Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương chi nhánh Tây Hà Nội

Thẩm định tài chính dự án đầu tư chỉ là một trong những khía cạnh cần phải tiến hành xem xét đối với mỗi dự án trước khi ra quyết định đầu tư, cho phép đầu tư dự án, đặc biệt dưới góc độ NHTM (nhà tài trợ lớn). Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong việc thực hiện mở rộng tín dụng an toàn hiệu quả của các NHTM. Những đây cũng là vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng, vì vậy phải có sự nghiên cứu sâu sắc, toàn diện trước khi có thể đưa ra những giải pháp đồng bộ phối hợp nỗ lực của các biện pháp liên quan. Trong thời gian thực tập tại NHTMCP CT Việt Nam Chi nhánh Tây Hà Nội. em đã đi tìm hiểu, nghiên cứu kỹ và viết chuyên đề “Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại NHTMCP CT Việt Nam Chi nhánh Tây Hà Nội”. Em nhận thấy rằng những kiến thức được biết trong sách vở và trên nghế nhà trương khác xa với thực tiễn, trình độ công nghệ thẩm định dự án ở Việt Nam còn hạn chế và lạc hậu so với công nghệ thẩm định của các nước trên thế giới. Nhưng sự phát triển của nghành Ngân hàng nói chung và công tác thẩm định nói riêng phải ánh trình độ phát triển của nền kinh tế. Trong điều kịên kinh tế của chúng ta hiện nay chưa thích ứng với những phương pháp thẩm định tiên tiến, nhưng không hẳn là chúng ta bỏ qua những phương pháp thẩm định đó mà cần phải nắm vững nhằm đáp ứng nhu cầu trong tương lai. Chủ để nghiên cứu này không hoàn toàn mới, song nó luôn là vấn đề cấp thiết và sự quan tâm hàng đầu trong quá trình kinh doanh của Ngân hàng nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Từ những kiến thức đã tổng hợp và phân tích đã được diễn giải thành bài viết, do đó bài viết chứa đựng những kiến thức cơ bản được học tại trường và thực tiễn tại NHTMCP CT Việt Nam Chi nhánh Tây Hà Nội, bên cạnh đó là những đề xuất mang tính chủ quan được xuất phát từ phương pháp nghiên cứu tư duy biện chứng, được gắn với thực tiến NHCT Việt Nam. Những điểm yếu của NHTMCP CT Chi nhánh Tây Hà Nội cũng là những khó khăn chung của NHTM Việt Nam. Mặc dù có sự hạn chế kinh nghiệm, cách tiếp cận thực tế cũng như khả năng phân tích, đánh giá song em cũng mạnh dạn đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại NHTMCP CT Chi nhánh Tây Hà Nội dù những giải pháp và kiến nghi được đưa ra trong bài viết này chỉ la một phần trong hàng loạt các giải pháp đồng bộ cần được thực hiện trong thời gian tới nhằm đổi mới hệ thống Ngân hàng Việt Nam.

doc81 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1541 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương chi nhánh Tây Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h. Kết quả là đến nay vẫn còn nhiều dự án ở tình trạng khó thu nợ hay nợ quá hạn không có khả năng thanh toán, buộc Ngân hàng phải có biện pháp tháo gỡ như gia hạn nợ, giảm lãi suất cho vay, thu nợ gốc trước thu lãi sau,… trở thành gánh nặng đối với Chi nhánh NHTMCP CT Tây Hà Nội Thứ hai, Nội dung phương pháp thẩm định tài chính dự án, việc sử dụng các chỉ tiêu tài chính chưa thực sự có hiệu quả. Trong thẩm định tổng vốn đầu tư cũng như cơ cấu tốc độ bỏ vốn đầu tư Chi nhánh NHTMCP CT Tây Hà Nội thường chấp nhận những dự toán của chủ đầu tư đưa ra trong dự án mà chưa cân nhắc đánh giá một cách kỹ lưỡng. Điều này đôi khi gây ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của Ngân hàng trong tương lai. Thứ ba, Nguồn thông tin mà cán bộ thẩm định sử dụng để thẩm định dự án và thẩm định tài chính dự án còn nhiều hạn chế, độ tin cậy chưa cao. Nguồn dùng trong thẩm định vẫn chủ yếu là do Doanh nghiệp cung cấp cho Chi nhánh, chính bản thân cán bộ thẩm định cũng gặp nhiều khó khăn trong việc xác định lại độ chính xác và cập nhật của các thông tin này. Nguồn thông tin này không được các cơ quan độc lập chứng nhận, do đó dễ gây ra tình trạng gian lận từ phía khách hàng để việc vay vốn của mình được thuận lợi hơn, dễ gây ra sai lệch trong quá trình đánh giá hiệu quả tài chính của sự án và nhầm lẫn trong quyết định cho vay của Chi nhánh NHTMCP CT Tây Hà Nội Thứ tư, Tiến độ thẩm định chưa thật sự nhanh chóng. Một số dự án còn gặp phải tình trạng thời gian thẩm định kéo dài do các phòng tiến hành thẩm định và phân tích, lập tờ trình lên Ban lãnh đạo, hoặc do việc bổ sung thông tin được đề nghị nhưng không có sự phản hồi nhanh chóng từ phía Doanh nghiệp,… Điều này gây ảnh hưởng không chỉ đến cơ hội đầu tư của khách hàng mà còn tác động đến nguồn vốn của Chi nhánh trong công tác cho vay. Nguyên nhân: * Nguyên nhân khách quan: - Thứ nhất, Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn phát triển toàn diện và chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, do vậy nền kinh tế còn có nhiều khó khăn, bất ổn và dễ chịu những tác động từ bên ngoài. Nền kinh tế thị trường còn chưa được định hình một cách rõ ràng, do vậy các hoạt động kinh tế còn gặp phải nhiều khó khăn, thách thức, đồng thời còn phải đương đầu với nhiều rủi ro, bất ổn trong quá trình hội nhập và phát triển hiện tại. Có thể nói đây là cội nguồn của các nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác thẩm định tài chính dự án tại các NHTM. - Thứ hai, hệ thống thông tin trong nền kinh tế giúp cho công tác thẩm định tài chính dự án còn nghèo nàn và thiếu thốn, chưa có hệ thống, thiếu tính cập nhật và độ chính xác cần thiết - những yếu tố hết sức cần thiết trong công tác thẩm định dự án. Các Ngân hàng vẫn phải dựa vào các nguồn thông tin từ phía khách hàng là chủ yếu mà đa số các nguồn thông tin đó thiếu tính khách quan cần thiết, và nhiều khi cán bộ thẩm định còn gặp nhièu khó khăn trong việc thẩm định lại tính chuẩn xác của các nguồn thông tin đó. Tình trạng này đã làm cho nội dung và phương pháp thẩm định tài chính dự án bị thiếu hụt rất nhiều, tạo nên xu hướng đơn giản hoá trong việc phân tích, đánh giá, tính toán các chỉ tiêu tài chính của dự án, do vậy không phản ánh hết tính chân thực của dự án, gây nhiều bất lợi về phía Ngân hàng trong tương lai. - Thứ ba, tình trạng lập dự án thiếu tính chính xác, thiếu căn cứ khoa học của chủ đầu tư đã làm cho công tác thẩm định gặp không ít khó khăn để có thể đánh giá một cách chính xác nhất các dự án đó. Một số các chủ đầu tư khi lập dự án thường chỉ tập trung vào một số những nội dung chính mang tính nghiên cứu chủ đạo, thiếu sự hợp lý cần thiết và rất chiếu lệ. Điều này một phần là do sự thiếu hụt về thông tin cũng như sự hạn chế về công nghệ, một phần cũng là do trình độ còn hạn chế của các cán bộ quản lý ở các Doanh nghiệp. Hạn chế này cũng là một nguyên nhân khách quan tác động đến quá trình hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án của Ngân hàng. - Thứ tư, tình hình thị trường giá cả nói chung, thị trường giá cả tiền tệ nói riêng tuy đã có sự ổn định tương đối nhưng vẫn còn không ít khó khăn, nhiều bất ổn đã gây ảnh hưởng xấu đến công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư do quy trình thẩm định vẫn chưa thực sự quan tâm đến giá trị của đồng tiền qua các thời kỳ. Thêm vào đó, các hình thức của thị trường tài chính vẫn chưa phát triển đầy đủ ở nước ta, tâm lý và thói quen đầu tư chưa hình thành rõ nét, chưa có sự quan tâm đúng mức tới các yếu tố tác động tới quy mô dòng tiền của Doanh nghiệp. Do đó, việc thẩm định tài chính dự án vẫn chưa có được một căn bản hoàn hảo để phát triển và hoàn thiện được. - Thứ năm, môi trường Pháp lý trong hoạt động tín dụng ngân hàng còn nhiều bất cập. Một số cơ chế chính sách, các Quyết định - Nghị định, các văn bản chế độ luật của ngân hàng còn nhiều kẽ hở dễ bị khai thác trong quá trình thực hiện các mối quan hệ tín dụng của Doanh nghiệp với Ngân hàng. Hơn nữa, việc có những thay đổi thường xuyên của các chế độ chính sách như hiện nay cũng làm cho ngân hàng khó có thể đưa ra những nhận xét chính xác trong tương lai, do vậy gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của công tác thẩm định tài chính dự án. Công tác thẩm định tại các NHTM vẫn chưa có được một môi trường pháp lý vững chắc để phát triển và hoàn thiện, trong thời gian tới mong rằng điều này sẽ được khắc phục nhanh chóng để nâng cao năng lực tài chính tại các NHTM, và công tác thẩm định sẽ là cơ sở vững chắc của quá trình đầu tư dự án tại các Doanh nghiệp cũng như trong các NHTM nói chung và Chi nhánh NHTMCP CT Tây Hà Nội nói riêng. * Nguyên nhân chủ quan: - Ngân hàng thiếu những thông tin chính xác về hoạt động kinh doanh, năng lực tài chính của khách hàng do hoạt động thu thập thông tin yếu và không đa dạng. - Cán bộ tín dụng thẩm định còn trẻ hầu hết là sinh viên mới ra trường nên kinh nghiệm và thực tế chưa nhiều. - Còn chủ quan chỉ chú ý đến tài sản thế chấp mà chưa quan tâm đến giám sát chặt chẽ, đánh giá lại tài sản thế chấp trong điều kiện thị trường có sự thay đổi. - Các chỉ tiêu phân tích thẩm định còn sơ sài, chưa thể hiện đúng giá trị khoản vay. CHƯƠNG III. NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CHI NHÁNH NHTM CP CÔNG THƯƠNG TÂY HÀ NỘI 3.1. PHƯƠNG HƯỚNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI CHI NHÁNH NHTM CP CÔNG THƯƠNG TÂY HÀ NỘI 3.1.1. Phương hướng, nhiệm vụ hoạt động kinh doanh Thành công lớn nhất và bao trùm trong suốt quá trình đổi mới và hoạt động của NHTMCP CT Tây Hà Nội trong hơn 4 năm qua là đã thay đổi hẳn phương pháp quản lý, tập quán kinh doanh và tư duy kinh tế. Do đó Ngân hàng đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu kinh doanh của mình, duy trì được sự ổn định và tăng trưởng, nâng cao uy tín với khách hàng, với các đối tác trong và ngoài nước. Kết quả đó có được là nhờ sự lỗ lực kết hợp của các cấp lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viên của NHTMCP CT Tây Hà Nội, sự hỗ trợ của Chính phủ, NHNN, các bộ, ban ngành, chính quyền địa phương. Tuy nhiên, từ nay đến những thập kỷ tiếp tới, hoạt động Ngân hàng ở nước ta phải được tiếp tục đổi mới sâu sắc và toàn diện theo đường lối của Đảng để thích nghi với cơ chế thị trường, phục vụ và thúc đẩy phát triển nền kinh tế đất nước, tăng khả năng hội nhập với quốc tế. Như vậy, nhiệm vụ của mỗi NHTM trong những năm tới là phải tự tìm cách tạo dựng và phát triển thế mạnh của mình. Ngân hàng nào không tự đổi mới mạnh mẽ sẽ không có cơ hội để tồn tại và phát triển. Nhận thức rõ điều đó, Chi nhánh NHTMCP CT Tây Hà Nội đã nghiên cứu, xây dựng cho mình một chiến lược phát triển lâu dài (cụ thể từ nay đến hết năm 2015) trên cơ sở đánh giá những thuận lợi và khó khăn của bối cảnh KT – XH và tình hình quốc tế, tư kết quả của 4 năm đổi mới và những bài học kinh nghiệm nhằm phù hợp với quá trình phát triển kinh tế của đất nước và khả năng nội lực của Ngân hàng. Chiến lược này sẽ là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, thông tin và phối hợp hành động trong Ngân hàng. Mục tiêu chiến lược phát triển của Ngân hàng NHTMCP CT Tây Hà Nội đến năm 2015 là phấn đấu trở thành một Chi nhánh Ngân hàng Thương Mại hàng đầu trên địa bàn. Hoạt động đa năng, kết hợp bán buôn bán lẻ, mở rộng các dịch vụ Ngân hàng, phục vụ phát triển kinh tế trong nước. Phương châm hoạt động của Chi nhánh NHTMCP CT Tây Hà Nội: an toàn – hiệu quả - tăng trưởng an toàn trong mọi lĩnh vực kinh doanh, hiệu quả mang ý nghĩa kinh tế xã hội, tăng trưởng phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế đất nước và chính sách tiền tệ của ngành Ngân hàng. Cung cấp các dịch vụ Ngân hàng hoàn hảo cho khách hàng, quán triệt sâu sắc phương châm mang lại thành công cho khách hàng là trách nhiệm và nghĩa vụ của Ngân hàng chính là tôn chỉ cho hành động của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Tây Hà Nội. 3.1.2. Định hướng công tác thẩm định tài chính dự án (TCDA) Thẩm định tài chính dự án đầu tư với tư cách là một hoạt động có khâu tổ chức điều hành, quy trình riêng cũng như đội ngũ cán bộ thực hiện riêng nên công tác thẩm định tài chính dự án cũng có những định hướng và mục tiêu cụ thể sau: - Thẩm định dự án đầu tư phải đứng trên quan điểm của người cho vay để xem xét tính khả thi, hiệu quả của dự án, nhận thức rõ lợi ích của Ngân hàng gắn bó chặt chẽ lợi ích của dự án. - Phát huy từ tình hình thực tiễn trong ngành và phục vụ cho hoạt động cho vay của Ngân hàng Công Thương trong từng giai đoạn. - Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được quán triệt trong toàn hệ thống không chỉ các cán bộ trực tiếp thực hiện thẩm định mà có cả các bộ phận khác với những mức độ yêu cầu cho công việc khác nhau. - Thẩm định tài chính của dự án phải được tiến hành thương xuyên và liên tục với tất cả các dự án xin vay, trước, trong và sau khi cho vay. 3.2. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CHI NHÁNH NHTM CP CÔNG THƯƠNG TÂY HÀ NỘI 3.2.1. Giải pháp về thông tin Thông tin là căn cứ quan trong để thẩm định dự án, do đó nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin sẽ góp phần hoàn thiện nghiệp vụ thẩm định. Nguồn thông tin càng chính xác và phong phú thì kết quả thẩm định càng có độ chính xác cao. Do đó, Chi nhánh một mặt cần gia tăng các nguồn cung cấp thông tin, mặt khác cần tìm cách thu thập và xử lý thông tin một cách có hiệu quả. Đối với những thông tin liên quan dự án của doanh nghiệp, cán bộ thẩm định không chỉ căn cứ vào các tài liệu khách hàng gửi đến, mà phải trực tiếp phỏng vấn người đại diện giao dịch của doanh nghiệp để chất vấn thông tin không chính xác. Đồng thời kết hợp với việc tham quan khảo sát cơ sở sản xuất, văn phòng, nhà xưởng nhằm điều tra năng lực sản xuất và quản lý của doanh nghiệp. Cán bộ thẩm định có thể tham khảo các thông tin từ bạn hàng, đối tác, các nhà cung cấp của doanh nghiệp để đánh giá được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thanh toán cũng như khả năng cung cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra của dự án. Ngoài ra các nguồn thồng tin cần thiết có thể được thu thập từ trung tâm phòng ngừa rủi ro thuộc NHNN, từ các tổ chức tín dụng mà ngân hàng có quan hệ, từ các cơ quan quản lý kinh tế, các chuyên giá kinh tế kỹ thuật, các thông tin đa dạng từ sách báo, tài liệu chuyên ngành có liên quan. Tuy nhiên việc thu thập các nguồn thông tin trên nhiều khi khá khó khăn do phạm vi thu thập rộng, đòi hỏi tốn kém về thời gian và chi phí, các kênh cung cấp thông tin không đầy đủ và khó tiếp cận, trong khi các cán bộ thẩm định lại bị giới hạn về thời gian và chi phí. Do đó các cán bộ thẩm định cần lưu ý thường xuyên thu thập và lưu trữ thông tin một cách khoa học. Cán bộ thẩm định cần cập nhật các quy định của nhà nước liên quan đến lĩnh vực đầu tư như (quy chế đấu thầu, quy định về tổng dự toán vốn đầu tư xây dự cơ bản, về chế độ tài chính đối với từng loại hình doanh nghiệp), các thông tin về thị trường giá cả. Đồng thời tiến hàng lưu trữ toàn bộ các thông tin vào máy tính để dễ dàng quản lý thay vì lưu trữ dưới dạng văn bản như hiện nay. Mặt khác, để hoàn thiện hệ thống thu thập và xử lý thông tin nhằm phục vụ cho công tác thẩm định có hiệu quả hợn ngân hàng nên thiết lập một trung tâm thông tin riêng. Trung tâm này có nhiệm vụ chuyên nghiên cứu thu thập, lưu trữ và cung cấp thông tin cho phòng thẩm định, hỗ trợ cho các cán bộ thẩm định trong việc tìm kiếm các thông tin cần thiết, giảm bớt thời gian ra quyết định. Ngân hàng cung cấp sớm xây dựng một hệ thông cơ sở dữ liệu riêng cho mình 3.2.2. Giải pháp về trang thiết bị ngân hàng Hiện nay, trình độ công nghệ của Ngân hàng và công nghệ thẩm định của các tổ chức tín dụng khu vực và trên thế giới đã rất phát triển. Do vậy, muốn nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tương xứng với yêu cầu hiện nay thì công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại phải được chú trọng và đổi mới hơn nữa. Để thực hiện được điều này, Chi nhánh cần trang bị cho bộ phận thẩm định đầy đủ phương tiện làm việc tuỳ theo tính chất công việc để có thể truy cập, xử lý lượng thông tin lớn, áp dụng các phương pháp thẩm định hiện đại, phức tạp với số liệu tính toán lớn. Theo hướng này, mỗi cán bộ thẩm định nên được trang bị một máy tính được nối mạng. Chi nhánh cần nghiên cứu lắp đặt một hệ thống máy tính mạng cục bộ giữa các bộ phận thẩm định và các bộ phận khác của Chi nhánh để phục vụ việc truyền tin báo cáo, khai thác thông tin. Tuy nhiên, tuỳ theo quy mô, tính chất công việc mà có sự đầu tư phù hợp để vừa không lãng phí, vừa đảm bảo phục vụ tốt nhất cho yêu cầu công việc. Chi nhánh nên tự nghiên cứu hoặc đặt mua số phần mềm hỗ trợ cho công tác thẩm định tài chính dự án hoặc trao đổi thông tin. 3.2.3. Giải pháp về tổ chức điều hành. Thẩm định dự án đầu tư là tập hợp của rất nhiều hoạt động khác nhau nhưng nó lại có liên quan chặt chẽ với nhau. Do vậy, việc sắp xếp, tổ chức ra sao để các bộ phận hoạt động một cách nhịp nhàng, kế thừa và hỗ trợ cho nhau một thể thống nhất là rất cần thiết nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án. Một cơ chế tổ chức hoạt động phải đủ hai tiêu chuẩn: hiệu quả và an toàn. Tuy Chi nhánh đã hoạt động khá hiệu quả với mô hình tổ chức và cách quản lý như hiện nay trong nhiều năm nhưng thực tế cho thấy để hoạt động có hiệu quả hơn nữa cần có những thay đổi cả về hình thức quản lý và mô hình tổ chức cho phù hợp với điều kiện hoạt động hiện nay. Chi nhanh cần tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa các phòng ban trong quá trình thực hiện các công đoạn khác nhau của hoạt động thẩm định dự án nói chung, thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng. Thực tế cho thấy, với cách tổ chức và quản lý như hiện nay Chi nhanh chưa tạo được mối liên hệ chặt chẽ giữa các phòng ban. Sự phối hợp hoạt động giữa các bộ phận chưa đạt hiệu quả mong muốn, chưa phát huy được sức mạnh tập thể của Chi nhánh. Để tạo điều kiện tốt hơn nữa cho việc phát triển hoạt động tín dụng nói chung, hoạt động thẩm định tài chính dự án nói riêng, chi nhánh nhất thiết phải kiện toàn lại bộ máy, điều chỉnh lại hình thức quản lý theo đúng ý tưởng thành lập ban đầu. Việc quản lý tập trung, phân công hợp lý, phối hợp nhịp nhàng một Chi nhánh có tầm cỡ lớn như Chi nhanh NHTM CP CT Tây Hà Nội đòi hỏi những yêu cầu hết sức khắt khe về quy chế hoạt động, khả năng tổ chức và lãnh đạo của cán bộ quản lý. Điều đó không dễ dàng thực hiện và đòi hỏi những chi phí về thời gian, tiền của, công sức không nhỏ. Tuy nhiên, chỉ có làm được điều đó Chi nhanh mới có thể tạo được sự hợp tác chặt chẽ, hiệu quả giữa các bộ phận trong hệ thống, phát huy được tiềm lực và các thế mạnh của một cánh tay phải đắc lực trong một hệ thống Ngân hàng như NHTM CP CT Tây Hà Nội. 3.2.4. Giải pháp nguồn nhân lực. Đối với hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng, con người luôn là nhân tố trung tâm, có vai trò quyết định. Con người ở đây là đội ngũ cán bộ thẩm định dự án, là chủ thể của mọi hoạt động, từ việc hoạch định chính sách đến việc thẩm định dự án, xét duyệt cho vay. Do vậy, để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án cần xây dựng đội ngũ cán bộ thẩm định có đủ về số lượng, chất lượng để đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng khó khăn của công việc. Mỗi cán bộ thẩm định cần đạt được những tiêu chuẩn nhất định về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, năng lực làm việc và phẩm chất đạo đức, cụ thể: các cán bộ thẩm định phải có trình độ đại học trở lên, có kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường, hoạt động ngân hàng, kiến thức về lĩnh vực tài chính, phải là người có kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động thẩm định, tham gia theo dõi, quản lý tài chính một số dự án cụ thể trước khi được làm công tác thẩm định; phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt, trung thực, có tinh thần trách nhiệm, kỷ luật nghề nghiệp cao. Muốn làm được điều đó, Chi nhánh cần tập trung vào các công việc sau: - Chi nhánh cần có cán bộ chuyên trách về quản lý nhân sự. Căn cứ vào yêu cầu công việc của từng bộ phận, từng nghiệp vụ của Chi nhánh cũng như trình độ hiện tại của cán bộ tín dụng (người làm công tác thẩm định nhất thiết phải từng hoạt động trong lĩnh vực tín dụng) chuyên viên nhân sự sẽ phối hợp với các trưởng, phó phòng xác định nhu cầu nhân sự cho từng phòng, có kế hoạch sắp xếp, điều chuyển nhân sự hợp lý hơn. Ngoài ra, chuyên viên nhân sự cần phân tích biến động môi trường kinh doanh, tính hình đối thủ cạnh tranh, mục