả thi hiệu quả về mặt tài chính của phương án, khả năng trả nợ, rủi ro có thể xảy ra…
- Các biện pháp bảo đảm tiền vay
BIDV không coi đây là điều kiện duy nhất để quyết định cho vay, không phải phương tiện duy nhất để đảm bảo an toàn vốn. Cán bộ tín dụng sẽ xem xét một số nội dung sau: kiểm tra tình hình thực tế của tài sản đảm bảo; phân tích, thẩm định tài sản đảm bảo…
- Chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng.
Cán bộ tín dụng chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của BIDV. Mức xếp hạng của BIDV gồm 10 mức AAA, AA, A, BBB, BB, B, CCC, CC, C, D. Mức xếp hạng trên giảm dần từ khách hàng có mức xếp hạng cao nhất đến mưc xếp hạng cuối cùng dành cho những khách hàng mất khả năng trả nợ. Trên cơ sở xếp hạng tín dụng khách hàng BIDV sẽ đưa ra các chính sách phù hợp với các nhóm khách hàng như chính sách về lãi suất, tài sản đảm bảo, kỳ hạn thu nợ, tiếp thị khách hàng…
- Lập báo cáo thẩm định cho vay
Sau khi thảo luận với cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng sẽ trình tờ trình kèm sồ sơ vay vốn cho trưởng phòng tín dụng. Việc phân cấp ủy quyền phê duyệt tín dụng của BIDV được quy định rõ trong sổ tay tín dụng
- Phê duyệt khoản vay
- Ký kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, giao nhận giấy tờ, tài sản đảm bảo.
* Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng
Sau khi khoản vay được phê duyệt, người có thẩm quyền của ngân hàng và khách hàng sẽ ký hợp đồng tín dụng và các loại hợp đồng, giấy tờ liên quan. Trong hợp đồng tín dụng có xác định rõ các nội dung như: tên khách hàng, mục đích sử dụng vốn, số lượng tín dụng, lãi suất, phí, thời hạn…Đây là một cam kết xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên phù hợp quy định của pháp luật
* Bước 3: Giải ngân và kiểm soát tín dụng sau giải ngân
Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, ngân hàng tiến hành cấp tiền cho người vay. Người thực hiện giải ngân, chịu trách nhiệm xác nhận mỗi lần giải ngân là cán bộ tín dụng giải ngân thực hiện. Sau khi giải ngân, cán bộ tín dụng thực hiện việc hướng dẫn, đôn đốc người vay thực hiện đúng mục đích, có hiệu quả số tiền vay, thực hiện đầy đủ và đúng hạn các cam kết.
* Bước 4: Thu nợ hặc đưa ra phán quyết tín dụng mới
Cán bộ tín dụng theo dõi việc thu nợ theo từng hợp đồng tín dụng đã ký cho từng dự án bao gồm các nội dung: theo dõi trả nợ gốc, theo dõi trả nợ lãi, theo dõi trả phí đối với khoản vay có phí. Trường hợp phát sinh vấn đề như khách hàng không trả được nợ đúng kỳ hạn thỏa thuận và có văn bản đề nghị thì cán bộ tín dụng xem xét, đề xuất điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ; khi phát sinh nợ xấu thì toàn bộ khoản vay được chuyển nợ quá hạn và bàn giao sang bộ phận xử lý nợ xấu và chịu sự kiểm soát của ban quản lý tín dụng của BIDV.
2.2.3 Tình hình cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Để thấy được thực trạng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại SGD một cách toàn diện cần xem xét tình hình tín dung đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh theo những mặt sau:
2.2.3.1 Doanh số cho vay
Để đánh giá thực trạng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trước hết ta cần phải xem xét đến doanh số cho vay của cả SGD với doanh số cho vay của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Bảng 1: Doanh số cho vay qua các năm của SGD
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
Số tiền
%05/04
Số tiền
%06/05
Doanh số cho vay
-DNNN
-DNNQD
4774
4276
498
5674
4923
751
19
15
51
5918
4713
1205
4.3
-4
60
Theo số liệu này, nếu năm 2005 tăng 19% so với năm 2004, thì năm 2006 chỉ tăng 4.3% so với năm 2005, tuy vậy doanh số cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh năm 2006 đã tăng 60% so với năm 2005.
Năm 2004 doanh số cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ là 498 tỷ đồng, chiếm 10% tổng doanh số cho vay. Đến năm 2005 doanh số cho vay là 751 tỷ đồng, tăng 253 tỷ đồng, tương ứng với tăng 51% so với năm 2004. Có thể thấy tổng doanh số cho vay năm 2005 tăng toàn diện: doanh số cho vay đối với DNNN tăng 15%, còn doanh số cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng mạnh 51%. Nguyên nhân chính này là khách hàng chủ yếu của SGD không chỉ là các Tổng công ty, mà bên cạnh đó do các chính sách của SGD đã kích thích các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn. Nhưng đến năm 2006 thì doanh số cho vay đối với DNNN giảm 4%, không đáng kể, nhưng doanh số cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng mạnh 60%. Cụ thể: Doanh số cho vay đối với DNNN đạt 4713 tỷ đồng, chiếm 80%, giảm 245 tỷ đồng tương ứng 4%; Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt 1205 tỷ đồng, chiếm 20%, tăng 454 tỷ đồng, tăng 60% so với năm 2005. Điều này cho thấy, năm 2006 SGD đã có những thay đổi hợp lý, ngay cả từ năm 2005, doanh số cho vay đối với khu vực ngoài quốc doanh đều tăng mạnh. Điều này rất phù hợp với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như chủ trương của NHĐT&PTVN.
Để xem xét doanh số cho vay của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ta nghiên cứu bảng sau:
Bảng 2: Doanh số cho vay DNNQD theo kỳ hạn
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng số
-Ngắn hạn
-Trung và dài hạn
498
371
127
75.4
24.6
751
587
164
78.1
21.9
1205
953
252
79.1
20.9
Doanh số cho vay ngắn hạn đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng lơn hơn nhiều so với doanh số cho vay trung và dài hạn. Năm 2004 doanh số cho vay ngắn hạn là 371 tỷ đồng, chiếm 75.4% doanh số cho vay. Năm 2006 mặc dù so với năm 2005 tỷ trọng doanh số cho vay ngắn hạn chỉ tăng từ 78.1% lên 79.1% nhưng doanh số cho vay tuyệt đối tăng mạnh từ 587 tỷ đồng lên 953 tỷ đồng. Trong khi đó doanh số cho vay trung và dài hạn chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ từ 20% đến 25%. Cụ thể năm 2004 là 24.6% nhưng đến năm 2005 giảm xuống còn 21.9% và năm 2006 còn 20.9%. Tổng doanh số cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng nhanh trong khi doanh số cho vay trung và dài hạn không tăng kịp thời tương ứng nen tỷ trọng doanh số cho vay trung và dài hạn giảm một cách tương ứng. Mặc dù tỷ trọng giảm nhưng doanh số cho vay trung và dài hạn cho các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn tăng qua các năm, năm 2004 là 127 tỷ, năm 2005 là 164 tỷ, năm 2006 là 252 tỷ đồng.
