Thẩm định tài chính DAĐT trước khi quyết định cho vay là một công việc vô cùng quan trọng đối với Ngân hàng, nó có ảnh hưởng tới sự sống còn của Ngân hàng. Vì vậy thẩm định phải được thực hiện kỹ càng, cẩn thận, chính xác, có phương pháp khoa học sẽ giúp Ngân hàng hạn chế đến mức tối đa những rủi ro khi thực hiện các khoản cho vay và kết luận chính xác về tính khả thi của dự án. Nhờ đó các DAĐT mới thực sự đem lại hiệu quả cho chủ dự án, cho nhà đầu tư và nền kinh tế.
Trong nội dung hạn hẹp của chuyên đề này, với mục đích nêu trên, những vấn đề cơ bản đã được tập trung giải quyết trong chuyên đề này là:
1- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về thẩm định tài chính DAĐT, nội dung thẩm định cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định. Đồng thời nhấn mạnh vào sự cần thiết phải thẩm định tài chính DAĐT trong hoạt động tín dụng đối với các NHTM.
2- Phân tích thực trạng công tác thẩm định tài chính DAĐT tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong những năm vừa qua, đánh giá những kết quả đạt được và đưa ra những hạn chế, khó khăn mà Ngân hàng đang gặp phải.
3- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính DAĐT tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam nói riêng và NHTM nói chung.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề hết sức khó khăn phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp bên trong và bên ngoài Ngân hàng. Vì vậy nó đòi hỏi một sự nghiên cứu sâu sắc và những giải pháp đồng bộ với sự quyết tâm từ nhiều phía.
Trong khuôn khổ của luận văn, em chỉ hy vọng đề cập một số mặt của thẩm định tài chính DAĐT, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô, các cán bộ Ngân hàng và bạn bè.
85 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1253 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nên thành công trong hoạt động thẩm định, là một trong những mặt mạnh của Ngân hàng Ngoại thương. Họ đều được đào tạo chính quy, là những người có phẩm chất đạo đức tốt, am hiểu về chuyên môn cũng như các lĩnh vực có liên quan.
Thứ hai, do công tác thẩm định được tổ chức một cách khoa học và hợp lý
VCB đã tiến hành phân cấp trong việc tổ chức thẩm định giữa các Chi nhánh và Trung ương. Các Chi nhánh được quyền ra quyết định trong hạn mức phán quyết về tín dụng đã được quy định của mình. Đối với những dự án vượt khỏi quyền phán quyết, các chi nhánh phải gửi lên Phòng Đầu tư Dự án Trung ương để tái thẩm định, trong trường hợp đó bộ phận tái thẩm định không gặp gỡ trực tiếp với khách hàng mà họ lấy thông tin được Chi nhánh gửi lên cộng với việc thu thập thông tin từ các nguồn khác để làm cơ sở cho công tác tái thẩm định.
Như vậy, những dự án không khả thi sẽ bị từ chối ngay ở cấp Chi nhánh, do đó sẽ tiết kiệm thời gian và công sức của chủ dự án và của Ngân hàng mà lại có thể nâng cao được tính chính xác, khách quan của việc ra quyết định. Việc xác định mức phán quyết cho mỗi Chi nhánh khác nhau là rất hợp lý căn cứ dựa trên những điều kiện kinh tế, xã hội của các vùng khác nhau.
VCB quy định quy trình cho vay theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và phân định rõ trách nhiệm giữa khâu thẩm định (cán bộ thẩm định) và quyết định cho vay (Tổng giám đốc hoặc Hội đồng tín dụng).
Với các dự án phức tạp, có nhu cầu về vốn đầu tư lớn, khi thông qua quyết định tài trợ phải được sự thông qua của Hội đồng Tín dụng. Hội đồng Tín dụng được tập hợp bởi phòng Đầu tư Dự án với thành phần bao gồm các thành viên của các phòng, ban có liên quan, làm việc theo chế độ tập thể, các thành viên sẽ đưa ra quan điểm riêng của mình về quyết định tài trợ, Tổng giám đốc hay Giám đốc (Chi nhánh) sẽ là người ra quyết định cuối cùng. Thông qua quá trình ra quyết định tập thể như vậy có thể hạn chế được phần nào rủi ro đạo đức và những sai sót của cán bộ tín dụng nếu có.
Không chỉ vậy, đối với các dự án đòi hỏi phải có những hiểu biết sâu về một lĩnh vực cụ thể, nếu không có chuyên môn về lĩnh vực đó thì rất sẽ gây nhiều khó khăn. Trong việc thẩm định, cán bộ thẩm định có thể tham khảo ý kiến của các chuyên gia nhằm có những thông tin, đồng thời nâng cao được tính xác thực và khách quan. Việc cho phép thuê các chuyên gia tư vấn để tham khảo thông tin là rất quan trọng bởi vì nó có thể giúp cho cán bộ thẩm định đánh giá được một cách chính xác dự án đang xem xét.
Thứ ba, nhờ quy trình, nội dung thẩm định toàn diện.
VCB đã xây dựng thống nhất một quy trình thẩm định từ Trung ương tới các Chi nhánh. Hoạt động thẩm định có định hướng, chuẩn mực rõ ràng, chất lượng hoạt động thẩm định được nâng cao. Trong quy chế cho vay, Ngân hàng đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận thẩm định, tái thẩm định. Quá trình thẩm định được tiến hành theo mẫu thống nhất, với các bước cụ thể và rõ ràng.
Hoạt động thẩm định được tiến hành một cách toàn diện, đặc biệt các yếu tố như tính đầy đủ, chính xác rất được Ngân hàng coi trọng. Dự án được đánh giá thông qua các yếu tố: tổng mức vốn đầu tư, các nguồn tài trợ, tiến độ giải ngân, các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án, các yếu tố đảm bảo tiền vay, và khả năng trả nợ của dự án. Trong các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính dự án, ngoài các chỉ tiêu truyền thống được áp dụng như: khả năng thanh toán, mức lợi nhuận của dự án..., VCB đã áp dụng những chỉ tiêu tiên tiến được các tổ chức tín dụng trên thế giới đã áp dụng từ rất lâu như: NPV, IRR, chỉ tiêu phản ánh độ nhạy của các yếu tố nội tại cũng như bên ngoài của dự án, áp dụng phương pháp phân tích độ nhạy... trong các tính toán của mình giá trị thời gian của tiền được chú ý đến một cách thích đáng.
Tuy các chỉ tiêu này đã được các nước trên thế giới áp dụng từ rất lâu nhưng trước đây các chỉ tiêu đó còn chưa được biết đến ở Việt Nam, tuy nhiên hiện nay các chỉ tiêu này đã được Ngân hàng Ngoại thương áp dụng và đã có tác động một cách tích cực tới tính chính xác và khách quan của công tác thẩm định. Bên cạnh đó, khi thẩm định tài chính dự án, các số liệu của dự án không chỉ được xem xét dưới dạng tĩnh mà chúng còn được xem xét dưới tác động của các yếu tố khi giả định có sự thay đổi. Do đó, dự án được đánh giá một cách trung thực và sát với thực tế hơn. Từ đó, có thể đo lường được mức độ rủi ro khi đưa vào thực hiện trong thực tế, và có thể giảm thiểu được những rủi ro không đáng có cho Ngân hàng.
Có thể nói, phương pháp thẩm định mà Ngân hàng Ngoại thương đang áp dụng hiện nay là phương pháp tiên tiến, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và không thua kém so với các phương pháp hiện đại của thế giới.
Thứ tư, do trang thiết bị thông tin hiện đại.