tiêu hoạt động của Chi nhánh để dự báo số nhân viên tăng giảm trong tương lai. - Thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ ngay từ khâu tuyển chọn nhân viên. Tuyển dụng nhân viên mới vào làm công tác tín dụng (thẩm định) phải là người có các tố chất như: có năng lực, thông minh, nhanh nhẹn, nắm bắt tâm lý tốt, có óc phân tích nhạy bén. Chọn người có tài, không nên quá quan trọng vào bằng cấp. Công tác tổ chức thi tuyển phải công khai, chặt chẽ, đảm bảo công bằng để có thể lựa chọn được những người giỏi nhất. Việc kiểm tra, sát hạch trình độ chuyên môn, nghiệp vụ người được dự tuyển phải do các cán bộ thẩm định có kinh nghiệm, thâm niên công tác trực tiếp tiến hành. Những người vượt qua được kỳ thi tuyển phải qua thời gian thử việc thích hợp (có thể những công việc hỗ trợ cho cán bộ thẩm định trong thẩm định dự án đầu tư) để đánh giá khả năng ứng dụng các kiến thức trong công việc thực tế. - Thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ thẩm định. Cán bộ thẩm định cần được cập nhật các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, địa phương, chiến lược phát triển ngành, các quy định của Nhà nước về quản lý đầu tư và xây dựng cũng như những kiến thức pháp luật trong lĩnh vực liên quan. Chi nhánh cần thiết phải tăng cường đào tạo ngắn hạn hoặc dài hạn ngoài giời hành chính cho nhân viên về nghiệp vụ tín dụng, thẩm định. Việc này có thể được thực hiện dưới sự giúp đỡ của các chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước. Cuối mỗi khoa học cần tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả được để rút ra kinh nghiệm cho những lần tổ chức sau đạt kết quả tốt hơn. - Chi nhánh cần coi trọng, khuyến khích khả năng tự đào tạo của mỗi cán bộ thẩm định. Các kiến thức họ nhận được trong trường đại học sẽ nhanh chóng bị lạc hậu, Chi nhánh có thể hỗ trợ quá trình tự đào tạo bằng cách cung cấp những tài liệu, sách báo mới nhất trong các lĩnh vực có liên quan. - Chi nhánh phải không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức mỗi cán bộ thẩm định. Phẩm chất đạo đức có ảnh hưởng lớn đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Đây là việc làm khó khăn nhất, đòi hỏi tốn nhiều thời gian, công sức và vật chất. Chi nhánh cần quy định mức khen thưởng xứng đáng với một dự án phức tạp được thẩm định tốt, hoạt động hiệu quả, đồng thời phải có mức phạt thích đáng trong các trường hợp vi phạm nguyên tắc tín dụng, móc ngoặc với doanh nghiệp vay vốn ngân hàng. - Tiến hành đánh giá trình độ cán bộ tín dụng thường xuyên qua hoạt động thực tiễn và thi tuyển định kỳ để có kế hoạch điều chuyển vị trí công tác cũng như xét duyệt mức lương hợp lý. Mức lương được hưởng phải căn cứ vào năng lực thực sự chứ không phải thâm niên công tác. Giải pháp về phương pháp thẩm định. Với những ưu thế của những phương pháp thẩm định tài chính dự án đầu tư được áp dụng trong các tổ chức kinh tế, tài chính ngân hàng trên thế giới, Chi nhánh nên nghiên cứu, học tập và vận dụng sáng tạo vào tình hình thực tế của mình. Điều này hết sức cần thiết bởi vì trong thời điểm mở cửa nền kinh tế và hội nhập kinh tế khu vực như hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế đang du nhập vào Việt Nam với những phương pháp thẩm định ở các giác độ khác nhau, góc nhìn khác nhau. Do đó, Chi nhanh cần chủ động lựa chọn phương pháp thẩm định tài chính có hiệu quả nhất, hợp lý nhất và phù hợp nhất với toàn cảnh thực tế để ứng dụng công tác thẩm định vào thực tiễn. Chi nhanh cần tiến hành kiểm tra và ra soát lại toàn bộ cách tính toán các chỉ tiêu được sử dụng để phân tích nhằm tìm ra những thiếu sót, bất hợp lý để bổ sung, thay đổi cho phù hợp. Việc này phải được tiến hành bởi những người trực tiếp tham gia thẩm định và tiến hành song song với việc tăng cường tham khảo các phương pháp hiện đại, và vấn đề chỉ còn là ứng dụng đến đâu, ứng dụng như thế nào cho phù hợp với Chi nhanh, bởi mỗi dự án đều có đặc thù riêng. Do đó, cách thẩm định ở mỗi dự án là khác nhau, cán bộ thẩm định cần phải lựa chọn phương pháp thẩm định cho phù hợp với từng dự án. Ø Thứ nhất, thẩm định một cách kỹ lưỡng vốn đầu tư. Đây là vấn đề quan trọng, việc thẩm định đòi hỏi các cán bộ thẩm định phải thẩm định chính xác vốn đầu tư và các chi phí liên quan, tránh tình trạng chủ đầu tư có thể tính toán mức vốn quá cao để tránh thủ vốn, gây lãng phí, ứ đọng vốn làm giảm hiệu quả đầu tư; hay chủ đầu tư lập dự án tính mức vốn quá thấp để tăng hiệu quả đầu tư giả tạo dẫn đến quyết định đầu tư sai lệch. Việc xác định tổng vốn đầu tư sát với thực tế là cơ sở để tính toán hiệu quả tài chính và dự kiến khả năng trả nợ của dự án. Muốn vậy, các cán bộ thẩm định phải tích cực tìm hiểu thị trường, căn cứ vào các định mức kinh tế kỹ thuật của các ngành, các đơn giá của nhà nước hay qua viện nghiên cứu mức độ hiện đại của công nghệ, tình hình giá cả ở thị trường trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, cần tích cực tìm hiểu, lưu trữ các thông tin của các dự án điển hình trong cả nước làm cơ sở cho việc kiểm tra, thẩm định tổng mức vốn đầu tư, trong một số trường hợp có thể thuê cơ quan tư vấn nếu cần thiết. Đối với các dự án xây dựng, đặc biệt là các dự án xây dựng có nhiều hạng mục công trình, kéo dài trong nhiều năm, ngoài việc tính các chi phí liên quan còn phải tính đến các yếu tố lạm phát, tỷ giá (nếu dự án mua máy móc từ bên ngoài) được áp dụng của dự án. Đã có không ít những dự án gặp phải khó khăn về tiến độ thi công do giá vật liệu tăng mà trước đó khi thẩm định không được tính toán đến. Việc xác định, đánh giá và tính toán trước những yếu tố trên sẽ giúp chủ đầu tư có thể phản ứng nhanh hơn trước những biến đổi bất lợi của thị trường. Ø Thứ hai, cần tính toán doanh thu và chi phí của dự án một cách sát thực và thực tế. Để thẩm định về doanh thu và chi phí chính xác cần phải có kết quả ở khâu thẩm định thị trường tốt, Ngân hàng phải quan tâm đến nguồn cung cấp nguyên vật liệu và khả năng tiêu thụ của sản phẩm hay nói cách khác, Ngân hàng phải xem xét đến các yếu tố đầu vào và đầu ra của dự án. Nghiên cứu vấn đề này là một việc khó khăn nhưng hết sức cần thiết, bên cạnh việc Chi nhanh phải dự toán doanh thu và chi phí trong tương lai. Muốn vậy, Chi nhánh cần phải nghiên cứu thị trường trên các mặt như: quan hệ cung cầu của sản phẩm, điểm mạnh, điểm yếu của sản phẩm, đối tượng, phương thức tiêu thụ sản phẩm và đặc biệt là tình hình cạnh tranh trên thị trường. Do đó, phòng thẩm định cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu thị trường, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu điểm mạnh điểm yếu, cơ hội và sự đe doạ của sản phẩm, và cách tốt nhất để thực hiện được điều này là Chi nhánh đẩy mạnh và chi tiết hoá các mô hình đánh giá chủ yếu như: mô hình SWOT, mô