Lịch sử đã chứng minh vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế quốc dân.Nó đã đóng góp rất nhiều trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo đường lối mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.Để bắt kịp cùng với tốc độ phát triển của khoa học kỹ thuật nói chung và trình độ các công cụ quản lý nói riêng, của các nước trên thế giới.Hệ thống ngân hàng thương mại của nước ta cũng ngày càng được hoàn chỉnh, bổ sung và thích ứng với nền kinh tế, một nền kinh tế vừa bước ra từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp để đến với nền kinh tế thị trường.Không những thế,hệ thống ngân hàng thương mại còn là trung tâm liên kết giữa các thành phần kinh tế với nhau.Vì vậy, để có thể thúc đẩy hơn nữa sự phát triển kinh tế của đất nước thì hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại ngày càng phải được đã dạng hoá phục vụ một cách nhanh tróng và chính xác hơn,đáp ứng nhu cầu ngày một cao của mọi thành phần kinh tế.Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh mẽ và đang trở thành trọng tâm thu hút nguồn lực của nền kinh tế.Để phục vụ tốt nhu cầu ngày càng cao và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế,Ngân hàng đã phục vụ tốt nhu cầu vốn cho thành phần kinh tế này dưới hình thức cho vay.Đối với ngân hàng thì việc sử dụng vốn có hiệu quả sẽ đem lại lợi nhuận cao,còn về phía khách hàng thì đây là hình thức giúp họ đạt được những ý tưởng,mục tiêu mà mình đề ra và đưa phương án kinh doanh của họ trở thành hiện thực.Tuy nhiên,Các thành phần phần kinh tế muốn có được vốn mà ngân hàng cho vay thì phải qua một quá trình thẩm định của ngân hàng về mục đích của việc vay vốn, các dự án đầu tư được triển khai ngày càng rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Các dự án đầu tư xin vay vốn ngân hàng có thời gian tương đối dài, số vốn tài trợ lớn và rất đa dạng do vậy việc khẳng định tính khả thi của dự án và hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng thương mại khi tham gia tài trợ vốn.Để đảm bảo được điều đó, công tác thẩm định dự án đầu tư là hết sức quan trọng và mang ý nghĩa lớn đối với hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Tuy nhiên đây là một lĩnh vực hết sức phức tạp còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục trao đổi nghiên cứu để giải quyết.
73 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1509 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đào tạo và đào tạo lại cho cán bộ nâng cao trình độ cán bộ tín dụng phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế về nhiều mặt như thẩm định, điều tra cho vay,các văn bản chế độ của ngành, ngoại ngành liên quan đến lĩnh vực tín dụng,kiến thức thị trường liên quan đến lĩnh vực đầu tư, để từ đó nâng cao trình độ cán bộ tín dụng có thể tiếp cận các dự án lớn.
Tổ chức những buổi trao đổi về nghiệp vụ thường xuyên hơn để cán bộ tín dụng học tập lẫn nhau, giao cho cán bộ cũ kèm cặp cán bộ mới và chấn chỉnh lại nơi làm việc cho gọn gàng sạch đẹp.
Rà soát lại đội ngũ cán bộ kinh doanh để điều động và bổ sung cán bộ cho phù hợp và đáp ứng được nhiệm vụ kinh doanh trong giai đoạn mới.
Tiếp tục đổi mới phong cách phục vụ văn minh lịch sự,tận tình với khách hàng,nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ kinh doanh.
Đào tạo cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ và sử dụng vi tính nhằm đáp ứng được yêu cầu của công nghệ mới khi đưa chương trình World Bank vào áp dụng tại NHN0 & PTNT Hà nội.
Tiếp tục khoán triệt đến từng cán bộ để nâng cao trách nhiệm của cán bộ trong công tác tín dụng như tăng trưởng tín dụng, giảm thiểu rủi ro, tăng trưởng khách hàng, thu lãi,nợ quá hạn,nợ rủi ro,chú trọng mở rộng tín dụng với nâng cao chất lượng tín dụng.Gắn kết quả đạt được của cán bộ tín dụng để trả lương hàng tháng,căn cứ vào kết quả đạt được của từng cán bộ tín dụng để trả lương theo kết quả đạt được về các chỉ tiêu.
Hàng tháng lãnh đạo phòng xây dựng chương trình công tác trong tháng của phòng căn cứ vào kết luận giao ban hàng tháng của Ban giám đốc và kế hoạch triển khai công việc của phòng từ đó từng cán bộ tín dụng xây dựng kế hoạch công tác của mình để trình lãnh đạo phòng chỉnh sửa phê duyệt sau đó cuối tháng kiểm điểm đánh giá kết quả đạt được từ đó có cơ sở phân loại đánh giá cán bộ và trả lương.
2.2. Thực tế về vấn đề thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn tại NHN0 & PTNT Hà nội.
Đối với ngân hàng thương mại nói chung và NHN0 & PTNT Hà nội nói riêng quản lý tốt các khoản vốn vay là vấn đề được coi trọng hàng đầu vì nhờ đó ngân hàng mới giảm được rủi ro, bảo toàn được vốn và mở rộng tín dụng. NHN0 & PTNT Hà nội đã áp dụng một loạt các biện pháp để hạn chế rủi ro và xử lý rủi ro trên cơ sở thực hiện nghiêm túc quy trình tín dụng cho vay, từ khâu tìm kiếm khách hàng, thẩm định khách hàng, quyết định cho vay đến khâu thu nợ...được áp dụng trong điều kiện cụ thể của ngân hàng.
Ngân hàng xây dựng quy trình xét duyệt cho vay theo nguyên tắc đảm bảo tính độc lập và phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay.Ngân hàng kiểm tra các tài liệu khách hàng gửi đến, đồng thời tiến hành thẩm định tính khả thi,hiệu quả của dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh và khả năng hoàn trả nợ vay.
Trong trường hợp cần thiết hoặc pháp luật có quy định thì ngân hàng thành lập hội đồng tín dụng hoặc thuê cơ quan tư vấn liên quan đến thẩm định dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Trong thời gian không quá 10 ngày làm việc đối với cho vay ngắn hạn và không quá 45 ngày làm việc, đối với cho vay trung và dài hạn kể từ khi ngân hàng nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách hàng theo yêu cầu của ngân hàng,ngân hàng quyết định và thông báo cho vay hoặc không cho vay đối với khách hàng.Trong trường hợp quyết định không cho vay,Ngân hàng thông báo cho khách hàng bằng văn bản, trong đó nêu rõ căn cứ cho vay.
2.2.1. Minh hoạ về quá trình thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn tại NHN0 & PTNT Hà nội
thẩm định "dự án mua 4 máy dệt khăn bông đầu Jacka điện tử " của NHN0 & PTNT Hà nội
I.Giới thiệu khách hàng:
- Tên khách hàng :
+ Tiếng việt : Công ty Dệt may Hà nội
+ Tiếng anh : HANOSIMEX
- Trụ sở : Số 01 Mai động - Hai Bà Trưng - Hà nội
- Điện thoại : 8627444
- Người đại diện : Ông Nguyễn Khánh Sơn - Tổng giám đốc Công ty Dệt may Hà nội
- Địa điểm đầu tư : Nhà máy dệt Hà Đông - Đường Cầu Am - Thị xã Hà Đông - Tỉnh Hà Tây
- Ngành nghề sản xuất kinh doanh : Sản xuất các loại vải dệt kim, sản xuất quần áo vải bằng vải dệt kim, Xuất nhập khẩu trực tiếp.Sản phẩm chính :Sợi bông, sợi pha, vải dệt kim, hàng may, khăn bông.
