Chuyên đề Giải pháp mở rộng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp huyện Đan Phượng

Tín dụng có một vai trò quan trọng không những đối vớ cá nhân, doanh nghiệp mà còn với cả nền kinh tế. Trước hết, nó đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh được thường xuyên, liên tục và mở rộng. Sau là giúp cho Chính phủ có thể thực hiện được các chính sách xã hội của mình. Cùng với sự phát triển của ngành ngân hàng, hoạt động tín dụng cũng ngày càng phong phú và đa dạng: có nhiều phương thức cho vay, đáp ứng mọi nhu cầu về vốn cho khách hàng. Nhưng hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng. Và những rủi ro tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng. Vì thế đồng nghĩa với mở rộng tín dụng ngân hàng phải có những biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Với Việt Nam, hoạt động ngân hàng cũng có bước phát triển trong đó có hoạt động tín dụng. Đối tượng vay vốn ngân hàng ngày càng đa dạng, ở mọi ngành nghế, lĩnh vực, nhu cầu về vốn cũng lớn dần. Đồng nghĩa với nó là tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn. Do ngành ngân hàng đang trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới và hiện đại hoá nên không tránh khỏi những khó khăn và hạn chế. Trong hoạt động tín dụng cũng vậy: khung pháp lý còn một số điểm chưa hợp lý, thủ tục và điều kiện vay vốn còn nhiều gây khó khăn cho khách hàng đến vay như: điều kiện về tài sản thế chấp, hiệu quả sử dụng vốn của nhiều khách hàng không tốt . Là một chi nhánh cấp 2 của NHNo Việt Nam, NHNo huyện Đan Phượng trong thời gian qua đã đạt được những kết quả hết đáng khích lệ. Ngân hàng đã thu hút được nhiều khách hàng đến gửi tiết kiệm dẫn đến nguồn huy động các năm của ngân hàng đều tăng. Dư nợ tăng cả ở đối tượng khách hàng là hộ sản xuất và doanh nghiệp. Bên cạnh đó trong hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng gặp nhiều hạn chế như: vấn đề về tài sản thế chấp- ngân hàng chủ yếu là cho thế chấp bằng quyền sử dụng đất nhưng nhiều hộ lại chưa được cấp chứng nhận quyền sử dụng đất. Trình độ dân trí trên địa bàn không cao nên ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Ngân hàng cho vay phần lớn là các hộ sản xuất mà việc thẩm định đối với hộ sản xuất gặp nhiều khó khăn. Thêm nữa công nghệ ngân hàng lạc hậu, thiếu, đội ngũ cán bộ tuổi đời cao. Vì thế để mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng cần giải quyết những khó khăn trên: nên cho vay thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay, mở thêm dịch vụ tư vấn khách hàng, trang bị thêm máy vi tính, trẻ hoá đội ngũ cán bộ.

doc82 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1586 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp huyện Đan Phượng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gần đây có sự chuyển dịch về cơ cấu ngành nhưng hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn là chính. Vì thế mà khách hàng của ngân hàng chủ yếu là các hộ, cá thể và một số doanh nghiệp. Hộ sản xuất chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp: trồng chọt và chăn nuôi. Hiện nay ngân hàng cho vay tổng cộng hơn 5 nghìn hộ trong đó cho vay trực tiếp gần 3 nghìn hộ, cho vay qua tổ nhóm khoảng 2 nghìn hộ. Trong hơn 5 nghìn hộ sản xuất mà ngân hàng cho vay thì cho vay làng nghề là hơn 900 hộ, cho vay kinh tế trang trại gần 300 hộ. * Một vài đặc điểm về hộ sản xuất tại huyện Đan Phượng - Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất vừa là một đơn vị tiêu dùng. - Họ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp với các mức độ khác nhau. - Khả năng của các hộ sản xuất chỉ có thể tái sản xuất giản đơn - Các hộ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thương mai - dịch vụ và các ngành khác. - Sản xuất kinh doanh chịu nhiều rủi ro nhưng khả năng khắc phục lại hạn chế. - Khó khăn của hộ sản xuất là thiếu vốn và trình độ quản lý chưa cao. Làng nghề trên địa bàn huyện Đan Phượng không nhiều, không có sản phẩm mũi nhọn đặc thù. Có 3 nghề: - Làm mộc có ở các xã: Liên Trung, Đan Phượng, Liên Hà - Chế biến nông sản có các xã: Hạ Mỗ, Song Phượng, Hồng Hà - Dệt có duy nhất ở xã Tân Hội Trong đó: làm mộc có 418 hộ, chế biến nông sản có 520 hộ, dệt có 24 hộ. Hoạt động của làng nghề tạo việc làm cho lao động ở địa phương: Đơn vị: Lao động Tên nghề 1991 1995 2000 2005 Làm mộc 60 1.047 1.572 2.333 Chế biến nông sản 113 490 895 1.180 Dệt 48 150 210 350 Cộng 221 1.687 2.677 3.863 Năm 1991 tạo việc làm cho 221 lao động thì đến năm 2005 đã tạo việc làm cho 3.863 lao động, tận dụng được lao động địa phương, tăng thu nhập cho người dân. * Một vài đặc điểm về các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Đan Phượng Có thể nói các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Đan Phượng là những doanh nghiệp nhỏ, thời gian hoạt động chưa lâu. Chỉ vài năm gần đây số lượng các doanh nghiệp mới có sự gia tăng nhanh. Các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn gồm: - Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có duy nhất 1 doanh nghiệp là Xí nghiệp thuốc thú y trung ương. - Công ty cổ phần (CTCP) có 2 công ty: CTCP Thạch Bàn và CTCP cồn giấy rượu; - Công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH) có 25 công ty (trong đó, có 2 công ty có dư nợ trung hạn là CTTNHH Tân Hoàng Long-200 triệu đồng và CTTNHH Hải Hoàng-1500 triệu đồng, còn lại là dư nợ ngắn hạn. Dư nợ ngắn hạn lớn nhất là CTTNHH Xuân Phương- hơn 5 tỷ đồng. - Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có 13 doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Trong đó, cũng chỉ có 2 DNTN có dư nợ trung hạn: DNTN Hông Giang và Cầu Loan, dư nợ ngắn hạn lớn nhất là DNTN Hồng Giang-hơn 3 tỷ đồng. Với đặc điểm của từng loại đối tượng khách hàng khác nhau ngân hàng cũng đã có những biện pháp nhằm ngày càng mở rộng hoạt động tín dụng của mình. *Hoạt động tín dụng của NHNo huyện Đan Phượng năm 2005: Đơn vị: Tỷ đồng NH trung tâm NH Thọ An NH Tân Hội Tổng cộng Dư nợ NQH Dư nợ Dư nợ Dư nợ NQH Dư nợ NQH 102,373 0,353 36,773 0,506 32.530 0,046 171,677 0,905 Dư nợ của ngân hàng trung tâm chiếm phần lớn (khoảng 60%) trong tổng dư nợ của toàn ngân hàng. Tại ngân hàng trung tâm , cho vay cả khối doanh nghiệp lẫn hộ sản xuất ở 5 xã. Còn ở ngân hàng Thọ An và Tân Hội không có cho vay đối với doanh nghiệp, chỉ cho vay đối với hộ sản xuất và cá thể. Tuy số lượng doanh nghiệp ít hơn nhiều so với số lượng hộ nhưng mỗi khoản vay của doanh nghiệp thường lớn hơn nhiều so với mỗi khoản vay của hộ sản xuất. Chính vì thế mà dư nợ của ngân hàng trung tâm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ của toàn ngân hàng. Trong 3 ngân hàng thì ngân hàng cấp 3 Thọ An có tỷ lệ nợ quá hạn lớn nhất. Vì đối tượng vay vốn tại ngân hàng cấp 3 Thọ An chủ yếu là cá thể và hộ sản xuất của 5 xã trong huyện. Đây là