Đi vào hoạt động từ tháng 02 năm 2002 theo Quyết định số 01992/QĐ-HĐQT-TCB về việc thành lập chi nhánh cấp 2 Techcombank Chương Dương, chỉ mới qua hai năm xây dựng và trưởng thành song nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn chính sách phát triển tín dụng nói riêng và chính sách phát triển hoạt động Ngân hàng nói chung, cùng với đội ngũ cán bộ trẻ, năng động, nhiệt tình, vững vàng nghiệp vụ chuyên môn, chi nhánh Techcombank Chương Dương đã không ngừng khẳng định ưu thế về chất lượng dịch vụ cũng như về chất lượng phục vụ của mình đối với khách hàng và đạt được một số kết quả đáng biểu dương, đặc biệt là trong công tác quản lý rủi ro đối với hoạt động tín dụng và các hoạt động khác đưa tỷ lệ nợ quá hạn xuông thấp hơn mcs trung bình của cả hệ thống (4,58%) và của cả hệ thống ngân hàng Việt nam (6,4%). Ngân hàng đã xác định và xây dựng được cho mình một nền tảng khách hàng có thể nói là bền vững, góp phần giúp cho NHTM CP Kỹ Thương việt Nam trở thành một trong năm NHTM CP hàng đầu Việt Nam à cung cấp các sản phẩm bán lẻ trong đó sản phẩm từ hoạt động tín dụng là một trong những mục tiêu hàng đầu. Tuy nhiên, để có thể đứng vững và phát triển được khi nước ta tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế thì Chi nhánh cần phải cố gắng hơn nữa trong công tác nâng cao chất lượng hoạt động, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Điều này sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng khai thác tốt hơn tiềm năng của thị trường khách hàng mục tiêu để phát triển khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế yếu về tài chính. Để làm được điều này, Chi nhánh cần phải có được sự hỗ trợ, phối hợp đồng bộ giữa các bộ, các ngành liên quan, sự hỗ trợ từ phía nhà nước, đặc biệt là những nỗ lực vươn lên khắc phục khó khăn từ chính bản thân khách hàng trên bên cạnh những nỗ lực của chính bản thân Ngân hàng.
123 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1794 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam– chi nhánh Chương Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chứng nhận là đã đạt excellent Fast (excellent fully Automated Straight through), tạm dịch là xử lý điện chuyển tiền tốt, nghĩa là tỷ lệ điện chuẩn cao đạt 90% điện chuẩn và được xử lý hoàn toàn bằng máy tính. Nhưng để không ngừng hoàn thiện, mở rộng và phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ và nâng cao chất lượng hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh, tăng vị thế, uy tín của Ngân hàng trên thị trường thì việc đổi mới, hiện đại hoá công nghệ cho hệ thống Ngân hàng Việt nam nói chung và Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương Việt nam- chi nhánh Chương Dương nói riêng là đòi hỏi có tính cấp thiết, phấn đấu đưa hệ thống tài chính Ngân hàng Việt nam đạt đến trình độ trung bình của khu vực.
Có thể thấy được, công nghệ khoa học, kỹ thuật phát triển không những giúp cho các hoạt động trong một Ngân hàng hay một chi nhánh, phòng giao dịch được diễn ra nhanh hơn, đảm bảo chất lượng hơn mà nó còn có ý nghĩa quan trọng trong việc rút ngắn khoảng cách địa lý giữa các Ngân hàng và giữa các Ngân hàng trong nước với Ngân hàng nước ngoài. Đây là cơ sở để tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn của cả nền kinh tế trong nước và kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên đổi mới và hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng không phải là công việc đơn giản có thể hoàn thành một sớm một chiều mà là cả quá trình lâu dài và liên tục. Do vậy để thực hiện công tác này Ngân hàng cần phải có sự quan tâm thực sự và đầu tư đích đáng của các cấp lãnh đạo, sự ủng hộ, nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên.
3.3.6. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách Marketing hỗn hợp
3.3.6.1. Chính sách khách hàng
Chủ động tìm kiếm khách hàng:
Việc chủ động tìm kiếm khách hàng vay vốn đến nay vẫn là vấn đề trọng tâm, đi vào chiều sâu trong chiến lược cạnh tranh. Khi Ngân hàng chủ động tìm đến để mời chào khách hàng vay vốn thì Ngân hàng phải có được những thông tin trước, hay nói cách khác Ngân hàng đã chủ động lựa chọn trước khách hàng sau khi đã kịp thẩm định về họ. Điều này sẽ giúp Ngân hàng tránh được sự phân tán (nhiều khi là sự cuốn hút) vào các thông tin do khách hàng chủ động cung cấp (các thông tin này thường đã được các khách hàng vay vốn điều chỉnh theo hướng có lợi cho khách hành để tăng khả năng rút vốn từ Ngân hàng), và bị giới hạn bởi thời gian thẩm định trong trường hợp khách hàng chủ động tìm đến Ngân hàng. Mặt khác, việc chủ động tìm đến khách hàng là một biện pháp tiếp thị rất hiệu quả (nhất là đối với những khách hàng mới thành lập, hoặc mới vay Ngân hàng lần đầu và kể cả với khách hàng đã có quan hệ vay mượn đối với các Ngân hàng Thương mại khác), khi sự có mặt của Ngân hàng vaaof đúng thời điểm khách hàng phân vân lựa chọn Ngân hàng để vay vốn.
Việc chủ động tìm đến khách hàng cần phải trở thành phương châm hành động và phải được thực hiện một cách đồng bộ trên toàn hệ thống. Mở rộng các hình thức tiếp cận khách hàng đến trực tiếp từng khách hàng: gặp gỡ, họp mặt một khu vực khách hàng như trong khu chế xuất, làng nghề truyền thống, một địa bàn,…
Đây là một biện pháp rất hữu hiệu đặc biệt là đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực có những đóng góp cho nền kinh tế và sự phát triển của toàn xã hội, trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, công tác này chỉ đạt được những hiệu quả mong muốn khi nó được thực hiện đồng thời với công tác phân đoạn thị trường mục tiêu phù hợp với các tiềm lực cụ thể của Ngân hàng.
Xây dựng nền khách hàng bền vững:
Trong lộ trình từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, khách hầng thực sự trở thành điều kiện sống còn cho sự tồn tại của bất cứ nhà đầu tư sản xuất kinh doanh nào. Khách hàng được xác định là định hướng trung tâm cho các hoạt động của doanh nghiệp nói chung và Ngân hàng nói riêng.
Cùng với quá trình hội nhập, các Ngân hàng Thương mại Việt nam gặp phải không ít khó khăn, thách thức về công nghệ thông tin, trình độ quản lý, triển khai sản phẩm dịch vụ, sản phẩm tín dụng mới nhằm đa dạng hoá, thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng, nhận thức hoạt động định hướng khách hàng chưa được chú trọng. Năng lực tài chính, hiệu quả kinh doanh thấp so với các Ngân hàng nước ngoài.
Nhận thức được những khó khăn chung đó, chi nhánh Techcombank Chương Dương đã chú trọng nâng cao sức cạnh tranh của mình bằng các giải pháp đầu tư nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, công nghệ, mở rộng mạng lưới phân phối; nghiên cứu triển khai sản phẩm mới; hướng tới mục tiêu làm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Có thể nói hiện nay, Ngân hàng đã và đang cùng với toàn hệ thống Techcombank nghiên cứu triển khai nhiều giải pháp để duy trì và phát triển cho ngân hàng mình một lực lượng khách hàng, một định hướng chiến lược khách hàng, nhằm đạt mục đích kinh doanh, thuận lợi về ngân hàng mình.
Tuy vậy, kết quả đã đạt được trong công tác khách hàng mới chỉ là bước đầu. Trong bài viết này, tôi xin được tập hợp một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nền khách hàng bền vững mà các Ngân hàng Thương mại Việt nam nói chung và chi nhánh Techcombank Chương Dương có thể tham khảo:
Cần xây dựng mô hình tổ chức kinh doanh Ngân hàng theo định hướng khách hàng.