- Vốn chủ sở hữu đến ngày 30/09/2001 : 161.280.459.361 đồng
Công ty Dệt may Hà nội (HANOSIMEX ) là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng công ty dệt may Việt nam trực tiếp quản lý.Tiền thân là nhà máy sợi Hà nội được thành lập theo quết định thành lập số 211 CNn/TCLĐ của Bộ trưởng bộ công nghiệp nhẹ.Với chức năng nhiệm vụ là sản xuất các loại vải dệt kim, xuất nhập khẩu trực tiếp, sản xuất kinh doanh vải dệt thoi... Công ty Dệt may Hà nội là một đơn vị sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, luôn hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách cho Nhà nước, bảo đảm việc làm tương đối thường xuyên và nâng cao đời sống cho người lao động, làm tốt các chính sách kinh tế xã hội. Các chỉ tiêu kinh tế năm sau cao hơn năm trước.
II. Thẩm định tư cách pháp nhân :
1.Quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước số 211 CNn/TCLD Ngày 24/03/1993 của Bộ công nghiệp nhẹ.
2.Đăng ký kinh doanh số 110006 ngày 11/07/1995 của Uỷ ban kế hoạch thành phố Hà nội cấp.
3.Điều lệ doanh nghiệp
4.Quyết định bổ nhiệm Tổng giám đốc số 322/QĐ - TCLĐ ngày 08/03/1999 của Hội đồng quản trị Tổng công ty Dệt may Việt nam.
5.Quyết định bổ nhiệm kế toán trưởng : Số 79/QĐ - TCLĐ ngày 23/03/1999 của Hội đồng quản trị Tổng công ty Dệt may Việt nam.
III.Thẩm định khả năng tài chính
A. Bảng kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong các năm qua.
STT
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm2001
1
Doanh thu
(Không có thuế VAT)
-Nội địa
Xuất khẩu
411.113
231.034
180.070
473.923
286.177
187.746
558.981
303.665
225.316
2
Lợi nhuận
1.659
2.112
2.200
Lợi nhuận và doanh thu tăng dần qua các năm.Tốc độ tăng trưởng bình quân là 15 %/năm, vượt 5% so với kế hoạch tăng tốc chung của ngành.
Năm 2001 Công ty đạt giá trị sản lượng 591,3 tỷ đồng, bằng 103,9% kế hoạch vượt 17,8% so với năm 2000,nộp NSNN 14,228 tỷ đồng,kim ngạch xuất khẩu trên 17 triệu USD .Nhưng sản phẩm chính của công ty cũng vượt kế hoạch : Sợi toàn bộ 13,714 tấn,bằng 105,5% kế hoạch, vượt 11% so với năm 2000.Hoàn thành mọi chỉ tiêu nộp ngân sách và các chỉ tiêu tiền lương cho người lao động.Thị trường của Công ty đã được mở rộng cả trong nước và nước ngoài. Tên tuổi của HANOSIMEX ngày càng có uy tín đối với bạn hàng nội địa và xuất khẩu.
B. Hệ số tài chính qua các năm
STT
Năm 1999
Năm 2000
Đến Quý III năm 2001
1
Hệ số thanh toán ngắn hạn
TSLĐ
Nợ ngắn hạn
1.4
1.55
1.4
2
Hệ số thanh toán nhanh
Tiền + Các khoản phải thu
Nợ ngắn hạn
0.58
0.65
0.63
3
Hệ số nợ / tổng tài sản
S nợ phải trả
S tài sản
0.7
0.68
0.72
4
Vốn lưu động
Tài sản lưu động
0.67
0.65
0.74
5
Vốn cố định
Tài sản cố định
1.5
1.47
1.4
*/ Một số nhận xét về tình hình tài chính Công ty Dệt may Hà nội thông qua bảng tính toán trên :
Hệ số thanh toán ngắn hạn tương đối cao qua các năm,điều đó cho thấy doanh nghiệp luôn đáp ứng được các yêu khoản nợ ngắn hạn
Tài sản lưu động > Vốn lưu động : Cho thấy khả năng thanh toán của công ty tốt
Vốn cố định > Tài sản cố định : Cho thấy nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào TSCĐ, phần thừa này có thể sẽ dùng để đầu tư vào TSLĐ.
C.Hệ số sinh lời qua các năm
STT
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Đến Quý III năm 2001
1
Hệ số sinh lời
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
0.003
0.003
-
2
Hệ số sinh lời trên vốn chủ sở hữu
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu
0.007
0.009
-
Qua bảng tính toán trên cho thấy khả năng sinh lời của công ty qua các năm còn chưa cao
D.Khả năng tài chính đến ngày 30/09/2001
Đơn vị : triệu đồng
Tài sản
Nguồn vốn
TSLĐ và Đầu tư ngắn hạn
Vốn bằng tiền
Các khoản phải thu
Giá trị vật tư hàng hoá
TSCĐ và Đầu tư dài hạn
TSCĐ
CPXDCBDD
343.340
14.281
145.418
176.244
241.437
237.774
3.663
A.Nợ phải trả ngắn hạn
Vay ngắn hạn
Phải trả người bán
Người mua trả trước
Phải trả khác
B.Nợ trung và dài hạn
Vay dài hạn
Nợ dài hạn
C.Vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn kinh doanh
Nguồn kinh phí và các quý khác
253.299
195.561
43.277
2.917
11.544
167.646
167.095
551
161.280
161.004
99
Tổng cộng
584.838
Tổng cộng
584.838
Qua bảng tình hình tài chính của Công ty đến quý III năm 2001 ta thấy :
Công ty hoạt động chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng và vốn huy động khác (72%), tuy nhiên khả năng thanh toán của công ty tương đối cao (1,4)
Hàng tồn kho khá cao chiếm 51% TSLĐ và Đầu tư ngắn hạn
Hàng tồn kho và các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn = 68.363 trđ > 0
Tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nguồn vốn ngắn hạn có nghĩa là sử dụng ngắn hạn của công ty lớn hơn nguồn vốn ngắn hạn mà công ty có được từ bên ngoài,công ty phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ phần chênh lệch
- Các khoản phải thu chiếm 42%, chủ yếu là phải thu của khách hàng và khoản phải trả trước cho người bán
- Về cơ cấu tài sản : TSLĐ chiếm 59% tổng tài sản
- Hệ số nợ / Vốn chủ sở hữu = 3,63 cao,đây là điều đáng ngại đòi hỏi công ty phải kinh doanh như thế nào để đạt được mức thu nhập, có lợi nhuận và tiền mặt để đáp ứng được việc chi trả nợ.
- Nợ dài hạn / Tổng tài sản = 29% đủ điều kiện để ngân hàng cho vay.
Một số nhận xét chung về tình hình tài chính của công ty
Nói chung tình hình tài chính của Công ty Dệt may Hà nội qua các năm tương đối là ổn định, ngày càng hoàn thiện và phát triển hơn. Nhưng bên cạnh đó còn một số vấn đề tồn tại như sau :
+ Hàng tồn kho và các khoản phải thu còn tương đối cao
+ Hoạt động chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng và huy động khác
+ Khả năng sinh lời còn chưa cao
Vậy để đảm bảo tài chính Công ty cần phải nhanh tróng giải phóng hàng tồn kho và giảm các khoản phải thu ở khách hàng.
IV. Thẩm định dự án 04 máy dệt khăn bông đầu Jacka điện tử
1. Sự cần thiết phải đầu tư:
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về chiến lược tăng tốc ngành dệt may giai đoạn 2000 - 2010, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu.Chính vì thế ngành dệt đã phải tự đưa ra cho mình những kế hoạch cần thực hiện cụ thể như sau :
+ Đa dạng hoá sản phẩm, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng mẫu mã đạt tiêu chuẩn quốc tế, tăng khẳ năng cạnh tranh.
