Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam

Không ai có thể phủ nhận những công cuộc đổi mới ở Việt nam trong những năm gần đây, với việc trở thành thành viên chính thức của WTO, nền kinh tế Việt nam đã vươn mình ra biển lớn, mà ở đó có đầy những cơ hội nhưng cũng không thiếu thách thức. Song song bên cái chung của nền kinh tế thì hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đã phải gồng mình lên để phát triển theo kịp với nhu cầu chung của nền kinh tế thị trường, những kết quả đạt được đáng kể như: kiềm chế lạm phát, duy trì giá trị đồng tiền Việt nam, ổn định tỷ giá hối đoái, tăng cường cán cân trong thanh toán quốc tế và thanh toán trong nước, giải quyết sự thiếu hụt giá trị đồng bản tệ được coi là những bước tiên phong trong chiến lược quản lý các kế hoạch, chính sách nhằm mở rộng cơ chế thị trường và khai thác các tiềm năng kinh tế nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế hơn nữa. Tuy nhiên trong năm nay với sự lạm phát toàn cầu với những biến động kinh tế mang tầm ảnh hưởng thế giới, hệ thống ngân hàng đã gặp phải rất nhiều khó khăn và chưa thể đạt được những mục tiêu kinh tế như: còn chưa đồng bộ tương xứng với tầm phát triển của kinh tế thị trường ở Việt nam, cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài rất khó khăn, nguồn huy động còn hạn chế do tỷ lệ tiết kiệm chưa cao, cho vay các thành phần kinh tế chưa thực sự có an toàn trên toàn bộ hệ thống các doanh nghiệp. Chính vì vậy, bằng những kiến thức còn hạn chế khi nghiên cứu và tình hình thực tế đặt ra của hệ thống ngân hàng nói chung và của SGD I Ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng, em chọn đề tài "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam". Bởi vì, Chất lượng tín dụng chưa và không bao giờ là vấn đề cũ đối với từng Ngân hàng thương mại nói chung và SGD I-Ngân hàng Công thương Việt nam nói riêng. Nó luôn đòi hỏi phải được nâng cao trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng. Chuyên đề này đã hệ thống hoá các lý luận cơ bản về tín dụng, chất lượng tín dụng, tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng tín dụng. Từ nghiên cứu lý luận, đã soi rọi vào thực tiễn hoạt động của SGD I-Ngân hàng Công thương Việt nam, phân tích đánh giá chất lượng tín dụng để từ đó tìm ra nguyên nhân, những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Từ lý luận và thực tiễn, chuyên đề đã đưa ra một số giải pháp phù hợp với điều kiện hiện nay của SGD I-Ngân hàng Công thương Việt nam nhằm nâng cao chất lợng tín dụng. Cho đến nay trong công tác tín dụng, SGD I-Ngân hàng Công thương Việt nam đã đạt được một số thành tựu đáng kể tuy rằng không phải là không còn hạn chế. Hy vọng rằng trong tương lai Ngân hàng sẽ vẫn duy trì và phát triển hơn nữa những thành quả đó, góp phần cấp vốn một cách có hiệu quả cho kinh tế Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.

doc57 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1411 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nên là 67,8%, năm 2007 con số này là 67,5%, năm 2008 nó chiếm tỷ trọng là 59%, còn nợ quá hạn do các khoản tín dụng dài hạn gây ra chiếm 41%. Bảng 9: Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế tại SGD I- NHCT Việt nam (Đơn vị: tỷ đồng,%) Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Số tiền TT(%) Số tiền TT(%) Số tiền TT(%) Tổng dư nợ 2776 3101 3882 Nợ quá hạn 1,5 0,05 0 0 5,47 0,14 Quốc doanh TDN 2081 75 2341 75,5 2910 75 NQH 1,2 0,057 0 0 4,5 0,15 Ngoài QD TDN 695 25 760 24,5 972 25 NQH 0,3 0,043 0 0 0,97 0,1 (Nguồn: Bỏo cỏo kết quả kinh doanh thỏng 12 và 12 thỏng năm 2007, 2008 SGD I – NHCTVN) Nhìn vào bảng trên chúng ta có ngay nhận định nợ quá hạn do các đơn vị kinh tế quốc doanh gây ra là chủ yếu. Nó chiếm một tỷ lệ rất cao trong tổng nợ quá hạn của SGD I. Cụ thể năm 2006 là 0,057% so vơi tổng dư nợ quốc doanh, còn nợ quá hạn của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là: 0,043% so với dư nợ ngoài quốc doanh. Năm 2007, tỷ lệ này là 0%. Sang năm 2008 do nền kinh thế có nhiều biến động bất thường gây khó khăn cho hoạt động ngân hàng như: tỷ lệ lạm phát luôn ở mức cao đã làm cho