Cần làm tốt công tác cán bộ, bồi dưỡng nhận thức về tầm quan trọng của công tác khách hàng: Trong thời gian tới, Ngân hàng cần phải chú trọng bồi dưỡng nhận thức về công tác khách hàng đối với toàn thể cán bộ ngân hàng,có chính sách cán bộ hợp lý trên tinh thần cán bộ ngân hàng làm cầu nối trung gian giưa khách hangf với ngân hàng, sử dụng cán bộ trên tinh thần nhu cầu được phục vụ khách hàng.
Đổi mới, cải tiến quy trình, thủ tục cấp tín dụng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
Đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng, đưa ra các sản phẩm dịch vụ có tính liên kết toàn hệ thống, sản phẩm có tính ràng buộc trong quan hệ với khách hàng. Đây là giải pháp trực tiếp tạo ra mối quan hệ ràng buộc bền vững giữa Ngân hàng với khách hàng.
Thường xuyên tuyên truyền, quảng cáo, nâng cao uy tín, vị thế của ngân hàng.
Xây dựng chiến lược Marketing khách hàng phù hợp cho từng thời kỳ, tổ chức tiếp thị tổng thể từ hội sở chính đến các chi nhánh trên cơ sở phát huy lợi thế tối đa về các nguồn lực của từng Ngân hàng.
Thường xuyên đánh giá, xác định lợi ích hợp lý trên quan điểm lâu dài đôi bên cùng có lợi giữa khách hàng với Ngân hàng, đánh giá đúng mức đối thủ cạnh tranh.
Có thể nói, khách hàng là định hướng trung tâm của các doanh nghiệp, có được khách hàng đã khó, việc duy trì và phát triển khách hàng đó cũng hết sức khó khăn, phức tạp. Do đó tạo lập mối quan hệ bền vững giữa Ngân hàng và khách hàng có ý nghĩa rất quan trọng vừa giúp cho Ngân hàng có một nền khách hàng vững chắc, đồng thời hỗ trợ, thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển theo chủ trương của Đảng và Nhà nước và thực thi luật doanh nghiệp tác động của nó đến chiến lược kinh doanh của Ngân hàng là không nhỏ.
3.3.6.2. Chính sách giá cả
Đối với một hàng hoá thông thường thì giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị loại hàng hoá đó. Nhưng đối với loại hàng hoá đặc biệt là tiền tệ thì giá cả được xem là chi phí để có được quyền sử dụng một khoản tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định và được xác định bằng tỷ lệ số tiền lãi mà khách hàng phải thanh toán cho Ngân hàng trên tổng số tiền mà khách hàng đó vay của Ngân hàng.
Đây là nhân tố luôn được khách hàng quan tâm nhất vì nó lầ một yếu tố quyết định mức chi phí, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mang lại của dự án vay vốn. Nhưng lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm mà bất cứ Ngân hàng thương mại nào cũng quan tâm theo dõi rất chặt chẽ. Không có một Ngân hàng thương mại nào có thể dễ dàng dùng lãi suất để lôi kéo khách hàng của đối thủ cạnh tranh, vì Ngân hàng Thương mại khác cũng sẽ ngay lập tức thay đổi lãi suất để giữ khách hàng của mình, chu dù việc ấy có ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh.
Chính vì vậy, Ngân hàng công thương cũng cần phải có một chính sách lãi suất nói chung và lãi suất ưu đãi một cách linh hoạt và dựa trên một nguyên tắc nhất quán là lãi suất cho vay không thấp hơn lãi suất của các Ngân hàng thương mại khác cùng địa bàn hoạt động. Việc chủ động dùng lãi suất để cạnh tranh chỉ là một biện pháp nhất thời trong một thời điểm nào đó và phải tính toán cẩn thận để không rơi vào tình trạng lợi bất cập hại khi các đối thủ cạnh tranh”đánh lại”. Do vậy, Ngân hàng cần có một chính sách giá cả linh hoạt.
3.3.6.3. Đẩy mạnh chính sách giao tiếp, khuếch trương
Có rất nhiều hình thức và phương thức phù hợp hiệu quả đối với từng khu vực, từng đối tượng khách hàng. Kể từ khi có đề án phê duyệt của chính phủ, chương trình tái cơ cấu lại các Ngân hàng Thương mại nước ta đã bắt đầu từ năm 2000, hoạt động này đã đem lại những thay đổi cơ bản trong hoạt động của Ngân hàng nói chung và trong chiến lược tiếp thị của các Ngân hàng Thương mại nước ta trong thời gian gần đây.
Nếu như trong những năm của thập kỷ 90 của thế kỷ trước, nội dung của các Ngân hàng Thương mại cũng như các chi nhánh đăng trên báo, tạp chí,… hầu hết là đăng hình ảnh trụ sở ngân hàng, quầy giao dịch, ảnh của Chủ tịch Hội đồng quản trị, ảnh Tổng giám đốc, ảnh Giám đốc ngồi trên bàn làm việc với chiếc máy điện thoại cùng với các chức năng, nhiệm vụ theo giấy phép hoạt động mà Ngân hàng đó thực hiện. Việc đăng quảng cáo lúc đó phần nhiều mang tính chất quan hệ, tài trợ,… Nội dung không phong phú, hấp dẫn, do đó hiệu quả mang lại không cao thì đến thời gian gần đây công tác quảng cáo, tiếp thi đã có những đổi mới cơ bản. Nội dung quảng cáo đã tiếp cận dần với các thông lệ quốc tế, vận dụng kinh nghiệm của các Ngân hàng Thương mại trong khu vực, đã được thay bằng nhữnh nội dung cụ thể hữu ích hơn, giới thiệu sản phẩm và dịch vụ mới: dịch vụ thẻ, dịch vụ thanh toán, các nghiệp vụ mới về tín dụng,… Việc thiết kế các mẫu quảng cáo đã mang tính chuyên nghiệp hơn, mang tính hiện đại hơn, tạo ấn tượng và hiệu quả đối với khách hàng. Thậm chí có ngân hàng Thưong mại còn tổ chức đấu thầu thiết kế mẫu quảng cáo cho các sản phẩm và dịch vụ mới của mình. Việc quảng cáo không mang tính chất dàn trải, tràn lan như trước kia mà tập trung vào các tờ báo, tạp chí có số lượng phát hành lớn, đông độc giả. Đồng thời tập trung vào các thời điểm nhất định như: ngày lễ, ngày tết, dịp kỷ niệm, vào các dịp Ngân hàng tung ra các sản phẩm dịch vụ mới,… kèm với các cam kết cụ thể về lợi ích của khách hàng. Do đó chi phí cho hoạt động này của các Ngân hàng Thương mại so với hiệu quả thu được thì tăng lên rõ rệt.
Nhưng dù ở thời kỳ nào, việc áp dụng nhiều hình thức tiếp thị khác nhau theo từng đối tượng cụ thể là rất cần thiết. Cụ thể:
Trực tiếp tìm đến khách hàng.
Giới thiệu các tiện ích và hoạt động của Ngân hàng thông qua:
+ Các bộ, Sở, ban, ngành tham gia để tìm kiếm giới thiệu với khách hàng tại các hội chợ triển lãm, hội nghị khách hàng, tổ chức các chương trình giao lưu gặp gỡ giữa lãnh đạo và nhân viên Ngân hàng với khách hàng, thậm chí còn tổ chức các chuyến đi khảo sát, học tập kinh nghiệm,…
+ Tổ chức các cuộc hội thảo, toạ đàm giữa Ngân hàng với các hiệp hội doanh nghiệp, tổ chức ngành hàng như phòng thương mại công nghiệp Việt nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt nam,… ký kết các nghị quyết, biên bản hợp tác các chương trình phối hợp các nguyên tắc làm việc, tạo sự thjống nhất trong giao dịch giữa các đơn vị trực thuộc của từng hệ thống Ngân hàng Thương mại và ngành nghề, doanh nghiệp,…
+ Trụ sở Ngân hàng, các chi nhánh, phòng giao dịch của Ngân hàng được bố trí khang trang, sạch đẹp, hiện đại, lịch sự, bố trí hợp lý, khoa học, tiện lợi trong giao dịch,… Cung cấp đầy đủ báo, tạp chí, tài liệu hướng dẫn cụ thể cho khách hàng đối với từng nghiệp vụ cụ thể. Có bảng thông báo rõ ràng lãi suất, tỷ giá, các hình thức huy động, các sản phẩm tín dụng, thủ tục vay vốn,… đẹp mắt, hấp dẫn,… Với những biện pháp trên, sẽ góp phần giúp cho khách hàng cảm thấy thoải mái, được tôn trọng, tiết kiệm được thời gian khi đến giao dịch.
Đây là những kinh nghiệm rất quý báu đối với công tác thu hút khách hàng tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới của Ngân hàng. Mặt khác, tạo ấn tượng đối với khách hàng về Ngân hàng, cải tiến bộ mặt, danh tiếng, uy tín của khách hàng đối với Ngân hàng.
Song đối với các chi nhánh không phải là lớn mà lại mới đi vào hoạt động như Techcombank Chương Dương, do điều kiện còn nhiều hạn chế về tài chính,… nên việc tiếp cận được với cách làm trên cần phải được vận dụng một cách sáng tạo cho phù hợp vơí nguồn lực và yêu cầu đòi hỏi đối với Ngân hàng.
3.3.6.4. Chiến lược sản phẩm
Bản thân các sản phẩm, dịch vụ sinh ra là để thoả mãn một hoặc một số nhu cầu nhất định cho khách hàng, nghĩa là sản phẩm dịch vụ sẽ mang lại cho người sử dụng nó những lợi ích nhất định. Một chiến lược sản phẩm đúng đắn sẽ tạo ra được sức hút hấp dẫn khách hàng. Trên cơ sở đó, hoạt động, quan hệ tín dụng của ngân hàng được mở rộng. Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm ngân hàng đó là không có tính độc quyền do vậy việc tạo ra môtj sản phẩm mới hoàn toàn là rất hiếm, các sản phẩm mới hầu hết là các sản phẩm truyền thống được cải tiến, tăng thêm tiện ích cho người sử dụng. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nây, khi mà cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra gay gắt thì buộc các ngân hàng càng phải nỗ lực hơn nữa nhằm tạo ra các tiện ích mới cho sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng, đa đậng, phong phú về chủng loại
Hiện nay chi nhánh đã triển khai được khá nhiều hình thức tín dụng: cho vay mua nhà, cho vay theo chương trình”ô tô xịn”,”cho vay đi học nước ngoài”, cho vay du học tại chỗ, cho vay liên quan đến xe máy, cho vay cầm cố chứng từ có giá, cho vay đối với hộ kinh doanh cá thể…Tuy nhiên, chỉ có một số sản phẩm như sản phẩm”ô tô xịn”và sẩn phẩm”nhà mới”là thu hút được khách hàng, các loại hình khác hiện nay không phải là thế mạnh của ngân hàng. Hơn thế nữa, hiẹn nây ngân hàng chỉ chaaps nhận dải ngân đối với khoản vay có tài sản thế chấp, các hình thức cho vây hợp vốn, cho vay không đảm bảo hay cho vay cho vay đảm bảo bằng các khoản thu chưa thực sự được chú trọng phát triển. Điều này một mặt đảm bảo sự an toàn cho tín dụng nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung. Nhưng mặt khác nó cũng gây nhiều khó khăn cho khách hàngcũng như hạn chế việc mở rộng, đa dạng hoá khách hàng của ngân hàng. Do vậy, yêu cầu đối với ngân hàng là phải xây dựng được một danh mục tài sản đa dạng, phong phú và giải quyết được hai vấn đề nêu trên.
Bên cạnh hoạt động đa dạng hoá sẩn phẩm tín dụng, chi nhánh cũng cần phải chú trọng hơn đến việc cung cấp các dịch vụ bổ trợ như dịch vụ tư vấn khách hàng về quy trình tín dụng, cách lập hồ sơ vay vốn…đây là một nhân tố rất quan trọng giúp khách hàng có thể tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng một cách nhanh nhất, kịp thời nhất.
3.3.6.5. Phân tích đối thủ cạnh tranh và lựa chọn thị trường mục tiêu
Cạnh tranh là một yếu tố không thể thiếu trong bất cứ hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ nào. trong hoạt động tín dụng, từ khi nhà nước cho pháp thành lập các định chế tài chính thực hiện một số chức năng như ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính… thì cạnh tranh không chỉ dừng lại ở ngân hàng thương mại trong nước với nhau mà còn với các ngân hàng thương mại nước ngoài và các định chế tài chính khác.
Phải xác định rằng Techcombank Chương Dương là chi nhánh hoạt động trên địa bàn quận Long Biên, nằm trên con đường nối liền các tỉnh miền Tây, Đông và Hà Nội. Tuy nhiên trong vòng bán kính vẻn vẹn có 500m, hiện trên địa bàn đã có tới trên 10 điểm giao dịch thuộc các hệ thông Ngân hàng khác nhau. Như vậy trong hoạt động tín dụng hiện tại có các đối thủ cạnh tranh của chi nhánh bao gồm:
Các ngân hàng thương mại quốc doanh: Đây là các ngân hàng có ưu điểm nổi trội hơn về vốn, thị thường, bề dầy hoạt động và có ưu thế hơn do huy động được khối lượng vốn lớn và rẻ. Vì vậy, nếu sử dụng chính sách giá để cạnh tranh thì Techcombank Chương Dương sẽ gặp nhiều khó khăn. song trong hoạt động hộ cũng bộc lộ một số thiếu sót, hạn chế đó là chất lượng tinh thần phục vụ chua cao, tác phong làm việc còn mang nặng tính quan liêu. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây một số ngân hàng tiêu biểu là Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn đã tién hành cơ cấu lại, tác phong làm việc được hướng theo cơ chế thị trường. Chất lượng phục vụ và chất lượng sản phẩm, dịch vụ ngày càng cao, cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng thương mại cổ phần như Techcombank Chương Dương.
Các ngân hàng thương mại cổ phần khác: Đây là nhóm mà định hướng kế hoạch rất rõ ràng, tập trung vào một, một số thị trường mục tiêu nhất định. Trên cơ sở phân tích định lượng cùng so sánh tương quan giữa các chi nhánh và ngân hàng thương mại khác để từ đó rút những điểm mạnh cần phát huy và điểm yếu cần khắc phục. Trên cơ sở đó xác dịnh cho mình một số đoạn thị trường mục tiêu. Cũng như hội sổ Techcombank Chương Dương xác định xây dựng trở thành ngân hàng thương mại đô thị đa năng hàng đầu Việt Nam. Bởi vậy, khách hàng mà ngân hàng rhương mại hướng tới là tầng lớp dư dân có thu nhập ở mức cao và khá cao, đồng thời cũng quan tâm hướng vào một loại khách nữa đó là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nòng cốt
3.3.6.6. Xây dựng và ban hành chính sách tín dụng phù hợp
Những biện pháp thuộc về nghiệp vụ ngân hàng:
- Thực hiện quy trình cho vay đầy đủ và chặt chẽ. Trong quy trình này ngân hàng cần tuân thủ chặt chẽ các quy địng về đánh giá phân loại khách hangf đẻ xét duyệt cho vay. Cán bộ tín dụng phụ trách cho vay mở hồ sơ khách hàng có vay vốn, hàng năm khi có báo cáo cuối năm của các donh nghiệp sẽ tiến hành phân tích, đánh giá và phân loại các doanh nghiệp theo các phương thức tính điểm dựa vào các tiêu chẩn như: khả năng trả nợ của khách hàng đặc điểm hoạt động của khách hàng, khả năng về vốn tự có và coi như tự có của khách hàng sau đó bộ phận chuyên môn sẽ tiến hành binh xét và kết luận kết quả phân loại, báo cáo cho lãnh đạo đơn vị. Trong quá trình xét duyệt cho vay vốn cán bộ tín dụng con phải có trách nhiệm theo dõi tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, tiến hành thu nợ và xử lý các khoản nợ quá hạn. Quá trình trên yêu cầu người cán bộ tín dụng phải bám sát cơ sở và nắm bắt các thông tin liên quan đến khách hàng một cách nhanh nhất.