+ Chuyên môn hoá cao nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao
+ Hình thành các khu công nghiệp dệt
Đối với công ty dệt may Hà nội đầu tư đổi mới thiết bị, mở rộng sản xuất là một xu hướng phát triển tất yếu của công ty,đặc biệt là trong các lĩnh vực mà thị trường tiêu thụ đang mở rộng mà công ty lại có nhiều thế mạnh trong sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm đó
Hiện tại công ty có 10 nhà máy thành viên, 4800 cán bộ, 14 vạn cọc sợi riêng khu vực Hà nội có 10 vạn cọc, 50 máy dệt kim các loại bao gồm máy dệt Single, máy dệt Rib,máy dệt Iterlock.Hàng năm có thể sản xuất được 2000 tấn vải để cung cấp cho nhà máy may trong công ty và bán cho khách hàng,150 máy dệt khăn bông ATM hàng năm có thể sản xuất 600 tấn khăn các loại.Các sản phẩm chủ yếu của công ty hiện nay bao gồm : Sợi các loại đạt từ 15000 đến 17000 tấn / năm, sản phẩm dệt kim xuất khẩu đạt mức cao nhất xấp xỉ 5.000.000 sản phẩm mỗi năm. Khăn các loại đạt khoảng 600 tấn / năm.Vải Demin và sản phẩm may từ vải Demin đã bắt đầu được tiêu thụ trên thị trường.Tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty đạt trên 13.000.000 USD năm 2000.Tất cả các sản phẩm của công ty hiện đang có mặt trên thị trường quốc tế như :Nhật, Đan Mạch, Thụy Sỹ,Italia,Mỹ... Lượng xuất khẩu trung bình hàng năm các sản phẩm của công ty như sau : Sợi 1700 tấn / năm,quần áo dệt kim 4.000.000 chiếc/ năm, khăn bông các loại 1.000 tấn / năm (do Công ty gia công thêm để có thêm 400 tấn /năm),mũ là mặt hàng mới trong tháng 6 năm 2001 cũng đã xuất khẩu được 29000 chiếc.
Công ty Dệt may Hà nội trong những năm qua là một đơn vị sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao,nhiều năm công ty luôn giữ được vị trí then chốt và xứng đáng trong ngành Dệt may Việt nam.Là đơn vị quản lý nhiều hàng xuất khẩu kinh doanh có hiệu quả cao, có uy tín lớn đối với khách hàng trong nước và nhiều công ty của các nước trên thế giới.
Nhà máy dệt Hà đông được trang bị một dây truyền sản xuất khăn bông xuất khẩu với 148 máy bao gồm 108 máy dệt ATM của Liên xô cũ, 04 máy dệt VAMATEX và 36 máy dệt ATM đầu Jacka cơ của Cộng Hoà Liên Bang Đức cũ.Sau khi sát nhập vào công ty dệt may Hà nội năm 1995 đã thực hiện được nhiều biện pháp củng cố, cải tiến. Kết quả cho thấy chất lượng sản phẩm tăng lên rõ rệt, nhà máy luôn hoàn thành kế hoạch, kỷ luật lao động đi vào nề nếp.
Nhu cầu về khăn chất lượng cao, khăn dệt kiểu Jacka thay đổi mẫu mã nhanh rất lớn và đa dạng, trong khi thiết bị dệt kiếm VATAMEX hiện có tại Hà Đông chỉ đáp ứng được khăn dệt trơn có borders.
Đầu tư máy dệt kiếm mềm đầu Jacka điện tử năng xuất cao, đường kính lá sen trục bông,nền lớn, đường kính cuộn vải lớn, máy dệt kiếm mềm không cần thay thoi cho phép giảm thời gian dừng máy, tăng hiệu xuất chạy máy, tiết kiệm số lao động đứng máy.
Chiều rộng lòng bông của khăn thành phẩm yêu cầu lên tới 68 cm, số sợi trên một khăn là trên 2000 sợi (kể cả sợi nền ).Bởi vậy cần loại máy dệt Jacka có số kim lớn hơn 2000 kim,trong khi đó máy dệt ATM lắp đầu Jacka của Đức hiện có tại Nhà máy dệt Hà Đông chỉ có 660 kim.
Với các lý do trên,nhu cầu về máy dệt lắp đầu Jacka điện tử có số kim lớn hơn 2000 kim là cần thiết để Công ty Dệt may Hà nội có điều kiện đa dạng hoá sản phẩm, tăng tính cạnh tranh,đáp ứng yêu cầu của khách hàng nhằm mục tiêu cuối cùng là tạo ra được ngày càng nhiều lợi nhuận trong kinh doanh.
Dự kiến sản lượng thay thế máy dệt Jacka cơ khí hiện có của máy dệt Hà Đông (Sản lượng hàng năm của 36 máy là 226,044 tấn khăn )bằng 04 máy Jacka mới với sản lượng 245,972 tấn khăn /năm.
2. Cơ sở pháp lý
Dự án đầu tư 04 máy dệt khăn bông đầu Jacka điện tử
Phê duyệt dự án đầu tư 04 máy dệt may khăn bông đầu Jacka điện tử của Hội đồng quản trị Tổng công ty Dệt may Việt nam số 828/QĐ- KTĐT ngày 19/11/2001
Bảng cân đối kế toán của năm 1999, 2000,Quý III năm 2001
Hợp đồng mua máy móc thiết bị số 19/HNM- SBL /02 ngày 28/03/2002
Đơn xin vay ngày 17/04/2002
Hồ sơ pháp lý của công ty (QĐ thành lập công ty, điều lệ, quyết định bổ nhiệm của Tổng giám đốc,kế toán trưởng...)
Nhận xét tính hợp pháp của hồ sơ :Dự án đầu tư 04 máy dệt khăn bông đầi Jacka điện tử có vốn đầu tư dưới 20 tỷ thuộc dự án nhóm C thẩm quyền quyết định dự án là cấp ngành.
Dự án đã được Tổng công ty Dệt may Việt nam phê duyệt.Các Bảng Cân đối kết toán, Bảng Kết quả kinh doanh do công ty lập và tự chịu trách nhiệm về tính trung thực của các báo cáo này.
3.Tổng vốn đầu tư và nguồn tài trợ
a.Tổng vốn đầu tư theo quyết định phê duyệt của Tổng công ty Dệt may Việt nam
* Tổng vốn đầu tư 8.858 trđ
+ Vốn cố định 8.858 trđ
+ Thiết bị 8.785 trđ
+ Xây lắp 100.000 trđ
* Hạn mục
+ 04 máy dệt 2.038.500.000*4 = 8.154.000.000 đồng
+ Hệ thống thiết kế 604.000.000 đồng
+ Lắp đặt và vận chuyển 100.000.000 đồng
Tổng cộng : 8.157.112.000 đồng
b.Nguồn vốn thực hiện dự án
Tổng mức vay : 7.792.200.000 đồng (= 90% tổng mức đầu tư )
Các máy móc thiết bị được nhập ngoại đồng bộ của Châu âu. Việc mua sắm thiết bị sẽ được thực hiện theo hợp đồng mua bán máy móc thiết bị số 19/HNM-SBL/02 ngày 28/03/2002
Về đồng tiền vay công ty nhận nợ vay bằng VNĐ. Công ty đồng ý mua ngoại tệ theo tỷ giá quy đổi tại thời điểm rút vốn.
Thời gian vay và trả nợ :
+ Thời gian vay : 10 năm
+ Ân hạn : 6 tháng
Lãi suất : Năm đầu tiên kể từ ngày rút vốn đầu tiên đến 31/12/2002 là 0,65%/ tháng. Các năm sau lãi suất cho vay bằng lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước hoặc lãi suất huy động vốn 12 tháng của NHN0 & PTNT Hà nội
Bảo đảm tiền vay : Thực hiện đảm bảo tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay và tài sản đảm bảo của đơn vị tối thiểu 20% tổng vốn tự có. Khả năng trả nợ của dự án công ty dự kiến trích 90% khấu hao tài sản cố định mới đầu tư.
4. Hiệu quả của dự án
a. Hiệu quả kinh tế :
- Doanh thu của dự án qua các năm được tính toán dựa trên cơ sở dự toán nhu cầu tiêu thụ và giá bán hàng ở phần thị trường
- Các chi phí nguyên vật liệu đầu vào : chi phí nguyên liệu chính, vật liệu phụ giữ theo nguyên tắc định mức.Điện, động lực,nước theo mức tiêu hao 1,9kw/kg đơn giá 850 đồng /kw
- Chi phí nhân công 800.000 đ/người
- Khấu hao tài sản cố định được tính theo quyết định 166/199/QĐ của Bộ tài chính và chế độ khấu hao.