chất lượng tín dụng của ngân hàng cũng đi xuống. Chúng ta có thể thấy qua việc tỷ lệ nợ quá hạn của SGD I trên tổng dư nợ đã tăng lên rất nhiều so với 2 năm trước: Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ năm nay là: 0,14% trong đó tỷ lệ nợ quá hạn của thành phân kinh tế quốc doanh là : 0,15% còn tỷ lệ nợ quá hạn của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là: 0,1%. Như vậy doanh số cho vay và nợ qua hạn đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đều nhỏ hơn so với thành phần kinh tế quốc doanh. Điều này chứng tỏ một điều các khoản tín dụng đối với kinh tế quốc doanh không thể có chất lượng cao bằng các cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Trên đây là tất cả những vấn đề về nợ quá hạn được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, sự so sánh giữa nợ quá hạn của các đơn vị ngoài quốc doanh, quốc doanh; thời gian quá hạn nợ, tỷ trọng nợ quá hạn của các thành phần kinh tế cũng như tỷ trọng nợ quá hạn của các khoản cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn. Bảng 10: Tình hình nợ xấu ( Đơn vị: tỷ đồng,%) Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Tổng dư nợ 2.776 3.101 3.882 Nợ xấu 0,45 0 1,1 Tỷ trọng nợ xấu = Nợ xấu Tổng dư nợ 0,016% 0% 0,028% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh tháng 12 và 12 tháng năm 2007, 2008 SGD I – NHCTVN) Như chúng ta đã biết, nợ xấu của Ngân hàng thương mại được xác định là các khoản nợ được tính khi các khoản nợ được xếp vào từ nhóm 3 đến nhóm 5 (Nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn) và nó được xem là an toàn nếu tỷ trọng nợ xấu dưới 5%. Như vậy, nhìn vào bảng 10 ta có thể thấy, tình hình nợ xấu của SGD I là rất tốt dù cho trong năm qua có nhiều biến động, điều đó chứng tỏ SGD I đã có những chính sách hợp lý và đáng để các tổ chức tín dụng khác học tập. Cụ thể như sau: Nếu như năm 2006 nợ xấu là 0,45 tỷ chiếm tỷ trọng trong tổng dư nợ là 0,016% thì đến năm 2007 tỷ lệ này là một con số 0 tròn trĩnh, dù cho đến năm 2008 nợ xấu có tăng lên 1,1 tỷ dồng và chiếm tỷ trọng 0,028% trong tổng dư nợ thì đó cũng là một con số đáng khâm phục trong bối cảnh nền kinh tế bị khủng hoảng nghiêm trọng. 2.4. Đánh giá chất lượng tín dụng tại Sở giao dịch I--Ngân hàng Công thương Việt Nam 2.4.1 Những kết quả đạt được Mặc dù môi trường cho hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại còn gặp nhiều khó khăn. Song được sự chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành từ TW đến địa phương, sự giúp đỡ của các cơ quan hữu quan và sự nỗ lực của toán bộ nhân viên trong SGD I, SGD I Ngân hàng Công thương Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những kết quả sau trong hoạt động tín dụng: Một là: Công tác phục vụ khách hàng có nhiều đổi mới thích hợp với nền kinh tế thị trường. Phong cách phục vụ, giao dịch, văn minh lịch sự tạo được ấn tượng, uy tín đối với khách hàng, tăng được số lượng khách hàng, mở rộng thị phần ra nền kinh tế. Hai là: Doanh số cho vay ở SGD I năm sau luôn cao hơn năm trước, quy mô dư nợ không ngừng tăng trưởng. Cơ cấu cho vay không chỉ bó hẹp trong khu vực doanh nghiệp quốc doanh mà còn mở sang cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tín dụng ngắn hạn đáp ứng nhanh chóng nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp và cá nhân. Ba là: Công tác thu nợ quá hạn, nợ khó đòi đã được chú trọng đúng mức, phân loại nợ quá hạn, kiểm tra đối chiếu nợ được tiến hành thường xuyên. Tỷ lệ nợ quá hạn giảm theo từng năm. Đó là một thành công lớn của SGD I trong những năm qua. Bốn là: SGD I đã triển khai công tác tiếp cận doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp lập hồ sơ vay vốn hợp lý, đúng quy định nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoàn thành các thủ tục xin vay nhanh chóng và thuận lợi. SGD I từng bước gắn mình với doanh nghiệp qua vai trò tư vấn. Năm là: Trong quá trình cho vay, SGD I đã thực hiện việc kiểm tra khách hàng trước, trong và sau khi cho vay. Ngoài ra, SGD I còn xem xét các vấn đề thị trường, sản phẩm tiêu thụ, thu nhập của khách hàng trong phạm vi cho phép. Sáu là: SGD I đã lựa chọn những cán bộ có đủ tài năng, có trách nhiệm và nhiệt tình công tác và phòng tín dụng, tạo điều kiện giúp đỡ các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. 