Về vấn đề trang thiết bị thông tin, Ngân hàng Ngoại thương là một trong những ngân hàng Việt Nam đi đầu trong việc đầu tư đổi mới và nâng cao chất lượng cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động tác nghiệp nói chung và hoạt động thẩm định tài chính dự án nói riêng.
Cán bộ thẩm định được trang bị các công cụ hiện đại để hỗ trợ cho công việc, hệ thống máy tính được nối mạng cục bộ, mạng Internet, các chương trình phần mềm chuyên dụng được cài đặt. Chính vì vậy, công việc tính toán, phân tích được tiến hành chính xác hơn, giảm thiểu các sai sót, không những thế có thể tiếp cận được với những thông tin đã được lưu trữ giúp cho thời gian thẩm định có thể được rút ngắn.
Ngoài việc được trang bị hệ thống máy tính, các cán bộ thẩm định còn được cung cấp các thông tin từ những nguồn khác như báo chí, tạp chí chuyên ngành, các báo cáo định hướng phát triển của ngành...
Tận dụng những tác động tích cực đó, công việc thẩm định dự án được thực hiện một cách nhanh chóng, giảm được khoảng thời gian thẩm định, chẳng những giúp lãnh đạo đưa ra được quyết định nhanh chóng, mà vẫn đảm bảo tính chính xác tuyệt đối từ đó nâng cao tính cạnh tranh của ngân hàng.
Trên đây là những đánh giá sơ bộ về những mặt đã đạt được trong công tác thẩm định của Ngân hàng Ngoại thương. Ngoài những mặt đã đạt được đó, để nâng cao hơn chất lượng thẩm định, Ngân hàng cần phải khắc phục được những hạn chế đang phải đối mặt.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1 Hạn chế
Công tác thẩm định dự án đầu tư có mối quan hệ rất mật thiết đối với hành động tín dụng của ngân hàng. Chất lượng thẩm định dự án đầu tư có tác động mang tính chất quyết định và ngược lại chất lượng của hoạt động tín dụng phản ánh một cách khách quan, trung thực chất lượng của thẩm định dự án đặc biệt là khâu thẩm định tài chính dự án.
Tuy đã đạt được những thành công đáng kể, chất lượng thẩm định tài chính dự án đạt mức khá cao, nhưng trong khi công tác, cán bộ thẩm định không tránh khỏi những tác động của các nguyên nhân cả chủ quan cũng như khách quan dẫn tới còn có những hạn chế nhất định. Những hạn chế về chất lượng thẩm định tài chính dự án có thể được đưa ra là: Công tác thẩm định tài chính nhiều khi không được thể hiện vai trò quyết định của nó trong khi ra quyết định tài trợ dẫn tới chất lượng của các khoản vay là không cao, hoặc bỏ lỡ cơ hội đầu tư của ngân hàng... Điều này được thể hiện qua một số nét.
+ Vẫn còn tồn tại một tỷ lệ nợ xấu đáng kể
Tỷ lệ nợ quá hạn tuy giảm, số dư nợ quá hạn năm 2001 là 312 tỷ nhưng có tới 143 tỷ là nợ khó đòi (khoảng 46% tổng dư nợ quá hạn). Nhiều chi nhánh có tỷ lệ nợ khó đòi cao như Hà Tĩnh: 13,8%; Nha Trang 12,5%, Đắc Lắc: 9,5%...
Bảng 2.12. Tình hình nợ xấu VCB tại thời điểm 12/2000 và 1/2001
Đơn vị: tỷ VND
Chỉ tiêu
Số dư 12/2000
Số dư 12/2001
% so với 2000
Nợ quá hạn khó đòi
377
143
- 62
Nợ khoanh
1317
1379
4,7
Nợ chờ xử lý
1300
268
-79,4
Nợ vay do bảo lãnh
287
266
- 7,4
Tổng
3281
2056
- 37,3
Nguồn: Báo cáo hoạt động KD năm 2001, VCB
Nghiêm trọng hơn là trong những năm vừa qua có xảy ra một số vụ án kinh tế lớn mà Ngân hàng ngoại thương cũng dính lứu, đó là các vụ án như Temexco, Epco Minh Phụng,... Đã phần nào làm giảm uy tín của ngân hàng, và một phần trách nhiệm là của công tác thẩm định tài chính dự án. Các thông tin được đưa ra ở trên phần nào đã phản ánh được những mặt còn hạn chế của hoạt động thẩm định tài chính dự án. Mặt khác nếu xét về cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế, có bảng tỷ lệ nợ quá hạn theo thành phần kinh tế như sau:
Bảng 2.13. Tỷ lệ nợ quá hạn theo thành phần kinh tế.
Chỉ tiêu
Tỷ trọng dư nợ
Tỷ trọng nợ quá hạn
2000
2001
2000
2001
DNNN
78,3%
75%
3,1%
2%
DN ngoài quốc doanh
21,7%
25%
3,7%
1,7%
Nguồn: Báo cáo hoạt động KD năm 2001, VCB
+ Độ phân tán rủi ro chưa cao
Hoạt động tín dụng của NHNT có số lượng khách hàng ít (chỉ có khoảng 15 - 20 khách hàng/ chi nhánh có số dư nợ thường xuyên), tập trung vào một vài lĩnh vực (viễn thông, gạo, thủy sản, cà phê, than...) và thành phần kinh tế quốc doanh là chủ yếu. Nói cách khác, độ phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHNT là chưa cao.
Dựa vào những số liệu ở trên có thể thấy rằng đối tượng cung cấp dịch vụ tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Điều này đã được xác định trong chiến lược, định hướng thị trường, đối tượng khách hàng của Ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, của nhà nước, đối với các thành phần kinh tế còn lại, hoạt động tín dụng không được chú trọng. Đối với hoạt động tín dụng trung và dài hạn, tỷ trọng tín dụng của các khu vực kinh tế phi nhà nước và các doanh nghiệp vừa và nhỏ là hết sức nhỏ bé. Điều này không phải là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp phi nhà nước không có các dự án hấp dẫn mà theo đánh giá của VCB, các doanh nghiệp thuộc loại như thế có rất ít cơ sở tài sản đảm bảo hay không có chủ thể bảo lãnh khi có trường hợp rủi ro phát sinh, hơn thế nữa qua một số vụ án kinh tế lớn đã khiến cho Ngân hàng có tâm lý không an tâm khi cho vay các đối tượng mà khả năng đảm bảo thấp.
Vì vậy, có thể cho thấy Ngân hàng chú trọng đến khả năng đảm bảo tiền vay hơn là chú trọng đến tính hiệu quả tài chính của dự án, mặc dù khả năng đảm bảo trả được nợ, đảm bảo tiền vay của dự án được quyết định ở tính khả thi và kết quả tài chính dự án, còn đối với các tài sản thế chấp nhiều khi chỉ mang tính chất an toàn về tâm lí cho ngân hàng, bởi thực tế đã chỉ ra rằng nhiều dự án có tài sản theo đúng giá trị của nó hoặc là không thu được tài sản đảm bảo. Do đó, tại Ngân hàng có thể thấy trong nhiều trường hợp kết quả thẩm định tài chính dự án không phải là yếu tố mang tính chất quyết định đối với quá trình thông qua quyết định tài trợ cho dự án.
Trong khi đó, nhiều dự án mặc dù được tài trợ và đi vào hoạt động đã không phát huy được hiệu quả như dự kiến, kết thúc dự án chủ dự án không có khả năng trả được nợ. Đây là thực tế khách quan không thể tránh khỏi vì hoạt động tín dụng chứa đựng rất nhiều rủi ro tiềm tàng, hơn nữa trong quá trình thẩm định khi phân tích lại chỉ dựa trên những giả thuyết nhất định có những giả thuyết chưa sát với thực tế. Điều này đặt ra câu hỏi liệu chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư đã tương xứng với tiềm năng của một ngân hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam hay chưa?.
Hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư bị ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố có mối liên hệ với nhau. Những hạn chế trên đây trong công tác thẩm định tài chính dự án được bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan.
2.3.2.2. Nguyên nhân chủ quan
Là các nguyên nhân thuộc về các nhân tố nội tại của ngân hàng do đó hoàn toàn có thể kiểm soát được.
Quy trình, nội dung thẩm định chưa chặt chẽ
Quy trình thẩm định được quy định thống nhất từ Trung ương cho tới các Chi nhánh của Ngân hàng tại các tỉnh thành phố. Mẫu báo cáo thẩm định được xây dựng tuy đã tạo ra những thuận lợi nhất định cho công tác thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng, nhưng vẫn chưa có sự hoạt động trong cách xây dựng, vẫn còn có những hạn chế cần phải khắc phục.
* Thẩm định dòng vào và dòng ra còn chưa sát với thực tế
Khi tính toán doanh thu và chi phí, ngân hàng thường dựa vào mức công suất dự kiến và giá bán dự kiến. Trong các dự án, ngân hàng thường căn cứ trên công suất thiết kế sau khi tham khảo tình hình tiêu thụ của các sản phẩm cùng loại, định hướng phát triển của ngành, dự báo nhu cầu thị trường, ngân hàng đưa ra mức công suất có thể huy động được, từ đó tính ra khối lượng tiêu thụ trong năm của dự án. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là việc dự tính như vậy mức độ chính xác và phù hợp với thực tế của các dự đoán là như thế nào, có quá chủ quan khi đánh giá hay không?
Có thể khẳng định là việc dự tính như thế là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết phải dự tính, nhưng thực tế cho thấy tuy các cán bộ thẩm định đã có những cố gắng trong việc tìm kiếm thông tin nhưng nhiều khi các dự tính của họ chỉ dựa trên cảm tính, nên tính chính xác là không cao. Hơn nữa, tại các chi nhánh, việc xác định doanh thu tiêu thụ chỉ dựa trên quá trình xem xét liệu sản phẩm của dự án có được thị trường chấp nhận hay không mà thôi.
Ngoài ra, do việc tính toán doanh thu và chi phí dựa rất nhiều vào dự tính về công suất huy động được nên đối với nhiều dự án ngân hàng dự tính không chính xác mức huy động công suất thiết kế dẫn tới sự không chính xác về các mức doanh thu và chi phí do đó các tính toán có sự khác biệt với thực tế. Mặt khác, khi thẩm định giá bán còn chưa tính đến một cách thích đáng tác động các nhân tố ảnh hưởng.
* Độ chính xác của luồng tiền chưa được đảm bảo.
Tính toán chính xác luồng tiền là công việc có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi vì thông qua luồng tiền ta có thể tính toán được các chỉ tiêu tài chính quan trọng khác phản ánh được hiệu quả tài chính của dự án. Tuy nhiên, như ở các phần trên đã đề cập việc dự tính không chính xác giá bán sản phẩm, doanh thu và chi phí dẫn tới luồng tiền được xác định không chính xác. Ngoài ra, trong việc tính toán luồng tiền cũng còn một số vấn đề cần phải được cải thiện.
Giá trị thanh lý tài sản cố định tại năm cuối của dự án làm tăng dòng tiền của dự án. Nhưng, trong một số dự án khoản này không được tính đến hoặc không tuân thủ quy tắc giá trị thời gian của tiền. Ví dụ, khi dự tính giá bán thanh lí tài sản cố định theo giá sắt vụn với mức giá ở thời điểm hiện tại nhưng khi tính luồng tiền lại được đưa vào để tính tại thời điểm năm cuối của dự án.
* Các chỉ tiêu tài chính chưa được tính một cách chính xác
Hiện nay, trong khi tính toán các chỉ tiêu tài chính để xác định hiệu quả tài chính của dự án, ngân hàng chưa xây dựng được mọt hệ thống các chỉ tiêu tiêu chuẩn đối với từng ngành nghề với mục đích dùng các chỉ tiêu đó để so sánh tính hiệu quả và an toàn tài chính của dự án.
Khi sử dụng các chỉ tiêu tài chính để đánh giá một dự án, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã rất chú trọng đến giá trị thời gian của tiền, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính dự án hiện đại được sử dụng để đánh gái như NPV, IRR. Nhưng trong các chỉ tiêu như thời gian hoàn vốn đầu tư lại được tính một cách đơn giản, không coi trọng giá trị thời gian của tiền.
Ví dụ như trong cách tính chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn
Như đã đề cập trong phần quy trình thẩm định tài chính dự án, chỉ tiêu thu hồi vốn được xác định như sau:
Thời gian hoàn vốn đầu tư t được xác định với
S Nguồn trả nợ vay
=1
Tổng số vốn đầu tư của dự án
Trong đó, nguồn trả nợ vốn vay bao gồm các nguồn như sau: từ KHCB, từ lợi nhuận dùng để trả nợ, và từ các nguồn khác.
Thông qua công thức ở trên, ta có thể nhận thấy vấn đề giá trị thời gian của tiền trong việc tính toán thời gian thu hồi vốn đầu tư chưa được nhận thức một cách đầy đủ và đúng đắn. Nguồn trả nợ của dự án dùng để tính toán chỉ tiêu này được cộng dồn một cách vô lí khi mà giá trị tiền tại các thời điểm khác nhau có giá trị khác nhau được cộng với nhau rồi đem so sánh với giá trị vốn đầu tư tại thời điểm hiện tại. Do đó, khi tính toán chỉ tiêu này ngân hàng cần phải đưa các giá trị tương lai về cùng một thời điểm quy chiếu để xem xét thì hợp lý hơn.
* Nguồn trả nợ của dự án được dự tính chưa chính xác
Nguồn trả nợ của dự án được xác định dựa trên nguồn khấu hao cơ bản, lợi nhuận sau thuế và từ các nguồn khác, trong đó nguồn trả nợ chính là khấu hao và lợi nhuận sau thuế. Trong những năm mà dự án bị thua lỗ, lợi nhuận sau thuế là âm, do đó nguồn trả nợ chỉ trông chờ vào khấu hao cơ bản. Việc trích khấu hao trên thực tế nhiều khi khác xa so với số liệu trên sổ sách nên nguồn trả nợ của dự án là không đúng như những dự tính của ngân hàng. Do vậy, nếu các cán bộ thẩm định chỉ dựa hoàn toàn vào số liệu về khấu hao cơ bản và lợi nhuận sau thuế của dự án mà không xem xét đến các nguồn khác thì trong những trường hợp xảy ra rủi ro thì ngân hàng khó có thể thu hồi được vốn.
Do đối tượng vay vốn của Ngân hàng Ngoại thương chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, mà theo quy chế về quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước, phần lợi nhuận sau thuế phải được phân bổ vào nhiều khoản khác nhau như: trích lập các quỹ (khen thưởng, phúc lợi, đầu tư phát triển...) và các khoản khác. Do vậy, nguồn trả nợ nếu dựa trên toàn bộ lợi nhuận sau thuế là thiếu chính xác, mà phải loại trừ một số khoản. Trên thực tế, cán bộ tín dụng cho biết, phần lợi nhuận tối đa được dùng có thể trả nợ là khoảng 60% lợi nhuận sau thuế. Trong mẫu báo cáo thẩm định có đề cập đến việc loại trừ một số khoản trích có nguồn gốc từ lợi nhuận sau thuế nhưng khi tiến hành thẩm định tài chính cán bộ thẩm định thường bỏ sót khoản này.