những xã thuần nông, không có làng nghề hay nghề phụ. Hơn nữa ý thức và trách nhiệm trả nợ của khách hàng lại thấp, nhiều hộ chây ỳ trong việc trả nợ. Cho dù ngân hàng đã kết hợp với chính quyền xã phối hợp thực hiện xử lý nợ quá hạn nhưng các hộ vẫn chây ỳ không trả. Còn đối với ngân hàng Tân Hội phụ trách cho vay ở 6 xã. Trong đó có 4 xã có làng nghề. Xã có dư nợ lớn nhất là xã Liên Trung với số dư nợ chiếm hơn 50% tổng dư nợ của ngân hàng cấp 3 Tân Hội và xã Liên Hà dư nợ đứng thứ 3. Hai xã này không có nợ quá hạn trong các quí của năm 2005. Nhìn chung khả năng trả nợ của ngân hàng cấp 3 Tân Hội là khá cao, tình hình thu nợ ở đó là tốt hơn so vơi 2 ngân hàng còn lại. Chứng tỏ hoạt động tín dụng ở ngân hàng Tân Hội có chất lượng. Tại ngân hàng trung tâm thực hiện cho vay ở 5 xã và toàn bộ khối doanh nghiệp. Dư nợ của khối doanh nghiệp chiếm tỷ trọng tới khoảng 70% tổng dư nợ của ngân hàng. Trong 3 quí đầu năm 2005 doanh nghiệp không có nợ quá hạn mà nợ quá hạn là của khu vưc hộ sản xuất. Cuối năm 2005 doanh nghiệp có nợ quá hạn là 0,210 tỷ đồng của CTCP cồn giấy rượu chiếm tỷ lệ 0,3% tổng dư nợ của doanh nghiệp và chiếm 59,4% tổng nợ quá hạn của ngân hàng trung tâm. Tóm lại, năm 2005 trừ khối doanh nghiệp thì xã có dư nợ lớn nhất là Liên Trung: 16,320 tỷ đồng, thứ 2 là xã Trung Châu. Xã có nợ quá hạn lớn nhất là Thọ An: 0,184 triệu đồng, thứ 2 là xã Thượng Mỗ: 0,131 tỷ đồng, đây cũng là 2 xã có tỷ lệ nợ lớn nhất lần lượt là: 2,5% và 1,9%. Hai xã này do ngân hàng Thọ An cho vay vốn. Tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng Thọ An cũng khá cao: 1,4%. Cán bộ tín dụng ở ngân hàng Thọ An cần có biện pháp giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Để hiểu sâu hơn tình hình hoạt động tín dụng của NHNo huyện Đan Phượng cần đánh giá hoạt động tín dụng theo sự phân loại tín dụng của ngân hàng. 1. Thực trạng hoạt động tín dụng theo thời hạn vay Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 Dư nợ ngắn hạn 81,121 106,206 130,222 Dư nợ trung hạn 59,975 39,578 41,455 Cộng 141,096 145,838 171,677 (Số liệu từ: Báo cao kết quả hoạt động kinh doanh năm 2003, 2004, 2005) Trong tổng dư nợ của ngân hàng thì dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn. - Năm 2003 dư nợ ngắn hạn chiếm 57,5% tổng dư nợ - Năm 2004 dư nợ ngắn hạn chiếm 72,8% tổng dư nợ - Năm 2005 dư nợ ngắn hạn chiếm 75,8% tổng dư nợ Dư nợ ngắn hạn của ngân hàng tăng từ hơn 81 tỷ năm 2003 lên hơn 130 tỷ năm 2005, trong khi dư nợ trung hạn giảm từ gần 60 tỷ năm 2003 xuống còn hơn 41 tỷ năm 2005. Hoạt động cho vay trung hạn của ngân hàng chỉ đối với DNTN và hộ sản xuất (2003); CTCP +CTTNHH + Hộ sản xuất (2004); hộ sản xuất (2005). Các doanh nghiệp hầu như chỉ vay ngắn hạn vì nhu cầu vốn của họ là ngắn hạn, vốn của doanh nghiệp quay vòng nhanh. Trong khi đối với hộ sản xuất, đầu tư ban đầu cần vốn lớn, thời gian thu hồi lâu, kinh doanh của hộ gặp nhiều rủi ro cả khách quan lẫn chủ quan. Năm 2005 không có doanh nghiệp nào vay vốn trung hạn. - Về thu nợ: do khách hàng chủ yếu vay ngân hàng nên việc thu nợ cũng chủ yếu là thu nợ ngắn hạn: trong đó thu của CTCP+CTTNHH là lớn nhất (2003: hơn 18 tỷ; 2004: gần 40 tỷ; 2005: hơn 19 tỷ). Cho vay ngắn hạn hay trung hạn đều là những khoản vay đem lại thu nhập cho ngân hàng nhưng ở mức độ khác nhau: khoản vay càng dài thì lãi suất càng cao, nhưng những khoản vay dài hạn thương rủi ro hơn những khoản vay ngắn hạn. Vì thế các ngân hàng thường phải có sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận: rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng cao. 2. Thực trạng hoạt động tín dụng theo thành phần kinh tế Ngoài cách phân loại tín dụng theo thời hạn cho vay thì phân loại theo thành phần kinh tế là cách phân loại tín dụng phổ biến của ngân hàng. Cách phân loại này cho thấy cụ thể hơn tình hình hoạt động tín dụng của ngân hàng theo những nhóm khách hàng khác nhau. Theo hình thức phân loại này, NHNo huyện Đan Phượng phân ra: cho vay đối với doanh nghiệp (DNNN, HTX, CTCP+CTTNHH, DNTN) và hộ sản xuất (cho vay trực tiếp và cho vay gián tiếp- cho vay qua tổ nhóm). Đối tượng khách hàng chính của NHNo là những nông dân, những người làm trong lĩnh vưc nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp. Tại NHNo huyện Đan Phượng cũng xác định đối tượng khách hàng chính của mình như vậy- đó chính là cho vay đối với hộ sản xuất của địa phương. Bên cạnh khách hàng mục tiêu, ngân hàng cũng cho vay đối với khách hàng là những doanh nghiệp. Đây là 2 nhóm khách hàng chủ yếu của ngân hàng, có doanh số cho vay và dư nợ lớn. Huyện Đan Phượng có 1 NHNo chi nhánh cấp 2, 1 NHCSXH mới tách ra từ NHNo, các quỹ tín dụng nhân dân (QTDND). Với NHCSXH mục tiêu là cho vay đối với những hộ nghèo, QTDND thì cũng cho vay đối với hộ nông dân. Vì thế, đối tượng khách hàng là doanh nghiệp ngân hàng không phải cạnh tranh cho vay với các tổ chức tín dụng khác. Chỉ có NHNo huyện Đan Phượng mới có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp là khách hàng lớn và quan trọng của ngân hàng. Trong 3 năm gần đây tình hình hoạt động tín dụng của ngân hàng đối với 2 nhóm khách hàng của ngân hàng được thể hiện ở bảng sau: Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Cho vay Dư nợ 2003 2004 2005 2003 2004 2005 DN 52,944 80,927 94,139 53,444 66,398 70,962 HSX 107,110 113,628 139,317 87,652 794,340 100,715 Cộng 160,054 194,555 233,456 141,096 145,838 171,677 (Số liệu từ: Báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh năm 2003, 2004, 2005) - Về hoạt động cho vay của ngân hàng: cả doanh nghiệp và hộ sản xuất đều có doanh số cho vay các năm 2003, 2004, 2005 tăng so với năm trước. Cụ thể: + Năm 2004 cho vay doanh nghiệp tăng 27,983 tỷ đồng, tốc độ tăng là 52,8%; cho vay hộ sản xuất tăng 6,517 tỷ đồng, tốc độ tăng là 6,1%. + Năm 2005 cho vay doanh nghiệp tăng 13,212 tỷ đồng, tốc độ tăng là 16,3%; cho vay hộ sản xuất tăng 25,689 tỷ đồng, tốc độ tăng là 22,6%. Nếu như năm 2004 cho vay doanh nghiệp tăng mạnh thì năm 2005 cho vay hộ sản xuất lại tăng mạnh. Trong 3 năm gần đây số lượng doanh nghiệp không tăng, nhưng doanh số cho vay tăng chứng tỏ nhu cầu vốn của các doanh nghiệp ngày cang lớn hơn. Còn doanh số cho vay hộ sản xuất tăng là do nhu cầu vốn của hộ sản xuất cũng tăng và số hộ tham gia vay vốn ngân hàng tăng. - Về dư nợ cho vay của ngân hàng: dư nợ của ngân hàng các năm 2004, 2005 tăng so với năm trước. Cụ thể: + Năm 2004 dư nợ của doanh nghiệp tăng 12,958 tỷ đồng, tốc độ tăng là 24,2%; dư nợ của hộ sản xuất giảm 8,211 tỷ đồng, tốc độ giảm là 9,4%. + Năm 2005 dư nợ của doanh nghiệp tăng 4,564 tỷ đồng, tốc độ tăng là 6,9%; dư nợ của hộ sản xuất tăng 21,274 tỷ đồng, tốc độ tăng là 26,8%. Năm 2004 cho vay hộ sản xuất tăng nhưng dư nợ lại giảm, chứng tỏ năm 2004 hoạt động thu nợ của ngân hàng tốt, các biện pháp nhằm đảm bảo cho khách hàng trả nợ ngân hàng đúng hạn được thực hiện có hiệu quả, làm cho chất lượng tín dụng năng cao. - Về nợ quá hạn của ngân hàng: Khách hàng 2003 2004 2005 NQH (Tỷ.