2.4.2.Những hạn chế và nguyên nhân 2.4.2.1 Những hạn chế về chất lượng tín dụng Như đã nói ở trên, SGD I - Ngân hàng Công thương Việt Nam là một Ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt. Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng của SGD I còn một số hạn chế. Vì vậy, SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam cần các biện pháp nhằm duy trì các chỉ tiêu đồng thời xử lý những chỉ tiêu hạn chế để nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng của mình trong giai đoạn tới. Những hạn chế đó là: Thứ nhất: Với đối tượng cho vay: SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam vẫn chưa có chiến lược đa dạng khách hàng. SGD I chỉ mới chú trọng đến các doanh nghiệp Nhà nước và một số khách hàng truyền thống mà bỏ qua một số khách hàng làm ăn có hiệu quả. Mặt khác, SGD I đã cho vay vốn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh những món vay còn chưa tưng xứng. Đây là một điều đáng tiếc vì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng có tiềm lực và nhu cầu về vốn là rất lớn. Hơn nữa, Nhà nước rất khuyến khích cho vay công bằng đối với các thành phần kinh tế nhằm tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế cùng phát triển. Vì vậy, nếu SGD I mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh sẽ vừa có tác dụng tốt với nền kinh tế và vừa giúp SGD I tăng thêm thị phần, tăng thêm thu nhập, cũng như thực hiện đúng chủ trương mà Nhà nước đề ra. Mặt khác, khách hàng của SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam tập trung phần lớn là thuộc ngành thương mại và các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như thuỷ sản, gạo, cà phê, phân bón, sắt thép, xăng dầu,… Chính vì vậy, cho vay của SGD I có chứa đựng nhiều rủi ro về giá cả về thị trường về tỷ giá,… Thứ hai: SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam vẫn còn quá thận trọng trong cho vay, chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp và Chính phủ. Thứ ba: Nguồn thông tin mà SGD I cần để đánh giá, phân tích còn thiếu, không kịp thời và chất lượng không cao. Vì vậy, cán bộ tín dụng thường phải mất rất nhiều thời gian và công sức để tự đi điều tra trong khi chi phí cho hoạt động này lại rất ít hoặc không có. Thứ tư: Công tác Marketing SGD I tuy bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định nhưng so với yêu cầu còn có những hạn chế, điều này ít nhiều cũng hạn chế tăng trưởng dư nợ. Thứ năm: Trình độ của cán bộ chuyên môn còn có nhiều bất cập: Đội ngũ cán bộ có trình độ, nhanh nhẹn, nhiệt tình, hăng hái học hỏi nhưng còn thiếu kinh nghiệm, không lường hết được rủi ro trong hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam còn thiếu cán bộ được đào tạo theo chuyên ngành chuyên môn kỹ thuật để thẩm định tính khả thi hiệu quả của dự án. Khâu kiểm tra, kiểm soát nội bộ của SGD I vẫn chưa được thực hiện đúng mức, cán bộ làm công tác thanh tra còn thiếu về số lượng, kinh nghiệm thực tế và trình độ chuyên môn. Thứ sáu: SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam vẫn chưa có một cơ chế động viên khuyến khích cán bộ tín dụng, chưa có một cơ chế trách nhiệm rõ ràng. Định mức giao cho một cán bộ tín dụng, ví dụ: món vay 5 tỷ nếu cho vay đến 20 tỷ cũng không được khen thưởng gì, nhưng nếu có phát sinh nợ quá hạn lại bị chỉ trích, phê bình. Trong khi rõ ràng, khả năng phát sinh nợ quá hạn của một khoản vay 20 tỷ sẽ lớn hơn nhiều so với món vay 5 tỷ. Cơ chế thưởng phạt chưa rõ ràng đã làm giảm động lực làm việc cho cán bộ tín dụng. 2.4.2.2 Nguyên nhân. Những hạn chế trên đây về chất lượng tín dụng của SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra. Thứ nhất: Nguyên nhân từ phía Ngân hàng. - Xét về chính sách tín dụng: sau các vụ án kinh tế lớn đã xẩy ra trước đây như Tamexco, Minh Phụng.... hệ thống Ngân hàng nói chung và SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng có xu hướng thận trọng trong việc cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Tâm lý của các cán bộ tín dụng cho rằng, cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là mạo hiểm, có tỷ lệ rủi ro cao, điều này làm giảm lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của SGD I. Mặt khác, do đặc điểm riêng của kinh tế ngoài quốc doanh nên doanh số cho vay không lớn, lợi nhuận mang lại ít hơn so với cho vay các tổng công ty trong khi vốn tự có của nó lại thấp. Vì vậy, khách hàng thuộc các doanh nghiệp quốc doanh vẫn là đối tượng chủ yếu của SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam. Xét về quy trình tín dụng: cán bộ SGD I tuy điều được phổ biến một cách cụ thể về quy trình tín dụng nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn một số hạn chế nhất định. Công tác thu nhập thông tin thường dựa và số liệu do khách hàng cung cấp và cũng có tham khảo thêm một số thông tin thu thập từ bên ngoài. Nhưng nhiều khi công tác này chưa tốt, dẫn đến việc đánh giá không đúng hiệu quả của dự án cũng như khả năng thực tế của khách hàng. Hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng giữa SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam và Ngân hàng Công thương Việt nam cũng như với Ngân hàng Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, sự phối hợp trao đổi thông tin giữa các Ngân hàng thương mại trong việc xét duyệt cho vay và quản lý vốn vay đối với các khách hàng vay vốn chưa tốt, thiếu các thông tin trung thực cần thiết về tình trạng nợ nần, hiệu quả kinh doanh của khách hàng nên không tránh được rủi ro. Mặc dù SGD I- Ngân hàng Công thương Việt nam đã có phòng chuyên trách thông tin phòng ngừa rủi ro đặc biệt là rủi ro tín dụng nhưng đến nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa thực sự là công cụ tốt để ngăn ngừa rủi ro, tiêu cực trong SGD I. Công tác đánh giá tài sản thế chấp: Việc đánh giá tài sản thế chấp cả về giá trị và tính pháp lý của tài sản đôi khi chưa được chính xác dẫn đến việc làm giảm chất lượng tín dụng. SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam định giá tài sản thế chấp theo quy định chung, có tham khảo thêm giá tài sản đó trên thị trường tại thời điểm định giá. Các tài sản thế chấp mà doanh nghiệp sử dụng để đảm bảo tiền vay của SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam chủ yếu là đất đai, nhà ở, máy móc thiết bị. Mức giá của các loại tài sản này thường không ổn định nên việc định giá đúng là rất khó khăn. Công tác kiểm tra giám sát khi cho vay đôi khi còn mang tính hình thức, không phát hiện kịp thời những sai phạm hoặc có phát hiện nhưng chưa có biện pháp xử lý hữu hiệu. Đó cũng là nguyên nhân gây phát sinh nợ quá hạn. Xét về hoạt động Marketing SGD I: SGD I chủ yếu chỉ tập trung vào các hoạt động bề nổi như quảng cáo, khuyếch trương, còn việc vận dụng Marketing nhằm nghiên cứu khách hàng, xác định thị trường mục tiêu, định vị hình ảnh, nâng cấp chất lượng dịch vụ, còn chưa tốt SGD I cũng chưa có những biện pháp tích cực để lôi kéo khách hàng. Xét về trình độ cán bộ: ở SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam còn một số cán bộ chưa nắm bắt được nhu cầu và sự thay đổi của thị trường, chưa đủ khả năng kinh nghiệm đánh giá tính hiệu quả và mức độ rủi ro của khoản vay từ khi xét duyệt và cho vay. SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam chưa có chế độ đãi ngộ, thưởng phạt hợp lý đối với các cán bộ ở các vị trí khác nhau và cường độ làm việc khác nhau. Điều này dẫn đến hiện tượng có một số cán bộ tín dụng ngại cho vay, sợ trách nhiệm và chưa tâm huyết với công việc. Thứ hai: Nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn. Do trình độ quản lý và kinh doanh của các doanh nghiệp còn hạn chế nên thường thua thiệt trong kinh doanh, làm thất thoát vốn và những chi phí không cần thiết dẫn đến không đủ sức đứng vững trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường. Khách hàng cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh,về tài chính không đầy đủ, nếu có thì không kịp thời và sai lệch so với thực tế. Điều này gây khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát của SGD I. Vốn tự có của các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thấp. Trong khi tín dụng