* Phân tích độ nhạy của dự án còn mang nặng tính chủ quan
Khi thẩm định mà tiến hành phân tích độ nhạy là một bước tiến tích cực, có ảnh hưởng tốt tới chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân hàng. Nhưng trong khi phân tích độ nhạy của dự án, ngân hàng vẫn dựa trên những dự báo mang tính chất chủ quan (tuy có tham khảo thông tin từ thị trường) nhiều hơn là dựa trên những nguồn thông tin có cơ sở vững chắc. Điều này được thể hiện rõ nét khi ngân hàng dự tính các yếu tố như giá bán, sản lượng, chi phí đầu vào tăng hay giảm 5% hoặc 10% qua các năm. Thực tế đâu phải chỉ là tăng hay giảm với mức độ đó.
Vai trò của phòng thông tin tín dụng còn hạn chế
Đối với hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư thông tin là một trong những nhân tố có tính chất quyết định. Kết quả thẩm định có chính xác hay không, có phù hợp với thực tế hay không là phụ thuộc rất lớn vào những thông tin có được, không những thế còn phụ thuộc vào chất lượng của các nguồn thông tin đó.
Khi thẩm định, thông tin có thể được lấy từ nhiều nguồn khác nhau. Nguồn thông tin chính để cung cấp cho cán bộ thẩm định là từ hồ sơ của dự án mà chủ đầu tư gửi lên, nhưng việc phân tích dựa vào những thông tin đó là chưa đủ mà đòi hỏi phải tìm kiếm từ các nguồn khác. Nguồn thông tin phổ biến nhất có thể lấy được là từ báo chí chuyên ngành, từ mạng thông tin Internet, các nguồn thông tin từ các Bộ chuyên ngành, và đặc biệt tại các ngân hàng trên thế giới thì thông tin từ Phòng Thông tin Tín dụng là một nguồn hết sức quý giá và rẻ. Tuy nhiên, ở Ngân hàng Ngoại thương thông tin được khai thác một cách chưa có hệ thống, việc cung cấp thông tin chắp vá và thu thập thông tin tốn rất nhiều thời gian, gây lãng phí đối với cán bộ thẩm định. Vai trò của phòng thông tin tín dụng thực tế là chưa có đóng góp nhiều trong việc cung cấp thông tin, Ngân hàng chưa xây dựng được một hệ thống thông tin riêng về thị trường, về khách hàng đồng bộ thống nhất từ Trung ương đến các Chi nhánh.
Bố trí cán bộ chưa hợp lý
Nhân tố con người là nhân tố then chốt đối với chất lượng hoạt động thẩm định nói chung và chất lượng hoạt động thẩm định tài chính nói riêng. Ngân hàng Ngoại thương là ngân hàng có cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, số lượng cán bộ nhân viên nhỏ tương đối so với các ngân hàng thương mại Quốc doanh khác. Đội ngũ cán bộ của ngân hàng Ngọai thương được đánh giá là “có chất lượng”. Đội ngũ cán bộ thẩm định cũng thế, họ là những cán bộ có năng lực chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp. Tuy nhiên, phần đa các cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm lại tập trung ở Trung ương hoặc ở những chi nhánh lớn. ở các chi nhánh khác, các cán bộ thẩm định chưa có điều kiện để được cập nhật đầy đủ các kiến thức chuyên môn, khi thẩm định họ chỉ quan tâm nhiều đến khả năng đảm bảo tiền vay mà ít chú trọng đến tính hiệu quả của dự án. Điều này làm giảm chất lượng thẩm định tài chính dự án nói chung.
Đối với các dự án đòi hỏi phải có các chuyên gia tư vấn, tuy đã được lãnh đạo Ngân hàng Ngoại thương quan tâm nhưng mức huy động kinh phí cho chuyên gia còn hạn chế. Do ở trong điều kiện như vậy, nên các cán bộ thẩm định thường phải dựa vào các dự tính của chủ đầu tư trong dự án để tính toán là điều dễ hiểu.
Trên đây là những nguyên nhân chủ quan có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng thẩm định tài chính dự án. Việc xác định được các nguyên nhân chủ quan là điều kiện cần nhưng chưa đủ, phải xác định được các nguyên nhân khách quan của những hạn chế đó.
2.3.2.3. Nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân xuất phát từ điều kiện bên ngoài, những yếu tố khách quan từ môi trường do đó tự bản thân Ngân hàng không thể điều chỉnh được, Ngân hàng tìm cách chỉ thích nghi và hạn chế được một phần nào mà thôi. Nhóm nguyên nhân này bao gồm:
* Vai trò của trung tâm thông tin tín dụng của NHNN còn yếu
Trong hệ thống ngân hàng, cơ quan quản lý nhà nước là Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ và định hướng hoạt động của các ngân hàng thương mại. Họ hỗ trợ các ngân hàng trong công tác cung cấp thông tin tham khảo cho hoạt động tín dụng, xây dựng các chỉ tiêu so sánh,... Trung tâm thông tin tín dụng trực thuộc Vụ Tín dụng Ngân hàng Nhà nước tuy đã ra đời vài năm nay nhưng cũng chưa thực hiện được đầy đủ vai trò của mình trong việc hỗ trợ các ngân hàng. Điều này cũng phần nào làm giảm chất lượng thẩm định tài chính dự án của các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Ngoại thương nói riêng.
* Kiến thức về lập dự án và tinh thần hợp tác của khách hàng còn chưa cao
Điểm hạn chế của khách hàng xin tài trợ là kiến thức về quản lý kinh doanh, về pháp luật còn thấp, trình độ lập dự án còn yếu dẫn tới lập dự án thiếu chính xác, thiếu căn cứ khoa học, đã gây ra không ít khó khăn cho công tác thẩm định, gây tâm lý khó chịu cho các cán bộ thẩm định dẫn tới hiện tượng không tập trung vào những dự án thuộc dạng đó. Do vậy, ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định là điều dễ hiểu.
Khi trình hồ sơ xin vay vốn điểm thường thấy là chủ dự án không cung cấp đầy đủ thông tin ngay từ đầu, thậm chí việc giấu diếm thông tin được coi là một trong vô vàn mẹo của họ, do đó làm cho thời gian thẩm định kéo dài, cộng với thông tin đó không chính xác có thể gây những kết luận tài trợ thiếu đúng đắn.
Ngoài ra, đối với những dự án là khả thi như do năng lực điều hành sản xuất kinh doanh của chủ đầu tư kém, việc sử dụng vốn vay sai mục đích dẫn đến hậu quả là có những dự án được đánh giá là có hiệu quả nhưng khi thực hiện lại không thành công.
* Hệ thống văn bản pháp luật thiếu và còn nhiều bất cập, Ngân hàng còn bị phụ thuộc vào các chương trình tín dụng chỉ định.
Hoạt động thẩm định nói riêng và hoạt động tín dụng nói chung liên quan rất chặt chẽ với các quy định của pháp luật trên nhiều khía cạnh khác nhau, mà hiện nay các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động tín dụng đang trong quá trình xây dựng nên còn nhiều bất cập, chồng chéo nhau gây rất nhiều khó khăn trong công tác thẩm định của Ngân hàng, mà chưa đề cập đến các văn bản quy phạm pháp luật trong những lĩnh vực khác.
Các yếu tố không tích cực của nền kinh tế đã có những tác động tới hoạt động của ngân hàng. Trong điều kiện nền kinh tế như hiện nay, cơ chế, chính sách về quản lý đầu tư, về tính công khai trong hoạt động của các doanh nghiệp, về các quy định trong hoạt động tín dụng... tuy đã có những bước tiến nhưng vẫn còn thiếu, nếu có thì chồng chéo, hay thay đổi gây ra những trở ngại cho hoạt động thẩm định.