Để giải thích rõ thêm cơ cấu doanh số cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi tỷ trọng doanh số cho vay ngắn hạn luôn lớn hơn so với doanh số cho vay trung dài hạn, có thể xem xét mục đích vay vốn của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh với đặc điểm là nguồn vốn nhỏ và hoạt động kinh doanh mang tính không ổn định do vậy thường có nhu cầu về vốn lưu động. Mục đích vay vốn của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động trong thời gian ngắn nên ỷ trọng doanh số cho vay ngắn hạn đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường lớn.
Tuy nhiên, ,hiện nay các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng có nhu cầu vốn trung và dài hạn rất lớn vì phần lớn các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô nhỏ, dây chuyền sản xuất lạc hậu nên để cạnh tranh phải đổi mới tran thiết bị máy móc. Vì vậy nhu cầu vốn trung và dài hạn cũng tăng cao, nhưng việc cho vay trung và dài hạn trong các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh gặp nhiều khó khăn vì thời gian vay vốn càng dài thì thời gian càng cao. Do đó Ngân hàng bắt buộc đòi hỏi từ phía người vay yêu cầu tài sản đảm bảo đối với khoản vay nhằm đảm bảo tính an toàn, trong khi các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh khó có thể đáp ứng được yêu cầu về tài sản thế chấp như yêu cầu về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên Ngân hàng có tâm lý dè dặt cho Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn trung và dài hạn. Chính vì thế nên trong cơ cấu doanh số cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì tỷ trọng doanh số cho vay ngắn hạn vẫn cao hơn nhiều so với doanh số cho vay trung và dài hạn.
2.2.3.2 Tình hình dư nợ
Trong những năm gần đây, tình hình dư nợ cũng có nhiều biến động giống doanh số cho vay. Cụ thể tình hình dư nợ giai đoạn 2004-2006 thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Tình hình dư nợ theo thành phần kinh tế của SGD
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
Số tiền
%05/04
Số tiền
%06.05
Tổng dư nợ
-DNNN
-DNNQD
6183
5577
606
5260
4458
802
0.85
0.80
1.32
5057
4276
781
0.96
0.96
0.97
Tổng dư nợ qua các năm đều giảm nhưng đặc biệt là năm 2005 tổng dư nợ đạt 5260 tỷ đồn, giảm 923 tỷ đồng và chỉ bằng 0.85 lần so với năm 2004. Dư nợ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại đạt 802 tỷ đồng, tăng 196 tỷ đồng và tăng 32% so với năm 2004. Điều này chứng tỏ tổng dư nợ giảm là do dư nợ DNNN giảm. Đến năm 2006 theo bảng số liệu ta thấy tổng dư nợ và dư nợ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều giảm. Tỷ lệ dư nợ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh / tổng dư nợ đạt 15,44% tuy có tăng 0,19% so với năm 2005 thì vẫn không đạt kế hoạch. Nhưng thực tế đến ngày 30-11-2006 tỷ lệ này là 18% do trong tháng 12 SGD đã thực hiện giải ngân cho ngành Điện đã làm cho tỷ lệ này của năm 2006 giảm xuống chỉ còn 15,44 %.
Có được sự tăng lên về dư nợ đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là do sự nỗ lực và cố gắng của cả Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cả SGD trong mục tiêu mở rộng sự cho vay đối với đối tượng này. Các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển hơn về quy mô sản xuất và chất lượng hoạt động nên có thể được vay vốn nhiều hơn. Mặt khác các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng tăng trưởng nhanh, hoạt động có hiệu quả hơn nên số lượng Doanh nghiệp ngoài quốc doanh được cho vay ngày càng nhiều và quy mô dư nợ của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng tăng lên.
Tuy nhiên, tỷ trọng dư nợ cũng như dư nợ của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tăng lên nhưng vẫn còn nhỏ bé so với tổng dư nợ của SGD.
Việc tăng tỷ trọng dư nợ của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chứng tỏ sự chuyển hướng trong đối tượng khách hàng của SGD. Tuy nhiên tỷ lệ dư nợ của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh / tổng dư nợ qua các năm đều tăng nhưng vẫn còn thấp hơn so với tỷ lệ chung của toàn ngành. Để có thể thấy rõ hơn về cơ cấu dư nợ, ta xem xét bảng sau:
Bảng 4: Tình hình dư nợ của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Dư nợ
- Ngắn hạn
-Trung và dài hạn
606
465.4
140.6
802
599.1
220.9
781
556.8
224.2
Đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì dư nợ ngắn hạn vẫn chiếm chủ yếu, năm 2004 dư nợ ngắn hạn đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 465.4 tỷ đồng chiếm 76.8% tổng dư nợ đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đến năm 2005 dư nợ ngắn hạn là 599.1 tỷ đồng chiếm 74.7% tổng dư nợ. Mặc dù tăng nhanh về giá trị tuyệt đối, nhưng do tổng dư nợ của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng tăng theo nên tỷ trọng dư nợ ngắn hạn của các doanh nghiệp này thay đổi cũng không nhiều. Đến năm 2006 dư nợ ngắn hạn đạt 556.8 tỷ đồng, chiếm 71.3% tổng dư nợ. Dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn do các doanh nghiệp này thường xuyên vay vốn để bù đắp vốn lưu động, vì thế nhu cầu vốn ngắn hạn thường cao. Việc liên tục tăng qua các năm là dấu hiêu tốt cho hoạt động tín dụng đối với loại doanh nghiệp này.
Thực trạng của dư nợ trung và dài hạn cũng tương tự. Cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ. Nhưng trong những năm gần đây cho vay trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng tăng lên, điều này thể hiện sự chuyển dịch trong cơ cấu cho vay đối với các doanh nghiệp này.
2.2.3.3 Tình hình thu nợ và nợ quá hạn đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Bảng 5: Tình hình thu nợ qua các năm 2004-2006
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Doanh số thu nợ
- DNNN
- DNNQD
5460
5293
167
100
96.94
3.06
5194
5044
150
100
97.11
2.89
5298
5139
159
100
96.99
3.01
Doanh số thu nợ đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm một tỷ trọng thấp trong tổng doanh số thu nợ. Năm 2004 doanh số thu nợ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 167 tỷ đồng, chiếm 3.06% tổng doanh số thu nợ. Năm 2005 doanh số thu nợ đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm xuống chỉ còn 150 tỷ đồng chiếm 20.89% tổng doanh số thu nợ. Vì vậy SGD cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác thu nợ đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đến năm 2006 mặc dù doanh số thu nợ tăng lên đạt 159 tỷ đồng chiếm 3.01% nhưng vẫn không đáng kể. Doanh số thu nợ tăng lên là do SGD đã chú trọng và tăng cường hơn nữa hoạt động thu nợ, nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng cho toàn SGD. Tuy nhiên để đánh giá hoạt động tín dụng của SGD đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ta không chỉ xem xét các chỉ tiêu về dư nợ, doanh số cho vay, doanh số thu nợ mà còn phải xem xét tới cả tình trạng nợ quá hạn của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều mà Ngân hàng quan tâm khi cấp tín dụng cho Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chính là khả năng thu hồi vốn và lãi đầy đủ, đúng hạn.