- Chi phí lãi vay : 628.831.600
- Thời hạn vay : 10 năm
- Thời gian ân hạn : 6 tháng
- Lãi suất : 7,8% năm
Giá bán và chi phí đều tínhVAT 10%
- Toàn bộ phần tính toán hiệu quả của dự án là 10%(biểu tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh và cân bằng khả năng trả nợ có thẩm định lại )
Tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh và cân bằng khả năng trả nợ
So sánh IRR với lãi suất cho vay hiện tại 7,8%/năm thì dự án này có tỷ suất hoàn vốn nội bộ không cao, do đó việc bảo đảm khả năng trả nợ của ngân hàng chỉ là tương đối.
- Độ nhạy của dự án :
Các yếu tố
IRR(10%)
Sự tăng giảm IRR(%)
Chỉ số nhạy cảm (%)
NPV(Trđ)
Theo tính toán của dự án
14
2.229
Vốn đầu tư tăng 10%
13,19
-6
- 0,6
2.032
Giá bán hàng giảm 10%
12
-14
-1,4
- 4.815
Chi phí khả biến tăng 10%
13
-7
- 0,7
-2.019
Nhận xét : Qua bảng tính toán cho ta thấy chỉ tiêu IRR của dự án 04 máy dệt Jacka nhạy cảm nhất với giá bán của sản phẩm,rồi đến chi phí khả biến và cuối cùng là vốn đầu tư.Nhận thấy phải rất quan tâm đến giá bán của sản phẩm vì sự thay đổi của giá bán ảnh hưởng tới hiệu quả của dự án, ảnh hưởng tới nguồn trả nợ cho ngân hàng.
- ảnh hưởng của giá bán đến độ nhạy của dự án :
Nhận xét độ nhạy của dự án khi giá bán giảm : Nếu giá bán giảm 3% thì NPV vẫn >0 nhưng IRR giảm thấp 8% chỉ cao hơn lãi đầu tư tạm tính rất ít (khoảng 0,02%)trong khi xu hướng lãi suất ngân hàng sẽ tăng lên và như vậy khả năng dự án sẽ thiếu nguồn trả nợ ngân hàng,khi giá bán giảm tới 4% thì NPV <0 tức là khi đó sẽ bị thua lỗ. Như vậy khả năng chịu đựng của dự án đối với giá bán giảm là yếu.
- Khả năng tích luỹ của dự án :
Đối chiếu với kế hoạch trả nợ ngân hàng, nếu công ty thực hiện dự án theo đúng kế hoạch như trên thì phần tích luỹ của dự án sẽ đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng.
b. Hiệu quả xã hội của dự án
Các điều kiện của môi trường đầu tư (địa điểm, nguyên liệu, cơ sở hạ tầng ) thị trường và xu hướng phát triển kinh tế - xã hội đều thuận lợi và phù hợp cho việc triển khai dự án. Dự án đem lại hiệu quả và đạt được những lợi ích kinh tế xã hội đáng kể như sau :
+ Mức đóng góp cho ngân sách : sau khi dự án đi vào hoạt động hàng năm nộp ngân sách nhà nước bình quân 157,327 triệu đồng. Tổng số đóng góp trong 10 năm lên tới 1.573,273 triệu đồng, mang lại lợi nhuận Công ty 2.716.436.422 đ
+ Giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của người lao động.
+ Thay thế 36 máy dệt Jacka cơ khí điện của Nhà máy dệt Hà Đông (Sản lượng hàng năm của 36 máy là 226,44 tấn khăn, bằng 4 máy Jacka mới với sản lượng 245,792 tấn khăn /năm ).
+ Sản phẩm của dự án là khăn bông dệt Jacka khổ rộng, mật độ sợi dọc cao, chi số sợi cao. Đây là mặt hàng đang được ưa chuộng tại thị trường Nhật Bản.Dự đoán khách hàng sẽ mua với số lượng ổn định.Nhu cầu khăn bông của khách hàng trong nước và ngoài nước ngày càng tăng về cả số lượng và chất lượng.
Thị trường cụ thể của dự án :
+ Xuất khẩu : 97%
+ Nội địa : 3%
___________
Tổng : 100%
Công ty tổ chức tiêu thụ từ nhà máy, quảng cáo giới thiệu sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng, có kế hoạch thăm dò thị trường đưa ra sản phẩm phù hợp, tham gia các hội trợ triển lãm trong nước và quốc tế, có chế độ khuyến mãi với khách hàng, tìm hiểu và xâm nhập thị trường xuất khẩu.
5. Kết luận và kiến nghị
Chủ đầu tư là doanh nghiệp Nhà nước có bề dày kinh nghiệm và đang có vị trí trên thị trường dệt may Việt nam.Dự án đầu tư 04 máy dệt Jacka đầu điện tử sản xuất ra sản phẩm khăn bông dệt Jacka khổ rộng,mật độ sợi dọc cao,chỉ số sợi cao, một mặt hàng đang được ưa chuộng.Thị trường đầu ra của sản phẩm dự kiến là ổn định, Nhật Bản là bạn hàng lâu năm, luôn luôn mua gần như 100% lượng khăn bông do Công ty sản xuất ra hàng năm, nhưng hợp đồng bán hàng này chỉ ký cho từng năm một,điều này sẽ làm ảnh hưởng đến mức độ an toàn vốn vay khi công ty không tiêu thụ được sản phẩm của mình theo như dự kiến tiêu thụ 100% sản phẩm sản xuất ra.Do đó để đảm bảo an toàn hơn nữa đề nghị Công ty phải :
- Cần phải có hợp đồng bán hàng ổn định ít nhất là 04 năm đầu tiên để làm căn cứ cho việc tiêu thụ 100 sản phẩm của mình
- Doanh thu tiêu thụ của nhà máy phải được nộp hết vào NHN0 & PTNT Hà nội Nhằm mục đích cho ngân hàng quản lý được doanh thu và đảm bảo được khả năng thu nợ cho ngân hàng.
- Cần phải có một quy chế quản lý điều hành hết sức chặt chẽ,nghiêm túc tới từng bộ phận, từng con người.
V. ý kiến của cán bộ tín dụng
Đề nghị cho Công ty Dệt may Hà nội vay dài hạn đầu tư 4 máy dệt khăn bông đầu Jacka điện tử cụ thể như sau :
+ Lý do : Tuy dự án không đem lại lợi nhuân cao, sức chịu của dự án đối với giá bán giảm còn yếu nhưng chỉ có đầu tư đổi mới công nghệ cụ thể là đầu tư 04 máy dệt Jacka mới đưa ra được khăn bông thích ứng với nhu cầu của bạn hàng nước ngoài cũng như khách hàng trong nước.Đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng mẫu mã đạt tiêu chuẩn quốc tế,tăng khả năng cạnh tranh giúp cho Công ty từng bước thực hiện theo kế hoạch tăng tốc ngành dệt may, theo kịp với sự phát triển nghành dệt may trên thế giới, tránh bị tụt hậu.
+ Số tiền vay : 7.086.400.000 (Chiếm 80% tổng mức đầu tư )
+ Lãi suất : 7,8% năm thứ nhất kể từ ngày rút vốn đầu tiên đến 31/12/2002.Các năm sau lãi suất được điều chỉnh lại trên cơ sở lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước hoặc lãi suất huy động vốn 12 tháng của NHN0 & PTNT Hà nội, điều chỉnh lãi suất mỗi năm một lần và tính từ ngày 01 tháng 01 hàng năm,mỗi lần điều chỉnh sẽ được báo trước 5 ngày.