Ngân hàng Ngoại thương là một trong số sáu ngân hàng quốc doanh, một điều không thể tránh khỏi đối với các nước đang phát triển có hệ thống tài chính chưa phát triển là các NHTM quốc doanh dễ bị chi phối bởi các chương trình tín dụng chỉ định của Chính phủ, thực tế ở nhiều quốc gia đang phát triển chỉ ra rằng rất nhiều chương trình tín dụng chỉ định, các chương trình hoạt động không có hiệu quả, mà các NHTM quốc doanh phải tài trợ cho các dự án thuộc loại này. Điều này dẫn tới hoạt động thẩm định trong những trường hợp như thế chỉ mang tính hình thức, bởi vì quyết định tài trợ các dự án đó không phải chỉ dựa trên tính hiệu quả của dự án mà còn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác không thuộc về ngân hàng.
Thông qua quá trình phát triển của mình, Ngân hàng Ngoại thương đã đạt được những thành tựu đáng khâm phục. Trong đó, công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư đã đóng góp một phần không nhỏ. Nhưng, để đưa Ngân hàng Ngoại thương trở thành một trong những ngân hàng có tầm cỡ trong khu vực và trên trường quốc tế cần phải khắc phục được những hạn chế trong hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng.
Chương 3
Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng của ngân hàng ngoại thương Việt Nam
3.1. Định hướng trong hoạt động tín dụng của VCB trong thời gian tới.
3.1.1. Định hướng chung của VCB
Định hướng chung của VCB trong thời gian tới được trình bày rõ nét trong đề tài cơ cấu ngân hàng Ngoại thương, đã được Chính phủ thông qua và bắt đầu thực hiện từ năm 2001.
Trong thời gian tới Ngân hàng Ngoại thương phấn đấu đạt được những mục tiêu sau:
- Giải quyết dứt điểm nợ khê đọng khó đòi là kết quả của thời kì bao cấp, khoản này là rất lớn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình tài chính của Ngân hàng.
- Phấn đấu nâng tỷ trọng đầu tư cho nền kinh tế, nâng cao thị phần tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương trong toàn ngành.
- Lập ủy ban quản lý tài sản, và nguồn vốn để có thể chủ động hơn trong phòng chống rủi ro thanh toán đối với ngân hàng.
- Chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn có kỳ hạn, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn, tăng tỷ trọng nguồn vốn VND. Đổi mới công tác điều hành vốn theo hướng tạo điều kiện cho các chi nhánh chủ động hơn trong công tác quản lý vốn, đồng thời nâng cao vai trò của hội sở chính trong việc điều hòa vốn của toàn hệ thống theo tinh thần vừa khuyến khích các chi nhánh tích cực huy động vốn, tạo điều kiện cho các chi nhánh tăng khả năng trong công tác tín dụng.
- Xây dựng mô hình tổ chức theo hướng hướng về khách hàng, phục vụ đáp ứng tốt nhất cho sự tiện lợi của khách hàng. Hiện nay mô hình tổ chức của Ngân hàng theo mô hình truyền thống, tức có sự phân tách giữa các phòng ban theo chức năng, nghiệp vụ. Do đó, đối với khách hàng giao dịch với ngân hàng, họ phải đi qua rất nhiều phòng ban khác nhau mới có thể giải quyết được công việc. Nhưng, với mô hình tổ chức kiểu mới, khách hàng có thể giải quyết công việc thông qua một phòng duy nhất. Do vậy, yếu điểm không quan tâm và không nắm bắt được nhu cầu của khách hàng được khắc phục, mặt khác lại có thể có được sự phối kết hợp giữa các phòng ban khác nhau một cách nhịp nhàng.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực để đáp ứng điều kiện hoạt động cạnh tranh gay gắt trong thời gian sắp tới. Xây dựng đội ngũ làm công tác khách hàng mang tính hệ thống.
- Kết hợp hài hòa, đồng bộ giữa công cụ lãi suất, tỷ giá, hạn mức tín dụng, phí thanh toán để đưa ra những sản phẩm mới phù hợp với từng đối tượng khách hàng.
- Tích cực triển khai các đề án nhằm hiện đại hóa công nghệ ngân hàng để bắt kịp với trình độ cộng nghệ ngân hàng của khu vực và trên thế giới.
- Hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ, dần dần tiến tới tách bạch hóa hoạt động của bộ phận kiểm tra, kiểm toán ra khỏi hoạt động tác nghiệp ngân hàng.
3.1.2. Định hướng hoạt động tín dụng của VCB trong thời gian tới
- Ngân hàng phấn đấu đạt được mức tăng trưởng dư nợ tín dụng hàng năm từ 18 - 20% trở lên, trong đó tín dụng xuất nhập khẩu chiếm 50-60% tổng dư nợ. Thị phần thanh toán xuất nhập khẩu chiếm 29%, tỷ lệ Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ đến hạn giảm xuống dưới 2%.
- Tăng cường tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn từ 30 - 40% tổng dự nợ.
- Mở rộng hệ thống mạng lưới các chi nhánh cấp 1, cấp 2 vào phòng giao dịch phù hợp với nhu cầu phát triển hoạt động ngân hàng ở địa phương, tăng cường khả năng tiếp cận, thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và doanh nghiệp, tăng cường tiếp xúc với các đối tượng có nhu cầu về vốn, nâng cao tư duy kinh tế thị trường, củng cố uy tín trong nước và trên trường quốc tế, tranh thủ tiếp cận các nguồn vốn ủy thác.
- Trên cơ sở phát huy thế mạnh của NHNT, phát huy kết quả bước đầu đề án tái cơ cấu, đẩy mạnh công tác tín dụng nhằm đạt được mức tăng trưởng mang tính đột phá. Nghiên cứu, cải tiến phương thức chỉ đạo và quản lý tín dụng trong mối quan hệ giữa hội sở chính theo hướng tạo thêm tính chủ động cho chi nhánh đồng thời Hội sở chính phải đi sâu thực tế hơn trên cơ sở xây dựng cơ chế xác định hạn mức rủi ro cho từng chi nhánh và khách hàng. Tăng cường đội ngũ làm công tác tín dụng trong hệ thống.
- Trong thời gian qua, đối tượng khách hàng chủ yếu của ngân hàng Ngoại thương là các doanh nghiệp nhà nước lớn như các Tổng Công ty 90, 91, các đối tượng khách hàng khác dường như chưa được chú trọng một cách thích đáng. Để tận dụng lợi thế của mình về nguồn vốn, trong thời gian tới ngân hàng thực hiện các chính sách mềm dẻo để thu hút những khách hàng tiềm năng như các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp thuộc loại vừa và nhỏ bên cạnh việc củng cố đội ngũ khách hàng truyền thống.
- Trong khi mở rộng tín dụng cần phải đi đôi với chất lượng tín dụng, đầu tư vào các dự án có hiệu quả, đảm bảo an toàn vốn, không chỉ chú ý đến hiệu quả kinh tế mà cũng cần phải xem xét đến hiệu quả về mặt xã hội của dự án.
- Trong khi mở rộng tín dụng cần phải đi đôi với chất lượng tín dụng, đầu tư vào các dự án có hiệu quả, đảm bảo an toàn vốn, không chỉ chú ý đến hiệu quả kinh tế mà cũng cần phải xem xét đến hiệu quả về mặt xã hội của dự án.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam
Nâng cao chất lượng của hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư là một yêu cầu luôn được đặt ra đối với thẩm định dự án của các ngân hàng để họ có thể chủ động trong việc ngăn chặn những dự án tồi và tài trợ cho những dự án có hiệu quả. Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nước ta đang đẩy nhanh tốc độ đầu tư, nhằm đạt được mục tiêu duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế bền vững tạo đà cho bước phát triển vững chắc trong những năm sau và thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án còn giúp cho các ngân hàng có thể chủ động trọng việc tham gia tư vấn thẩm định và từ chối ngay từ đầu những ý tưởng đầu tư không khả thi, tiết kiệm chi phí cho nền kinh tế (của chủ đầu tư, của ngân hàng, của nhà nước). Chính vì lẽ đó, việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án luôn là mối quan tâm của các nhà lãnh đạo và của ngành ngân hàng.