Bảng 6: Tình hình nợ quá hạn của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh qua các năm của SGD
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
ST
%
%/DN
ST
%
%/DN
ST
%
%/DN
Tổng nợ quá hạn
- DNNN
-DNNQD
115.4
113.7
1.7
100
98.53
1.47
1.86
2.04
0.28
99.8
98.3
1.5
100
98.5
1.5
1.89
2.20
0.18
78.5
77.3
1.2
100
98.47
1.53
1.55
1.81
0.15
Nợ quá hạn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trên tổng dư nợ, năm 2004 là 1.86%, năm 2005 là 1.89%, năm 2006 là 1.55%. Năm 2004 nợ quá hạn của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ có 1,7 tỷ đồng chiếm 1.47% tổng nợ quá hạn và 0.28% dư nợ cảu Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đến nắm 2005 nợ quá hạn Doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm xuống còn 1.5 tỷ đồng chiếm 1.5% tổng nợ quá hạn và tỷ trọng của nợ quá hạn trong đư nợ của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm xuống từ 0.28% còn 0.18%. Tiếp tục như vậy đến năm 2006, tỷ trọng nợ quá hạn của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong dư nợ của nó là 0.15%, nợ quá hạn của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm từ 1.5 tỷ đồng xuống còn 1.2 tỷ đồng năm 2006. Mặc dù nợ quá hạn của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh không ngừng giảm qua các năm nhưng tỷ trọng cảu nó trong tổng nợ quá hạn của toàn SGD lại tăng lên từ 1.47% đến 1.5% và 1.53% năm 2006. Có điều này là do tốc độ giảm nợ quá hạn của SGD giảm nhanh hơn so với tốc độ giảm nợ quá hạn Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Ta thấy nợ quá hạn của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có những bước chuyển biến tích cực qua các năm. Tỷ lệ nợ quắ hạn thấp chứng tỏ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh được SGD cho vay vốn đều hoạt động có hiệu quả, ngoài ra tỷ lệ nợ quá hạn thấp còn chứng tỏ chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh của SGD tương đối tốt, SGD đã có bước đi đúng trong việc lựa chọn khách hàng và giúp đỡ kịp thời các khách hàng gặp khó khăn để có thể trả nợ tốt. Vì thế SGD đã vừa mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa đảm bảo an toàn trong công tác cho vay đối với các doanh nghiệp này.
2.4 Những kết quả đạt được và những hạn chế trong hoạt động cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
2.4.1 Những kết quả đạt được
Đến ngày 31-12-2006 tổng nguồn vốn huy động của SGD đạt được 11.295 tỷ đồng. Do có nguồn vốn ổn định và tăng trưởng khá nên SGD đã đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu của khách hàng có quan hệ tín dụng với SGD, trong đó có Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Cùng với thành tựu của toàn SGD hoạt động cho vay của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng có những kết quả đáng kể sau:
- Trong quan hệ tín dụng đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, SGD đã có sự quan tâm hơn và đáp ứng đầy đủ nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp này do có chủ trương hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp này. Cơ cấu cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở SGD đang có chiều hướng tăng. Ngày càng thu hút nhiều hộ sản xuất kinh doanh, hộ tiêu dùng đến vay vốn.
- Quy mô và tỷ lệ nợ quá hạn của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh so với tổng dư nợ tương ứng của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất thấp và có chuyển biến tích cực qua các năm. Điều nay cho thấy chất lượng tín dụng của SGD đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng được nâng cao, lành mạnh hóa, đảm bảo an toàn và hiệu quả cho ngân hàng. Có được kết quả trên là do SGD đã làm tốt các công tác tín dụng trước khi cho vay và công tác kiểm tra khi cho vay. Đây là điều đặc biệt quan trọng, nhất là trong cho vay đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Mặc khác công tác dư nợ được thực hiện khá tốt vì thế không phát sinh nợ quá hạn mới.
- Lãi suất cho vay ngày càng phong phú và phù hợp đối với từng loại doanh nghiệp. Mức lãi suất cũng được điều chỉnh phù hợp với tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp đó. Mặt khác SGD tạo được sự cân bằng tương đối giữa lãi suất cho vay DNNN và Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, từ đó góp phần thúc đẩy và khuyến khích các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Hình thức cho vay ngày càng được đa dạng hóa. Cơ cấu vốn vay ngày càng hợp lý hơn, không chỉ cho vay ngắn hạn mà còn cả cho vay trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu đổi mới trang thiết bị, xây dựng nhà cửa của các doanh nghiệp này.
- Số lượng các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh quan hệ với SGD ngày càng tăng lên qua các năm. Thông qua mở rộng hoạt động cho vay đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, SGD đã phần nào đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu về vốn cảu các doanh nghiệp này. Thực sự góp phần khuyến khích và thúc đẩy vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Bằng việc cấp tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, SGD đã góp phần khích lệ khối doanh nghiệp này phát triển, qua việc quan tâm, giúp đỡ tư vấn cho các dự án của các doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp triển khai dự án có hiệu quả, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm… Vì vậy, những Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn tại SGD trong năm 2006 đã phát triển mạnh mẽ và hoạt động hiệu quả hơn.
- Hoạt động tín dụng cho Doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần nâng cao lợi nhuận, uy tín cũng như ưu thế cạnh tranh của SGD nói riêng và NHĐT&PTVN nói chung.
Kết quả này chưa lớn nhưng điều mà SGD đạt được là mở rộng đối tượng khách hàng, đa dạng hóa các danh mục đầu tư, các hoạt động kinh doanh của SGD, thiết lập các mối quan hệ vững chắc tạo niềm tin nới khách hàng. Việc tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận vốn Ngân hàng cũng như việc thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản hợp đồng đã ký kết, giúp khách hàng có thể lựa chọn hình thức cung cấp vốn, thời hạn giải ngân… củng cố thêm uy tín của SGD nói riêng và của NHĐT&PTVN nói chung.
2.4.2 Những hạn chế trong quan hệ tín dụng với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tài SGD – Nguyên nhân của những hạn chế đó.
2.4.2.1 Hạn chế.
Mặc dù hoạt động cho vay đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh qua từng năm đã được cải thiện và đạt được những kết quả khả quan, nhưng bên cạnh đó hoạt động cho vay đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn tồn tại những hạn chế sau:
- Doanh số cho vay và dư nợ đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn rất thấp mặc dù có sự tăng trưởng qua các năm. Vì vậy chưa đáp ứng đủ nhu cầu tín dụng của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, là cho các doanh nghiệp này phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của mình. Cơ cấu cho vay vẫn chưa hợp lý.