hình PORTER. Việc tính toán chi phí sản phẩm kinh doanh phải được tham khảo quy định của Bộ Tài chính, cơ quan chủ quản của doanh nghiệp và trên thị trường. Các loại chi phí như: quản lý doanh nghiệp, lãi vay vốn lưu động, chi phí thuê đất, thuê chuyên gia Chi nhanh không nên chấp nhận mặc nhiên theo cách tính toán của doanh nghiệp hay tuỳ tiện nâng lên để an toàn hơn. Đối với các dự án mở rộng hoặc dự án mới của doanh nghiệp đã hoạt động trong ngành đó, cán bộ có thể lấy các chỉ tiêu cũ làm cơ sở. Nếu là các dự án và doanh nghiệp mới hoàn toàn, các chỉ tiêu của các doanh nghiệp tương tự cũng là những yếu tố tham khảo tốt cho công tác thẩm định. Xuất phát từ thực tế, các chủ đầu tư do mong muốn có được quyết định đầu tư và được vay vốn ngân hàng một cách nhanh chóng, mặt khác họ lại đoán được tâm lý của ngân hàng hay quan tâm đến nhiều các chỉ số NPV, IRR, PP, nguồn trả nợ nên họ thường tính chi phí cao, đặc biệt là chi phí mua máy móc thiết bị và xây dựng nhà xưởng. Vì vậy khi tính khấu hao tài sản cố định Doanh nghiệp luôn tính cao hơn thực tế, vì nếu thế, doanh nghiệp vừa giảm được thuế thu nhập Doanh nghiệp lại vừa có nguồn trả nợ từ khấu hao cao. Do đó khi thẩm định, Chi nhanh phải xem xét một cách kỹ lưỡng để đảm bảo tính chính xác của khoản mục chi phí này. Khi tính khấu hao, nếu doanh nghiệp tính sai so với quy định về khấu hao của Bộ tài chính thì Chi nhanh nên tính lại và có ý kiến với doanh nghiệp. Khi xem xét, tính toán khấu hao cơ bản cũng phải xem xét trong mối quan hệ đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, đến tính khả thi của dự án, bởi khấu hao cơ bản không phải là nguồn trả nợ sẵn có hiển nhiên. Trên thực tế nó chỉ là con số trên sổ sách, nó rất có thể là con số vô nghĩa nếu dự án không khả thi, sản phẩm không tiêu thụ được. Chi nhanh cũng cần phải lập bảng tính giá thành sản phẩm dịch vụ. Bước này rất quan trọng vì giá thành là cơ sở để xác định giá bán, liên quan chặt chẽ đến căn cứ dự kiến doanh thu, lỗ, lãi của Doanh nghiệp. Dựa vào các chỉ tiêu này, cán bộ thẩm định có thể chỉ ra được các chi phí bất hợp lý được kê khai trong dự án, các chi phí không được công nhận trong chế độ kế toán thống kê của dự án. Muốn tính chính xác doanh thu của dự án, các cán bộ thẩm định phải xác định được xu hướng mức biến động về lợi nhuận, sự bảo đảm nguồn cung cấp, nguồn tiêu thụ, những yếu tố này đảm bảo cho việc tính toán doanh thu một cách chính xác hơn. Muốn vậy, các cán bộ thẩm định phải nâng cao hơn nữa chất lượng nghiên cứu thị trường, đặc biệt là chú ý tới các sản phẩm cùng loại, tới khả năng cạnh tranh của sản phẩm về chất lượng, lợi nhuận và uy tín. Đẩy mạnh sử dụng phương pháp phân tích SWOT và PORTER, Chi nhanh cũng nên nghĩ đến việc áp dụng các mô hình kinh tế lượng trong dự báo khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng phát triển cho những dự án quan trọng. Dự báo chính xác xu hướng phát triển cung cầu thị trường trong nước cũng như khu vực và trên thế giới là điều rất quan trọng và cần thiết trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là xu hướng hội nhập vào nền kinh tế thế như hiện nay. Bên cạnh đó, một yếu tố khác có ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu của dự án, đó là công nghệ của dự án. Vấn đề đặt ra ở đây đối với các dự án là phải có được công nghệ phù hợp với dự án, ở đây, công nghệ phù hợp không bắt buộc phải là công nghệ hiện đại nhất, tiên tiến nhất có trên thế giới. Bởi vì nếu là hiện đại quá trong khi mà trình độ và năng lực của công nhân Việt Nam chưa đủ để sử dụng thì sẽ sử dụng không hết công suất lãng phí, giá thành lại cao; mặt khác, nhiều công nghệ thải của nước ngoài vẫn hiện đại hơn của chúng ta nhưng nếu đầu tư vào thì sản phẩm lại có khả năng cạnh tranh kém trên thị trường. Điều này cần được các Doanh nghiệp nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng trước khi tiến hành đầu tư. Sau khi tính toán được doanh thu và chi phí của dự án, Chi nhanh cần tính được dòng tiền ròng (NCF) hàng năm của dự án. Chi nhanh nên xây dựng bảng lưu chuyển tiền tệ của dự án, trên cơ sở đó phản ánh đầy đủ các khoản thu chi của dự án, từ đó xác định được các dòng tiền vào ra của dự án. Khi xác định NCF của dự án, Chi nhanh cần lưu ý đến việc thu hồi giá trị thanh lý khi dự án chấm dứt hoạt động kinh doanh. Thực tế cho thấy, một số máy móc thiết bị vẫn còn giá trị sử dụng khi dự án kết thúc, khi bán sẽ xuất hiện một luồng tiền thu cuối dự án, tuỳ theo từng trường hợp, luồng tiền này có thể phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp hay không. Theo chế độ kế toán hiện hành thì nếu giá bán lớn hơn chi phí thanh lý cộng với giá trị còn lại của tài sản cố định thì phần chênh lệch này phải chịu thuế thu nhập, ngược lại nếu nhỏ hơn thì doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được một khoản thuế: CF thanh lý tài sản cố định = S - (S - B)*T Trong đó: S: giá bán TSCĐ. B: Tổng giá trị còn lại và CF thanh lý. Luồng tiền này được cộng vào năm cuối của dự án. Ngoài ra Chi nhánh cũng cần tính tới khoản thu hồi vốn lưu động ròng, khoản này cũng sẽ được cộng vào dòng tiền ở năm cuối cùng của dự án. Ø Thứ ba, Chi nhanh cần coi việc tính các chỉ tiêu hiệu quả dự án: NPV, IRR, PP, DSCR là bắt buộc khi thẩm định tài chính dự án đầu tư. Có khá nhiều chỉ tiêu để thẩm định tài chính dự án, tuy nhiên ngân hàng nên áp dụng các chỉ tiêu: NPV, IRR, PP, DSCR và coi đây là chỉ tiêu cơ bản, bắt buộc trong thẩm định tài chính dự án bởi các chỉ tiêu này là những chỉ tiêu tổng hợp cơ bản, phản ánh hiệu quả, tính chất của doanh nghiệp, chúng được xây dựng, tính toán dựa trên số liệu từ bảng dự trù cân đối thu chi của dự án hàng năm. Tuy nhiên, khi kết hợp hai chỉ tiêu này để ra quyết định đối với một dự án thì nhiều khi nó cho biết tỷ lệ sinh lời của dự án mà không quan tâm đến quy mô nguồn vốn và lợi nhuận tuyệt đối của dự án. Nhiều dự án có IRR cao nhưng lợi nhuận tuyệt đối lại thấp, lúc này IRR không phản ánh trực tiếp sự gia tăng này. Hơn nữa, NPV được giả định rằng các luồng tiền của dự án được chiết khấu theo chi phí vốn của dự án, nhưng IRR lại chiết khấu các luồng tiền theo IRR của dự án và điều này là không hợp lý. Tuy IRR đơn giản hơn thông qua việc so sánh tỷ lệ phần trăm, do đó nó có sức hấp dẫn, dễ hiểu hơn nhưng ta cũng phải thừa nhận rằng phương pháp IRR không hoàn thiện bằng phương pháp NPV, vì nó không đề cập đến độ lớn của dự án và không giả định đúng tỷ lệ tái đầu tư. Lựa chọn một trong nhiều dự án đầu tư loại trừ nhau theo đó phải dựa trên phương pháp NPV. Để đảm bảo độ tin cậy cho các chỉ tiêu tính toán, điều quan trọng là phải xác định được thời điểm phát sinh các dòng tiền và quy mô của nó. Dòng tiền của dự án không nhất thiết phải là chi phí, có những khoản