3.2.1. Khắc phục nhược điểm trong nội dung thẩm định
3.2.1.1.Nâng cao tính chính xác của việc tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính.
Ngân hàng cần nghiên cứu và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn cho phép đối với từng ngành nghề. Đây là hệ thống các chỉ tiêu dùng để so sánh với các chỉ tiêu hiệu quả và an toàn tài chính của dự án, từ đó có thể kết luận dự án có được chấp nhận tài trợ hay không. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề gây không ít khó khăn cho ngân hàng, bởi lẽ, hiện nay chưa có cơ quan nào nghiên cứu và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn cho phép. Do vậy, ngân hàng cần nghiên cứu và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn cho phép đối với từng ngành nghề áp dụng riêng cho ngân hàng của mình. Ví dụ chỉ tiêu thời gian hoàn vốn đối với các dự án công nghiệp nhẹ có thể lấy PP < 7 năm, các dự án công nghiệp nặng PP < 10 năm...
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án là nội dung chính mang tính chất xương sống của toàn bộ quá trình thẩm định tài chính dự án. Trong khi áp dụng các chỉ tiêu này, ngân hàng cần phải có sự quan tâm đúng mức tới vấn đề giá trị thời gian của tiền, nếu không thì không thể so sánh các giá trị tại các thời điểm khác nhau một cách chính xác.
Vì vậy, trong khi áp dụng hệ thống chỉ tiêu cần phải coi các chỉ tiêu NPV, IRR, PI, PP là các chỉ tiêu mang tính chất bắt buộc khi tính toán. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần phải rút ra được ý nghĩa, vai trò của các chỉ tiêu đó là như thế nào chứ không phải chỉ thanh toán đơn thuần để có được kết luận chính xác đối với từng loại dự án khác nhau.
Trong khi tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án, ngân hàng cần quan tâm tới các vấn đề sau.
Xác định khoản thu hồi ở thời điểm cuối dự án
Đối với các khoản thu hồi như thu hồi thanh lí TSCĐ khi dự án kết thúc, khoản thu nhập này là khoản thu nhập làm tăng giá trị luồng tiền tại thời điểm cuối của dự án, khi xác định luồng tiền thì khoản thu hồi này được coi là khoản thu nhập bình thường và phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.
Xác định chính xác tỷ lệ chiết khấu
Xác định chính xác được tỷ lệ chiết khấu là một việc làm không đơn giản. Về lý thuyết tỷ lệ chiết khấu là chi phí bình quân gia quyền của vốn - WACC, nhưng trong hoàn cảnh hiện nay việc xác định được chi phí vốn bình quân không phải là việc làm dễ dàng. Vấn đề đòi hỏi hiện nay là cần phải xác định được mức độ rủi ro đối với từng ngành nghề, lĩnh vực khác nhau từ đó có thể lấy dự đoán đó làm cơ sở cho việc dự tính lãi suất chiết khấu.
Đối với dự án này lãi suất chiết khấu được ngân hàng sử dụng được lấy là lãi suất cho vay.
3.2.1.2. Cần linh hoạt hơn trong các dự tính mức thay đổi của giá bán sản phẩm
Khi áp dụng các phương pháp hiện đại dự án không chỉ được xem xét ở trạng thái tĩnh mà nó còn được xem xét ở trạng thái động nhằm đưa ra những phân tích mang tính chất thực tế hơn. Thông qua đó ngân hàng có những đánh giá xác đáng về mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận. Mức độ này hợp lý thì ngân hàng sẽ chấp nhận tài trợ, hơn thế nữa việc nhận diện mức độ của các rủi ro có thể giúp cho ngân hàng có được các biện pháp phòng ngừa hiệu quả để hạn chế được các rủi ro đó. Ngân hàng có thể dùng hai cách để dự tính mức độ biến tiên của các yếu tố của dự án.
Đối với phân tích tình huống: Như phần lý thuyết đã trình bày, việc phân tích tình huống là việc xác định các tình huống xấu nhất, tốt nhất có thể xảy ra đối với dự án, đồng thời xác suất xảy ra các trường hợp đó, sau đó tính toán các chỉ tiêu tài chính theo từng phương án, và xác định độ lệch cũng như giá trị trung bình của chúng, từ đó được xác suất các chỉ tiêu tài chính lớn bằng nhỏ hơn giá trị cần thiết được lựa chọn. Tuy nhiên phân tích tình huống hiện nay ở Việt Nam là không khả thi do điều kiện phát triển ở nước ta hiện nay. Việc phân tích đó đòi hỏi phải có được thông tin cần thiết, mức độ chính xác của thông tin có được phải cao, xác định được xác suất có thể xẩy ra và phải có các phương tiện kĩ thuật hiện đại.
Phương pháp phân tích độ nhạy của Ngân hàng hiện nay đang áp dụng không được linh hoạt với lý do là các mức biến thiên về giá của sản phẩm của dự án chỉ được ngân hàng dự tính theo chủ quan dự án nào cũng được áp dụng mức giá thay đổi là 5% đây là một sự áp đặt có tính cứng nhắc, không khoa học. Chính vì vậy, trong thời gian tới ngân hàng nên áp dụng mức thay đổi linh hoạt hơn để phù hợp với thực tế.
3.2.2. Nâng cao hơn nữa trình độ cán bộ và đạo đức nghề nghiệp
Nhân tố con người đóng vai trò quyết định mang tính chi phối đối với bất kì hoạt động nào, đối với hoạt động thẩm định cũng vậy. Trong hoạt động thẩm định, cán bộ thẩm định trực tiếp tổ chức công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án. Kết quả của hoạt động này là dựa trên sự đánh giá, xem xét chủ quan của cán bộ thẩm định dựa trên các cơ sở khoa học và các chuẩn mực khác. Do vậy, muốn cải thiện chất lượng của thẩm định tài chính dự án đầu tư cần phải đầu tư nâng cao trình độ của cán bộ một cách thích đáng.
Đối với VCB, để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án, Ngân hàng cần phải xây dựng một chiến lược dài hạn về nguồn nhân lực, trong đó nêu rõ những yêu cầu, những mục tiêu hướng tới trong chiến lược phát triển của mình. Một cán bộ thẩm định giỏi trước hết phải là con người được đào tạo, có kiến thức không chỉ trong lĩnh vực tài chính, mà còn phải nắm bắt được những kiến thức tổng hợp khác như kinh tế vi mô, vĩ mô, có nền tảng kiến thức rộng, và một nhân tố cực kì quan trọng không bỏ qua là đạo đức nghề nghiệp.
Đạo đức nghề nghiệp cũng là một nhân tố quan trọng, nó được thể hiện ở sự tận tình tinh thần trách nhiệm cao trong công tác của cán bộ thẩm định, ngoài ra, nó cũng được thể hiện ở tính trung thực, lòng quyết tâm phấn đấu rèn luyện vì sự tiến bộ của bản thân và sự phát triển của tổ chức mà họ đang phục vụ.
Để đạt được hai yêu cầu trên đối với nhân tố con người, Ngân hàng Ngoại thương phải chú ý đến các giải pháp sau.