+ Thời hạn cho vay : 120 tháng
+ Thời hạn trả nợ : 114 tháng
+ Thời gian ân hạn: 06 tháng
Kế hoạch trả nợ (Lãi suất tạm tính 7,8% /năm. Đơn vị triệu đồng)
- Phân kỳ trả nợ :
+ Trả nợ gốc theo quý (mỗi quý phải trả một khoản gốc là :178 trđ)
+ Trả lãi hàng tháng (vào ngày 25)
+ Bắt đầu thực hiện trả nợ kể từ khi hết thời hạn gia ân hạn.
2.3. Đánh giá chất lượng hoạt động thẩm định tại NHN0 & PTNT Hà nội
Cũng giống các ngân hàng khác, NHN0 & PTNT hoạt động trong nền kinh tế thị trường theo nguyên tắc “đi vay để cho vay “ nhưng trong quá trình huy động vốn và sử dụng vốn có rất nhiều vấn đề được đặt ra đặc biệt việc sử dụng vốn, nó thường gặp rất nhiều rủi ro. Chính vì vậy NHN0 & PTNT Hà nội tìm mọi cách để cho vay có hiệu quả và an toàn để ngân hàng đứng vững và chiến thắng trong cạnh tranh.Tuy NHN0 & PTNT Hà nội đã đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình phát triển của mình nhưng nó vẫn còn những tồn tại cần giải quyết.
2.3.1. Một số thành tựu đạt được
Trong những năm gần đây công tác phân tích và thẩm định dự án đầu tư tại NHN0 & PTNT Hà nội đã được đặc biệt coi trọng. Nhờ vậy, nó đã mang lại những kết quả đáng mừng với những dự án trong tay, các cán bộ tín dụng đều đi sâu kiểm tra xem xét mọi phương diện của dự án,từ đó để phân tích, đánh giá kỹ lưỡng các dự án và đưa ra kết luận cuối cùng là dự án đó có khả thi hay không ?Nỗ lực của cán bộ tín dụng đã góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định đầu tư, loại bỏ những dự án không có hiệu quả và đưa ra quyết định đầu tư đối với những dự án được coi là khả thi.
Mặt khác,khi chất lượng của công tác thẩm định dự án đầu tư tăng lên thì rủi ro sẽ bị hạn chế hay mức độ an toàn vốn cũng tăng lên. Từ đó tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có hiệu quả. Cụ thể trong vài năm gần đây tình hình huy động vốn và sử dụng vốn của NHN0 & PTNT Hà nội luôn tăng hơn các năm trước, số nợ quá hạn giảm mạnh. Trong đó, nợ quá hạn từ các món cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng không đáng kế .Qua đó cho thấy công tác thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn của NHN0 & PTNT Hà nội rất có hiệu quả.
2.3.2. Những hạn chế trong hoạt động thẩm định
- Việc tính toán các chỉ tiêu NPV, IRR, PP,.... chỉ mới được đề cập và mang tính hình thức, không được coi là những chỉ tiêu trọng yếu. Giá trị thời gian của tiền không được đề cập trong nhiều dự án, điều nay ít nhiều cũng gây ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án.
- Việc lựa chọn lãi suất để tính NPV còn chưa thống nhất, chưa có một căn cứ khoa học rõ ràng trong việc lựa chọn mà chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ thẩm định. Việc tính doanh thu hàng năm chỉ dựa trên phương pháp so sánh đối chiếu, dựa vào kinh nghiệm và nhận định chủ quan của cán bộ thẩm định mà chưa có một phương pháp định lượng chính xác để xác định chính xác nhu cầu.Việc đánh giá dự án mới chỉ dừng lại ở việc xem xét trạng thái tĩnh chứ chưa dự trù được những thay đổi của thị trường ( như biến đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất, lãi suất chiết khấu, lạm phát,...). Phương pháp tính toán khấu hao cơ bản, trích khấu hao trong từng dự án mà ngân hàng áp dụng còn quá chung chung, chủ yếu dựa vào giả định của cán bộ thẩm định theo quy định của Nhà nước trong khi đó khung của Nhà nước lại quá rộng. Đặc biệt việc phân bổ dự phòng một cách chung chung là phi lý và không có căn cứ. Ngân hàng cần mạnh dạn áp dụng những phương pháp thẩm định mới đang được sử dụng ở các ngân hàng, các đơn vị thẩm định trong và ngoài nước và áp dụng một cách sáng tạo vào tình hình nước ta..
- Một số tài sản tuy thời gian khấu hao đã hết nhưng khi kết thúc dự án vẫn còn giá trị sử dụng. Việc hoàn trả hay định giá tài sản cũng như hoàn trả vốn lưu động khi kết thúc dự án cũng chưa có quy định cụ thể.
- Theo quy định của NHN0 & PTNT Việt nam nhiệm vụ của cán bộ tín dụng trong giai đoạn quản lý nợ là thường xuyên đánh giá tình hình tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng, việc trả nợ đúng hạn, đánh giá lại tài sản thế chấp nhưng việc định kỳ đánh giá tài sản thế chấp chưa được thực hiện.
- Số nhân viên thực sự có năng lực không đủ để đáp ứng cho yêu cầu công việc. Đội ngũ nhân viên của ngân hàng hoạt động chưa đồng đều, số nhân viên thực sự có năng lực vẫn thiếu dẫn đến tình trạng những người có khả năng phải làm việc quá nhiều. Số còn lại để hoàn thành tốt công việc phải cần đến sự trợ giúp của nhiều người.
- Thông tin còn thiếu hụt.
- ứng dụng tin học trong ngân hàng còn rất hạn chế. Toàn bộ quy trình thu thập, lưu trữ, xử lý thông tin trong ngân hàng chưa được tự động hoàn toàn. Vì vậy thông tin không đựơc xử lý và cung cấp chính xác, kịp thời do những sai lệch phát sinh trong giai đoạn xử lý bằng tay.
Ngoài ra, ngân hàng chưa có quy định đảm bảo việc tuân thủ các thủ tục tín dụng, ngăn ngừa rủi ro và chấm dứt các hợp đồng có khả năng gây tổn thất cho ngân hàng.
2.3.3. Những nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế trên
* Nguyên nhân từ phía ngân hàng :
Thực hiện quy trình tín dụng còn thiếu sót
Chưa xây dựng được chiến lược khách hàng
Chính sách tín dụng của ngân hàng còn nghèo nàn, Bên cạnh đó qui trình thẩm định, đánh giá khoản vay phụ thuộc chủ yếu vào bộ phận tín dụng, chưa có bộ phận thẩm định hoạt động độc lập với phòng tín dụng là những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng.
Hoạt động của hội đồng tín dụng chưa được đẩy mạnh, chưa thiết lập bộ phận kiểm tra, giám sát tín dụng giúp ngăn ngừa rủi ro tín dụng, chưa xây dựng được hệ thống phân loại khoản vay để đánh giá và quản lý các khoản vay theo tiêu chuẩn, việc đánh giá hiện nay chủ yếu dựa vào sự hiểu biết, kinh nghiệm của CBTD nên dễ phát sinh rủi ro và dẫn tới tình trạng đánh giá không nhất quán.
Việc chấp hành qui định cho vay chưa nghiêm, thực hiện qui trình cho vay còn mắc nhiều sơ hở
Chưa có chế độ khuyến khích CBTD hợp lý dẫn đến hiện tượng CBTD “ngại” cho vay, sợ trách nhiệm vì lý do : cho vay thu nợ đầy đủ cả gốc lẫn lãi hàng trăm tỷ không ai khen, nhưng chỉ cần một món vay phát sinh nợ quá hạn là bị “xử lý”.
Chưa có chế độ khuyến khích CBTD hợp lý dẫn đến hiện tượng CBTD “ngại” cho vay, sợ trách nhiệm vì lý do : cho vay thu nợ đầy đủ cả gốc lẫn lãi hàng trăm tỷ không ai khen, nhưng chỉ cần một món vay phát sinh nợ quá hạn là bị “xử lý”.