- Khách hàng là Doanh nghiệp ngoài quốc doanh của SGD chưa nhiều, mặc dù có tăng lên trong những năm gần đây nhưng số lượng khách hàng là Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn ít vì phải đáp ứng rất nhiều yêu cầu khi vay vốn.
- Lãi suất cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn cao: thông thường lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp này cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp khác, đặc biệt là DNNN.
Những tồn tại trên đây đã hạn chế nhiều đến việc mở rộng hoạt động cho vay của SGD đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nó xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân. Tìm ra đâu là nguyên nhân chính sẽ giúp cho SGD có thể tháo gỡ vướng mắc, xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều này không chỉ đem lại lợi ích cho các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà còn đem lại lợi ích cho chính bản thân SGD.
2.4.2.2 Nguyên nhân
* Nguyên nhân từ phía khách hàng:
- Chính sách tín dụng của Nnh còn quá chú trọng đến DNQD mà chưa có sự quan tâm thích đáng với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, dù đã đề ra kế hoạch mở rộng cho vay nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc nên chỉ thực hiện với một số doanh nghiệp làm ăn thực sự có hiệu quả.
- Quy mô cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn thấp. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường được chỉ được Nnh quy định một giới hạn cho vay cũng như quy mô của khoản vay thấp để đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng.
- Lãi suất cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn cao, vẫn chưa thực sự mềm dẻo. Kết quả là dư nợ và doanh số cho vay của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn thấp.
- Kì hạn cho vay vẫn chưa phù hợp với nhu cầu của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp này thường chỉ được cho vay ngắn hạn là chủ yếu, cho vay trung và dài hạn còn rất ít để đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Trong khi đó nhu cầu vay vốn của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường là kỳ hạn dài, chính vì sự không phù hợp giữ nhu cầu của doanh nghiệp với kì hạn cho vay của ngân hàng nên quy mô cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn thấp.
- Các yêu cầu về tài sản đảm bảo còn khắt khe với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh: SGD đòi hỏi tài sản đảm bảo đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn khắt khe với mục đích tránh rủi roc ho SGD, như tài sản cầm cố thế chấp, bảo lãnh của bên thứ ba. Trong khi các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường có một tỉ lệ vốn tự có không cao, điều này làm cho rất ít các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đáp ứng được nhu cầu của SGD để có thể vay vốn.
- Các thủ tục cho vay vẫn còn nhiều phức tạp, điều này làm cho thời gian giao dịch và chi phí giao dịch tăng lên và nó thực sự tốn kém đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Chính sách Marketing đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa thực sự được chú trọng. SGD chưa chú ý đến đối tượng khách hàng này nên việc tiếp cận sẽ khó khăn hơn rất nhiều các đối tượng đã từng có quan hệ với SGD trước đây. Ngoài ra còn phải kể đến sự thiếu hấp dẫn trong chính sách Marketing của ngân hàng như: chính sách giá chưa thực sự linh hoạt, chính sách lãi suất đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn cứng nhắc, dịch vụ kèm theo khi cho vay chưa được đa dạng.
- Mặc dù trong những năm qua SGD đã không ngừng trẻ hóa đội ngũ cán bộ nhân viên, nhưng cũng vì thế mà những cán bộ này còn thiếu kinh nghiệm trong công tác tiến hành phân tích, thẩm định năng lực của khách hàng và đưa ra quyết định cuối cùng, đặc biệt là với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
* Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp:
- Năng lực hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn hạn chế nên hiệu quả hoạt động kinh doanh kém, đã có rất nhiều doanh nghiệp không có phương án sản xuất kinh doanh phù hợp dẫn đến làm ăn thua lỗ, phá sản.
- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có năng lực quản lý rất yếu kém vì thế đã làm cho các doanh nghiệp này không thể nắm bắt, thích nghi với sự thay đổi môi trường kinh tế hay pháp luật.
- Một nguyên nhân khác là do các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh không đáp ứng được nhu cầu vay vốn của Ngân hàng như yêu cầu về vốn tự có, về tài sản đảm bảo.
- Ngoài ra còn có sự không trung thực của chính bản than một số Doanh nghiệp ngoài quốc doanh để lập hồ sơ vay vốn, các báo cáo tài chính của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường không chính xác, mang lại nhiều rủi ro cho Ngân hàng. Mặt khác báo cáo tài chính mà các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh nộp có thể thiếu, không đầy đủ các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp, gây khó khăn cho việc xét duyệt cho vay của Ngân hàng.
* Các nguyên nhân khách quan:
- Môi trường kinh tế: tuy đã chuyển sang nền kinh tế thị trường từ năm 1986, nhưng thị trường vẫn nhỏ bé, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu kém. Chính sách mở cửa của nền kinh tế thị trường đã khiến cạnh tranh giữa các Ngân hàng ngày càng gia tăng, đặc biệt là sự cạnh tranh về lãi suất trên thị trường. Vì vậy, dù Ngân hàng thực sự muốn mở rộng hoạt động cho vay nói chung, mở rộng cho vay Doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng cũng hết sức khó khăn.
- Môi trường pháp lý: hiện nay để điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp có rất nhiều luật như: luật Doanh nghiệp Nhà nước, luật doanh nghiệp tư nhân, luật đầu tư nước ngoài… Như vậy các loại doanh nghiệp khác nhau thì được điều chỉnh theo các bộ luật khác nhau nên không tránh khỏi sự thiếu công bằng và phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp. Các điều kiện về thế chấp cho các khoản vay chưa thực sự bình đẳng cho các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vì các DNNN có thể được vay mà không cần thế chấp. Các văn bản về các quy định, chế độ tài chính, các báo cáo tài chính cho doanh nghiệp vẫn còn nhiều khe hở. Điều này dẫn đến một số doanh nghiệp hoạt động gian lận mà không bị phát hiện. Về phía Chính phủ thì luật pháp ban hành nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng, còn chậm trễ, thiếu sự đồng bộ và còn chồng chéo nhau.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TÉ NGOÀI QUỐC DOANH
3.1 Định hướng phát triển của SGD
Kết quả hoạt động kinh doanh của SGD trong 3 năm vừa rồi nhìn chung có sự tăng trưởng nhanh, đặc biệt là năm 2006; nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những thiếu sót trong khâu quản lý, hiệu quả làm việc của cán bộ công nhân viên chưa cao… Chính vì thế, năm 2007 SGD đã có định hướng để khắc phục và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của SGD.
- Phấn đấu tìm mọi biện pháp hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2007 được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giao.
- Nghiêm túc thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đối với các khách hàng của Sở Giao dịch. Rà soát, đánh giá tình hình giải ngân, thu nợ đảm bảo kiểm soát việc thực hiện giới hạn và cơ cấu tín dụng theo kế hoạch năm 2007 được Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam giao.
Thực hiện nghiêm túc đánh giá xếp hạng khách hàng và phân loại nợ xấu; trích đủ DPRR. Tăng cường kiểm soát và hạn chế nợ xấu phát sinh; tích cực và quyết liệt trong xử lý nợ xấu. Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng cho khách hàng, đảm bảo tính cân đối giữa tài sản Nợ và Tài sản Có.