trung - dài hạn tỷ lệ vốn tự có của doanh nghiệp tham gia đầu tư phải đảm bảo từ 30-50% tổng vốn đầu tư của dự án, SGD I chỉ cho vay phần vốn còn thiếu, tức là từ 50-70% vốn đầu tư của dự án. Do không đáp ứng đủ các điều kiện về vốn tự có, về tài sản thế chấp, về tính khả thi của dự án nên không đủ điều kiện để SGD I có thể cho vay vốn. Thứ ba: Các nguyên nhân khác. Sự không ổn định của môi trường kinh tế trong nước và trên thế giới đã ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt nam. Đặc biệt là thị trường xuất khẩu (nhất là giá một số mặt hàng nông sản giảm mạnh), sự cắt giảm liên tục lãi suất ngoại tệ trên thị trường quốc tế. Hệ thống pháp lụât quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa được đầy đủ, đồng bộ, hợp lý cũng như môi trường pháp lý cho kinh doanh tín dụng chưa được hoàn thiện nên không đảm bảo được môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động của kinh tế. Mặt khác, sự thay đổi trong cơ chế, chính sách của nhà nước đã khiến cho hoạt động tín dụng còn gặp nhiều khó khăn. Những phân tích về thực trạng chất lượng tín dụng tại SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam trong thời gian qua cho thấy những kết quả đạt được và những hạn chế trong hoạt động tín dụng. Qua đó cũng khẳng định được vai trò, những đóng góp quan trọng của SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế để phát huy những kết quả đạt được và khắc phục những hạn chế trong hoạt động tín dụng, SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam cần có những gải pháp nâng cao và mở rộng hoạt động tín dụng, để đóng góp ngày càng nhiều vào sự phát triển kinh tế của đất nước. CHƯƠNG III: Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Tại Sở Giao Dich I Ngân Hàng Công Thương Việt nam 3.1. Định hướng hoạt động tín dụng của Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam 3.1.1 Dự báo các yếu tố tác động đến hoạt động tín dụng trong thời gian tới Khó khăn trong xuất khẩu: Với việc ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ trong năm vừa qua, chắc chắn các doanh nghiệp Việt nam sẽ đối mặt với vô vàn khó khăn cũng như sẽ phải chịu sự thu hẹp của thị trường xuất khẩu, kéo theo sự cạnh tranh trong khi giá cả có xu hướng giảm. Trong khi đó, SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam thuộc hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam là một trong những Ngân hàng thương mại lớn trong lĩnh vực thanh toán và tài trợ xuất nhập khẩu, vì vậy sự sụt giảm nhập khẩu chắc chắn sẽ có tác động không tốt đến hoạt động kinh doanh của SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam trong năm 2009 và những năm tiếp theo. Xuất hiện nhân tố thuận lợi các doanh nghiệp Việt nam và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Tình hình chính trị và trật tự xã hội tại Việt nam hiện nay đang được đánh giá là an toàn cao trong khu vực, tốc độ phát triển kinh tế đạt mức tăng trưởng cao liên tục qua các năm, đảm bảo các điều kiện làm ăn yên ổn lâu dài. Cùng với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới và ký kết hiệp ước thương mại Viêt - Mỹ chắc chắn sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam,đăc biệt là ngành giày da, thủy sản và may mặc. Thêm vào đó sẽ là sự đầu tư mạnh mẽ từ các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh. Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi: Với việc bộ kế hoạnh đang triển khai công tác "tái cấu trúc nền kinh tế " giảm bớt nông nghiệp và tăng công nghiệp tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi nhất cho tất cả các thành phần kinh tế phát triển. Như vậy, SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam cần nhanh chóng nắm bắt thị trường để đưa ra những chính sách thích hợp thu hút nguồn vốn Nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn: Để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, các nghành công nghiệp mũi nhọn như dầu khí, điện lực, viễn thông, đều đang triển khai các dự án lớn. Nhu cầu vốn lên đến hàng tỷ USD. Do môi trường kinh doanh được cải thiện nên thành phần kinh tế tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tỏ ra yên tâm hơn trong