mục kế toán đưa vào chi phí nhưng trong thẩm định dự án nó không được coi là dòng tiền vì không liên quan đến hoạt động thu chi tiền thực sự (chẳng hạn như khoản mục khấu hao). Dòng tiền cũng độc lập một cách tương đối với doanh thu từ dự án, doanh thu có thể tăng, giảm nhưng dòng tiền mặt vẫn không thay đổi (trường hợp biến động các khoản phải thu, hàng gửi bán). Do đó, khi xác định dòng tiền phát sinh cần lưu ý những điểm sau: - Các dòng tiền phát sinh ở bất kỳ thời điểm nào được giả định phát sinh ở cuối kỳ. - Xử lý các khoản thu hồi: Vốn đầu tư vào TSCĐ được thu hồi dẫn qua KHTSCĐ. Nếu TSCĐ đã trích hết khấu hao nhưng vẫn bán được thì khoản tiền đó được tính là dòng vào ở thời điểm phát sinh và chịu thuế TNDN theo quy định. Trường hợp TSCĐ chưa trích hết khấu hao, phải thanh lý thì thu nhập từ hoạt động thanh lý cũng là một dòng vào của dự án, vẫn phải chịu thuế TNDN. Giá trị còn lại của TSCĐ theo sổ sách kế toán được đưa vào cho phí trong kỳ, làm giảm thuế TNDN. Bản thân giá trị còn lại không được coi là dòng ra vì đó không phải là một khoản chi tiền thật sự. Vốn đầu tư vào TSLĐ sẽ được thu hồi khi dự án kết thúc, được tính như một dòng vào tại kỳ cuối cùng và không phải chịu thuế TNDN. - Đối với các dự án đầu tư thay thế, dòng tiền có một số điểm khác biệt: Dự án đầu tư mới có thể không làm tăng doanh thu nhưng làm giảm chi phí. Khoản giảm chi phí đó phải được coi như một dòng vào của dự án mới. Khi mua thiết bị mới về thay thế thiết bị cũ, tiền thu được do bán tài sản cũ cũng là một dòng vào của dự án. Tiền bán tài sản và giá trị còn lại của nó đều có ảnh hưởng đến thuế TNDN phải nộp. Nếu tiền bán lớn hơn giá trị còn lại làm tăng thuế, sẽ xuất hiện mộg dòng ra có độ lớn bằng chênh lệch giữa tiền bán TSCĐ và giá trị còn lại theo sổ sách nhân với thuế suất thuế TNDN. Ngược lại sẽ là một dòng vào có độ lớn là chênh lệch giữa giá trị còn lại và tiền bán TSCĐ nhân với thuế suất. - Các dòng tiền ròng có thể bao gồm hoặc không bao gồm các dòng tài chính. Việc đưa hay không đưa các dòng tài chính vào tính toán phụ thuộc vào vị trí của người xem xét: là doanh nghiệp hay là ngân hàng. Nếu không đưa các dòng tài chính vào (các dòng vay, trả nợ gốc, trả lãi vay) việc tính chỉ tiêu thời gian hoàn vốn trở nên chính xác hơn. Số vốn đầu tư có thể được hiểu là số vốn của bản thân dự án (không tính tiền vay tại thời điểm đầu tư) hoặc là số vốn chủ đầu tư bỏ ra (có tính đến tiền vay tại thời điểm đầu tư). Với cách hiểu thứ nhất, thời gian hoàn vốn sẽ là thời gian để dự án thu hồi được số vốn đầu tư ban đầu. Với cách hiểu thứ hai, thời gian hoàn vốn là khoảng thời gian chủ đầu tư thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra (ngân hàng thu được vốn cho vay). Điều này được khẳng định rằng, trong các dự án được đầu tư bằng 100% vốn vay ngân hàng, chủ đầu tư sẽ không lo lắng đến hiệu quả dự án bằng Chi nhánh, Chi nhánh sẽ là người gánh chịu nhiều rủi ro nhất. Ø Thứ tư: xác định lãi chiết khấu hợp lý đối với từng dự án. Xác định LSCK của dự án đầu tư là việc làm không đơn giản. Có thể hiểu LSCK là phần lợi nhuận thích hợp bù đắp rủi ro, khi rủi ro của dự án bằng với mức rủi ro của doanh nghiệp và chính sách tài trợ của doanh nghiệp phù hợp với dự án thì LSCK bằng với chi phí bình quân của vốn (WACC), nó thể hiện chi phí cơ hội của các nguồn vốn tham gia vào dự án. Các nguồn vốn thường có trong dự án là vốn vay và vốn chủ sở hữu (VCSH). - Nếu nguồn vốn vay được dùng để đầu tư thì: LSCK = Lãi suất vay trước thuế * (1 - thuế suất TNDN) - Nếu nguồn vốn chủ sở hữu được dùng để đầu tư thì: LSCK = Chi phí trung bình của vốn. - Nếu nguồn gồm cả vốn cho vay và chủ vốn sở hữu dùng để đầu tư thì LSCK = Chi phí bình quân gia quyền. Trên thực tế, các ngân hàng thường lấy lãi suất cho vay dài hạn của ngân hàng làm LSCK, điều này chỉ chính xác khi toàn bộ vốn của dự án là vốn vay từ ngân hàng, nhưng vốn cho dự án lại vừa là vốn của doanh nghiệp, vừa là vốn vay của ngân hàng. Do vậy, sử dụng LSCK như vậy là không hợp lý, LSCK hợp lý là lãi suất được xác định theo công thức trên. Ngoài ra Chi nhánh có thể lấy lãi suất trái phiếu kho bạc nhà nước làm tỷ lệ chiết khấu cộng thêm một số mức độ rủi ro tương ứng của ngành nghề sản xuất kinh doanh mà dự án hoạt động. Chi nhánh phải xem xét mức độ rủi ro ảnh hưởng đến lãi suất của các yếu tố sau: + Tỷ lệ làm phát hàng năm: tỷ lệ ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất, nếu tỷ lệ lạm phát tăng thì LSCK cũng tăng và ngược lại, nếu tỷ lệ làm phát giảm thì LSCK cũng giảm một cách tương ứng. + Tỷ lệ gia tăng do sử dụng phương án này mà không sử dụng phương án khác, hay nói cách khác là chi phí cơ hội. Tỷ lệ gia tăng này xuất hiện khi cùng một kế hoạch đầu tư nhưng có nhiều phương án khác nhau. + Chi nhánh cũng có thể sử dụng các lãi suất không cố định để phản ánh kẹp thời các điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới quá trình thực hiện dự án sao cho giá trị hiện tại thực của dự án không bị quá thổi phồng hoặc giảm đi. Ø Thứ năm: Chi nhánh cần coi dòng tiền của dự án là nguồn trả nợ duy nhất cho mình. Điều này Chi nhánh quan tâm nhất khi thẩm định tài chính dự án đầu tư là khi nào dự án, doanh nghiệp có tiền và có khả năng trả nợ, do vậy phải thực sự quan tâm tới dòng tiền dự tính của dự án. Đây phải là tiền mặt chứ không phải là nguồn từ khấu hao TSCĐ hay từ lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp, bởi vì đó chỉ là những số liệu trên sổ sách kế toán, lợi nhuận cao chưa chắc khả năng thanh toán cao, nhiều doanh nghiệp có lợi cao nhưng thực sự vẫn có nguy cơ bị phá sản vì tình trạng lãi giả, lỗ thật thì làm sao họ có thể thanh toán nợ với ngân hàng. Trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp, doanh thu được ghi khi khách hàng chấp nhận thanh toán nhưng thời điểm từ khi doanh thu được ghi cho tới khi doanh nghiệp được nhận tiền là cả một thời gian dài, thậm chí là vô hạn. Vì vậy, quan điểm nguồn trả nợ duy nhát của doanh nghiệp là dòng tiền mặt cần được tiêu chuẩn hoá trong toàn Chi nhanh. Theo đó, số liệu mà Chi nhánh quan tâm là tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp và căn cứ để lập lịch trình trả nợ cần dựa vào chu kỳ tiền mặt của doanh nghiệp. Dòng tiền của dự án: CF = Dòng tiền vào - Dòng tiền ra. Dòng vào: là toàn bộ khoản thực thu bằng tiền mặt từ việc bán sản phẩm, dịch vụ (chỉ tính phần thu được) và giá trị khoản phải thu (thực sự thu được). Dòng ra: là tất cả chi phí sản xuất, vận hành chi trả lãi vay và các khoản thực phải chi. Trên cơ sở luồng tiền mặt vào và ra của dự án, doanh nghiệp sẽ xác định được tình trạng tiền mặt của dự án để kiểm tra nhu cầu tiền vay doanh nghiệp cho đủ. Trong công tác thẩm định, Chi nhánh cần chú trọng tới việc phân tích kế hoạch tài