* Nguyên nhân từ phía khách hàng :
Trong thực tế hoạt động tín dụng đã xuất hiện một số trường hợp khách hàng lừa đảo, buôn lậu, kinh doanh trái phép, sử dụng vốn sai mục đích, nhiều trường hợp khách hàng lập kế hoạch kinh doanh giả, hoặc nhờ tư vấn lập kế hoạch kinh doanh để rút tiền ngân hàng, kế hoạch kinh doanh có đủ hợp đồng kinh tế đầu vào, đầu ra nhưng khi vay được vốn ngân hàng lại không đầu tư theo phương án đã lập mà cho vay lấy lãi cao hơn hoặc cố tình chiếm đoạt số tiền vay. Cán bộ tín dụng khi phát hiện không có biện pháp xử lý triệt để hoặc cố tình lờ đi hy vọng đến hạn khách hàng sẽ thanh toán. Những trường hợp này do đánh giá thẩm định không kỹ nên tài sản đảm bảo là hàng chậm luân chuyển khó chuyển thành tiền mặt để thu hồi nợ cho ngân hàng.
* Nguyên nhân khách quan :
- Do môi trường kinh tế không ổn định :
Nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường nên các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh, đổi mới và hoàn thiện, sản xuất kinh doanh trong nước phải cạnh tranh găy gắt với hàng lậu và hàng nhập ngoại, các doanh nghiệp chậm thích nghi với cơ chế thị trường, việc chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp với sự thay đổi của cơ chế và chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, nhiều doanh nghiệp chưa kịp điều chỉnh KHKD phù hợp với sự thay đổi của chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước hoặc có trường hợp ngộ nhận nhu cầu thị trường dẫn đến trường hợp phát triển tràn lan quá mức. Vì vậy một số doanh nghiệp và ngành sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, thua lỗ, mất khả năng thanh toán, làm phát sinh nợ khó đòi cho ngân hàng.
- Sức ép cạnh tranh :
Sự cạnh tranh của hơn 50 NHTM và chi nhánh trên địa bàn Hà nội đã gây không ít khó khăn trong việc quản lý khách hàng do họ có thể quan hệ với nhiều tổ chức tín dụng. Trong khi đó hệ thống thông tin giữa các ngân hàng còn thiếu mặc dù đẫ có trung tâm thông tin tín dụng CIC nhưng sự hợp tác giữa các NHTM và CIC không đồng bộ, chưa thống nhất do đó chưa đạt hiệu quả cao. Thậm chí có một số NHTM vì sợ cạnh tranh nên đã không thông tin cho CIC và điều đó dẫn đến việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ tại nhiều tổ chức tín dụng rất khó khăn. Ngân hàng không thể xác định đúng đắn, chính xác về tình hình tài chính, tư cách pháp nhân của doanh nghiệp và sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng khi cho vay.
- Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng chưa đồng bộ:
Một số văn bản pháp lý có liên quan đến vấn đề thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng ở khía cạnh này hay khía cạnh khác qui định chưa đồng bộ, đầy đủ, nhất là thiếu văn bản hướng dẫn, hoặc có hướng dẫn nhưng chưa đầy đủ nên quá trình thực hiện còn nhiều khó khăn.
Chương 3
Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung va dài hạn tại NHN0 & PTNT Hà nội
3.1 Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn tại NHN0 & PTNT Hà nội
Trong chương 2 qua việc xem xét tình hình hoạtđộng kinh doanh của NHN0 & PTNT Hà nội, chúng ta thấy vai trò của công tác thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn. Để đảm bảo trong công tác thẩm định và hạn chế những rủi ro cho Ngân hàng cần phải có những giải pháp sau để giảm bớt những tồn tại cần giải quyết.
* Khai thác sử dụng các thông tin trong quá trình thẩm định tránh tình trạng thông tin một chiều.
Các nguồn thông tin số liệu về dự án đầu tư của doanh nghiệp xin vay vốn rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn về việc xác định hiệu quả của dự án. Tuy vậy, Ngân hàng được các Doanh nghiệp cung cấp các thông tin về tình hình hoạt đông của mình hay nói cách khác, Ngân hàng thụ động trong việc cung cấp các nguồn thông tin này. Do đó, để đứng về thế chủ động, Ngân hàng phải tự mình tìm kiếm, khai thác các thông tin.
- Lấy thông tin bằng cách điều tra trực tiếp Doanh nghiệp vay vốn.
Đây là hình thức lấy thông tin cần thiết từ phía khách hàng. Mục đích của phỏng vấn trực tiếp với khách hàng là để quan sát thái độ, phương pháp và nội dung trả lời của khách hàng để phát hiện ra những mâu thuẫn và những vấn đề không nhất quán hoặc không trung thực giữa hồ sơ vay vốn và nội dung trả lời phỏng vấn. Bên cạnh việc kiểm tra lại thông tin mà khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng còn phải phỏng vấn khách hàng để khách hàng giải trình những điểm chưa rõ ràng hoặc còn mâu thuẫn trong hồ sơ vay vốn của khách hàng.
Để làm được điều này cán bộ tín dụng phải chuẩn bị trước những câu hỏi mình cần phỏng vấn, chi tiết những nội dung gì và sắp xếp theo một trình tự hợp lý. Thông thường cán bộ tín dụng sẽ hỏi lướt qua nhưng vấn đề như :Tên doanh nghiệp, chủ sở hữu của doanh nghiệp, thời gian thành lập doanh nghiệp, doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực gì, trình độ của các cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp... Còn các thông tin về tình hình tài chính của công ty thường ít khi được giải trình đầy đủ, do đó cán bộ tín dụng cần phải phỏng vấn chi tiết: Doanh nghiệp sẽ dùng những nguồn thu nào để trả nợ cho Ngân hàng, nếu gặp rủi ro thì ngoài nguồn thu trên doanh nghiệp sẽ dùng nguồn nào để trả nợ cho Ngân hàng và những khó khăn thuận lợi khi thực hiẹn phương án, đã có các biện pháp gì khắc phục, hạn chế rủi ro. Để thu được kết quả cao từ cuộc phỏng vấn này thì cán bộ tín dụng phải cởi mở, tạo ra bầu không khí thoải mái và quan trọng nhất là nghệ thuật đặt câu hỏi để khuyến khích được khách hàng nói chuyện, từ đó khai thác được những thông tin cần thiết.
- Thu thập thông tin từ bên ngoài.
Ngoài những thông tin có được từ phía doanh nghiệp xin vay cung cấp, cán bộ tín dụng còn cần thu thập các thông tin cần thiết từ các nguồn bên ngoài như từ cơ quan quản lý kinh tế, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật, các văn bản, tài liệu... Các công ty kiểm toán có thể cung cấp những số liệu chính xác về hoạt động tài chính của doanh nghiệp, các Ngân hàng đã có quan hệ tín dụng với khách hàng sẽ giúp cán bộ tín dụng biết được tình hình vay nợ của doanh nghiệp ra sao, có hoàn trả được các tổ chức tín dụng đầy đủ và đúng hạn không; Trung tâm thông tin rủi ro của Ngân hàng nhà nước có thể cung cấp thông tin về tình hình huy động đầu tư cho vay, những thay đổi về chính sách kinh tế, những biến động về thị trường... Để từ đó đánh giá xem nó ảnh hưởng như thế nào đến dự án.
Ngoài ra cán bộ tín dụng của Ngân hàng phải tự điều tra thu thập thông tin trên thị trường như: dư luận của cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp, dư luận của xã hội, báo chí, ý kiến của khách hàng có quan hệ mua bán với khách hàng mua bán; tiến hành điều tra thực tế tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay vốn để trực tiếp đánh giá khả năng, hiệu quả quản lý, trình độ kỹ thuật, chất lượng và uy tín sản phẩm; các hình thái hiện vật và chất lượng của tài sản cố định, sản phẩm hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp.
Việc thu thập thông tin từ bên ngoài đòi hỏi khá nhiều thời gian và chi phí nhưng để nâng cao chất lượng của thẩm đinh dự án đầu tư của NHN0 & PTNT Hà nội thì việc thu thập này rất thiết thực vì các nguồn thông tin này đa dạng và khách quan.