Đầu tư phân tán và áp dụng nhiều hình thức cho vay thích hợp cho từng đối tượng vay.
Ngoài biện pháp đầu tư phân tán cho nhiều khách hàng, ngân hàng cũng nên đầu tư phân tán cho nhiều ngành nghề, mỗi thành phần kinh tế khác nhau hoặc ngân hàng có thể thực hiện đa dạng hoá sản phẩm tín dụng bằng cách áp dụng nhiều hìng thức cho vay thích hợp như cho vay thế chấp bằng khoản phải thu, chiết khấu thương phiếu, cầm cố giấy tờ có giá, mua nợ, tín dụng thuê mua… cũng là biện pháp phân tán rủi ro tốt.
Thực hiện cho vay có đảm bảo.
Các biện pháp thế chấp, cầm cố và bảo lãnh là các biện pháp mà chi nhánh Techcombank Chương Dương thực hiện rất tốt để phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Do trong môi trường kinh doanh ngày càng khốc liệt làm cho các doanh nghiệp thua lỗ, phá sản ngày càng nhiều. Vì vậy, việc thế chấp cầm cố, bảo lãnh vẫn còn được xem như là một biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. Khi cho vay bằng tài sản thế chấp, cầm cố thì ngân hàng phải thật sự chú ý đến công tác kiểm định về chất lượng, nguồn gốc, giá cả và thị trường đối với tài sản thế chấp cầm cố.
Vấn đề bảo hiểm tín dụng:
Để bảo đảm tốt hơn đối với khả năng hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng, trong một số trường hợp đặc biệt như: cho vay mua nhà, mua ôtô trả góp… có tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay, ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng vay vốn phải mua bảo hiểm tài sản đối với những tài sản thế chấp trên. Tuy nhiên biện pháp này sẽ làm tăng thêm chi phí cho doanh nghiệp. Vì vậy để có thể thu hút thêm các doanh nghiệp hay cá nhân đến với các sản phẩm này, chi nhánh nên phối hợp với NHNN để tạo điều kiện hỗ trợ cho khách hàng một phần chi phí để khuyến khích họ mua bảo hiểm một cách tự giác.
Vấn đề xử lý nợ tồn đọng:
Mặc dù ở thời điểm hiện tại, chi nhánh Techcombank Chương Dương chưa phải là một điển hình về nợ quá hạn, tỷ lệ nợ quá hạn vẫn nằm trong tỷ lệ cho phép (nhỏ hơn 5%). Tuy nhiên để bắt kịp và hội nhập với nền kinh tế thế giới hơ n bao giờ hết các NHTM nói chung, Techcombank nói riêng phải đề ra được cho những giải pháp xử lý nợ quá hạn, đặc biệt là đối với các khoản nợ quá hạn khó đòi. Trên cơ sở đó tạo điều kiện để chi nhánh chủ động phòng chống những tổn thất xảy ra và tìm được các biện pháp kịp thời khắc phục để giảm thiểu tổn thất. Để đạt được những hiệu quả tốt trong công tác xử lý nợ xấu thì một số giải pháp mà chi nhánh cần phải thực hiện là:
Thứ nhất, phải làm rõ chuẩn mực để đánh giá, phân loại đối với nợ tồn đọng, nếu không làm rõ được thì không có cơ sở và cơ chế cho việc xử lý tổng thể toàn diện các khoản nợ đọng (nợ xấu).
Thứ hai, các tổ chức tín dụng nói chung phải tổ chức đối chiếu, rà soát, đánh giá, phân loại cả các khoản nợ kết hợp với việc thu thập thông tin một cách đầy đủ về khách hàng vay vốn như quá trình sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và khả năng trả nợ, việc thu thập thông tin phải kết hợp từ nhiều nguồn khác nhau. Trên cơ sở đó rà soát, đối chiếu nợ, đánh giá xác xuất rủi ro từ người vay, xác định thực chất các khoản nợ của khách hàng. Đây là giải pháp làm rõ thực chất các khoản nợ xấu.
Thứ ba, xem xét lại quy trình, thủ tục cho vay tại ngân hàng để hoàn chỉnh và đảm bảo an toàn khi cho vay. Có chiến lược khách hàng một cách hợp lý, xoá bỏ hiện tượng cạnh tranh khách hàng không lành mạnh giữa các ngân hàng vơi nhau, đây là giải pháp xử lý tận gốc việc phát sinh nợ tồn đọng.
Thứ tư, đối với các khoản nợ tồn đọng có tài sản làm đảm bảo, cần tập trung nghiên cứu, xem xét, phân tích nguyên nhân làm chậm quá trình chuyển hoá các tài sản này thành tiền. Quá trình này cần lưu ý một số vấn đề sau: Khi xem xét giá trị tài sản gán nợ, xiết nợ phải hợp lý, phù hợp với giá thị trường, tức là phải kịp thời “lên”, “xuống” theo tín hiệu thị trường và đảm bảo cho sự chuyển hoá dó dược thực hiện một cách kịp thời, thủ tục chuyển quyền sở hữu cho người mua phải thật thận lợi và đơn giản.
Thứ năm, đối với khoản nợ tồn đọng không có tài sản làm đảm bảo thì việc xử lý này cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp trongviệc nhắc nhở đôn đốc và cưỡng chế đối với khách hàng.
Thứ sáu, hình thành bộ phận công ty chuyên trách xử lý nợ xấu như công ty mua bán nợ, công ty xử lý nợ.
3.4. Kiến nghị
3.4.1. Kiến nghị đối với nhà nước
Ban hành kịp thời các quy định về quyền sử dụng đất hợp lý, thống nhất; một mặt mở rộng nguồn tài sản đảm bảo cho khách hàng, mặt khác tạo điều kiện thu hút khách hàng đối với sản phẩm “nhà mới”.
Phát triển sâu rộng hệ thống các tổ chức tín dụng bao gồm: Ngân hàng Thương mại, công ty Tài chính, công ty cho thuê,... nhằm cung cấp các nghiệp vụ tín dụng đa dạng như: cho vay, bảo lãnh, tín dụng thuê mua,... cho phép các tổ chức tài chính thực hiện chức năng thuê tài chính (mô hình tài trợ trung và dài hạn hữu hiệu).
Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhà nước nên thành lập ra công ty tài chính hoặc Ngân hàng phục vụ riêng và hoạt động của công ty này được sự hỗ trợ từ phía nhà nước. Nhật Bản là một nước đã rất thành công trong việc áp dụng phương pháp này.
Khi điều kiện Việt Nam chưa cho phép thực thi giải pháp trên, nhà nước có thể trợ giá cho Ngân hàng Thương mại để giảm lãi suất cho vay ở mức doanh nghiệp có thể tự trang trải được mà vẫn đảm bảo nguyên tắc sử dụng vốn của nhà nước “vay để cho vay”.
Đưa quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ đi vào hoạt động. Quỹ này mặc dù đã được chính phủ công bố thành lập vào tháng 4/1999, song đến nay việc áp dụng các chính sách của nhà nước vào hoạt động của của quỹ vẫn còn nằm trên giấy. Đây là quỹ được chính phủ lập ra với mục tiêu chủ yếu là tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp đồng thời hạn chế rủi ro cho Ngân hàng. Bên cạnh đó cũng cần sự tích cực, chủ động thông báo đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ về sự tồn tại của quỹ này để có thể phát huy được những lợi ích mà quỹ này đem lại.
Hoàn thiện những quy định về đảm bảo tiền vay. Hiện nay nghị định số 178/1999/NĐ-CP ra ngày 29/12/1999 về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng đã góp phần không nhỏ vào sự ổn định tiền tệ của nhà nước và tạo hành lang pháp lý an toàn cho các tổ chức tín dụng mở rộng hoạt động tín dụng.