chính ngắn hạn. Chi nhánh phải xem xét nhu cầu vốn lưu động, tính hợp lý của chính sách quản lý tiền mặt, chính sách dự trữ, chính sách tín dụng khách hàng để xác định khả năng thanh toán. Kế hoạch ngắn hạn đảm bảo giữa nguồn và sử dụng vốn của Chi nhánh, nâng cao tính chủ động của Chi nhánh trong thời gian tới. Ø Thứ sáu, Chi nhanh cần tính toán chính xác vòng đời của dự án. Một nội dung nữa cần quan tâm trong đánh giá tài chính dự án tại Chi nhánh là cần hoàn thiện nội dung tính toán đời dự án, vòng đời công nghệ và các tiêu chí phân tích cung cầu thị trường. Vòng đời dự án là một tiêu chí quan trọng, nó cho biết thời gian dự án tồn tại từ khi hoàn thiện công tác thực hiện đầu tư, vận hành kết quả đầu tư cho đến khi thanh lý dự án. Tiêu chí này giúp cán bộ thẩm định có cái nhìn tổng thể và sát thực về dự án, xác định được tổng thu nhập của dự án cũng như dự kiến những biến đổi bất thường của môi trường đầu tư tác động tới dự án, dự trù chi phí bổ sung cần thiết. Tuổi thọ công nghệ được xem như một yếu tố hữu cơ tác động đến đời dự án, trong phân tích tài chính cán bộ thẩm định cần hình thành hệ thống các chỉ tiêu đánh giá tuổi thọ công nghệ dựa trên các quy định của nhà nước cũng như các tiêu chuẩn kỹ thuật, công suất của công nghệ. Trong việc xác định nhu cầu của thị trường về sản phẩm dự án cần tiến hành xem xét trong trạng thái “động”, tức là phân tích dựa trên các giả thuyết biến động của thị trường, trong sức ép của cạnh tranh. Ø Thứ bảy, Chi nhánh cần đẩy mạnh hơn nữa công tác phân tích tài chính dự án trong các dự án đầu tư. Một mục tiêu quan trọng Chi nhánh cần chú trọng hơn nữa là việc phân tích tài chính dự án hàng năm. Để thuận lợi cho việc này, tốt nhất Chi nhánh nên lập thêm các bảng dự trù cân đối tài sản, bảng dự trù cân đối thu chi của các doanh nghiệp. Trong việc phân tích này, Chi nhánh có thể sử dụng phương pháp tỷ lệ với một số chỉ tiêu chủ yếu: khả năng thanh toán, hiệu suất sử dụng tài sản, doanh lợi tiêu thụ sản phẩm, bảng thử độ nhạy của công suất, của sản phẩm. Ngoài phương pháp tỷ lệ, Chi nhánh còn có thể sử dụng cả phương pháp phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, phân tích luồng tiền mặt để đánh giá tài chính dự án. Đặc biệt, trong phân tích tài chính dự án, Chi nhánh nên quan tâm đến phân tích cơ cấu vốn và khả năng thanh toán. Mục đích của phân tích cơ cấu vốn là đánh giá nhu cầu và sự đảm bảo các nguồn tài chính cho việc thực hiện liên tục và hiệu quả các dự án đầu tư. Do đó, Chi nhánh cần phải xem xét từng hoạt động kinh doanh hoàn trả được nợ hay không, có mức lãi suất cho phép hoạt động kinh doanh có hoàn trả được nợ hay không, có được cam kết bằng hợp đồng tín dụng của bên cung ứng vốn không. Chi nhánh cũng cần đánh giá tài chính dự án trên các khía cạnh: chi phí của dự án về vốn cố định và vốn lưu động vận hành như thế nào? Chúng được tài trợ bằng nguồn vay ngắn hạn hay dài hạn? Nếu một phần vốn cố định được tài trợ bằng vay ngắn hạn thì sẽ gây khó khăn như thế nào trong việc cân đối thu chi? Việc xác định một cơ cấu vốn hợp lý cho dự án là điều rất cần thiết. Chi nhánh phải phân tích tỷ trọng giữa hai nguồn vốn: Vốn tự có và nợ. Tỷ trọng giữa nguồn vốn tự có và vốn đi vay ngân hàng cho phép xác định trạng thái tài chính của dự án, một dự án được đánh giá là có tình trạng tài chính lành mạnh nếu dự án có tỷ lệ nợ vừa phải, có khả năng trả nợ ngân hàng và có một mức độ rủi ro dự tính là có thể chấp nhận được. Vì vậy, một cơ cấu vốn hợp lý là tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu bằng 1. Một cơ cấu vốn tối ưu cũng cần được xác định trên cơ sở cân nhắc mức doanh lợi và khả năng thanh toán của dự án. Một dự án có khả năng sinh lợi cao và khả năng thanh toán tốt có thể chấp nhận một tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu cao hơn các dự án bình thường khác. Phân tích khả năng thanh toán có nhiệm vụ đánh giá tình trạng tiền mặt trong suốt quá trình hoạt động của dự án. Nó giúp cho việc xem xét liệu vốn tự có và các khoản vay dài hạn có thích hợp với các điều kiện vay trả đã ký kết trong hợp đồng tín dụng hay không, liệu sự thiếu hụt tiền mặt có xảy ra không và nếu xảy ra thì sẽ đựơc gải quyết như thế nào. Chi nhánh phải tính toán chi tiết khả năng hoàn trả đối với từng khoản nợ theo kỳ hạn trả nợ thực tế, không nên làm tròn số, nên tính cho từng năm của dự án. Trong những năm lợi nhuận âm, Chi nhánh phải tính đến việc khấu trừ khoản đó khỏi nguồn trả nợ nếu doanh nghiệp không chắc chắn huy động được nguồn vốn khác để thay thế. Nếu dự án thực sự có hiệu quả nhưng trong suốt một số năm đầu dự án thiếu nguồn trả nợ thì Chi nhánh nên hỗ trợ doanh nghiệp trả nợ cho năm đó. Với DNNN, khi tính toán khả năng trả nợ, Chi nhánh cần phải loại trừ phần thu sử dụng vốn NSNN ra khỏi phần lợi nhuận sau thuế để xác định khoản lợi nhuận ròng dùng trả nợ cho chính xác. 3.3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ Thẩm định tài chính dự án đầu tư là công việc rất phức tạp, khối lượng công việc nhiều, liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau, là công việc đòi hỏi tính chính xác cao. Để công tác thẩm định tài chính được tốt, có chất lượng cao, cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ phận có liên quan thì mới đáp ứng được yêu cầu của công tác thẩm định. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, em xin đề ra một số kiến nghị sau: 3.3.1. Với Nhà nước: Nhà nước cần phải nhanh chóng tạo lập môi trường pháp lý ổn định để tạo điều kiện cho các ngân hàng có cơ sở phân tích, đánh giá mức độ thành công của dự án. Nhà nước cần thành lập tập đoàn kiểm toán liên ngành nhằm phát hiện ra những sai sót trong quá trình sản xuất kinh doanh hay đầu tư vào dự án khi sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp. Khi thực hiện điều này sẽ giảm bớt được việc cấp giấy phép đầu tư không hiệu quả và sẽ giúp cho các NHTM và các TCTD tránh được rủi ro, tổn thất về tiền bạc và thời gian thẩm định. Nhà nước cũng cần phải tách bạch giữa tín dụng chỉ định và tín dụng uỷ thác một cách minh bạch. 3.3.2. Với ngân hàng Nhà nước: Đề nghị ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng cường hỗ trợ cho việc nâng cao trình độ thẩm định, phát triển đội ngũ nhân viên, trợ giúp thông tin, kinh nghiệm cho các ngân hàng, hệ thống hoá những kiến thức cơ bản về thẩm định dự án, mở rộng phạm vi thông tin tín dụng về các doanh nghiệp, giúp cho các tổ chức tín dụng nhận định đúng và có những cơ sở thẩm định trước khi đầu tư vốn cho doanh nghiệp. - Đề nghị ngân hàng Nhà nước có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro (CIC), cần đưa ra mức độ rủi ro về từng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp để làm căn cứ cho các ngân hàng phân loại, xếp hạng doanh nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư. - Cần chính thức hoá tài liệu nghiệp vụ Ngân hàng Nhà nước về thẩm định dự án đầu tư để các cấp cơ sở thực hiện. Với chủ trương cải cách hành chính hiện nay của Đảng và Nhà nước, tài liệu này cần được rút gọn vào một số điểm và có sự phân công giữa các Bộ, ngành, các cấp. - Đề nghị các Ngân hàng thương mại quốc doanh khác toàn quốc tăng cường hợp tác trong việc xử lý thông tin và trao đổi kinh nghiệm, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. 