Tóm lại thông tin là vấn đề quyết định quan trọng đến chất lượng công tác thẩm định. Đặc biệt là trong tình hình hiện nay, các điều kiện của nền kinh tế nhiều khi đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của người vay, của cán bộ tín dụng cũng như Ngân hàng. Do đó cán bộ thẩm định hay cán bộ tín dụng phải là những người có khả năng dự đoán kinh tế thì mới có thể thu thập được thông tin liên tục về giá cả, những biến động của thị trường trong nước cũng như ngoài nước về nghành, lĩnh vực sắp thẩm định, dự án có phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hay không... để từ đó nguồn vốn đầu tư sử dụng có hiệu quả và đúng định hướng và như vậy, để nâng cao chất lượng công tác thẩm định không thể tách rời với nâng cao chất lượng thông tin. Muốn chất lượng thông tin được nâng lên, các số liệu sử dụng được chính xác, cán bộ tín dụng phải tận dụng triệt để các nguồn có khả năng cung cấp chúng. Có như vậy số liệu thu được mới mang tính khách quan, không bị bóp méo vì mục đích của doanh nghiệp xin vay vốn.
* Cán bộ tín dụng phải thẩm định quyền sở hữu của các tài sản thế chấp.
Trong quá trình xác định quyền sở hữu các tài sản làm vật thế chấp bảo đảm cho các khoản vay, các cán bộ kỹ thuật cần chú ý:
- Tài sản thế chấp phải có đầy đủ tính pháp lý và phải chứng minh được nó là sở hữu hợp pháp của người vay (đối với đất đai là quyền sử dụng đất).
- Tài sản thế chấp phải không thuộc đối tượng pháp luật cấm mua bán, chuyển nhượng hoặc đang có tính tranh chấp hoặc đang được thế chấp của Ngân hàng khác.
- Ngân hàng phải nắm giữ các giấy tờ gốc, chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp của tài sản thế chấp. Trong trường hợp tài sản thế chấp thuộc đồng sở hữu của nhiều người thì khi thế chấp phải có sự nhất trí bằng văn bản của tất cả các đồng sở hữu.
- Các cán bộ tín dụng phải kiểm tra chất lượng của tài sản thế chấp, khả năng dự trữ lâu dài của tài sản, đồng thời phải căn cứ vào cung cầu về tài sản đó trên thị trường tại thời điểm hiện tại cũng như xu hướng trong tương lai để tránh tình trạng giảm giá tài sản thế chấp trên thị trường.
- Việc đánh giá tài sản tài chính thường rất khó khăn vì phần lớn các tài sản đã dùng rồi, khó xác định giá trị còn lại của chúng. Trong trường hợp cụ thể Ngân hàng sẽ đưa ra quyết định tự đánh giá hay nhờ các chuyên gia về lĩnh vực này.
* Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định dự án đầu tư
Có thể nói rằng trình độ năng lực của cán bộ tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng nhất định ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư.Do đó, ngân hàng phải luôn có chính sách đào tạo để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng để cán bộ tín dụng bắt kịp với sự xu thế phát triển của kinh tế thị trường. Từ đó nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án, nhất là các dự án có vốn đầu tư lớn và kỹ thuật phức tạp.
Trong thực tế, các dự án đầu tư đều thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà cán bộ tín dụng không thể có được một hệ thống các kiến thức toàn diện để có thể phân tích, đánh giá tất cả các dự án được, vì các cán bộ tín dụng chỉ được học kỹ về cách tính toán các chỉ tiêu tài chính, còn việc nghiên cứu thị trường, đánh giá hiệu quả dự án đối với toàn xã hội và đặc biệt là các vấn đề liên quan đến kỹ thuật,rất ít khi được đề cập mà trên thực tế quá trình thẩm định dự án đầu tư đòi hỏi cán bộ tín dụng phải vận dụng cả kiến thức ở trình độ tổng hợp về kinh tế pháp luật (trong và ngoài nước ), về công nghệ, kỹ thuật, sản xuất kinh doanh, về thông tin thị trường, kiến thức về quản lý tài chính - tín dụng, ngoại hối và thanh toán quốc tế, hải quan, bảo hiểm, kiểm định, giám định có liên quan đến các phương diện của dự án.Để làm được việc này, ngân hàng cần thường xuyên đào tạo lại cán bộ tín dụng, mở các cuộc kiểm tra trình độ cán bộ một cách thường xuyên, tổ chức các buổi trao đổi kinh nghiệm trong nội bộ ngân hàng và các ngân hàng khác,tìm các nguồn tài liệu tham khảo của nước ngoài... Đây là những cách thức không mấy khó khăn, hoàn toàn nắm trong khả năng thực hiện của ngân hàng.
4.Đối với các dự án lớn, có vốn đầu tư lớn,kỹ thuật phức tạp.liên quan đến nghiều ngành, nhiều lính vực khác nhau thì ngân hàng không nên phân tích,đánh giá một mình mà nên mời các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực đó và đặc biệt trong vấn đề thẩm định dự án.Như vậy,Ngân hàng sẽ hạn chế được những hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn.
Hầu hết các lĩnh vực của kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, giáo dục....đều bị ảnh hưởng rất lớn bởi hệ thống chính sách của Nhà nước.Vậy mà nước ta mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cho nên các chính sách của Nhà nước chưa thể ổn định và hoàn thiện, phải thường xuyên thay đổi.Và một sự thay đổi dù nhỏ hay lớn trong các chính sách của Nhà nước thì ngay lập tức tác động đến toàn xã hội.Công tác thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn của Ngân hàng cũng không ngoại lệ, nó luôn bị chi phối bởi chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước,ở các nước khác nhau.Trong khuôn khổ chuyên đề này em đưa ra một số kiến nghị sau để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn.Em hy vọng rằng những kiến nghị đó sẽ góp phần giúp NHN0 & PTNT Hà nội nâng cao chất lượng thẩm định trong giai đoạn hội nhập nền kinh tế cũng như quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước.
* Cần phải chỉ đạo các Doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện các chế độ kế toán, thống kê theo đúng quy định của Nhà nước.
Hiện nay, để vay được vốn của Ngân hàng các Doanh nghiệp thường xuyên phải đưa ra các bản báo cáo về tình hình tài chính không chính xác làm ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định.Do đó, để khắc phục tình trạng này Nhà nước phải có chế độ thưởng, phạt thích hợp đối với các Doanh nghiệp lập 2 bản cân đối lỗ riêng, lãi riêng và báo cáo không đúng sự thật.Bên cạnh đó các Doanh nghiệp phải thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc và công khai quyết toán của Doanh nghiệp.
Mặt khác, Nhà nước phải luôn có chính sách đào tạo nhằm nâng cao trình độ và năng lực của cán bộ kiểm toán.Để làm công tác kiểm toán tiến hành có hiệu quả, khách quan.Nhà nước phải có biện pháp trừng phạt thích đáng đối với cán bộ kiểm toán không trung thực, ăn hối lộ.Từ đó mới đánh giá đúng tình hình tài chính cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tạo điều kiện cho những cán bộ tín dụng trong việc phân tích hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp,thẩm định các dự án được chính xác, qua đó hạn chế và phòng ngừa những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
* Cần xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách ổn định.
Do tình trạng hệ thống các cơ chế chính sách luôn thay đổi nên tạo môi trường bất ổn , bấp bênh cho các Doanh nghiệp,các Doanh nghiệp sẽ luôn thụ động và khó thích ứng trong nền kinh tế thị trường.Do đó, Đảng và Nhà nước ta cần tạo một hệ thống cơ chế chính sách ổn định, một mặt tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp hoạt động,mặt khác thu hút vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài.Các cơ chế chính sách đó phải đưa ra luật đầu tư ổn định không chỉ có giá trị hôm nay mà có hiệu lực ngày mai. Vì các nhà đầu tư nước ngoài không muốn đầu tư ở một nước có nhiều biến động về kinh tế, chính trị, pháp luật cho dù có sự ưu đãi về thuế vì họ sợ đồng vốn của họ sẽ bị rủi ro.Chính vì vậy nhà nước cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh.