3.2.2.1. Coi trọng chất lượng công tác tuyển dụng cán bộ
Việc tuyển dụng đóng vai trò quyết định tới chất lượng của nhân tố con người. Để thỏa mãn được những yêu cầu về chất lượng đòi hỏi quá trình tuyển dụng phải được tiến hành một cách khách quan, lựa chọn được những người đủ đức đủ tài, tránh những tình trạng tiêu cực trong tuyển dụng. Có thể nói trong khi tuyển dụng, vấn đề năng lực chuyên môn của các ứng cử viên có thể nhận ra được một cách dễ dàng nhưng vấn đề đạo đức của họ thì khó có thể xác định chính xác được. Vì vậy, ngân hàng phải có quy trình tuyển dụng hợp lý sao cho có thể có được những đánh giá dù là sơ qua về vấn đề đạo đức. Việc tuyển chọn đòi hỏi phải đảm bảo đủ số lượng và chất lượng đồng thời phải thu hút được không chỉ các sinh viên giỏi vừa ra trường mà còn phải thu hút được các đối tượng có năng lực khác. Khi tuyển dụng ngân hàng cần tham khảo các chuyên gia từ các trường đại học, các viện nghiên cứu để có được quy trình tuyển dụng hiện đại, nội dung phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của công tác. Mặt khác, ngân hàng cần phải xây dựng được một đội ngũ cộng tác viên có năng lực để hỗ trợ ngân hàng trong khi thẩm định về phương diện kĩ thuật, công nghệ.
3.2.2.2. Bố trí cán bộ một cách hợp lý
Cần phải bố trí cán bộ một cách phù hợp với trình độ chuyên môn, khả năng công tác, kiên quyết loại bỏ, chuyển công tác đối với những cán bộ thiếu năng lực, thiếu phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
3.2.2.3. Xây dựng chính sách bồi dưỡng, đào tạo cán bộ phù hợp
Cán bộ thẩm định cần phải được thường xuyên được đào tạo và đào tạo lại nhằm có được những kiến thức mới nhất và cập nhật trong công tác. Không chỉ chú trọng đào tạo lĩnh vực chuyên môn, kiến thức về các lĩnh vực khác cũng cần phải được trang bị cho cán bộ thẩm định vậy nên kiến thức về các lĩnh vực khác như về luật pháp, kiểm bán,... cũng cần phải cập nhật. Cán bộ thẩm định phải được thường xuyên cập nhật những quy định của nhà nước có liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Đây là những quy định có tính nghiêm ngặt và chặt chẽ để bảo vệ cho lợi ích của nhà nước, của chủ đầu tư và của cả cộng đồng.
Để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đòi hỏi người thẩm định phải được trang bị những kiến thức cơ bản về dự án, kĩ năng thẩm định (bao gồm nội dung chu trình, các bước nghiên cứu và phương pháp phân tích dự án) và nắm vững được các quy định của nhà nước có liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Ngoài ra người thẩm định cũng phải có những hiểu biết nhất định về những ngành nghề, sản phẩm của dự án do mình phụ trách, thu thập các thông tin về thị trường phục vụ cho công tác thẩm định. Trong đó cần phải chú trọng đến kĩ năng thực hành bằng các phần mềm thẩm định Excel, Risk Masker...) trực tiếp trên máy vi tính với những ví dụ thực tế.
Hàng năm ngân hàng cần tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn cho cán bộ thẩm định trong toàn hệ thống với sự tham gia của các chuyên gia trong nước và quốc tế của các cán bộ giàu kinh nghiệm để trau dồi kinh nghiệm trong công tác từ đó có thể khắc phục được khoảng cách chênh lệch về trình độ cũng như kinh nghiệm của các cán bộ trong cả hệ thống từ cấp trung ương đến cấp chi nhánh. Do đó, việc đầu tư cho đào tạo cán bộ cần được xem như là một chính sách của ngân hàng, từ việc coi nó là một chính sách thì ngân hàng cần phải tạo dựng được quỹ để tài trợ cho việc đào tạo, khi xây dựng được quỹ đó thì có thể cử các cán bộ đi học tập, nghiên cứu ở các trường đại học của nước ngoài hay tham gia học tập tại các ngân hàng nước ngoài.
Vì vậy, để nâng cao được chất lượng của hoạt động thẩm định tài chính dự án, vấn đề được trang bị kiến thức toàn diện là một yêu cầu bắt buộc.
3.2.2.4. Có được chế độ đãi ngộ thích hợp
Ngân hàng cần có một chính sách đãi ngộ phù hợp nhằm kích thích tinh thần làm việc hết mình của các nhân viên, kích thích sự sáng tạo trong công tác bằng các chính sách như: khen thưởng kịp thời cho các thành tích, xây dựng các chương trình phúc lợi cho công nhân viên chức...
3.2.3. Nâng cao chất lượng nguồn thông tin.
Trong xã hội thông tin của thế kỉ 21, vai trò thông tin mang tính sống còn đối với bất kì một tổ chức nào, đặc biệt là đối với ngành ngân hàng và nhất là hoạt động thẩm định. Chất lượng thẩm định tài chính dự án phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của nguồn thông tin mà ngân hàng thu thập được vậy nên để nâng cao được chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư thì điều quan trọng là phải có được nguồn thông tin tin cậy đảm bảo chất lượng, có tính chính xác cao và kịp thời.
Đối với nguồn thông tin nội bộ
Để có được một hệ thống thông tin hoạt động có hiệu quả, cần phải hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ, có sự trao đổi thường xuyên giữa các chi nhánh trong nội bộ ngân hàng. Điều cần thiết là phải xây dựng được mạng thông tin cục bộ cho toàn hệ thống từ cấp trung ương đến các chi nhánh địa phương. Những thông tin về tín dụng cần phải được tập hợp nhanh chóng tại một đầu mối là phòng thông tin Tín dụng tại trung ương đảm bảo cung cấp kịp thời cho toàn hệ thống. Ngoài ra những thông tin tín dụng tại các chi nhánh cũng phải được tập hợp tại các chi nhánh, thông qua đó phải được xử lí sơ bộ trước khi gửi lên trung ương. Tại phòng Thông tin Tín dụng trung ương thông tin được tập hợp và được phân loại chi tiết theo từng ngành nghề, lĩnh vực, khu vực khác nhau.
Ngoài ra như phần kiến nghị ở trên đã đề cập đối với các dự án đã thực hiện, ngân hàng cần tập hợp để từ đó xây dựng được hệ thống chỉ tiêu, thông số kỹ thuật... riêng cho ngân hàng để có thể lấy thông tin đó làm căn cứ tham chiếu cho những trường hợp thẩm định các dự án tương tự.
Từ những thông tin tập hợp được, định kì ngân hàng cần kiểm tra số liệu báo cáo tài chính của khách hàng nhập dữ liệu vào file và truyền về Phòng thông tin tín dụng (CIC) của NHNN theo phương thức trao đổi thông tin, tạo tiền đề để có thể tiếp cận với nguồn thông tin quý giá từ CIC của NHNN.
Việc cung cấp thông tin của khách hàng cho ngân hàng trong hồ sơ xin vay cũng là một vấn đề cần được cải thiện. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khi mà việc thực hiện pháp lệnh kế toán, thống kê chưa được chấp hành nghiêm chỉnh, để có được thông tin chính xác, cần phải có biện pháp trước mắt là tăng cường tính pháp lí của các báo cáo tài chính tức là tất cả các báo cáo cần phải được kiểm toán độc lập, chỉ có như vậy thì việc xác định tình hình tài chính của chủ dự án thông qua các báo cáo tài chính mới có được sự bảo đảm, và mới thực sự có ý nghĩa.