đ) NQH/dư nợ NQH (Tỷ.đ) NQH/dư nợ NQH (Tỷ.đ) NQH/dư nợ DN 0 0 0 0 0,210 0,30% HSX 0,694 0,79% 0,592 0,75% 0,696 0,69% Cộng 0,694 0,49% 0,592 0,41% 0,906 0,53% Hầu như nợ quá hạn là của hộ sản xuất: năm 2003 và 2004 doanh nghiệp không có nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn tương đối cao (> 0,5%), tuy nhiên tỷ lệ này có xu hướng giảm ở hộ sản xuất. Trong 3 năm thì vấn đề nợ quá hạn ở 2004 được giải quyết tốt nhất: có doanh số và tỷ lệ thấp nhất. Năm 2005 doanh nghiệp có nợ quá hạn là 0,210 tỷ đồng chiếm 23,2% tổng nợ quá hạn của ngân hàng (đây là nợ quá hạn của CTCP cồn giấy rượu). Hoạt động tín dụng của NHNo huyện Đan Phượng có được những kết quả như vậy là do sự lỗ lực của một tập thể cán bộ tín dụng cũng như toàn thể cán bộ của ngân hàng. Ngân hàng đã thực hiện thu hồi nợ khá tốt, đã phối hợp cùng chính quyền xã để cung cán bộ tín dụng của ngân hàng thực hiện việc xử lý những khoản nợ quá hạn, những hộ chây ỳ trong trả nợ. Thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở khách hàng trả nợ đúng hạn. Ngân hàng cũng đã thực hiện mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất, đặc biệt là hình thức cho vay qua tổ nhóm. Để hiểu rõ hơn, cụ thể hơn hoạt động tín dụng của ngân hàng ta có thể tìm hiểu hoạt động tín dụng đối với từng loại khách hàng. 2.1 Thực trạng hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất Xuất phát từ những chính sách, đường lối của Đảng và nhà nước về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn , hệ thống NHTM nói chunh và NHNo Việt Nam nói riêng đã tập trung đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Và xác định đây là thị trường tiềm năng để hoạch định chiến lược kinh doanh của mình. Là một huyện mà tỷ lệ sản xuất nông nghiệp chiếm phần lớn thì NHNo huyện Đan Phượng cũng xác định khách hàng chủ yếu của ngân hàng là hộ nông dân, những người làm về nông nghiệp. Nhờ có vốn tín dụng của ngân hàng đã giúp phát triển kinh tế xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông nghiệp, nông thôn, tạo tiền đề để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn theo nghị quyết của Đảng. Một vài năm gần đây kinh tế của huyện có bước phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Trước đây nông dân chỉ trồng lúa, giờ đã chuyển sang trồng nhiều loại hoa màu khác nhau. Chăn nuôi cũng phát triển, nhiều trang trại chăn nuôi đã được lập, mô hình VAC được phát triển theo. Giờ đây ngân hàng và người dân có quan hệ với nhau nhiều hơn, nông dân không còn e ngại khi vay vốn ngân hàng.Từ năm 1991 đến 2005, ngân hàng đã cho vay 64600 hộ sản xuất với số tiền gần 770 tỷ đồng. Hiên nay, hơn 5000 hộ có dư nợ với số tiền là hơn 100 tỷ động. Đối với hộ sản xuất có thể vay vốn bằng các phương thưc như: cho vay trực tiếp, cho vay thông qua tổ vay vốn…..Hiện nay, phương thức cho vay qua tổ nhóm được thúc đẩy phát triển. Trong các tổ nhóm vay vốn thì Hội nông dân có dư nợ lớn nhất. Đây là hình thức vay vốn khá hiệu quả, đặc biệt đối với những hộ nông dân và những hộ ở xa ngân hàng. Về cơ chế cho vay đối với hộ sản xuất đã có những chính sách, cơ chế, nghị quyết liên quan đến việc cho vay đối với hộ sản xuất. Mới đây nhất là nghị quyết số 67/QĐ_TTG của thủ tướng chính phủ có quy định: các hộ sản xuất được vay vốn đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản. Các hộ làm kinh tế trang trại được vay đến 20 triệu đồng và nuôi trồng thuỷ hải sản được vay vốn dưới 50 triệu đồng cũng không cần có tài sản thế chấp. Với quy định này đã tạo thuận lợi cho hộ sản xuất có thể vay vốn ở ngân hàng. Như đối với NHNo huyện Đan Phượng thi tài sản thế chấp ở đây chủ yếu là quyền sử dụng đất. Mà tình hình cấp chứng nhận quyền sử dụng đất tại địa phương chưa được giải quyết đầy đủ, nhiệu hộ vẫn chưa được cấp bìa đỏ. Với quy định mới này tạo điều kiện thông thoáng hơn cho hộ sản xuất vay vốn ngân hàng. Kết quả cho vay đối với hộ sản xuất : Đơn vi: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 Tổng dư nợ 141,096 145,838 171,677 Dư nợ cho vay 87,651 79,440 100,715 Dư nợ cho vay HSX/tổng dư nợ 62,1% 54,4% 58,7% Nợ quá hạn 0,694 0,592 0,696 Nợ quá hạn/tổng dư nợ 0,79% 0,74% 0,69% Dư nợ cho vay hộ sản xuất chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng dư nợ của ngân hàng. Năm 2003 tỷ lệ này là hơn 60%. Nhưng hộ sản xuất có tỷ lệ nợ quá hạn cũng khá cao. Dư nợ tăng như vạy vì các hộ chăn nuôi lợn công nghiệp, bò sữa, làng nghề, có nhiều người đi xuất khẩu lao động, hộ làm dịch vụ, kinh doanh vật liệu xây dựng…. cần vốn lớn. Đây là những nhân tố làm cho dư nợ bình quân /1 hộ sản xuất có xu hướng tăng. Năm 2005 dư nợ bình quân/hộ là 0,018 tỷ đồng. * Tuy nhiên, thực hiện cho vay đối với hộ sản xuất vẫn còn một số khó khăn và hạn chế: * Thực trạng hoạt động tín dụng qua tổ nhóm Cho vay qua tổ nhóm là hình thức cho vay gián tiếp rất có hiệu quả. Thông qua đó ngân hàng có thể giải ngân vốn kịp thời, đảm bảo nguyên tắc tín dụng và có hiệu quả cho các hộ nông dân. Đây là tổ chức hội đông đảo, rộng lớn, đổi mới hoạt động sát với lợi ích của các hộ nông dân. Do đó, vốn tín dụng được truyền tải đúng đối tượng, bám sát nhu cầu đảm bảo nhanh chóng, an toàn, hiệu quả vốn vay cho cả ngân hàng cũng như hộ sản xuất. Vay vốn qua tổ nhóm, người dân giảm thiểu chi phí đi lại, tiết kiệm thời gian. Người dân sẽ được tổ trưởng tổ vay vốn hướng dẫn làm hồ sơ vay vốn và họ chỉ phải lên ngân hàng nhân nợ hoặc trả nợ. Nó đặc biệt thuận lợi cho những người ở xa địa điểm giao dịch của ngân hàng. Hình thức cho vay này cũng giúp ngân hàng tuyên truyền sản phẩm của mình đến đông đảo quần chúng nhân dân. Các tổ hội tham gia vay vốn này: Hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh và hội khác. Hiện nay có 111 tổ vay vốn, có 2.778 hộ sản xuất với số tiền là hơn 21 tỷ đồng. Đơn vị: Tỷ đồng Năm Hội nông dân Hội phụ nữ H. cựu chiến binh Tổng cộng Tổ Hộ Tiền Tổ Hộ Tiền Tổ Hộ Tiền Tổ Hộ Tiền 2003 83 1711 4,414 83 2707 8,757 14 321 0,914 180 4739 14,086 2004 66 1191 14,962 42 825 5,546 3 133 0,929 111 2159 21,438 2005 61 1554 11,600 49 1199 9,391 1 25 0,235 111 2778 21,227 Hội nông dân có số tổ tổ vay vốn, số tiền vay nhiều nhất trong các hội. Nhìn vào bảng ta thấy năm 2005 và 2004 số tổ cũng như số hộ vay vốn trong tổ vay vốn giảm rõ rệt, do từ 2004 một số tổ vay vốn được chuyển sang vay NHCSXH. Và hội phụ nữ số tổ giảm hẳn một nửa, số hộ giảm 1825 hộ (giảm gần 70%) nhưng dư nợ của hội chỉ giảm 3208 triệu đồng (giảm 36,6%). Một số hộ chuyển sang vay NHCSXH là những hộ nghèo, số tiền vay không lớn nên không làm giảm nhiều dư nợ của tổ. Nhìn vào hội nông dân thấy rõ điều đó. Tuy số hộ giảm 540 hộ nhưng dư