* Xây dựng sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Có thể nói rằng cạnh tranh là một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Vì vậy, nhà nước cần phải tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, nghĩa là Nhà nước phải tạo ra một sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trên tất cả lĩnh vực hoạt động kinh tế và hoạt động xã hội.Chủ trương của Nhà nước là thực hiện quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nhưng trên thực tế Nhà nước có nhiều quy chế rắc rối được đưa ra nhằm đặt các Doanh nghiệp quốc doanh vào vị trí thuận lợi hơn các doanh nghiệp khác.Trong mọi việc, dù là đi vay tiền hay xin cấp giấy phép hoạt động kinh doanh, làm việc với các cơ quan chức năng nhà nước... Các Doanh nghiệp quốc doanh thường được thuận lợi hơn so với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Như vậy bằng luật pháp, chính sách của mình,Nhà nước đã tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp quốc doanh.Và chừng nào Doanh nghiệp quốc doanh còn được hưởng thuận lợi thế này thì họ sẽ còn ỉ lại, thụ động và không lỗ lực để cải tiến sản phẩm hoặc phương án sản xuất cũng như cải cách cơ cấu tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp.
Môi trường kinh doanh bất bình đẳng này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác thẩm định của dự án đầu tư, bởi nó tạo tâm lý thiên vị cho các Doanh nghiệp quốc doanh của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng cũng sẽ dễ dàng duyệt cho vay đối với các Doanh nghiệp quốc doanh hơn là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.Vì các Doanh nghiệp quốc doanh là Doanh nghiệp của Nhà nước được nhà nước cấp vốn hoạt động và nếu có rủi ro gì trong hoạt động kinh doanh thì họ sẽ có thể xin tài trợ từ phía nhà nước.Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước cần xem xét lại các cơ chế, chính sách của mình nhằm tạo ra được môi trường kinh doanh thực sự bình đẳng. Có như vậy, sự cạnh tranh trong nước mới thực sự là cạnh tranh lành mạnh,tạo ra động lực cho các Doanh nghiệp phải phấn đấu đổi mới quy cách kinh doanh cũng như bộ máy tổ chức nhằm thúc đẩy sản xuất để hiệu quả sử dụng vốn được nâng lên. Như vậy mục đích của sự sửa đổi này không chỉ nhằm hỗ trợ cho khu vực ngoài quốc doanh mà còn rất quan trọng cho sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế.
* Nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng phục vụ hoạt động thẩm định dự án đầu tư và phòng ngừa rủi ro.
Như chúng ta đều biết thông tin trên thị trường cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư, nhất là nước ta mới chuyển sang nền kinh tế thị trường nên các nguồn thông tin trên thị trường càng quan trọng.Vì nền kinh tế thị trường hoạt động theo quy luật cạnh tranh.Do đó, gía cả, cung cầu...luôn luôn biến động từng ngày, từng giờ,mà các luận chững kinh tế kỹ thuật thường được lập trong thời gian dài.Do đó, hầu hết các số liệu trong luật chứng kinh tế kỹ thuật có độ chính xác phù hợp với thời điểm hiện tại là rất ít.Chính vì vậy, khi thẩm định dự án đầu tư thì cán bộ tín dụng phải thẩm định lại dự án,xem xét lại các số liệu xem có còn phù hợp với thị trường ngày hôm nay không ?và cũng phải dựa vào thị trường để dự đoán việc đầu tư có thiết thực trong tương lai không ? Nhưng trên thực tế, việc nghiên cứu thị trường rất phức tạp và khó thực hiện với một cán bộ tín dụng. Do đó, Ngân hàng nhà nước cần phải nêu cao hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng để hỗ trợ các Ngân hàng thương mại và các cán bộ tín dụng thẩm định dự án để hạn chế rủi ro.
Như vậy, thông tin rất quan trọng trong việc thẩm định dự án đầu tư vì nó ảnh hưởng đến chất lượng của công tác thẩm định dự án đầu tư và ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng thương mại.Vì vậy, Nhà nước không những cần nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng mà còn nên thành lập các công ty tư vấn chuyên mua bán thông tin.Các Công ty này sẽ cung cấp các thông tin về tín dụng,thị trường, doanh nghiệp một cách chính xác nhất. Từ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả cao hơn và cho các cán bộ tín dụng thẩm định dự án đạt chất lượng cao hơn để ra quyết định cho vay một cách chính xác và khách quan nhất.
Kết luận
Lịch sử đã chứng minh vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế quốc dân.Nó đã đóng góp rất nhiều trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo đường lối mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.Để bắt kịp cùng với tốc độ phát triển của khoa học kỹ thuật nói chung và trình độ các công cụ quản lý nói riêng, của các nước trên thế giới.Hệ thống ngân hàng thương mại của nước ta cũng ngày càng được hoàn chỉnh, bổ sung và thích ứng với nền kinh tế, một nền kinh tế vừa bước ra từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp để đến với nền kinh tế thị trường.Không những thế,hệ thống ngân hàng thương mại còn là trung tâm liên kết giữa các thành phần kinh tế với nhau.Vì vậy, để có thể thúc đẩy hơn nữa sự phát triển kinh tế của đất nước thì hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại ngày càng phải được đã dạng hoá phục vụ một cách nhanh tróng và chính xác hơn,đáp ứng nhu cầu ngày một cao của mọi thành phần kinh tế.Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh mẽ và đang trở thành trọng tâm thu hút nguồn lực của nền kinh tế.Để phục vụ tốt nhu cầu ngày càng cao và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế,Ngân hàng đã phục vụ tốt nhu cầu vốn cho thành phần kinh tế này dưới hình thức cho vay.Đối với ngân hàng thì việc sử dụng vốn có hiệu quả sẽ đem lại lợi nhuận cao,còn về phía khách hàng thì đây là hình thức giúp họ đạt được những ý tưởng,mục tiêu mà mình đề ra và đưa phương án kinh doanh của họ trở thành hiện thực.Tuy nhiên,Các thành phần phần kinh tế muốn có được vốn mà ngân hàng cho vay thì phải qua một quá trình thẩm định của ngân hàng về mục đích của việc vay vốn, các dự án đầu tư được triển khai ngày càng rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Các dự án đầu tư xin vay vốn ngân hàng có thời gian tương đối dài, số vốn tài trợ lớn và rất đa dạng do vậy việc khẳng định tính khả thi của dự án và hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng thương mại khi tham gia tài trợ vốn.Để đảm bảo được điều đó, công tác thẩm định dự án đầu tư là hết sức quan trọng và mang ý nghĩa lớn đối với hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Tuy nhiên đây là một lĩnh vực hết sức phức tạp còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục trao đổi nghiên cứu để giải quyết.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Thầy Đặng Ngọc Đức, các cô, chú, anh chị công tác tại Phòng kinh doanh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội cùng các thầy,cô giáo trong Khoa Ngân hàng - Tài chính Trường Đại học kinh tế Quốc dân đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành Chuyên đề này.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội - ĐH KTQD - NXB Thống kế
Quy chế cho vay đối với khách hàng - NHN0 & PTNT Việt nam
PTS. Mai văn Bưu - Chủ biên : Giáo trình Hiệu quả và quản lý dự án Nhà nước - ĐH Kinh tế Quốc dân - NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 1998
PTS. Đoàn Thu Hà - PTS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền : Chiính sách kinh tế xã hội- NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 1999
Vũ Công Tuấn : Thẩm định dự án đầu tư - NXB TP HCM
Nguyễn Xuân : Quản trị DAĐT trong nước và quốc tế - NXB CTQG
PTS Lưu Thu Hương - Chủ biên : Giáo trình Tài chính doanh nghiệp - ĐH Kinh tế Quốc dân
Dự toán vốn đầu tư trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Sách dịch, NXB Thống kê
Một số tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Tạp chí Ngân hàng các năm 2001 - 2002
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0013.doc