Tuy nhiên, bên cạnh những quy định phù hợp còn một số quy định tỏ ra bất cập so với thực tế, không đáp ứng được yêu cầu đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Do vậy đến ngày 25/10/2002, trên cơ sở đề nghị của Ngân hàng nhà nước, chính phủ đã ban hành nghị định số 85/2002/NĐ-CP. Nghị định này ra đời góp phần hoàn thiện khung pháp lý về đảm bảo tiền vay của tổ chức tín dụng. Theo đánh giá của các chuyên gia Ngân hàng thì nghị định số 85 có nhiều quy định cởi mở, thông thoáng hơn nghị định 178. Cụ thể là:
- Khái niệm “tài sản đảm bảo tiền vay” được quy định cụ thể hơn, phạm vi bảo đảm của tài sản được mở rộng hơn.
- Thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất đã cởi mở và thông thoáng hơn. Thủ tục định giá tài sản tạo tâm lý yên tâm hơn cho tổ chức tín dụng.
- Điều kiện vay vốn có đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay được xác định phù hợp với khả năng, điều kiện của khách hàng.
- Hạ mức vốn tự có của khách hàng từ 50% xuống 30% theo nghị quyết số 11/2000/NQ-CP ngày 31/07/2000 và xuống 25% theo nghị định số 85.
Các quy định của nhà nước về đảm bảo tiền vay có quyết định rất quan trọng đến khả năng tiếp cần nguồn vốn tín dụng của các Ngân hàng Thương mại. Do đó nó phải không ngừng được hoàn thiện để phù hợp với các yêu cầu và điều kiện của thực tế.
Hoàn thiện khung pháp lý về tổ chức bổ máy Ngân hàng thương mại cổ phần. Hiện nay, ngoài bốn Ngân hàng thương mại nhà nước, hai Ngân hàng chính sách và ba mốt chi nhánh Ngân hàng nước ngoài thì có đến gần năm mươi Ngân hàng Thương mại cổ phần của nhà nước và nhân dân đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Sự ra đời và hoạt động của các Ngân hàng thương mại cổ phần giữ vai trò rất quan trọng trong hệ thống Ngân hàng Thương mại nước ta. Do đó sự phát triển và hoạt động có hiệu quả của các Ngân hàng thương mại cổ phần không chỉ thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn ổn định môi trường hoạt động kinh doanh của cả hệ thống Ngân hàng Thương mại.
Trong những năm qua, nhờ có sự chấn chỉnh đúng đắn, kịp thời của chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp cơ cấu lại những Ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ và vi phạm quy định pháp luật. Do vậy nhìn chung đã đem lại cho các Ngân hàng thương mại cổ phần những chuyển biến tích cực: độ an toàn cao hơn và không xảy ra những biến cố lớn như những năm trước.
Song vai trò của bộ máy tổ chức Ngân hàng thương mại cổ phần vẫn chưa được phát huy đúng mức trong quá trình quản trị và điều hành các hoạt động của các Ngân hàng này. Cho nên Ngân hàng Nhà nước phải thường xuyên sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy Ngân hàng thương mại cổ phần để tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này.
Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ về môi trường hoạt động, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực (trang 74 luận văn của sinh viên Nguyễn Văn Lãi).
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về nâng cấp hệ thống kế toán và thông tin báo cáo tương thích với tiêu chuẩn quốc tế. Đây là điều kiện cần thiết để đánh giá tổng quan về sự hợp lý và hiệu quả của các Ngân hàng Thương mại đặc biệt là hoạt động tín dụng. Hệ thống kế toán mới phải đảm bảo chính xác, toàn diện (bao gồm cả hoạt động cụ thể, chi tiết va toàn bộ tình trạng hoạt động của Ngân hàng Thương mại hiện tại và tương lai), kịp thời thường xuyên về số liệu hoạt động cho các nhà lãnh đạo điều hành, các nhà quản lý ra quyết định kinh doanh kịp thời.
Hòan thiện và phát triển các chỉ tiêu đánh giá an toàn và hiệu quả hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động của các Ngân hàng Thương mại nói chung: hoạt động này một mặt tạo điều kiện đánh giá mức độ an toàn, đồng thời cũng nhằm mục đích tăng cường nguyên tắc thị trường, tạo điều kiện cho các bên liên quan có thể giám sát chặt chẽ hơn hoạt động tín dụng Ngân hàng Thương mại. Ngoài ra, điều này cũng góp phần tạo tiền đề cho các cổ đông, các nhà đầu tư có cơ sở đánh giá, suy xét và cân nhắc trong tham gia góp vốn cổ phần khi tiến hành cổ phần hóa của các Ngân hàng Thương mại quốc doanh hoặc phát hành thêm cổ phần mới của các Ngân hàng thương mại cổ phần.
Thúc đẩy hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các Ngân hàng Thương mại đặc biệt là giữa các Ngân hàng Thương mại quốc doanh với các Ngân hàng thương mại cổ phần.
Nhà nước cần ban hành luật chống cạnh tranh không lành mạnh. Đây là hoạt động nhằm bảo hộ cho các Ngân hàng Thương mại cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Các điều khoản của luật này cần đảm bảo một số yêu cầu: quy định rõ thế nào là cạnh tranh không lành mạnh, các hình thức biểu hiện của nó...và biện pháp xử lý đối với các Ngân hàng vi phạm. Bên cạnh đó, nhà nước cần phải có văn bản hướng dẫn về tiêu chuẩn hóa sản phẩm, dịch vụ do tổ chức tín dụng cung cấp.
Bảo đảm và mở rộng quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh. Đây là nội dung được quy định tại điều 15 luật các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, nội dung của quy định này cần được cụ thể hóa và làm rõ hơn nữa nhằm tạo động lực khuyến khích các Ngân hàng Thương mại hoạt động có hiệu quả hơn. Trong đó quy định rõ những hoạt động Ngân hàng Thương mại được phép và không được phép thực hiện, đồng thời giảm mạnh sự can thiệp bằng các biện pháp hành chính và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng; công khai hóa và thực hiện đúng trách nhiệm quyền hạn của thanh tra Ngân hàng Nhà nước trong quan hệ với các Ngân hàng Thương mại.
3.4.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam
Tiếp tục rà soát các cơ chế, nghiệp vụ, đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết vay nhất là quy trình thẩm định trên cơ sở vẫn đảm bảo đầy đủ quy trình cho vay theo các quy định của nhà nước.
Thiết lập cơ chế thông tin minh bạch, công khai. Doanh nghiệp có thể tiếp xúc với doanh nghiệp nhằm công khai và thông suốt năng lực tài chính. Ngân hàng còn có trách nhiệm tư vấn cho khách hàng từ khâu lập dự án, sản xuất kinh doanh cho đến khâu triển khai trên cơ sở tránh những thông đồng giữa cán bộ tín dụng Ngân hàng và khách hàng để rút vốn của Ngân hàng. Thành lập ban dự án chuyên tư vấn và lập dự án cho các doanh nghiệp. Đây là hoạt động đem lại lợi ích cho cả hai phía và một phần giải quyết những khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam.
Sử dụng nguồn vốn huy động để thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tạo điều kiện mở rộng tín dụng có hiệu quả trên cơ sở có sự đóng góp của ngân sách nhà nước, Ngân hàng và các hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc, lãi phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh vừa nâng cao khả năng hoàn trả vốn vừa tránh được hiện tượng “đảo nợ”.
Hoạt động tín dụng còn dựa trên chữ tín, vì vậy các Ngân hàng tùy theo độ uy tín đối với khách hàng có thể mở rộng nguồn tài sản đảm bảo hoặc nâng cao tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo. Nên mở rộng hoạt động cho vay tín chấp, cho vay hợp vốn,...với khối lượng lớn qua các tổ chức, đoàn thể, hội nghề nghiệp và qua các Ngân hàng Thương mại khác.
Ngân hàng cần tạo điều kiện hơn nữa trong việc mở rộng quyền tự chủ trong kinh doanh của chi nhánh, đặc biệt là qua các công cụ lãi suất.