- Đẩy mạnh triển khai một số nội dung hợp tác với các Doanh nghiệp, Tổng công ty, các khách hàng lớn của Sở Giao dịch trên các mặt tín dụng, huy động vốn, dịch vụ…
- Tiếp tục phát huy ưu thế sẵn có trong việc cung cấp các dịch vụ truyền thống; mở rộng và đa dạng hoá danh mục sản phẩm, tập trung mũi nhọn vào các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ, phát triển các sản phẩm trên cơ sở ứng dụng của dự án hiện đại hoá.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông qua việc điều chỉnh cơ cấu tài sản nợ - tài sản có, giảm dần tỷ trọng tín dụng trung dài hạn, tín dụng thuộc đối tượng xây lắp, tăng tỷ trọng tín dụng ngắn hạn, tín dụng ngoài quốc doanh đối với các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả.
- Nâng dần tỷ trọng thu dịch vụ trên lợi nhuận trước thuế. Tăng trưởng và phát triển dịch vụ cả về quy mô ứng dụng cũng như hiệu quả sản phẩm.
- Đào tạo chuyên sâu đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng tốt yêu cầu hội nhập ngân hàng, đặc biệt giáo dục phẩm chất đạo đức cho cán bộ.
3.2 Một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Trên cơ sở những nguyên nhân vướng mắc làm hạn chế mối quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với SGD, một số giải pháp SGD đưa ra để thực hiện để mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là:
3.1.1 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành và nâng cao chất lượng của cán bộ, nhân viên của SGD.
Để có thể mở rộng và phát triển một cách hiệu quả hoạt động tín dụng thì trước hết SGD phải có một cơ cấu tổ chức quản lý chặt chẽ đồng bộ, phải luôn bám sát tình hình thực tế, xây dựng được một tập thể cán bộ đoàn kết, trong đó ban lãnh đạo và cán bộ phụ trách là những người năng nổ, dám làm, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm, cùng với đội ngũ cán bộ nghiệp vụ có trình độ cao, nhiệt tình và tháo vát trong công việc. Một số vân đề cần giải quyết:
- Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý điều hành của SGD.
- Phải thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về chế độ kế toán mới, các phương pháp và kỹ thuật thẩm định dự án, phân tích các hoạt động kinh tế, các kiến thức pháp lý như luật dân sự, các vấn đề liên quan đến sở hữu.
- Tuyển chọn những cán bộ thực sự có năng lực cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn trình độ văn hóa, đặc biệt là lớp cán bộ trẻ có năng lực, nhạy bén với công việc, với sự thay đổi và yêu cầu của hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường.
- Bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ một cách hợp lý, từng bước tiêu chuẩn hóa cán bộ trên cơ sở năng lực, trình độ nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức, đáp ứng được nhu cầu của công tác kinh doanh trong cơ chế thị trường.
- Phải thường xuyên có các cuộc hội thảo khoa học, có kế hoạch đào tạo, nâng cao nghiệp vụ đối với cán bộ hoạch định chính sách tín dụng để đào tạo ra người có trình độ lý luận nghiệp vụ ngân hàng vững vàng, có kiến thức kinh tế tổng hợp, có phương pháp nghiên cứu khoa học, am hiểu thị trường và giàu kinh nghiệm thực tế, có khả năng tổng hợp vấn đề, có kiến thức pháp luật vững chắc và sâu rộng.
- Đối với cán bộ quản lý điều hành hoạt động tín dụng, ngoài những tiêu chuẩn về kiến thức nghiệp vụ cơ bản cần có them các đặc điểm sau: phải nắm chắc các quy định, thể chế và vận dụng một cách linh hoạt, phải có khả năng tổng hợp, phân tích, xác định những điều đúng, chưa đúng, chưa phù hợp của các chế độ, thể chế để kiến nghị với cấp trên. Phải có kiến thức khoa học tâm lý, trình độ ngoại ngữ và tin học.
- Đối với đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia giao tiếp với khách hàng, thẩm định dự án… phải là những người trung thực, khách quan, thẳng thắn, kiên định, có ý thức bảo vệ tài sản của ngân hàng, ngoài trình độ chuyên môn còn cần phải sâu sát với thực tế, hiểu biết nhận định về kinh tế thị trường, nắm vững pháp luật và các vấn đề có liên quan. Muốn vậy SGD cần phải thường xuyên tổ chức những cuộc kiểm tra kiến thức về nghiệp vụ, pháp luật, tâm lý… và cần có khuyến khích về vật chất cũng như tinh thần.
3.1.2 Xây dựng một chiến lược Marketing ngân hàng đúng đắn.
Để tăng quy mô tín dụng, tăng khả năng xâm nhập thị trường thì SGD phải thu hút được nhiều khách hàng có quan hệ tín dụng với mình. Cụ thể cần thực hiện các biện pháp sau:
3.1.2.1 Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu nhu cầu vốn vay và các dịch vụ khác của khách hàng là yếu tố đầu tiên quyết định các bước tiếp theo của việc xây dựng chiến lược Marketing ngân hàng. Khi khách hàng lựa chọn SGD để quan hệ tín dụng thì họ quan tâm đến thái độ phục vụ, mức lãi suất, phí dịch vụ, các dịch vụ đi kèm mà SGD cung cấp cho khách hàng… Để có được đầy đủ thông tin về nhu cầu thị trường, SGD phải thường xuyên nghiên cứu, thu thập các thông tin về nhu cầu của khách hàng và nghiên cứu về các đối thủ cạnh tranh. Việc nghiên cứu nhu cầu của khách hàng nhằm trả lời câu hỏi họ cần gì ở ngân hàng, cần bao nhiêu, cần lúc nào? Nghiên cứu các ngân hàng cùng tham gia vào thị trường ở khả năng, điểm mạnh, điểm yếu của các ngân hàng khác và tổ chức hoạt động tín dụng. Thực hiện tốt việc này, SGD mới nắm rõ được nhu cầu của khách hàng, nhìn lại chính mình để thấy rõ điểm mạnh để phát huy, điểm yếu để khắc phục và đưa ra chiến lược phát triển lâu dài trong kinh doanh.