đầu tư. Nhu cầu vốn tăng lên nhanh chóng. Nhu cầu của dân cư về nhà ở, phương tiện đi lại, học hành, đang ngày càng nâng cao trong khi nguồn thu nhập còn hạn chế. Chính vì vậy, các Ngân hàng Thương mại có điều kiện tốt để mở rộng cho vay. Mức độ cạnh tranh trong cho vay giữa các Ngân hàng Thương mại ngày càng trở nên gay gắt: Mặc dù nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn, song nhìn chung do tình hình tài chính của các doanh nghiệp chưa thực sự mạnh, phát triển sản xuất kinh doanh chưa ổn định, năng lực quản lý còn yếu kém. Vì vậy số lượng các dự án và phương án kinh doanh khả thi không nhiều. Trong khi đó, số vốn huy động của các Ngân hàng Thương mại lại khá cao, nên xuất hiện tình trạng cạnh tranh gay gắt, thậm chí đôi khi còn thiếu lành mạnh giữa các Ngân hàng Thương mại. Thêm vào đó là ngày càng có nhiều Ngân hàng xuất hiện tạo nên một môi trường khắc nghiệp trong công tác huy động vốn. Đó là các nhân tố tác động đến hoạt động tín dụng của SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam trong thời gian tới. 3.1.2. Phương hướng và nhiệm vụ của tín dụng trong năm 2009 Phát huy các thành tích đã đạt được, SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam sẽ tiếp tục mở rộng và phát triển hoạt động tín dụng theo những định hướng sau: - Tiếp tục bám sát định hướng phát triển của Ngân hàng Công thương Việt nam cũng như định hướng phát triển kinh tế xã hội của thành phố. - Mở rộng tín dụng đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng bằng nhiều biện pháp và luôn đảm bảo phương châm an toàn hiệu quả. Tăng thị phần tín dụng trong tổng sử dụng vốn sinh lời của SGD I, đặc biệt là các tín dụng ngoại tệ thông qua các chính sách lãi xuất hấp dẫn, chính sách khách hàng, tăng cường đội ngũ cán bộ tín dụng để có điều kiện bám sát các đơn vị hiện có, đồng thời tìm kiếm các khách hàng và các dự án tiềm năng mới. Mở rộng công tác cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiếp tục có các biện pháp hỗ trợ các đơn vị làm hàng xuất khẩu. - Tiếp tục thực hiện chương trình tái cơ cấu, cơ cấu lại bộ máy điều hành hoạt động tín dụng gọn nhẹ hơn, năng động hơn và hiệu quả nhằm đáp ứng được yêu cầu của chi nhánh cấp haivà tình hình mới, công tác kiểm tra giám sát trực tiếp và giám sát từ xa. Thực hiện việc kiểm tra và kiểm toán nội bộ. 3.2 . Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam. Xuất phát từ những hạn chế, vướng mắc và phương hướng hoạt động kinh doanh của SGD I trong thời gian tới, từ những hiểu biết của bản thân, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại SGD I Ngân hàng Công thương Việt Nam như sau: 3.2.1. Hoàn thiện chính sách tín dụng. Có thể nói chính sách tín dụng là nhân tố đầu tiên quyết định hướng chiến lược kinh doanh của SGD I. Để xây dựng một chính sách tín dụng phù hợp, SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam cần xem các vấn đề sau. Thứ nhất: về chính sách khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, các khách hàng ngày càng có sự lựa chọn rộng hơn, đòi hỏi chất lượng cao hơn và mong muốn nhận được giá trị lớn hơn cho đồng tiền mà họ bỏ ra. Chính vì vậy, SGD I phải ngày càng quan tâm đến việc phát triển mối quan hệ với khách hàng thay vì khách hàng tự tìm đến với Sở giao dịch như trước đây...Các nhân viên của SGD I đồng thời là nhân viên marketing, họ vừa cung ứng sản phẩm, dich vụ vừa thu hút khách hàng trong thái độ niềm nở và sự hiểu biết về sản phẩm của chính của SGD I cũng như về xã hội, nắm bắt rất nhanh chóng nhu cầu của khách hàng đến với SGD I. Chính sách này đã và đang phát huy hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng tín dụng của SGD I Ngân hàng Công thương Việt Nam dư nợ tín dụng tăng, thị phần tín dụng trên địa bàn tăng... Tuy nhiên SGD I chưa có phòng chuyên trách, các cán bộ chuyên sâu về công tác tiếp thị quảng cáo sản phẩm, tiếp cận thị trường. Trong các chính sách khách hàng, đối tượng chủ yếu mà SGD I đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu tín dụng của khách hàng là doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Còn lại SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam chưa đáp ứng đầy đủ và bỏ lỡ nhiều nhu cầu tín dụng khác của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp kinh doanh ngoài lĩnh vực xuất nhập khẩu...Do vậy, để hoàn thiện hơn nữa chính sách khách hàng hợp lý, SGD I nên tăng cường công tác khách hàng, mở rộng các đối tượng khách hàng bằng các cách sau: - Tổ chức hội nghị khách hàng là các doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội, hội nghị khách hàng truyền thống. Qua đó SGD I có thể rút ra được kinh nghiệm từ những ý kiến đóng góp của khách hàng, tuyên truyền sâu rộng về SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam và lợi ích của khách hàng khi đến vay vốn tại SGD I, cũng như tiếp cận các khách hàng mới. - Mở rộng đối tượng cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mặc dù cho vay đối với đối tượng này thường mang lại nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cao nhưng nó là một thị trường màu mỡ, để làm tốt được việc cho vay đối với khu kinh tế ngoài quốc doanh thì SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam phải có biện pháp giải quyết từ khâu thẩm định dự án, phương án, khâu giám sát sau khi cho vay...Mặc dù quy định về cho vay đòi hỏi rất cao và chặt chẽ nhưng không phải vì thế mà SGD I không cho vay, thờ ơ với khách hàng. Hiện nay ở nước ta các doanh nghiệp quốc doanh hầu như không có đầy đủ các điều kiện về tài chính và tài sản đảm bảo trong quy trình nghiệp vụ tín dụng. Điều mà SGD I cần quan tâm đối với khối doanh nghiệp này để nâng cao chất lượng tín dụng là phương án kinh doanh, uy tín của họ đối với khách hàng và SGD I chứ không chỉ dựa vào tài sản đảm bảo. Thực hiện cơ chế tín dụng linh hoạt này là điều cần thiết bởi vì khu vực này còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác và triển vọng của hoạt động sẽ có hiệu quả. Tóm lại, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cần được SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam quan tâm nhiều hơn do sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân; đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng nhiều khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO; sự phát triển kinh tế của các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Hà Tây, Hải Dương. Mặt khác, khu vực quốc doanh đã giảm mạnh do cải cách doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, công ty TNHH một thành viên. Bên cạnh đó, mở rộng cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng sẽ góp phần đa dạng hoá hoạt động tín dụng, tăng thu nhập cho SGD I , thoả mãn nhu cầu của doanh nghiệp và thực hiện đúng chủ trương đường lối của Nhà nước. - Tiếp tục củng cố, tăng cường và mở rộng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các khách hàng truyền thống trên địa bàn. Đó là những khách hàng có quan hệ thường xuyên với SGD I, có nhu cầu đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất thường xuyên. Thứ hai: Chính sách lãi xuất. Lãi xuất là một yếu tố quan trọng trong việc thực hiện các khoản cho vay của Ngân hàng Thương mại. Một chính sách lãi suất phù hợp sẽ thu hút được khách hàng và tăng dư nợ tín dụng, tăng khả năng cạnh tranh, tăng thu nhập cho Ngân hàng. Để có được một chính sách lãi xuất cho vay có hiệu quả, cán bộ SGD I phải nắm được thực tế lãi suất và xu hướng biến động của lãi suất cho vay hợp lý. Trong những năm qua, SGD I đã và đang áp dụng chính sách lãi suất một cách linh hoạt đối với các đối tượng khách hàng vay vốn và quy mô các khoản vay, ví dụ như có ưu đãi lãi suất cho khách hàng loại một, khách hàng loại hai có giảm lãi suất cho những món vay có giá trị lớn. Tuy nhiên, chính sách lãi suất của SGD I vẫn còn những điều chưa linh hoạt. Vì thế SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam nên mở rộng các mức lãi suất đa dạng theo thời gian và đối tượng khách hàng, mức độ sử dụng sản phẩm của SGD I, có chính sách khuyến khích về lãi suất cho các khách hàng mới. Bên cạnh đó căn cứ vào tính chất, đặc điểm từng nghành nghề kinh doanh mà SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam có thể áp dụng các mức lãi suất khác nhau. Ví dụ như, đối với