3.4.3. Kiến nghị đối với các khách hàng, doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể
Nâng cao trình độ quản lý, nâng cao chất lượng lập dự án kinh doanh, cung cấp những thông tin xác đáng, trung thực cho các tổ chức tín dụng, minh bạch tình hình tài chính thông qua các báo cáo tài chính.
Thành lập hiệp hội chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiệp hội các hộ kinh doanh cá thể và bằng uy tín của mình đứng ra bảo lãnh cho hội viên trong quan hệ tín dụng, cử các chuyên gia giỏi tư vấn về tài chính kế toán đặc biệt giúp doanh nghiệp lập dự án.
Xóa bỏ tâm lý e ngại khi tiếp xúc với Ngân hàng, chủ động tìm kiếm cơ hội tiếp xúc với các nguồn vốn từ các Ngân hàng Thương mại và tổ chức tín dụng khác.
Nâng cao uy tín đối với Ngân hàng bằng năng lực cạnh tranh lành mạnh, bằng việc sử dụng vốn đúng mục đích, hiệu quả sử dụng cao và trả nợ đúng hạn.
KẾT LUẬN
Đi vào hoạt động từ tháng 02 năm 2002 theo Quyết định số 01992/QĐ-HĐQT-TCB về việc thành lập chi nhánh cấp 2 Techcombank Chương Dương, chỉ mới qua hai năm xây dựng và trưởng thành song nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn chính sách phát triển tín dụng nói riêng và chính sách phát triển hoạt động Ngân hàng nói chung, cùng với đội ngũ cán bộ trẻ, năng động, nhiệt tình, vững vàng nghiệp vụ chuyên môn, chi nhánh Techcombank Chương Dương đã không ngừng khẳng định ưu thế về chất lượng dịch vụ cũng như về chất lượng phục vụ của mình đối với khách hàng và đạt được một số kết quả đáng biểu dương, đặc biệt là trong công tác quản lý rủi ro đối với hoạt động tín dụng và các hoạt động khác đưa tỷ lệ nợ quá hạn xuông thấp hơn mcs trung bình của cả hệ thống (4,58%) và của cả hệ thống ngân hàng Việt nam (6,4%). Ngân hàng đã xác định và xây dựng được cho mình một nền tảng khách hàng có thể nói là bền vững, góp phần giúp cho NHTM CP Kỹ Thương việt Nam trở thành một trong năm NHTM CP hàng đầu Việt Nam à cung cấp các sản phẩm bán lẻ trong đó sản phẩm từ hoạt động tín dụng là một trong những mục tiêu hàng đầu. Tuy nhiên, để có thể đứng vững và phát triển được khi nước ta tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế thì Chi nhánh cần phải cố gắng hơn nữa trong công tác nâng cao chất lượng hoạt động, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Điều này sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng khai thác tốt hơn tiềm năng của thị trường khách hàng mục tiêu để phát triển khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế yếu về tài chính. Để làm được điều này, Chi nhánh cần phải có được sự hỗ trợ, phối hợp đồng bộ giữa các bộ, các ngành liên quan, sự hỗ trợ từ phía nhà nước, đặc biệt là những nỗ lực vươn lên khắc phục khó khăn từ chính bản thân khách hàng trên bên cạnh những nỗ lực của chính bản thân Ngân hàng.
Thời gian nghiên cứu đề tài đã giúp em hiểu thêm rất nhiều điều về các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể, hoạt động tín dụng của NHTM, chất lượng tín dụng của NHTM cũng như những tác động của chính sách Nhà nước đối với công tác mở rộng hoạt động và nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên do trình độ kiến thức còn hạn chế, thời gian nghiên cứu không dài nên chuyên đề trên khó có thể tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong được sự góp ý và nhận xét của các thầy cô, các anh chị hướng dẫn và các độc giả có cùng sự quan tâm đối với công tác nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ng ày tháng năm
Sinh viên
Nguyễn Thị Hồng Thuý
Môc lôc
PHỤ LỤC
Hoạt động tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản
1. Quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) Nhật Bản
Ngay sau chiến tranh thế giới II, nhằm mục đích phục hưng nhanh chóng nền kinh tế, cùng với chiến lược phát triển các ngành Công nghiệp mũi nhọn, theo mô hình của Mỹ.Chính phủ Nhật bản đã tiến hành thành lập Cục Phát triển DNV&N (năm 1948). Cùng với việc hoàn thiện tổ chức các cơ quan quản lý DNV&N, Chính phủ Nhật bản đã ban hành các chủ trương, chính sách, biện pháp về tài chính nhằm định hướng và hỗ trợ phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngành công nghiệp nhẹ, tạp hoá, thực phẩm…nhằm đảm bảo đáp ứng những nhu cầu sinh hoạt của dân chúng. Ngay trong giai đoạn nà, các cán bộ thuộc cơ quan chỉ đạo, quản lý và phát triển DNV&N của Chính phủ và chính quyền địa phương đã được học tập các nghiệp vụ, quy trình quản lý DNV&N theo mô hình quản lý chất lượng của Mỹ.
Nhờ có sự đổi mới kỹ thuật, sự tăng trưởng với tốc độ lớn của nền kinh tế trong những năm 50, đã năng cao mức thu nhập và thúc đẩy tiêu dùng trong nước. Trong điều kiện đó, các DNV&N đã tìm được nhiều cơ hội để mở rộng sản xuất. Sự phát triển mạnh mẽ của các DNV&N cả về chất lượng và số lượng (hiện đại hoá công nghệ, các hoạt động quản lý…) đã thu hẹp dần năng suất lao động, thu nhập… của người lao động tại các DNV&N so với các công ty lớn. Nhờ có nhu cầu về tiêu dùng tăng lên trong những năm 60, các DNV&N của Nhật trên mọi lĩnh vực, từ sản xuất đến kinh doanh, đã tăng mạnh lợi nhuận và hiệu quả trên đồng vốn của mình.
Tuy nhiên, trong những năm 70, đặc biệt là cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973 đã tác động mạnh đến nền kinh tế Nhật và các DNV&N đã phải chịu những tổn thất về bán hàng và lợi nhuận. Họ đã phải đối phó bằng cách đầu tưv ào những lĩnh vực sản xuất năng lượng một cách tiết kiệm nhất, đồng thời phải đáp ứng yêu cầu của chính phủ về việc hạn chế các tác động tiêu cực của môi trường.
Trong những năm 80, hợp tác kinh tế quốc tế giữa các nước công nghiệp phát triển được dặt ra, và Nhật Bản phải có trách nhiệm điều chỉnh cơ cấu công nghiệp của mình để đáp ứng các chuẩn mực quốc tế. Sự lên giá của đồng Yên từ cuối những năm 1985 đã tác động mạnh đến DNV&N, đặc biệt là những doanh nghiệp có hàm lượng xuất khẩu cao. Họ đã phải phân định rõ chu trình sản xuất, tách biệt và gia tăng giá trị và những sản phẩm và dịch vụ của mình, tập trung hơn vào nhu cầu đáp ứng trong nước, đa dạng hoá các hoạt động và loại hình kinh doanh, và sử dụng nước ngoài trực tiếp để tổ chức các hoạt động sản xuẩt trong nước ở nước ngoài.
Đầu những năm 90,”nền kinh tế bong bóng”Nhật Bản sụp đổ. Môi trường kinh tế đã tác động mạnh đến các DNV&N, rất nhiều các DNV&N phải cơ cấu lại để duy trì sản xuất và tồn tại một cách khó khăn trong điều kiện cạnh tranh khắc nghiệt hơn. Họ đã phải cố gắng để kiểm soát và thoả mãn những thay đổi nhanh chóng của khách hàng, cố gắng phát triển công nghệ mới để tiến vào thị trường mới. Những cố gắng này đã đưa đến hình thành những doanh nghiệp táo bạo với sự kết hợp của đỏi mới kỹ thuật với tinh thần kinh doanh mạnh mẽ của các DNV&N. Dựa vào công nghệ tiên tiẻntên những lĩnh vực mới, rủi ro cao nhưng có nhiều tiềm năngvề lợi nhuận, những doanh nghiệp này sẽ tạo dựng nên một giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế Nhật Bản.