3.1.2.2 Xây dựng một chiến lược sản phẩm hấp dẫn.
Một sản phẩm hấp dẫn mà khách hàng có thể tìm thấy nhiều lợi ích từ đó thì chắc chắn khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm đó. Một chính sách sản phẩm đúng đắn sẽ thu hút được khách hàng, mở rộng được quan hệ tín dụng. Ngược lại, nếu một sản phẩm không thu hút được khách hàng. Do đó SGD cần phải hiểu rằng, trong hoạt động kinh doanh, rất khó có thể đưa ra được một sản phẩm mới, mà phần lớn chỉ là cải tiến, tạo ra sự khác biệt, hấp dẫn trong sản phẩm truyền thống của ngân hàng. Sự cải tiến này lại nằm trong quy định của ngân hàng cấp trên, tuy nhiên trong tình hình hiện nay khi mà hoạt động cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng gay gắt thì càng buộc các ngân hàng phải có các sản phẩm và cung ứng các dịch vụ mà thị trường đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, đa dạng và phong phú về chủng loại. SGD muốn khẳng định vị trí của mình trong lĩnh vực hoạt động tiền tệ thì cần phải chú ý vào các điểm sau trong chiến lược sản phẩm của mình:
- Đa dạng hóa các hình thức cho vay đối với khu vực ngoài quốc doanh. Trong tương lai gần, khu vực này sẽ là khu vực kinh tế đa dạng về quy mô, ngành nghề sản xuất kinh doanh. Vì vậy nhu cầu về khối lượng vay, thời hạn vay, phương thức trả vốn và lãi vay là không giống nhau. Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu thỏa mãn đồng thời lợi ích của khách hàng và của ngân hàng, SGD phải đưa ra các hình thức tín dụng phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Ngoài cho vay truyền thống qua việc đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cần phải phát triển mạnh mẽ các hình thức cho vay khác như:
+ Cho vay bảo lãnh: trong quá trình sản xuất kinh doanh, một số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có nhu cầu vay vốn nhưng không có đủ các điều kiện để được vay vốn tại SGD thì SGD có thể tư vấn cho khách hàng nhờ một tổ chức nào đó đứng ra bảo lãnh cho món vay. Khi áp dụng hình thức này, SGD phải yêu cầu bên bảo lãnh xuất trình đầy đủ giấy tờ cần thiết, việc bảo lãnh phải được ký kết bằng văn bản và phải được các cơ quan có thẩm quyền xác nhận.
+ Cho vay đảm bảo bằng các khoản thu: Các doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu được tiền do người chịu làm cho các doanh nghiệp này bị thiếu vốn lưu động. SGD có thể giúp các doanh nghiệp thiếu vốn lưu động bằng cách cho vay một khoản tín dụng ngắn hạn dựa theo tỷ lệ phần trăm so với khoản thu. Các doanh nghiệp phải trình đầy đủ giấy tờ chứng minh quyền sở hữu các khoản thu của mình.
+ Hình thức hùn vốn đầu tư liên doanh liên kết với khách hàng. Đây là một hình thức rất mới để giúp SGD mở rộng tín dụng, không nhất thiết phải cho vay mà tìm trong số các khách hàng của mình các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả thì SGD ký thỏa thuận liên doanh liên kết để cùng sản xuất kinh doanh. Bằng hình thức này, SGD không những mở được tín dụng của mình mà còn có điều kiện xâm nhập thị trường, từ đó tìm ra những mặt mạnh, yếu của doanh nghiệp. Vừa trực tiếp giám sát, quản lý vốn vay vừa có thu nhập cao do người trực tiếp đầu tư.
- Tổ chức dịch vụ: “Cung cấp tín dụng tại nhà”. Đây là dịch vụ chưa có ngân hàng nào cung ứng. Điều này tạo ra một bước ngoặt lớn trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt và tín dụng ngân hàng là sản phẩm mang tính đặc biệt. Thực hiện tín dụng tại nhà sẽ giúp SGD xem xét được tận nơi cơ sở vật chất, trang thiết bị của doanh nghiệp, có điều kiện đánh giá đúng thực chất tình hình làm ăn của khách hàng. Mặc dù chi phí cho khoản này sẽ cao hơn mức thông thường nhưng nó đảm bảo chắc chắn, ít rủi ro nắm được cơ bản tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, hơn nữa loại hình này nếu được áp dụng sẽ đem lại thu nhập lớn cho ngân hàng.
3.1.2.3 Tiến hành phân loại khách hàng.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đến giao dịch với SGD chủ yếu là các công ty TNHH, sau đó là các công ty cổ phần và công ty tư nhân. Đây là đối tượng cho vay rất nhạy cảm với các chính sách của SGD. Vì vậy để duy trì tốt mối quan hệ với khách hàng cũ và thu hút thêm khách hàng mới, SGD cần có chính sách ưu đãi riêng đối với từng loại khách hàng. Muốn làm được điều đó SGD cần phải phân loại khách hàng theo những tiêu thức nhất định nhằm chọn ra những khách hàng tốt nhất để có những chính sách riêng đối với họ. Có thể phân loại các đơn vị một cách tạm thời như sau:
- Đơn vị xếp loại A: là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định có lãi trong hai năm liên tiếp gần nhất, đang kinh doanh những mặt hàng được thị trường ưa chuộng hoặc trong tương lai được thị trường ưa chuộng, thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước, không có nợ quá hạn đối với SGD. Nếu doanh nghiệp lại này có phương án khả thi thì có thể cho vay ưu tiên về thủ tục, lãi suất, trong chừng mực nào đó có thể cho vay bằng tín chấp.
- Đơn vị xếp loại B: là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định, uy tín trên thị trường chưa cao, lãnh đạo doanh nghiệp là người có năng lực, coi trọng chữ tín. Đối với đơn vị này thì cho vay trên cơ sở tài sản thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của bên thứ ba.
- Đơn vị xếp loại C: là những đơn vị kinh doanh thua lỗ không có biện pháp khắc phục, quan hệ với Ngân hàng và bạn hàng không sòng phẳng, thường xuyên có nợ quá hạn thì SGD phải tìm cách từ chối hợp lý, nhanh chóng thu hồi vốn.
Tuy nhiên đây chỉ là cách phân loại tạm thời, không phải là khuôn mẫu để quyết định cho vay đối với khách hàng mà điều cốt yếu là phương án sản xuất kinh doanh nếu tỏ ra thực sự có hiệu quả thì SGD có thể nới rộng ở mức độ nào đó nhưng trong điều kiện cho phép.
- Cần có các dịch vụ kèm theo sản phẩm chính của SGD, thông thường đó là dịch vụ tư vấn. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất cần sự tư vấn của SGD vì khả năng quản lý, trình độ lập dự án và kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này có hạn chế và kém nhạy bén trên thị trường, không có khả năng dự đoán về những biến động. Dịch vụ tư vấn ở ngân hàng đã có nhưng mức độ chưa đạt được như mong muốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Để thu hút các doanh nghiệp ngoài quốc doanh về quan hệ với SGD cần phải có tổ chức một dịch vụ tư vấn khách hàng thật tốt về tất cả mọi lĩnh vực: tư vấn về thị trường đầu vào, đầu ra, quản lý mọi quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực khác. Muốn cho có một dịch vụ tư vấn hoàn hảo thì SGD càn phải có một đội ngũ cán bộ thực sự hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực để có thể tư vấn cho khách hàng, giúp khách hàng làm ăn có hiệu quả hơn cũng như tránh được những rủi ro có thể xảy ra, gây uy tín của SGD với khách hàng để thu hút khách hàng
3.1.2.4 Tăng cường hoạt động giao tiếp khuếch trương
SGD cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cào các chính sách, chế độ, thể lệ cho vay tới khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Hiện nay thực tế SGD chưa chú trọng tới khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nên nhiều đơn vị kinh tế nghĩ rằng việc vay của ngân hàng rất khó về thủ tục, thời gian hơn nữa họ cũng không hiểu về các hình thức mà SGD đang áp dụng cho vay về thời gian, lãi suất từ đó SGD bị mất khả năng được lựa chọn làm đơn vị cho vay, tài trợ cho khách hàng. Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng gay gắt nên để thúc đẩy hoạt động có hiệu quả hơn. SGD cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo để các doanh nghiệp nắm bắt được chủ trương chính sách đổi mới với các thành phần kinh tế. Cho khách hàng biết được những áp dụng cơ chế tín dụng mới, thể lệ cho vay mới cơ chế thị trường để khách hàng thấy được thiện chí của SGD, thấy được những lợi ích trong quan hệ với SGD.