nợ vẫn tăng. Hoạt động tín dụng qua tổ nhóm được ngân hàng chú trọng mở rộng vì thế năm 2005 không có thêm tổ mới nhưng số hộ tham gia tăng thêm 619 hộ. Dư nợ cho vay qua tổ nhóm chiếm trên 10% tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. Cho vay qua tổ nhóm vai trò của người tổ trưởng rất quan trọng, họ như là một cán bộ tín dụng thường trực ở địa phương. Trước hết họ có trách nhiệm hướng dẫn người vay vốn làm hồ sơ vay vốn, rồi kiểm tra tình hình sử dụng vốn của người vay, đôn đốc, nhắc nhở người vay trả nợ đúng hạn. Do là người địa phương, họ hiểu được những nhu cầu của người dân, thường xuyên kiểm tra được tình hình hoạt động của người vay. Vì thế giúp cho việc cho vay của ngân hàng có hiệu quả. Nhưng quyền lợi của họ nhận được chỉ là hoa hồng mà ngân hàng trả cho. Để hình thức cho vay này được mở rộng và có hiệu quả cần tăng thêm quyền lợi cho tổ trưởng tổ vay vốn làm tốt công việc. 2.2 Thực trạng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp Khi nhắc đến NHNo thì người ta nghĩ đến ngân hàng cho vay đối với hộ nông dân, những người làm trong lĩnh vực nông nghiệp. Nhưng do sự phát triển của nên kinh tế, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng, NHNo đã mở rộng cho vay đối với nhiều thành phận kinh tế khác như: mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp. Theo nghị quyết trung ương 5 và chỉ đạo của Thống đốc NHNN Việt Nam đã tập trung chỉnh sửa, ban hành có chế tín dụng, thanh toán trên nguyên tắc hợp tác, bình đẳng đúng luật không phân biệt các thành phần kinh t, chủ trọng phát triển quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp trên địa bàn. Ngày 31/03/2002 chủ tịch hội đồng quản trị NHNo Việt Nam đã ban hành quy định số 72/QĐ-HĐQT-TD về “quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống NHNo Việt Nam” trong đó có một số quy định mới: - Ngoài nhu cầu vốn không được cho vay theo quy định, NHNo Việt Nam có thể đáp ứng nhu cầu vốn để phục vụ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống. - Thời hạn cho vay do NHTM và doanh nghiệp thoả thuận với nhau, căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng, nguồn vốn của ngân hàng. - Mức dư nợ lớn nhất đối với một doanh nghiệp của NHNo Việt Nam là 15% vốn tự có của NHNo Việt Nam. -Vốn tự có tham gia dự án là tối thiểu 10% đối với vay vốn ngắn hạn, 20% đối với vay vốn trung và dài hạn. Đối với hộ sản xuất nông, lâm, ngư , diêm nghiệp vay không có đảm bảo băng tài sản nếu vốn tự có tham gia thấp hơn do giám đốc ngân hàng nơi cho vay quyết định. NHNo Việt Nam có thể sử dụng toàn bộ nguồn huy động trung và dài hạn và 30% nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Tạo điều kiện cho việc mở rộng cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp. NHNo luôn mong nuốn và sẵn sàng đầu tư cho vay đối với tất cả khách hàng, không phân biệt thành phần kinh tế, không phân biệt phạm vi doanh nghiệp nếu khoản vay có đủ điều kiện tín dụng quy định. NHNo huyện Đan Phượng là chi nhánh cấp 2 của NHNo Việt Nam. Với những quy định mới trong cho vay đối với khách hàng đã tạo điều kiện thông thoáng và thuận lợi trong cho vay doanh nghiệp của ngân hàng. Một vài năm gần đây hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Đan Phượng được ngân hàng trú trọng quan tâm mở rộng. Theo nghị quyết của chính phủ số 90/2001/NQ-CP ngày 23/11/2001 thì định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn dăngký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hang năm nhỏ hơn 300 người. Như vậy, các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Đan Phượng hầu hết là các doanh nghiệp nhỏ. Hiện nay có tất cả hơn 50 doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng trong đó có: + 01 DNNN là Xí nghiệp thuốc thú y trung ương + 10 HTX + 02 CTCP: Thạch Bàn và Cồn giấy rượu + 25 CTTNHH + 13 DNTN Tính đến ngày 31/12/2005 thì: + Xí nghiệp thuốc thú y trung ương có dư nợ:hơn 9 tỷ đồng; + HTX CN dệt Tân Lập có dư nợ: 2,6 tỷ đồng (lớn nhất trong các HTX) + CTCP Thạch Bàn có dư nợ: gần 17 tỷ đồng (lớn nhất trong các CTCP+CTTHHH); CTTNHH Xuân Phương là:hơn 5 tỷ đồng (đứng thứ 2). + DNTN Hồng Giang có dư nợ:3,88 tỷ động (lớn nhất trong các DNTN). Hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp của NHNo huyện Đan Phượng: Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 Tổng dư nợ cho vay 141,096 145,838 171,677 Dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp 53,444 66,398 70,962 Dư nợ cho vay doanh nghiệp /tổng dư nợ 37,9% 45,5% 41,3% Dư nợ cho vay DNNN 11,987 9,705 9,262 Dư nợ cho vay HTX 2,661 2,700 4,410 Dư nợ cho vay công ty 32,078 45,838 48,362 Dư nợ cho vay DNTN 6,718 8,155 8,928 Dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp năm 2004 và 2005 tăng so với năm trước đó. + Năm 2004 tăng 12,954 tỷ đồng (tốc độ tăng: 24,2%) + Năm 2005 tăng 4,564 tỷ đồng (tốc độ tăng: 6,9%) Trong đó, dư nợ cho vay của DNNN giảm còn lại các doanh nghiệp khác tăng. Ta thấy dư nợ năm 2004 tăng (giảm) đều lớn hơn nhiều so với số lượng dư nợ cho vay tăng (giảm) của năm 2005. Trong tổng dư nợ cho vay đối với các doanh nghiệp thì dư nợ cho vay của các công ty chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 60% năm 2003, gần 70% năm 2004 và 2005). Vì có tới 27 công ty có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Ngân hàng chủ yếu cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp. Tỷ trọng dư nợ cho vay ngắn hạn/tổng dư nợ cho vay của doanh nghiệp năm 2003:57,5%, năm 2004:72,9%, năm 2005:75,8%. Vì do nhu cầu của các doanh nghiệp chủ yếu là ngắn hạn và một số doanh nghiệp chưa có đủ điều kiện để được vay trung hạn. Hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp khá an toàn vì tỷ lệ nợ quá hạn của doanh nghiệp thấp: năm 2003 và 2004 không có nợ quá hạn, năm 2005 chỉ có CTCP cồn giấy rượu nợ quá hạn 0,210 tỷ đồng. Như vậy, khả năng sử dụng vốn và khả năng thanh toán của các doanh nghiệp là tốt. Đây là điều kiện thuận lợi cho ngân hàng mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp. III. Đánh giá hoạt động tín dụng tại NHNo huyện Đan Phượng 1. Thế mạnh của NHNo huyện Đan Phượng NHNo huyện Đan Phượng là tổ chức tín dụng lớn nhấ trên địa bàn huyện. Chỉ có ngân hàng mới có khả năng đáp ứng những nhu cầu vốn cho mọi đối tượng khách hàng trên địa bàn đặc biệt là những khách hàng là doanh nghiệp. Ngoài ra với các dịch vụ của mình ngân hàng đáp ứng nhu cầu về thanh toán và chuyển tiền của khách hàng. Trong một vài năm gần đây nền kinh tế huyện Đan Phượng đã có nhiều đổi mới, tỷ trọng sản xuất nông nghiệp giảm, thương mại-dịch vụ tăng, nhiều cụm, khu công nghiệp đã đang được xây dựng. Đó là những điều kiện thuận lợi cho ngân hàng có thể mở rộng hoạt động tín dụng của mình. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế huyện hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng đạt được một số kết quả đáng khích lệ: doanh số cho vay, thu nợ, dư nơ 3 năm gần đây đều tăng, thu lãi từ hoạt động tín dụng cũng tăng. Với trình độ, kinh nghiệm và phong cách đổi mới trong giao dịch của các cán bộ tín dụng đã thu hút được nhiều khách hàng đến vay vốn tại ngân hàng cũng như gửi tiền tại ngân hàng. Có được những kết quả đó là do: +Ngân hàng đã luôn nghiên cứu, nắm bắt tình hình kinh tế xã hội của địa phương để có những dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu khách hàng. Nghiêm túc thực hiện sự chỉ đạo của NHNN&PTNT tỉnh. Thực hiện đúng nguyên tắc tín dụng: an toàn, hiệu quả và quản lý được nợ. Các khoản tín dụng đều được kiểm tra chặt chẽ trước trong và sau khi cho vay. Thẩm định tín dụng đã được coi trọng hơn. Các nhân viên tín dụng luôn có sự nhắc nhở kịp thời những khách hàng vay sắp đến ngày trả nợ. Điều đó đôn đốc sự trả nợ của khách hàng. Việc tăng trưởng tín dụng của ngân hàng phải phù hợp với tốc độ tăng trưởng nguồn vốn. Mở rộng tín dụng phải đi đôi với củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng. +Trong cho vay, một số khách hàng thường chây ỳ trong việc trả nợ. Điều đó làm cho các khoản nợ rơi vào tình trạng nợ quá thời hạn, nợ xấu và dẫn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng bị giảm, hiệu quả kinh doanh bị ảnh hưởng. Để giải quyết tình trạng đó, ngân hàng luôn quan tâm dến chất lượng tín dụng, có biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng, thực hiện xử lý nợ đến hạn, nợ quá hạn một cách triệt để. Luôn có sự nhắc nhở kịp thời các chủ nợ đến ngày trả nợ. Trong năm qua ngân hàng đã phối hợp với chính quyền địa phương các xã trong huyện thành lập các tổ thu hồi xử lý nợ và đã thành lập được 12 xã/16 xã, thị trấn trong huyện. Nhờ đó 800 triệu đồng nợ quá hạn đã được thu hồi, giảm đảng kể tỷ lệ nợ quá hạn trong cho vay của ngân hàng. Giải quyết vấn đề nợ quá hạn, nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng, hạn chế được sự chây ỳ trong trả nợ của khách hàng, từ đó tạo cơ sở để ngân hàng mở rộng tín dụng trong thời gian tới. +Để vay được vốn tại ngân hàng, khách hàgn phải có một bộ hồ sơ tín dụng gồm một số giấy tờ: đơn xin vay, phương án sản xuất kinh doanh, biên bản thẩm định…. Tuỳ từng hình thức vay mà có bộ hồ sơ riêng phù hợp. Để hoàn tất một bộ hồ sơ tín dụng thì nhân viên tín dụng phải làm việc nghiêm túc, chấp hành đúng nguyên tắc, điều luật trong cho vay. Việc đánh giá một tài sản đảm bảo, thế chấp hay một phương án sản xuất kinh doanh là một vấn đề hết sức khó khăn. Đó là những vật đảm bảo cho chất lượng tín dụng của ngân hàng. Đặc biệt là việc theo dõi quá trình sử dụng vốn của các chủ nợ. Nhưng trong năm qua với sự nỗ lực của các nhân viên tín dụng những khó khăn đó đã dần được tháo gỡ. Những món vay chứa đựng ít rủi ro hơn. +Trong công tác tín dụng, để đánh giá được chất lượng của các khoản vay thì trình độ chuyên môn nghiệp vụ của từng nhân viên tín dụng đóng một vai trò rất quan trọng. Có thể nói đó là một yếu tố mang tính quyết định đến chất lượng tín dụng. Nắm bắt được tầm quan trọng đó, ban lãnh đạo cũng đã thường xuyên giáo dục đạo đức nghề nghiệp và kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ điều hành tác nghiệp trong công tác tín dụng. Ngân hàng đã tổ chức học tập các qui chế tín dụng và kiến thức của ngành cho các nhân viên để nâng cao ttrình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Những văn bản pháp luật mới, qui chế mới đều được cập nhật và phổ biến cho các cán bộ một cách nhanh chóng, kịp thời. Nhờ đó, trong hoạt động tín dụng đã hạn chế được những sai sót trong quá trình tác nghiệp. +Ngân hàng cũng đã thực hiện việc phân tích, phân loại nợ, phân loại khách hàng một cách nghiêm túc. Đối với những khoản vay kém hiệu quả, có khả năng mất vốn kiên quyết từ chối cho vay. Đẩy mạnh việc cho vay đối với những khách hàng có tiềm năng tài chính và có dự án khả thi. +Là một NHNo, đối tượng cho vay chính nhằm vào các hộ sản xuất trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. Vì thế, ngân hàng đã thực hiện chủ trương mở rộng cho vay đối với các hôn sản xuất trong khu vực này vã chiếm lĩnh thị phần tín dụng tại khu vực nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn. Ngân hàng đã phối hợp với các đoàn thể như Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ… để tuyên truyền về các chính sách tín dụng và hướng dẫn các tổ nhóm trong việc vay nốn. Hiện nay đã có hơn 100 tổ nhóm tham gia vay vốn với số vốn vay là trên 20 tỷ đồng, các tổ nhóm đều hoạt động tốt. +Ban lãnh đạo NHNo huyện Đan Phượng luôn coi trọng công tác kiểm tra, kiểm soát. Thường xuyên kiểm tra và duy trì các biện pháp giám sát có bài bản, luôn xuống các phòng ban để kiểm tra, xem xét tình hình làm việc của các cán bộ. Từ đó kịp thời phát hiện những sai sót, uốn nắn và khắc phục những tồn tại. Thành lập đoàn kiểm tra chéo giữa các khu vực ngân hàng trung tâm và ngân hàng cấp 3. Với sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ trong năm 2005 đã thực hiện đối chiếu 16/16 xã có dư nợ tín dụng. Số hộ vay vốn trên toàn địa bàn là 4391 hộ với tổng số tiến là 76,402 tỷ đồng. Qua thực hiện đối chiếu đã kịp thời chấn chỉnh những sai sót quá trính sử dụng vốn vay của các hộ góp phần củng cố chất lượng tín dụng. Nhìn chung trong năm 2005 đã không xảy ra sai sót lớn. Trong năm 2005 thực tế đã kiểm tra được 4.101 hộ vay với số tiền là 68,136 tỷ đồng; và 72 tổ nhóm đã được kiểm tra và thực tế đã kiểm tra cụ thể 1.296 hộ, số tiền là 10,368 tỷ đồng bảo đảm an toàn vốn tín dụng. Trong đợt thanh tra của ngân hàng tỉnh năm 2005, NHNo huyện Đan Phượng cũng đã tích cực giúp đỡ đoàn thanh tra để cuộc thanh tra được thực hiện một cách nghiêm túc, có kết quả chính xác. Và kết quả sau thanh tra là hoạt động tín cụng của NHNo huyện Đan Phượng có chất lượng, an toàn, bền vững được phát huy tốt. Những kết quả đánh giá đó đã tạo điều kiện cho hoạt động tương lai của ngân hàng được bền vững. Trong bất cứ ngành nghế nào, lĩnh vực nào, công việc kiểm tra, kiểm soát là hết sức cần thiết và có một vai trò quan trọng. Vì thế, NHNo huyện Đan Phượng đã thực hiện một cách nghiêm túc và chặt chẽ công tác này. 2. Hạn chế, khó khăn và nguyên nhân Bên cạnh những kết quả đạt được trong hoạt động tín dụng tại NHNo huyện Đan Phượng thì còn nhiều hạn chế và khó khăn: * Cho vay đối với hộ sản xuất: - Nhiều hộ sản xuất là tối tượng thường xuyên của ngân hàng, có tín nhiệm trong quan hệ vay vốn với ngân hàng. Nhưng mỗi lần vay phải làm hồ sơ vay vốn mới gây tốn kém và mất thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng. - Khó khăn trong việc thẩm định cho vay đối với khách hàng là hộ sản xuất đặc biệt là hộ nông dân. Tài sản của hộ là tài sản đồng sử dụng của nhiều người nên khi vay phải có chứng thực của những người đó. Hộ sản xuất