2. Những biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong suốt những thập kỷ qua, DNV&N Nhật Bản đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản nhờ có sự năng động, sáng tạovà thích ứng nhanh chóng của khu vực kinh tế này đối với môi trường thay đổi. Các DNV&N Nhật Bản dã góp phần tạo nên nguồn sống cho nền kinh tế Nhật Bản, thúc đẩy các ý tưởng sáng tạo công nghiệp mới, thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường, mở rộng cơ hội tạo công ăn việc làm cho xã hội và nâng cao tính năng động của kinh tế địa phương. Trong những năm vừa qua, sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệkhu vực, nền kinh tế Nhật Bản suy thoái kéo dài, các doanh nghiệp Nhật Bản đã bị phá sản nhiều, đặc biệt là các DNV&N. Hiện tại, Nhật Bản có khoảng 6,5 triệu DNV&N, nhưng mỗi năm bên cạnh việc thành lập mới khoảng 180 ngàn doanh nghiệp thì lại có khoảng 200 ngàn doanh nghiệp phá sản hoặc đóng cửa ngừng hoạt động. Chỉnh phủ Nhật Bản đã tiến hành nhiều biện pháp để duy trì ổn định về môi trường kinh tế xã hội, cải thiện hạ tầng kinh doanh, khuyến khích đổi mới kinh doanh, tạo điều kiện thực hiện các ý tưởng sáng tạo và sáng nghiệp cho các DNV&N.
Nhìn chung, các DNV&N của Nhật Bản so với cá doanh nghiệp lớn có một số khó khăn sau:
- Khó khăn về vốn
- Thiếu nguồn nhân lực
- Thiếu kỹ năng quản lý và công nghệ
- Khó khăn trong việc tiếp cận với thị trường
Để xử lý những khó khăn này, Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành một số biện pháp sau:
a/ Tăng cường thu hút, bổ sung nguồn vốn cho các DNV&N
* Hình thức tài trợ gián tiếp
- Nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại tư nhân
- Nguồn vốn từ ngân sách Chính phủvà chính quyền địa phương cấp
- Các ngân hàng, tổ chúc tài chính của Chính phủ
* Hình thức tổ chức tín dụng
- Các công ty bảo lãnh tín dụng hoặc hiệp hội bảo lãnh tín dụng.
- Khuyến nghị của các trung tâm đổi mới doanh nghiệp do các chính quyền địa phương thành lập hoặc của các phòng thương mại công nghiệp hoặc hiệp hội các ngành nghề.
* Hình thức tài trợ trực tiếp thông qua thị trường chứng khoán phát hành trái phiếu công ty.
b/ Các biện pháp nhằm tăng cường hạ tầng kinh doanh cho DNV&N
- Thành lập các trung tâm hỗ trợ DNV&N, các trường đại học đào tạo các chuyên gia hỗ trợ DNV&N;
- Thành lập và tạo điều kiện cho hoạt động của các tổ chức nghiệp đoàn phòng thương mại công nghiệp, trung tâm thương mại;
- Ban hành các luật, quy định hỗ trợ
c/ Các biện pháp tạo điều kiệncho việc thích ứng với sự thay đổi môi trường kinh doanh, thúc đẩy sáng tạo và sáng nghiệp
- Ban hành các luật về chống phá sản, luật xúc tiến sáng tạo doanh nghiệp mới;
- Thành lập các trung tâm hỗ trợ DNV&N thông qua sự phối hợp của chính quyền các cấp, các trường đại học (các giáo sư) và các doanh nghiệp có điều kiện đầu tư.
3. Nội dung hoạt động của các tổ chức hỗ trợ “tài trợ DNV&N”
a/ Về hoạt động tài trợ DNV&N
Hoạt động tài trợ cho DNV&N ở Nhật Bản chủ yếu vẫn do hệ thống ngân hàng thương mại tư nhân thực hiện là chủ yếu (chiếm 90,7% dư nợ cho vay DNV&N). Phần tài trợ từ các tổ chức tài chính của Chính phủ chỉ chiếm 9,3% tổng dư nợ cho vay đối với DNV&N và những đối tượng này chủ yếu là những doanh nghiệp nhỏ, mới thành lập hoặc không đáp ứng được các điều kiện để vay vốn của các ngân hàng thương mại tư nhân nói trên. Trong đó:
- Công ty NLFC cho vay 3,2% (món vay không quá 48 triệu Yên)
- Công ty JFS cho vay 2,5% (món vay không quá 480 triệu Yên).
- Ngân hàng SCB cho vay 3,6%
- Công ty tài chính sinh hoạt quốc gia (NLFC)
Được thành lập vào tháng 6/1949. Tổ chức này huy động vốn thông qua kênh tiết kiệm và phát hành trái phiếu có và không có bảo lãnh của Chính phủ. Tôn chỉ của NLFC là tài trợ cho các doanh nghiệp mới thành lập, những doanh nghiệp có quy mô rất nhỏ có tiềm năng rủi ro cao. Thông thường, các ngân hàng thương mại không muốn tài trợ cho loại hình doanh nghiệp này vì những lý do sau:
- Thiếu hoặc không có số liệu về tài chính.
- Doanh nghiệp phát triển chủ yếu dựa vào năng lực và phẩm chất của gfiám đốc.
- Loại hình kinh doanh đa dạng.
- Nhu cầu vay những khoản vốn nhỏ.
- Rất nhạy cảm với nhũng thay đổi về tình hình kinh tế.
- Không có tài sản thế chấp .
* Công ty tài chính doanh nghiệp nhỏ của Nhật (JFS)
JFS được thành lập ngày 20-8-1953, vốn do Chính phủ cấp. Ngoài nguồn vốn do Chính phủ cấp, JFS huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu có và không có bảo lãnh của Chính phủ. JFS cho vay theo hai loại hình:
- Cho vay chung: Đáp ứng nhu cầu rộng rãi của cá doanh nghiệpđể phát triển kinh doanh (mua thiết bị, vốn lưu động). Lãi suất thấp, dài hạn, cố định. Lãi suất được sử dụng là lãi suất ưu đãi dài hạn, thay đổi hàng tháng, mức hiện tại là 1,55%. Đây cũng là lãi suất mà các NHTM dành cho khách hàng tốt nhất.
- Cho vay đặc biệt: Là công cụ phục vụ cho chương trình, chính sách của Chính phủ. Các chương trình này bao gồm: hỗ trợ cải cách quản lý; thúc đẩy sử dụng công nghệ thông tin; giúp doanh nghiệp bình ổn sản xuất sau khi chịu tác động của sự thay đổi về xã hội, tài chính, kinh tế. Lãi suất cho vay các chương trình này rất thấp.
Ngoài việc cho vay, JFS còn cung cấp thông tin về doanh nghiệp, thực hiện các nghiên cứu về DNV&N.
JFS cho vay trực tiếp (tại 61 chi nhánh) và gián tiếp thông qua các đại lý là chi nhánh các NHTM tư nhân.
Ngoài lãi suất ưu đãi, doanh nghiệp khi vay vốn JFS còn được hưởng nhiều ưu đãi khác.
* Ngân hàng Shoko Chukin Bar (SCB)
Tổ chức này được thành lập ngày 30/11/1936 (Chính phủ chiếm79,7% vốn tự có) để thúc đẩy hoạt động tài trợ cho các DNV&N và để thực hiện phát triển các DNV&N của Chính phủ. Ngoài việc tài trợ nói chung cho các DNV&N, SBC còn thực hiện các hoạt động hỗ trợ ngành kinh doanh sáng tạo và cho các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.
* Ngân hàng phát triển Nhật Bản (DBJ)
Ngoài 3 tổ chức chuyên tài trợ cho DNV&N nêu trên, DBJ – một tổ chức chuyên về cho vay trung và dài hạn cho các khách hàng lớn đã có truyền thống hoạt động lâu dài ngày nay đã chuyển hướng tham gia cho vay phát triển các ngành mới. Trước đây, DBJ chỉ dựa vào tài sản cố định làm thế chấp, ngày nay đã phát triển thêm là dựa vào quyền sở hữu trí tuệ.