Hiện nay, SGD hoạt động theo phương thức bị động tức là nếu có khách hàng đến xin vay thì cán bộ tín dụng xem xét, thẩm định và quyết định có cho vay hay không. Do đó ít có cơ hội gặp được khách hàng tốt. Nên chăng phòng Marketing của SGD được mở, và cử một số cán bộ Marketing làm nhiệm vụ Marketing cho hoạt động của SGD, giúp SGD chủ động tìm kiếm khách hàng từ đó tăng tính hiệu quả cho hoạt động tín dụng. Phòng Marketing trong SGD không chỉ làm nhiệm vụ tuyên truyền quảng cáo mà mà quan trọng hơn là tìm hiểu về khách hàng, phân loại khách hàng, lựa chọn một số đối tượng khách hàng, hiểu rõ các nhu cầu khách hàng, phòng Marketing đưa ra các giải pháp, chiến lược như chiến lược sản phẩm, chiến lược lãi suất, nhằm tạo ra một sự khác biệt trong ngân hàng so với đối thủ cạnh tranh. Từ đó thỏa mãn tốt nhu cầu, cơ hội lựa chọn tốt cho khách hàng, cuốn hút khách hàng.
3.1.2.5 Hoàn thiện chính sách khách hàng
Muốn mở rộng hoạt động tín dụng thì SGD cần phải có một chính sách khách hàng có hiệu quả. Chính sách ấy phải gắn bó với lợi ích khách hàng. Việc hoàn thiện chính sách khách hàng cần phải được thực hiện qua các vấn đề sau:
- SGD phải tạo được uy tín đối với khách hàng trong việc đảm bảo an toàn tín dụng, hấp dẫn về lợi ích vật chất, áp dụng chính sách không phân biệt về lãi suất giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tiếp tục duy trì chế độ ưu đãi đối với doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng lớn và thực hiện quan hệ sòng phẳng với ngân hàng.
- Hỗ trợ, tư vấn cho khách hàng, khơi dậy khả năng và nhu cầu tiềm năng của khách hàng.
- Thực hiện đa dạng hóa các khách hàng theo hướng duy trì và củng cố quan hệ tín dụng với các khách hàng đang có quan hệ tín dụng với SGD, đặc biệt là các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để giúp cho hoạt động tín dụng ổn định với các doanh nghiệp này. Mở rộng thêm các khách hàng mới để tăng thêm thị phần.
- Thực hiện chính sách lôi cuốn và hấp dẫn khách hàng đồng thời vẫn đảm bảo được nghĩa vụ đối với khách hàng.
3.1.2.6 Áp dụng chính sách giá cả một cách linh hoạt
Lãi suất được coi là giá cả của sản phẩm tín dụng của ngân hàng. Đối với ngân hàng giá mua chính là chi phí của các yếu tố đầu vào mà chủ yếu là lãi suất huy động. Giá bán chính là lãi suất cho vay. Chênh lệch về giá thành là lợi nhuận của ngân hàng. Đối với khách hàng họ sẽ chọn mức lãi suất nào mang lại nhiều lợi ích cho họ nhất. Lợi ích của khách hàng và của ngân hàng về cơ bản là trái ngược nhau. Vấn đề quan trọng là phải biết kết hợp hài hòa sao cho hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên việc xác định mức lãi suất cho vay ra cũng như lãi suất huy động vào lại phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của NHNN. Do vậy SGD cần có chính sách lãi suất đảm bảo đồng thời lợi ích của ngân hàng, của khách hàng và theo quy định pháp luật. Điều này rất khó đạt được và lại càng khó đảm bảo khi SGD đang chú ý đến việc thu hút khách hàng. Để tăng cường thu hút khách hàng thì SGD phải tính đến một mức lãi suất cho vay thấp hơn, linh hoạt hơn và phải hy sinh một phần lợi nhuận của mình.
Chính sách lãi suất phải linh hoạt theo mức vốn vay và thời hạn vay. Nếu mức vay của khách hàng lớn thì mức lãi suất cho vay có thể nhỏ hơn. Về cơ bản, lãi suất cho vay ngắn hạn phải không cao hơn quá so với mức lãi suất cho vay trung và dài hạn. Chính sách này sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn và thực tế lợi nhuận của ngân hàng sẽ lớn hơn so với giá cả cứng nhắc.
3.1.3 Nâng cao chất lượng thẩm định
Thực hiện đúng quy trình thẩm định dự án, nâng cao chất lượng thẩm định trước khi quyết định cho vay là việc làm cần thiết nhằm mở rộng quy mô và chất lượng tín dụng. Để làm được điều đó, việc thẩm định dự án cần có những thông tin từ nhiều nguồn để có căn cứ ra quyết định có cho vay hay không.
Năm điều kiện quan trọng mà cán bộ ngân hàng cần phải có từ khách hàng xin vay trong quá trình thẩm định là: Tư cách pháp lý, tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong 2 năm gần nhất, khả năng quản lý và điều hành của chủ doanh nghiệp, khả năng về tài chính và tài sản thế chấp, hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh. Trong các điều kiện mà khi thẩm định, đánh giá, cần phải đưa ra xem xét kỹ các vấn đề:
- Về tư cách pháp lý: đó là việc căn cứ vào các văn bản, quyết định của cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập.
- Qua các báo cáo tài chính thường kỳ của doanh nghiệp kết hợp với sự thanh tra, giám sát của cán bộ chuyên môn để đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng quản lý tài chính của chủ doanh nghiệp.
- Vấn đề tài sản thế chấp: hiện nay, các ngân hàng coi tài sản thế chấp như một bảo bối khi quyết định cho vay, bởi họ luôn có tư tưởng rằng cho vay bằng tài sản thế chấp là an toàn nhất. Nhưng chính từ việc đó đã gây ra rất nhiều hạn chế lớn trong hoạt động cho vay của ngân hàng về cả quy mô lẫn chất lượng, bởi có rất nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh có phương án sản xuất kinh doanh khả thi nhưng do không có tài sản thế chấp hoặc có nhưng các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu không rõ ràng, mặt khác chính bản thân tài sản chứa chấp cũng chứa đựng nhiều rủi ro khi có biến động về giá. Hơn nữa các chi phí khi tiến hành phát mại tài sản rất lớn làm cho số tiền thu được từ việc phát mại tài sản giảm đi rất nhiều. Do đó SGD cần phải nhìn nhận lại vấn đề thế chấp tài sản và có một quan điểm hợp lý và đúng đắn.