trong lĩnh vực có nhiều rủi ro khách quan. Thu nhập của hộ từ nhiều nguồn nhưng nhở lẻ và không ổn định. - Hiện nay, nhu cầu vốn đối với các hộ cũng ngày càng tăng, quy mô hộ lớn hơn. Vì thế, cần nâng mức cho vay không cần tài sản thế chấp cho hộ hoàn trả nợ đúng hạn cho ngân hàng và không có bị nợ quá hạn. * Cho vay đối với các doanh nghiệp: - Về điều kiện tài sản thế chấp. Theo quy định khi thế chấp, cầm cố, bảo lãnh bằng tài sản, tài sản phải thuộc quyền sở hữu của khách hàng vay, bên bảo lãnh. Trường hợp tài sản mà pháp luật quy định phải có đăng ký quyền sở hữu thì khách hàng vay, bên bảo lãnh phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu. Với NHNo huyện Đan Phượng, chỉ cho thế chấp băng quyền sở hữu đất. Mà việc cấp chứng nhận quyền sở hữu đất tại Đan Phượng đang là vấn đề khó khăn, nhiều hộ chưa được cấp sổ đỏ. Chính vì thế mà gây khó khăn trong vay vốn của ngân hàng. - Doanh nghiệp muốn vay vốn ngân hàng phải có 30% vốn tự có tham gia dự án. Trong khi vốn tự có thấp, phần lớn lại có nhu cầu vay ngân hàng tới 80% tổng vốn cho dự án. - Hơn nữa việc định giá tài sản thế chấp là theo khung giá của nhà nước, mức giá này thấp hơn nhiều so với giá thị trường + mức cho vay tối đa bằng 70% giá trị tài sản thế chấp. Vì thế mà doanh nghiệp chỉ có thể vay được số vốn nhỏ hơn nhiều so với giá trị thực tế của tài sản thế chấp. - Điều kiện về tài sản thế chấp không đảm bảo nhưng hình thức vay vốn bằng tín chấp lại không được áp dụng tại NHNo huyện Đan Phượng. - Ngân hàng không dám mạnh dạn cho vay, nhất là đối với khoản vay lớn không có tài sản bảo đảm mặc dù doanh nghiệp đó kinh doanh tốt, có dự án tốt có khả năng sinh lời cao. Chương III : Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tại NHNo huyện Đan Phượng I. Định hướng phát triển của NHNo huyện Đan Phượng Nhằm phát huy những thành tích đã đạt được trong năm 2005, khắc phuc khó khăn, tồn tại ngân hàng đã đặt ra cho mình mục tiêu cụ thể trong năm 2006: - Nguồn vốn huy động: 280 tỷ đồng, tăng 57 tỷ đồng so với năm 2005, tốc độ tăng trưởng 26% - Dư nợ cho vay: 210 tỷ, tăng 38 tỷ so với năm 2005, tốc độ tăng trưởng 22% - Tỷ lệ nợ quá hạn ở mức < 1%/ tổng dư nợ - Duy trì và phát triển phong trào thi đua, phấn đấu trở thành cơ sở văn hoá. Để đạt được các mục tiêu đề ra, ngay từ đầu năm ngân hàng đã giao kế hoạch năm 2006 cho các phòng, các ngân hàng cấp 3 và cho từng cá nhân. Chú trọng đến các chương trình chuyể dịch cơ cấu kinh tế, các dự án cụm, điểm công nghiệp của huyện. Mở rộng cho vay thông qua tổ nhóm, tạo thuận lợi tối đa cho nông dân vay vốn phát triển sản xuất. Tiếp tục triển khai đề án phát triển dịch vụ ngân hàng, chuẩn bị triển khai lắp đặt hệ thống máy rút tiền tự động ATM và các thiết bị thanh toán thẻ. Hiện đại hoá hệ thống ngân hàng: đưa hệ thống world bank vào trong hoạt động của ngân hàng, tiến tới thực hiện “giao dịch một cửa”. Khách hàng mục tiêu là nông dân, hộ sản xuất. II. Một số giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tại NHNo huyện Đan Phượng. Trước thực trạng hoạt động tín dụng của NHNo huyện Đan Phượng cho thấy bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những khó khăn và hạn chế. Để khắc phuc những tồn tại đó, đưa ngân hàng phát triển theo những định hướng đã vạch ra cần thực hiện các giải pháp sau: 1. Giải pháp chủ yếu Khi khách hàng đến quan hệ tín dụng với ngân hàng, điều mà khách hàng quan tâm là mức lãi suất cho vay và qui trình, điều kiện vay vốn như thế nào. Như vậy nhân tố tác động trực tiếp đến hoạt động tín dụng của ngân hàng là lãi suất và qui trình, điều kiện vay vốn. Một trong những giải pháp cho việc mở rộng tín dụng ngân hàng là giảm mức lãi suất cho vay và thông thoáng hơn, giảm bớt thủ tục vay vốn. 1.1. Giảm lãi suất cho vay Lãi suất cho vay có tác động trực tiếp tới khoản vay. Vì đây là một khoản chi phí vốn không nhỏ của người vay vốn nhưng nó lại là một khoản thu nhập của ngân hàng. Ngân hàng phải cân băng trong việc đảm bảo thu nhập nhưng vẫn thu hút khách hàng tham gia vay vốn tại ngân hàng. Mức lãi suất cho vay phụ thuộc vào số tiền vay và thời hạn của khoản vay đó. Thời hạn vay càng dài thì lãi suất càng cao. Lãi suất khoản vay = số tiền vay * mức lãi suất Tất cả các khoản vay phải được định giá ở mức có thể bù đủ tất cả các chi phí liên quan: chi phí huy động vốn, chi phí hoạt động, chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, chi phí thanh khoản, chi phí vốn chủ sở hữu. Lãi suất là một trong các công cụ để các ngân hàng cạnh tranh nhau. Huyện Đan Phượng có 1 NHNo, 1 NHCSXH và QTDND là 3 tổ chức tín dụng thực hiện cho vay. Trong đó NHCSXH chủ yếu cho vay những hộ nghèo còn QTDND nguồn cho vay lại không lớn. Vì thế chỉ có NHNo huyện Đan Phượng mới có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho mọi khách hàng trên địa bàn. Nhưng không vì thế mà ngân hàng áp dụng mức lãi suất cho vay cao. Hiện nay, có các loại lãi suất cho vay : - Lãi suất cho vay trong hạn gồm 2 loại: + Lãi suất thả nổi: là loại lãi suất được ngân hàng điều chỉnh lại theo định kỳ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng hoặc 1 năm. + Lãi suất cố định: là lãi suất không thay đổi trong suốt thời hạn của khoản vay. Trong một số trường hợp, ngân hàng có thể thoả thuận với khách hàng vay vốn áp dụng cả 2 loại lãi suất trên. - Lãi suất cho vay quá hạn: thường cao hơn lãi suất cho vay trong hạn song tối đa không quá 150% so với lãi suất cho vay trong hạn. NHNo huyện Đan Phượng chủ yếu là áp dụng lãi suất cố định. Nhưng hiện nay các ngân hàng đang dần chuyển sang thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận- ngân hàng và khách hàng cùng nhau thoả thuận về lãi suất cho vay. Với lãi suất thoả thuận sẽ phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, nó giúp cho ngân hàng tự chủ hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Khi ngân hàng cấp 1 chưa thực hiện cơ chế lãi suất này thì nó muốn áp dụng tại một ngân hàng cấp 2 là khó khăn và phải là một ngân hàng cấp 2 có chất lượng hoạt động tốt, hiện đại và mạnh dạn trong đầu tư. Với NHNo huyện Đan Phượng là ngân hàng cấp 2, mô hình hoạt động nhỏ, nghiệp vụ ít nên càng khó có thể áp dụng được, đó là mục tiêu tiến tới trong tương lại của ngân hàng. Trong tương lại gần thì ngân hàng cũng nên thực hiện mức lãi suất ưu đãi cho một số đối tượng khách hàng vay vốn. Như với những khách hàng có quan hệ lâu dài với ngân hàng, có uy tín, sòng phẳng trong trả nợ, có kết quả kinh doanh tốt thì ngân hàng nên giảm lãi suât cho vay với những khách hàng đó và tạo điều kiện thông thoáng hơn trong thủ tục và điều kiện cho vay. Như thế không những giữ được quan hệ tốt với khách hàng truyền thống mà còn thu hút được khách hàng mới, khuyến khích những khách hàng khác hoàn thành tôt việc trả nợ ngân hàng để được trong nhóm khách hàng được vay với lãi suất ưu đãi. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Đối tượng nữa mà ngân hàng nên giảm lãi suất cho vay là những tổ trưởng tổ vay vốn hoàn thành tôt nhiệm vụ. Vì khách hàng mục tiêu của ngân hàng vẫn là hộ sản xuất và hình thức cho vay qua tổ nhóm rất có hiệu quả. Việc quản lý tình hình hoạt động của các hộ là khó khăn vì số lượng hộ nhiều, nhiều hộ ở xa ngân hàng, lĩnh vưc sản xuất có nhiều rủi ro, trình độ hộ thấp…Chính vì vậy ngân hàng nên khuyến khích hình thức vay vốn này phát triển. Vay vốn qua tổ nhóm, tổ trưởng có trách nhiêm hướng dẫn tổ viên làm hồ sơ vay vốn, đôn đốc họ trong việc trả nợ ngân hàng, giám sát tình hình sản xuất của hộ…..đồng thời quan tổ trưởng tổ vay vốn các dịch vụ của ngân hàng đến được với người dân. Trong khi trách nhiệm thì nhiều mà quyền lợi chỉ được hưởng hoa hồng do ngân hàng trả. Vì thế nên có thêm ưu đãi cho tổ trưởng tổ vay vốn như giảm lãi suất cho vay khi họ đến vay vốn. 1.2. Điều chỉnh, giảm bớt thủ tục và điều kiện vay vốn Thủ tục và điều kiện vay vốn là những lý do mà khách hàng e ngại khi đến vay vốn ngân hàng đặc biệt đối với khách hàng là nông dân. Hồ sơ vay vốn nhiều giấy tờ, thủ tục, một số lại liên quan đến cả chính quyền xã, huyện. Để mở rộng được hoạt động tín dụng ngân hàng cần phải đơn giản hoá các thủ tục và điều kiện vay vốn. Với mỗi đối tượng khách hàng khác nhau thì hồ sơ vay vốn có khác nhau: - Đối với khách hàng là cá nhân, hộ sản xuất thì hồ sơ gồm: hồ sơ pháp lý, hồ sơ vay vốn, hợp đồng tín dụng . - Đối với khách hàng là doanh nghiệp thì có thêm hồ sơ kinh tế. - Đối với khách hàng vay nhu cầu đời sống thì chỉ có: giấy đề nghị vay vốn và hồ sơ đảm bảo tiền vay theo quy định. Trong bộ hồ sơ dùng cho khách hàng là hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác thực hiện vay vốn có đảm bảo bằng tài sản thì trong Giấy đề nghị vay vốn không cần phải có xác nhận của UBND xã. Như thế khách hàng chỉ cần lên ngân hàng 1 lần là có thể vay được vốn. Sự xác nhân của xã chỉ xác nhận là khách hàng đúng đang cư chú tại xã đó, nó không có ảnh hưởng gì đến quyết định có cho vay hay không của ngân hàng. Một trong những điều kiện vay vốn là khách hàng phải có tài sản đảm bảo Với NHNo huyện Đan Phượng thì tài sản đảm bảo là sổ đo (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Nhiều hộ lại không có sổ đỏ vì thế không vay được vốn. Ngân hàng nên mở rộng thêm tài sản đảm bảo như: chấp nhận hình thức tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay. 2. Giải pháp bổ trợ 2.1. Xây dựng, hoàn thiện và đổi mới chiến lược khách hàng Chiến lược khách hàng có vai trò quan trọng đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Nó tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa khách hàng và ngân hàng đồng thời tạo dựng hình ảnh của ngân hàng. Ngân hàng phải luôn coi trọng 5 yếu tố khi nghiên cứu về khách hàng: ai là khách hàng của ngân hàng?, họ muốn gì?, tại sao?, thời gian nao?, ở đâu?. Đây là 5 câu hỏi ngân hàng cần trả lời để xác định xem khách hàng của mình thuộc loại nào, có đặc điểm gì và nhu cầu gì để có chính sách, biện pháp đáp ứng kịp thời. Bên cạnh đó ngân hàng phải thường xuyên đánh giá, xếp loại khách hàng để có những chiến lược phù hợp với từng khách hàng. Việc xây dựng và phát triển chiến lược khách hàng thuộc trách nhiệm của ban lãnh đạo ngân hàng. Chiến lược khách hàng phải được xây dựng cùng với chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Để hoàn thiện và phát triển nó, ngân hàng cần tăng cơ sở vật nhằm phục vụ việc thực thi mối quan hệ với khách hàng. Khách hàng có quan hệ tốt với ngân hàng nên có những chính sách ưu đãi: đơn giản thủ tục cho vay, giảm một phần lãi suất cho vay, có thể giao dịch ngoài giờ làm việc. 2.2. Tổ chức cung cấp “dịch vụ tín dụng tại nhà” đối với hộ sản xuất Có nhiều hộ ở xa ngân hàng, việc đi lại là khó khăn, tốn kém và mất thời gian. Thêm nữa là việc kiểm tra, quản lý của cán bộ tín dụng không được sâu, sát. Với “ dịch vụ tín dụng tại nhà” sẽ giải quyết được khó khăn trên, cán bộ tín dụng sẽ có thể nắm bắt được thực tế tình hình sản xuất cũng như đời sống của hộ. 2.3. Cung cấp thêm dịch vụ tư vấn bên cạnh dịch vụ tín dụng Cán bộ tín dụng không những là người thạo quy trình nghiệp vụ cho vay mà phải am hiểu mọi lĩnh vực thì mới đánh giá được phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng có khả thi hay không. Trong khi đó trình độ của người dân không cao, họ rất cần những tư vấn để việc sản xuất của họ có hiệu quả nhất. Dịch vụ tư vấn giúp khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả hơn, ngân hàng có thể thu nợ đúng hạn. Có rất nhiều người dân không biết thủ tục vay vốn, không biết cách làm một bộ hồ sơ vay vốn hay họ không nắm bắt được tình hình thị trường cũng như không biết sử lý như thế nào khi có rủi ro xảy ra. Với dịch vụ tư vấn trước hết giúp người dân làm một bộ hồ sơ vay vốn để họ có thể chủ động hơn trong việc vay vốn ngân hàng, nhanh chóng nhận được vốn vay và không bị lỡ mất kế hoạch chỉ vì mất thời gian làm hồ sơ vay vốn. Hơn nữa dịch vụ sẽ cung cấp cho khách hàng những thông tin cần thiết cho viêc sản xuất kinh doanh của mình có hiệu quả. 2.4. Mở rộng cho vay qua tổ nhóm Theo trên phân tích ta đã thấy tầm quan trọng của cho vay qua tổ nhóm và hiệu quả của nó. Ngoài những cái đã đề xuất cho quyền lợi của tổ trưởng tổ vay vốn để khuyến khích họ hoàn thành tốt nhiệm vụ thì xin nêu ra 1 đề xuất nữa. Đối với tổ viên tổ vay vốn nên tăng mức cho vay không cần tài sản đảm bảo lên nhỏ hơn 20 triệu đồng. Vì hiện nay nhu cầu vay vốn của hộ đã tăng hơn trước và tình hình tài sản thế chấp tại địa phương còn nhiều khó khăn trong khi hoạt động tín dụng của tổ vay vốn lại có hiệu quả. 2.5. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận được vốn ngân hàng Doanh nghiệp muốn vay được vốn ngân hàng thủ tục chặt chẽ hơn, đặc biệt vấn đề về tài sản thế chấp, cầm cố. Vì thế cần giảm thiểu tối đa tình trạng hình sự hoá hoạt động tín dụng để ngân hàng tăng cường cho các doanh nghiệp vay vốn thế chấp hoặc tín chấp. Thúc đẩy nhanh việc triển khai hoạt động các quĩ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đổi mới tư duy cho vay (tư duy có tài sản đảm bảo thay bằng tư duy thẩm định) nghĩa là quyết định cho vay không qúa phụ thuộc vào tài sản thế chấp mà chỉ cần phương án kinh doanh tốt, năng lực tài chính tốt. Ngân hàng nên tham gia dự án như một nhà đầu tư. 2.6. Nâng cao chất lượng tín dụng Chất lượng tín dụng luôn là một vấn đề mà ngân hàng phải quan tâm. Đây là yếu tố ảnh hưởng đên hoạt động tín dụng của ngân hàng. Trước hết là ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng, sau là đến hình ảnh của ngân hàng….. Không một ngân hàng hoạt động lại không gặp rủi ro, lại không có những khoản vay nợ quá hạn. Vì thế ngân hàng phải có biện pháp giảm thiếu