Khi đầu tư vào các doanh nghiệp mới (venture companỉes), ngoài thu nhập từ lãi, DBJ cũng được hưởng lợi tức từ việc góp vốn vào doanh nghiệp khi doanh nghiệp niêm yết cổ phần (cho vay kèm theo quyền mua cổ phần)
b/ Hoạt động hỗ trợ khác cho các DNV&N và DN mới
* Trung tâm nghiên cứu Doanh nghiệp Kyoto (KRP)
KRP được công ty Osaka Gas Corporation thành lập năm 1987 để thúc đẩy hợp tác giữa giới học thuật, ngành công nghiệp và các cơ quan Chính phủ.Ngoài chức năng nghiên cứu về khoa học công nghệ, KRP còn là nơi hội tụ cả các công ty hoạt động trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, thương mại điện tử, tư vấn, các ngành công nghệ cao.
KRP tạo ra một môi trường kinh doanh năng động để thu hút các công ty nước ngoài vào hoạt động. Hiện nay có 9 công ty nước ngoài có hội sở chính tại KRP. Khoảng 60% doanh nghiệp ở KRP là khởi nghiệp ở nơi khác dau đó mới chuyển đến KRP (hoặc chuyển văn phòng, hoặc chuyển hẳn trụ sỏ chính đến đây). KRP tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp khởi nghiệp và giúp họ tìm kiếm thị trường ban đầu ở ngay trong địa bàn. KRP giúp các doanh nhân trẻ có ý tưởng kinh doanh, liên kết họ với các nhà tài trợ, các nhà chuyên môn kỹ thuật để biến ý tưởng kinh doanh thành hiện thực. Theo đại diện của trung tâm, hàng năm, KRP tổ chức hàng nghìn hội thảo cho các doanh nghiệp.
* Trung tâm đổi mới doanh nghiệp Osaka (BICO)
BICO được phòng Kinh tế Chính quyền thành phố Osaka thành lập năm 2001nhằm thực hiện các chương trình:
- Kết hợp các doanh nghiệp
- Liên kết giữa ngành công nghiệp với trường đạ học và Chính phủ
- Giới thiệu về công nghệ thông tin, đào tạo cho DNV&N trong đại bàn;
- Tư vấn thành lập và quản lý doanh nghiệp;
- Trung tâm thông tin hỗ trợ kinh doanh.
BICO thực hiện dịch vụ tư ván cho DNV&N và doanh nghiệp mới qua Iternet, gặp trực tiếp và cử chuyên gia. Trong các loại hình trên, dịch vụ tư vấn qua Iternet được đánh giá là thành công nhất. Tổng cộng có khoảng 6.600 lượt người sử dụng các loại hình dịch vụ trên, trong đó qua Iternet là 1200 lượt.
BICO thực hiện đánh giá tiềm năng của đối tượng cho vay trên 3 phương diện: kế hoạch kinh doanh, chất lượng người quản lý, tinh thần dám nghĩ dám làm. cách thức tìm kiếm là thông qua chương trình liên kết qua 4 loại phương tiện và thông qua chương trình của doanh nghiệp. Trung tâm này cũng giới thiệu khách hàng đến NLFC, DN có thể vay vốn mà không cần có tài sản thế chấp.
Kinh nghiệm của các nước trong khu vực về đẩm bảo an toàn trong cho vay
Đặc điểm chung của các quốc gia này là trình độ phất triển nền kinh tế thị trường chưa cao, hệ thống ngân hàng còn non trẻ, hoặc lề lối làm việc theo kiểu gia đình Châu ánên các quy định về đảm bảo an toàn trong cho vay của các NHTM cũng đang trong quá trình hoàn thiện và ở chừng mực nhất định (trừ Nhật Bản). Luật các nước này đều quan tâm đến việc bảo đảm quyền lợi cho người gửi tiền, luật quy định phí bảo hiểm tiền gửi, quền lợi được bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Để bảo đảm ân toàn trong cho vay, luật quy định về tài sản thế chấp, trách nhiệm người cho vay, bảo lãnh tín dụng và bảo hiểm tín dụng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luận văn tốt nghiệp: “Giải pháp năng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Techcombank Việt Nam” – Nguyễn Văn Lãi
- Luận văn tốt nghiệp: “Giải pháp năng cao chát lượng tín dụng đối với DNVVN tại NHNT Việt Nam”– Nguyễn Thị Hoài Linh
- Luận văn tốt nghiệp: Giải pháp MR hoạt động cho vay đối với sản phảm “ô tô xịn” và “nhà nước” của Phạm Bình Minh – NH41C
- Thanh Tùng: Vấn đề liên quan đến TSTC tại các TCTD (TTCTTT số 4- 2002).
- Các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể của ngành ngân hàng năm 2004 – Tạp chí ngân hàng số 2 năm 2004 – trang 3
- Một số ý kiến về quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng TD và CLTD (Tiến sĩ: Lê Đắc Trí)
- Tạp chí NH só 2 năm 2004 – trang 31
- Tăng cường cán bộ giải pháp cấp bách để nâng cao hiệu quả công tác, kiểm toán của hệ thống NHTM Việt Nam: Tạp chí NH số 2 năm 2004 – Thạc sĩ: Nguyễn Thị Hiên.
- Kinh nghiệm một số nước trong việc nâng cao năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của các NHTM- Tiến sĩ: Đỗ Văn Đức – Tạp chí NH số 2 năm 2004
- Giải pháp vốn cho tăng trưởng kinh tế năm 2004 – Nguyễn Thị Thanh Sơn – Tạp chí NH số 3 năm 2004
- Giải pháp năng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM nước ta trong hội nhập KTQT – Nguyễn Văn Thầy – Tạp chí NH số 3 năm 2004
- Đổi mới chính sách khách hàng của các NHTM nhìn dưới góc độ tiếp thị - Đào Thị Chung – Tạp chí NH số 3 năm 2004
- Một số giải pháp năng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng – Bích Thuỷ – TTTCTT tháng 6 năm 2004
- Kiểm soát nội bộ của NHTM – Nguyễn Trọng Ngọ – TTTCTT số 15 tháng 12 năm 2003
- Quản lý quan hệ khách hàng, yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NH - Đăng Công Hoàn – TTTCTT số 15 tháng 12 năm 2003
- Nguyên nhân chung của rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng – Thạc sĩ: Nguyễn Thị Thao
- Tạp chí NH số 10 năm 2002
- Một só giải pháp về kiểm soát RRTD trong quản trị điều hành NHTM hiệ nay. Tạp chí NH số 6 năm 2001
- Tiếp cận vốn NH của khu vực tư nhân – cản trở cần khắc phục. Thạc sĩ: trần Sĩ Mạnh – Tạp chí NH số 4 năm 2001
- Góp thêm ý kiến về năng cao chất lượng tín dụng. Dương Hồng Tâm – Tạp chí NH số 12 nưm 2001
- Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực của các NHTM trong quá trình cạnh tranh và hội nhập quốc tế – Tiến sĩ: Lê Khắc Trí – TTTCTT ngày 1 tháng 3 năm 2004.
- Tín dụng DN vừa và nhỏ – Hồ Thị Thu Hương TTTCTT ngày 1 tháng 3 năm 2004.
- Giáo trình luật Kinh tế – PGS: Nguyễn Hữu Viện – NXBQG Hà Nội 2001
- Giáo trình quản trị NH của PETE ROSE
- Giáo trình nghiệp vụ NHTM – Tiến sĩ : Phan Thu Hà, Nguyễn Thị Thu Thảo biên soạn
- Cùng các văn bản, tài liệu nội bộ có liên quan
- Một vài suy nghĩ về giải pháp xử lý nợ tồn đọng – Hoàng Quốc Mạnh – TTTCTT ngày 15 tháng 10 năm 2003
- NHTM mở rộng cho vay vốn DNVVN – Hoàng Xuân Thuận – TTTCTT ngày 15 tháng 10 năm 2003
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34546.doc