Đối với nguồn thông tin bên ngoài
Không chỉ chú ý khai thác nguồn thông tin trong nội bộ, Ngân hàng còn cần phải chú trọng đến các nguồn thông tin khác từ bên ngoài để đa dạng hóa nguồn cung cấp thông tin. Các nguồn thông tin bên ngoài có thể khai thác được bắt nguồn từ Phòng thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, từ các NHTM khác, từ các sách báo, tạp chí, chuyên ngành, các cơ quan quản lý khác nhau như các Bộ Thương mại, Đầu tư, thống kê... Các trung tâm thông tin trong nước và quốc tế. Việc trao đổi thông tin giữa các đối thủ cạnh tranh là điều thường thấy trong xã hội ngày nay với lí do là việc trao đổi đó có lợi cho cả hai bên chứ không chỉ có lợi riêng cho một bên nào.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là phải có bộ phận chuyên thu thập thông tin, vấn đề lại quay trở lại với vai trò của phòng Thông tin Tín dụng của Ngân hàng.
Nhưng theo đánh giá hiện nay thì phòng Thông tin Tín dụng của Ngân hàng ngoại thương chưa hoạt động tương xứng với vai trò, nhiệm vụ của nó. Trong khi thu thập thông tin, cán bộ thẩm định không được sự giúp đỡ nào về mặt cung cấp thông tin phía Phòng Thông tin Tín dụng, nếu có thì đó là sự hỗ trợ rất hạn chế.
Vì vậy, trong thời gian tới, để nâng cao được chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư, Ngân hàng Ngoại thương cần phải củng cố lại hoạt động của phòng Thông tin Tín dụng sao cho phòng xứng đáng với chức năng của nó.
Ngoài ra, đối với một số lĩnh vực chuyên môn cán bộ thẩm định không thể thẩm định một cách chính xác thì việc thuê chuyên gia tư vấn hỗ trợ là việc làm cần thiết.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị nâng cao vai trò của Trung tâm thông tin tín dụng trong việc phối kết hợp cung cấp, trao đổi thông tin giữa các ngân hàng thương mại.
Trên cương vị là người điều tiết toàn bộ hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, NHNN cần có những chính sách mang tính định hướng về quy trình thẩm định, cập nhật các kiến thức mới, hiện đại đang được áp dụng tại các ngân hàng trên thế giới thông qua những chương trình đào tạo, tập huấn, hỗ trợ thông tin cần thiết cho công tác thẩm định dự án của các ngân hàng. Kiến nghị Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN nâng cao vai trò điều phối, chủ động trong việc thu thập thông tin từ các nguồn như từ các cơ quan của Chính phủ: Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ Thương mại... Đồng thời mở rộng phạm vi cung cấp thông tin, không những cung cấp thông tin tín dụng mà còn có thể cung cấp thông tin kinh tế phục vụ cho công tác thẩm định. Trong trường hợp đó CIC sẽ có thuận lợi hơn các ngân hàng trong việc hợp đồng và hợp tác với các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chuyên cung cấp thông tin. Còn nếu mỗi ngân hàng, mỗi cán bộ thẩm định tự thu thập thông tin sẽ gặp rất nhiều khó khăn để tiếp cận được tới những nguồn thông tin này
3.3.2. Kiến nghị Chính phủ và các Bộ ngành cấp thiết xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp lý.
Hoạt động ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội, đồng thời hoạt động này cũng rất nhạy cảm đối với biến động của môi trường dù là một biến động nhỏ. Trong điều kiện nền kinh tế của một quốc gia đang phát triển, nền kinh tế nước ta có đặc điểm dễ nhận ra là tính ổn định và nghiêm minh về luật pháp còn chưa cao, hệ thống chính sách còn nhiều kẽ hở và lại thường xuyên thay đổi. Do vậy, ảnh hưởng rất lớn tới công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của các ngân hàng Việt Nam nói chung và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng. Chính vì vậy, điều cần thiết đối với Chính phủ và các Bộ ngành là phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy quy định hoạt động đầu tư nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung, đồng thời nâng cao tính hiệu lực của các văn bản đó.
Các Bộ ngành cần xây dựng hệ thống các chỉ tiêu, định mức kinh tế kĩ thuật của ngành do mình quản lý, hệ thống hóa thông tin liên quan tới lĩnh vực quản lý, công khai tình hình hoạt động... Trong đó, quan trọng nhất phải kể đến tiêu chuẩn hóa các định mức kinh tế - kĩ thuật của ngành.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, trước khi ra quyết định đầu tư, các dự án thường được thông qua tổng mức vốn đầu tư bởi cơ quan chức năng. Chính vì vậy, đề nghị các cơ quan chủ quản khi phê duyệt tổng mức vốn đầu tư cần tính toán một cách khách quan, chính xác. Hơn nữa, đối với các dự án theo tín dụng chỉ định, đề nghị Chính phủ xem xét một cách kĩ lưỡng toàn diện các mặt của dự án trước khi triển khai, nhằm tránh được việc mất vai trò của thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng.
Kết luận
Thẩm định tài chính DAĐT trước khi quyết định cho vay là một công việc vô cùng quan trọng đối với Ngân hàng, nó có ảnh hưởng tới sự sống còn của Ngân hàng. Vì vậy thẩm định phải được thực hiện kỹ càng, cẩn thận, chính xác, có phương pháp khoa học sẽ giúp Ngân hàng hạn chế đến mức tối đa những rủi ro khi thực hiện các khoản cho vay và kết luận chính xác về tính khả thi của dự án. Nhờ đó các DAĐT mới thực sự đem lại hiệu quả cho chủ dự án, cho nhà đầu tư và nền kinh tế.
Trong nội dung hạn hẹp của chuyên đề này, với mục đích nêu trên, những vấn đề cơ bản đã được tập trung giải quyết trong chuyên đề này là:
1- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về thẩm định tài chính DAĐT, nội dung thẩm định cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định. Đồng thời nhấn mạnh vào sự cần thiết phải thẩm định tài chính DAĐT trong hoạt động tín dụng đối với các NHTM.
2- Phân tích thực trạng công tác thẩm định tài chính DAĐT tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong những năm vừa qua, đánh giá những kết quả đạt được và đưa ra những hạn chế, khó khăn mà Ngân hàng đang gặp phải.
3- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính DAĐT tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam nói riêng và NHTM nói chung.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề hết sức khó khăn phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp bên trong và bên ngoài Ngân hàng. Vì vậy nó đòi hỏi một sự nghiên cứu sâu sắc và những giải pháp đồng bộ với sự quyết tâm từ nhiều phía.
Trong khuôn khổ của luận văn, em chỉ hy vọng đề cập một số mặt của thẩm định tài chính DAĐT, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô, các cán bộ Ngân hàng và bạn bè.
Hà Nội tháng 5 năm 2004
Danh mục tài liệu tham khảo
Jonathan Kellerman(2001) – Phân tích các dự án đầu tư - Nhà xuất bản trẻ
Lưu Thị Hương (chủ biên)(1998) - Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân,
Nguyễn Xuân Thuỷ(1996)- Quản trị dự án đầu tư - Nhà xuất bản Thống kê.
Phạm Thế Trung(2001) – Phân tích và quản lý các dự án đầu tư - Nhà xuất bản Thống kê
Tạp chí tài chính, tạp chí ngân hàng, tài chính thông tin tài chính...
Thời báo tài chính, thời báo ngân hàng...
Báo cáo Hoạt động kinh doanh năm 2002, VCB
Mẫu báo cáo thẩm định dự án trung và dài hạn, VCB
Tài liệu thẩm định dự án “Đầu tư mới dây chuyền sản xuất tôn tráng kẽm dạng cuộn và tấm tại công ty Thái Nam”.
Tài liệu tập huấn đảm bảo tiền vay, VCB 2002
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0082.doc