những rủi ro đó. Trước hết mọi khoản phải thực hiện đúng theo chế độ, điều kiện quy định. Thực hiện phân loại nợ theo văn bản hiện hành, đặc biệt là nợ quá hạn để có biện pháp sử lý kịp thời. Củng cố mạng lưới tiếp cận khách hàng. 2.7. Nâng cao trình độ cho cán bộ tín dụng Cán bộ tín dụng là người giúp khách hàng làm hồ sơ vay vốn, là người thẩm định phương án sản xuất kinh doanh sau đó trưởng phòng tín dụng kiểm tra lại và trình giám đốc. Giám đốc căn cứ vào hồ sơ vay vốn để quyết định có cho vay hay không. Như vậy vai trò của cán bộ tín dụng không thể thiếu được trong quy trình cho vay của ngân hàng, đó là bước đầu để khách hàng có thể vay được vốn ngân hàng. Cán bộ tín dụng không những phải thạo nghiệp vụ mà còn phải am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì thế ngân hàng cần phải có những lớp bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ tín dụng thường xuyên. Đặc biệt với sự phát triển nhanh của nền kinh tế cũng như sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin thì mọi thứ nhanh chóng trở nên lỗi thời, nhiều công nghệ mới ra đời, nhiều nhu cầu mới nảy sinh, nếu không thường xuyên nâng cao trình độ sẽ bị tụt hậu. Với những cán bộ trẻ ngân hàng nên khuyến khích, tạo điều kiện cho họ đi học. Hiện nay, nhiều cán bộ chuẩn bị về nghỉ chế độ vì thế ngân hàng cần tuyển thêm cán bộ để họ quen dần công việc. 2.8. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng Tiếp tục đổi mới hệ thống thiết bị máy vi tính, nên trang bị thêm máy vi tính cho phòng kinh doanh. Tiến tới tiếp nhận và triển khai thực hiện mang WAN và áp dụng chương trình giao dịch một cửa. III. Một số kiến nghị 1. Kiến nghị với các cơ quan liên quan Đề nghị chính quyền địa phương nơi có trách nhiệm cấp sổ đỏ tạo điều kiện thuận lợi cho những hộ chưa có sổ đỏ được cấp sổ đỏ. Theo thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT/NHNN ngày 23/04/2001 thì thông tư chưa đề cập đến những biện pháp kiên quyết mang tính cưỡng chế trong việc giải toả tài sản bảo đảm, nếu khách hàng vay, bên bảo lãnh không giao tài sản cho ngân hàng. Thành lập Phòng đăng ký giao dịch trên địa bàn các huyện để tạo thuận tiện cho khách hàng nhanh chóng hoàn thành thủ tục vay vốn. Để ngân hàng có quyền tự chủ hơn trong việc xử lý các tài sản thế chấp. 2. Kiến nghị với NHNN Tại điều 19 quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN có quy định những trường hợp không được cho vay. Như thế những đối tượng đó dù có tài sản đảm bảo (sổ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi…) cũng không được phép vay vốn là không phù hợp, chưa phù hợp với quy định về gửi tiền tiết kiệm là khách hàng có thể cầm cố sổ tiết kiệm…chưa đến hạn để vay vốn. Đề nghị sửa lại là cho vay với đối tượng đó khi có tài sản đảm bảo. 3. Kiến nghị với NHNo tỉnh Hà Tây Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về nghiệp vụ tín dụng, thẩm định và pháp luật để nâng cao trình độ cho cán bộ. Sửa đổi chính sách tiền lương cho phù hợp hơn. Ví dụ tiền lương phụ thuộc vào tỷ lệ gia hạn nợ, nợ quá hạn …nếu được phân công quản lý khách hàng khó khăn, có nợ quá hạn …..thì cán bộ phụ trách thường xếp hạng thấp. Triển khai nhanh chóng hệ thống và chương trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng kết hợp với bảo mật hiệu quả. Viêc triển khai hệ thống hiện đại hoá tạo điều kiện cho việc thu thập thông tin đối với khách hàng trong hệ thống nhanh chóng. Kết luận Tín dụng có một vai trò quan trọng không những đối vớ cá nhân, doanh nghiệp mà còn với cả nền kinh tế. Trước hết, nó đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh được thường xuyên, liên tục và mở rộng. Sau là giúp cho Chính phủ có thể thực hiện được các chính sách xã hội của mình. Cùng với sự phát triển của ngành ngân hàng, hoạt động tín dụng cũng ngày càng phong phú và đa dạng: có nhiều phương thức cho vay, đáp ứng mọi nhu cầu về vốn cho khách hàng. Nhưng hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng. Và những rủi ro tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng. Vì thế đồng nghĩa với mở rộng tín dụng ngân hàng phải có những biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Với Việt Nam, hoạt động ngân hàng cũng có bước phát triển trong đó có hoạt động tín dụng. Đối tượng vay vốn ngân hàng ngày càng đa dạng, ở mọi ngành nghế, lĩnh vực, nhu cầu về vốn cũng lớn dần. Đồng nghĩa với nó là tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn. Do ngành ngân hàng đang trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới và hiện đại hoá nên không tránh khỏi những khó khăn và hạn chế. Trong hoạt động tín dụng cũng vậy: khung pháp lý còn một số điểm chưa hợp lý, thủ tục và điều kiện vay vốn còn nhiều gây khó khăn cho khách hàng đến vay như: điều kiện về tài sản thế chấp, hiệu quả sử dụng vốn của nhiều khách hàng không tốt….. Là một chi nhánh cấp 2 của NHNo Việt Nam, NHNo huyện Đan Phượng trong thời gian qua đã đạt được những kết quả hết đáng khích lệ. Ngân hàng đã thu hút được nhiều khách hàng đến gửi tiết kiệm dẫn đến nguồn huy động các năm của ngân hàng đều tăng. Dư nợ tăng cả ở đối tượng khách hàng là hộ sản xuất và doanh nghiệp. Bên cạnh đó trong hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng gặp nhiều hạn chế như: vấn đề về tài sản thế chấp- ngân hàng chủ yếu là cho thế chấp bằng quyền sử dụng đất nhưng nhiều hộ lại chưa được cấp chứng nhận quyền sử dụng đất. Trình độ dân trí trên địa bàn không cao nên ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Ngân hàng cho vay phần lớn là các hộ sản xuất mà việc thẩm định đối với hộ sản xuất gặp nhiều khó khăn. Thêm nữa công nghệ ngân hàng lạc hậu, thiếu, đội ngũ cán bộ tuổi đời cao. Vì thế để mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng cần giải quyết những khó khăn trên: nên cho vay thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay, mở thêm dịch vụ tư vấn khách hàng, trang bị thêm máy vi tính, trẻ hoá đội ngũ cán bộ. Đề hoàn thành tốt chuyên đề này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn TS. Hoàng Xuân Quế cùng với sự hướng dẫn của các cán bộ NHN0 &PTNT huyện Đan Phượng. Em mong được sự góp ý chân thành của giáo viên hướng dẫn và các thầy cô trong Khoa để hạn chế thiếu sót trong chuyên đề này. Mục lục Trang Tài liệu tham khảo Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Ngân hàng thương mại TS.Phan Thị Thu Hà - NXB Thống kê năm 2002 2. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại - GS.TS. Lê Văn Tư - NXB Tài chính năm 2005. 3. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại -David Cox- NXB Chính trị quốc gia năm 1997 4. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - TS. Nguyễn Hữu Tài - NXB Thống kê năm 2002. 5. Tạp chí ngân hàng 6. Tạp chí Tài chính tiền tệ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36338.doc
Tài liệu liên quan