- Về việc thẩm định hiệu quả phương án sản xuất kinh doanh. Đây là khâu quan trọng bậc nhất đối với ngân hàng nhằm đạt hiệu quả mong muốn cũng như phòng tránh rủi ro. Trong khi vấn đề tài sản thế chấp còn đang có nhiều vướng mắc, thì việc căn cứ vào tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh để ra quyết định cuối cùng là điều hết sức cần thiết, vì vậy đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có năng lực, kinh nghiệm đánh giá, xem xét tính khả thi của dự án trên toàn bộ các phương diện kỹ thuật, tài chính, kinh tế, xã hội để đưa ra những quyết định đúng đắn. Mặt khác, trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định cũng có thể tư vấn thêm cho khách hàng các vấn đề có liên quan đến tính khả thi của dự án, phòng tránh rủi ro cho cả khách hàng và ngân hàng.
3.1.4 Thu thập đầy đủ thông tin về khách hàng
Do mới phát triển khoảng hơn 10 năm nên thị trường các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là thị trường còn rất mới, phức tạp và rất khó nắm bắt. Trong khi yêu cầu của ngân hàng là phải năm bắt đầy đủ thông tin về khách hàng vay, việc tìm hiểu mọi thông tin về khách hàng là điều hết sức quan trọng. Nó góp phần giảm bớt các rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Trên thực tế có thể thu thập được thông tin về các doanh nghiệp ngoài quốc doanh qua các kênh sau:
- Thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng.
- Thông tin qua các cơ quan quản lý Nhà nước.
- Thông tin từ các đối tác làm ăn với doanh nghiệp.
- Thông tin từ trung tâm tư vấn cho doanh nghiệp, từ các ngân hàng đã có quan hệ tín dụng với doanh nghiệp.
- Thông tin từ bản thân doanh nghiệp.
Để nắm bắt được các thông tin này một cách chính xác, SGD cần phải tiến hành một số giải pháp sau:
- Tạo mối quan hệ mật thiết gắn bó với các trung tâm tư vấn cho doanh nghiệp.
- Thường xuyên thông tin với trung tâm thông tin tín dụng để biết được tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tiến hành các cuộc thảo luận, các hội nghị khách hàng để nắm bắt được nhiều thông tin.
- Thu thập từ nhiều nguôn khác…
Ngoài các giải pháp trên, SGD cần có các giải pháp khác để mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh như: Hiện đại hóa cơ sở vật chất trang thiết bị nhằm phục vụ tốt hơn nữa nhiệm vụ kinh doanh. Thiết lập các mối quan hệ với các ngân hàng khác để có cơ hội tiếp cận, học hỏi và cho vay vốn.
Công tác khác
Thực hiện tốt công tác nội bộ: quản lý chỉ tiêu tài chính, mua sắm và quản lý tài sản cố định, công cụ lao động, triển khai và làm tốt công tác kiểm tra nội bộ, công tác cán bộ và đào tạo, công tác phát triển nguồn nhân lực.
3.2 Một số kiến nghị
3.2.1 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước.
- Thu hút dự án, chương trình của quốc tế, các nước khác, hỗ trợ ngành Ngân hàng Việt Nam về đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản lý, điều hành hoạt động Ngân hàng theo trình độ quốc tế, đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ thẩm định dự án, đánh giá dự án, phân tích và đánh giá rủi ro cho cán bộ ngân hàng, trang bị công nghệ ngân hàng hiện đại.
- Sửa đổi cơ chế, chính sách cho vay, bảo lãnh theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu của các ngân hàng, tăng thu nhập, tăng lương cho giám đốc và cán bộ ngân hàng. Tuyển chọn cán bộ vào làm việc tại ngân hàng theo quy trình và tiêu chuẩn của ngân hàng nước ngoài.
- Nghiên cứu, xem xét trong vài năm tới cổ phần hóa tất cả NHTM quốc doanh nhưng Nhà nước vẫn giữ trên 50% vốn cổ phần, trong tổng số NHTM quốc doanh hiện có. Tất nhiên cũng cần xem xét các yếu tố khác là trong cơ cấu hiện tại, thì số lượng NHTM cổ phần quá đông trong khi thị phần còn nhỏ.
- Thực hiện đúng lộ trình mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài, bãi bỏ các quy định hạn chế hoạt động các ngân hàng ỏ Việt Nam theo cam kết với hiệp định thương mại Việt – Mỹ, AFTA và thực hiện đúng cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới WTO, tạo môi trường cạnh tranh thông thoáng cho hoạt động ngân hàng, thúc đẩy thị trường vốn phát triển.
- Sớm ban hành các văn bản và thông tư hướng dẫn thực hiện pháp lệnh thương phiếu, thúc đẩy hoạt động tín dụng thương mại phát triển.
3.2.2 Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
NHĐT&PTVN là cơ quan chủ quản của SGD, do đó cần phải có những biện pháp phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, SGD trong việc khắc phục những hạn chế, phát huy những mặt mạnh để cùng SGD phát triển kinh tế. Để làm được điều đó cần thực hiện các vấn đề sau:
- Tổ chức giải quyết các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động của SGD như phê duyệt mức cho vay vượt quyền phán quyết, khi tái thẩm định các dự án đầu tư…
- Hỗ trợ SGD trong việc lắp đặt trang thiết bị hiện đại phục vụ quá trình hoạt động như hệ thống máy tính, máy ATM, nối mạng trong toàn ngân hàng, trợ giúp về kinh phí và kỹ thuật trong việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ ngân hàng cho cán bộ nhân viên SGD.
- Phối hợp chặt chẽ với ngân hàng Nhà nước tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin rủi ro, thông tin tín dụng nhằm ngày càng nâng cao chất lượng tín dụng, giúp SGD phòng ngừa rủi ro.
- Thường xuyên phối hợp với SGD tổ chức các buổi hội thảo, hội nghị nghiên cứu khoa học để vừa nắm được thông tin về tình hình hoạt động ngân hàng vừa cung cấp thêm kinh nghiệm kiến thức quý báu trong quá trình hoạt động.
- Tăng cường hoạt động thanh tra kiểm tra nội bộ trong toàn hệ thống nhằm chấn chỉnh các sai sót và phòng ngừa rủi ro.
KẾT LUẬN
Mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở Giao dịch nhằm giúp các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát huy được vai trò của mình trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Qua việc tìm hiểu thực trạng tín dụng đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở Giao Dịch, nắm được những khó khăn vướng mắc trong hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, em mạnh dạn đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy, các cán bộ Sở Giao dịch và các bạn. Em chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của thầy Hoàng Xuân Quế cùng các anh chị ở Sở Giao dịch đã giúp đỡ em hoàn thành bài chuyên đề thực tập này.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31951.doc