3.3.3. Với NHTM CP Công Thương chi nhánh Tây Hà Nội Thứ nhất, ban lãnh đạo cần phải xây dựng được chiến lược đầu tư cụ thể cho từng giai đoạn, am hiểu tình hình kinh tế thị trường cũng như môi trừơng chung trong kinh doanh để quyết định đầu tư đúng đắn, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ hai, sau khi có chiến lược đầu tư rồi, phải tổ chức thực hiện tốt các công việc như thẩm định khách hàng vay vốn một cách toàn diện, thực hiện lựa chọn, sang lọc khách hàng theo ngành nghề kinh doanh, đối tượng khách hàng, đảm bảo khách hàng có dự án phương án có tính khả thi và phải xác định được mức độ đầu tư cho phương án dự án thế nào, hiệu quả mang lại ra sao? Thực hiện kiểm tra giám sát vốn vay đúng quy định, định kỳ, thường xuyên, đảm bảo vốn cho vay đúng đối tượng, kiểm soát được vốn cho vay nhằm thu hồi nợ đúng hạn. Trong kinh doanh ngân hàng, việc không để phát sinh nợ quá hạn, nợ xấu là rất khó. Điều này đòi hỏi người lãnh đạo phải sâu sát, nắm bắt được các khách hàng để có các giải pháp đung đắn khi có vấn đề xảy ra. Những trường hợp khách hàng có khó khăn, Ngân hàng phải biết cách tư vấn tìm ra hướng giải quyết nhằm đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và lợi ích của ngân hàng. Trong từng trường hợp cụ thể, cần có các giải pháp và những bước đi thích hợp để thu hồi nợ. Khi giải quyết nợ quá hạn, nợ xấu phải dựa trên nguyên tắc: Giải quyết hài hòa, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng thoát khỏi khó khăn và tiếp tục trả nợ Ngân hàng, điều này là hết sức quan trọng. Thứ ba, Tăng cường tổ chức các khoá học ngắn hạn, các lớp tập huấn chuyên để thẩm định dự án đầu tư, tổ chức đi tập huấn, trao đổi kinh nghiệm công tác thẩm định cho các chi nhánh nhằm nâng cao năng lực thẩm định nói chung và thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng trong toàn hệ thống. Thứ tư, Ngân hàng cũng luôn phải trú trọng tới vấn đề tuyển nhân viên mới. Hiện tại số lượng những người tốt nghiệp các khoá học về Ngân hàng thì quá nhiều so với nhu cầu tuyển dụng. Nhưng trên thực tế để làm được việc thì không phải học tập nhiều trong thực tế công việc. Vì vậy, trong tuyển dụng cần áp dụng những biện pháp tuyển dụng tiên tiến đã thực hiện ở một số Ngân hàng là đánh giá nhân viên trên cơ sở năng lực trí tuệ của chính bản thân nhân viên đó. Nghĩa là, đánh giá cao năng lực làm việc của nhân viên trong tương lai hơn là xem nhân viên đó biết được những gì. KẾT LUẬN: Thẩm định tài chính dự án đầu tư chỉ là một trong những khía cạnh cần phải tiến hành xem xét đối với mỗi dự án trước khi ra quyết định đầu tư, cho phép đầu tư dự án, đặc biệt dưới góc độ NHTM (nhà tài trợ lớn). Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong việc thực hiện mở rộng tín dụng an toàn hiệu quả của các NHTM. Những đây cũng là vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng, vì vậy phải có sự nghiên cứu sâu sắc, toàn diện trước khi có thể đưa ra những giải pháp đồng bộ phối hợp nỗ lực của các biện pháp liên quan. Trong thời gian thực tập tại NHTMCP CT Việt Nam Chi nhánh Tây Hà Nội. em đã đi tìm hiểu, nghiên cứu kỹ và viết chuyên đề “Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại NHTMCP CT Việt Nam Chi nhánh Tây Hà Nội”. Em nhận thấy rằng những kiến thức được biết trong sách vở và trên nghế nhà trương khác xa với thực tiễn, trình độ công nghệ thẩm định dự án ở Việt Nam còn hạn chế và lạc hậu so với công nghệ thẩm định của các nước trên thế giới. Nhưng sự phát triển của nghành Ngân hàng nói chung và công tác thẩm định nói riêng phải ánh trình độ phát triển của nền kinh tế. Trong điều kịên kinh tế của chúng ta hiện nay chưa thích ứng với những phương pháp thẩm định tiên tiến, nhưng không hẳn là chúng ta bỏ qua những phương pháp thẩm định đó mà cần phải nắm vững nhằm đáp ứng nhu cầu trong tương lai. Chủ để nghiên cứu này không hoàn toàn mới, song nó luôn là vấn đề cấp thiết và sự quan tâm hàng đầu trong quá trình kinh doanh của Ngân hàng nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Từ những kiến thức đã tổng hợp và phân tích đã được diễn giải thành bài viết, do đó bài viết chứa đựng những kiến thức cơ bản được học tại trường và thực tiễn tại NHTMCP CT Việt Nam Chi nhánh Tây Hà Nội, bên cạnh đó là những đề xuất mang tính chủ quan được xuất phát từ phương pháp nghiên cứu tư duy biện chứng, được gắn với thực tiến NHCT Việt Nam. Những điểm yếu của NHTMCP CT Chi nhánh Tây Hà Nội cũng là những khó khăn chung của NHTM Việt Nam. Mặc dù có sự hạn chế kinh nghiệm, cách tiếp cận thực tế cũng như khả năng phân tích, đánh giá song em cũng mạnh dạn đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại NHTMCP CT Chi nhánh Tây Hà Nội dù những giải pháp và kiến nghi được đưa ra trong bài viết này chỉ la một phần trong hàng loạt các giải pháp đồng bộ cần được thực hiện trong thời gian tới nhằm đổi mới hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Chuyên đề thực tập tuy khá hạn hẹp song rất có ý nghĩa bởi tính phức tạp cũng như tầm quan trọng của thẩm định tài chính dự án đầu tư đối với hoạt động của NHTM. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo nhiệt tình và những đóng góp quý báu để chuyên đề của em hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn những người đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này! TÀI LIỆU THAM KHẢO: Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng Thương mại (Ts. Nguyễn Minh Kiều), xuất bản năm 2009, Nhà xuất bản Thống kê Giáo trình Ngân hàng Thương mại (Ts. Tô Ngọc Hưng), Nhà xuất bản Thống Kê 2009 Báo cáo thường niên NHTM CP Công Thương Việt Nam năm 2009 Giáo trình Thẩm định Tài chính Dự án (PGS,Ts. Lưu Thị Hương), Nhà xuất bản Tài chính 2004 Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp (Ts. Bạch Đức Hiền), Nhà xuất bản Tài chính năm 2008 Tạp chí Ngân hàng, Thời báo kinh tế, Thị trường tài chính tiền tệ. Hồ sơ thẩm định dự án của cán bộ tín dụng NHTMCP CT Việt Nam Chi nhánh Tây Hà Nội MỤC LỤC NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP Hà Nội, ngày......tháng......năm 2010 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN Hà Nội, ngày......tháng......năm 2010 Giáo viên hướng dẫn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25525.doc
Tài liệu liên quan