các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng xuất nhập khẩu được nhà nước khuyến khích như thực phẩm, may mặc, giày dép. SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam có thể áp dụng một mức lãi suất khác, phù hợp hơn so với việc cho vay để sản xuất thông thường. Điều này không những tạo ra những điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tốt hơn mà còn giúp cho SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam thiết lập, mở rộng quan hệ với khách hàng. Với một chính sách lãi suất phù hợp, linh hoạt chắc chắn SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam sẽ có càng nhiều khách hàng đến với mình. Thứ ba :Về phương thức cho vay vốn. SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam cần đa dạng hoá các phương thức cho vay, cho vay theo nhu cầu, gắn với đặc điểm sản xuất kinh doanh của khách hàng. Tăng cường cho vay bằng hạn mức tín dụng vì như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí và thời gian cho khách hàng. Với SGD I, SGD I có thể biết được khách hàng đang gặp thuận lợi hay khó khăn gì để cùng khách hàng tháo gỡ. SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng cần hướng tới đối tượng là dân cư. Nhu cầu vay vốn trong dân cư để phát triển sản xuất các hệ thống kinh doanh cá thể là rất lớn. ở các nước Âu, Mỹ và các nước công nghiệp mới nổi như Thái lan và Malayxia, cho vay tiêu dùng đặc biệt là vay trả góp chiếm tỷ trọng tương đối cao trong các ngân hàng. Vì vậy SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam cần mở rộng hơn nữa dịch vụ cho vay tiêu dùng, cho vay thông qua dịch vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng nhằm mở rộng cho vay đối với cá thể. 3.2.2. Cải tiến và đổi mới quy trình cho vay. Để hạn chế tối đa các yếu tố chủ quan và các biểu hiện tiêu cực trong việc thẩm định xét duyệt cho vay, đảm bảo tính khách quan, kịp thời phát hiện các khách hàng kém hiệu quả, dự án kém khả thi. SGD I-Ngân hàng Công thương Việt Nam cần cải tiến và đổi mới quy trình xét duyệt thẩm định và cho vay, kiểm tra giám sát tình hình luân chuyển vốn vay. Theo quy trình tín dụng, hồ sơ cho vay trước khi trình lãnh đạo ký duyệt cần phải được kiểm tra, xem xét toàn diện, chính xác và khách quan từ khâu lập hồ sơ, phân tích năng lực điều hành quản lý của chủ doanh nghiệp, tính khả thi của dự án, giá trị tài sản thế chấp, biện pháp thu hồi nợ. Do vậy nếu để cho một cán bộ tín dụng đảm nhiệm tất cả các khâu như hiện nay thì không tránh khỏi những sai sót do trình độ nghiệp vụ, yếu tố chủ quan kinh nghiệm của mỗi cán bộ tín dụng là khác nhau. Vì vậy, phòng tín dụng nên chia ra hai bộ phận. Bộ phận một : Bộ phận quản lý doanh nghiệp có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng làm thủ tục và điều kiện vay vốn, tiếp nhận các hồ sơ vay vốn của khách hàng, phân loại hồ sơ để xem xét và đánh giá. Bộ phận này chuyên quản lý doanh nghiệp, thường xuyên theo dõi, kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay, tài sản thế chấp, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, những thuận lợi, khó khăn để từ đó đề xuất ý kiến, biện pháp giải quyết đối với từng phương án vay vốn. Bộ phận này thường xuyên xuống nơi làm việc để nắm rõ tình hình thực tế về báo cáo cho lãnh đạo và bộ phận thẩm định để theo dõi và chỉ đạo. Bộ phận hai : Bộ phận thẩm định tín dụng hoạt động độc lập với bộ phận trên. Bộ phận này chủ yếu làm việc tại sở giaon dịch, có nhiệm vụ phân tích xem xét dự án vay vốn về mọi mặt, phân tích khả năng trả nợ của khách hàng. Bộ phận này có thể xuống doanh nghiệp nắm tình hình thực tế và kiểm tra tài sản thế chấp cầm cố khi thẩm định dự án, căn cứ vào ý kiến đề xuất của bộ phận quản lý doanh nghiệp để đưa ra các phương án xử lý các vụ việc liên quan đến vốn vay. Trong bộ phận này SGD I nên tuyển thêm một số cán bộ hiểu sâu về một số lĩnh vực cụ thể như điện, máy móc, thiết bị giao thông... để giúp cho công tác thẩm định đánh giá về các yếu tố kỹ thuật được đúng đắn và chính xác, nhanh chóng. Hai bộ phận này cần có sự phối hợp đồng bộ nhịp nhàng vì nếu như một công đoạn nào đó thực hiện không đúng quy định sẽ ảnh hưởng đến công đoạn sau và kết quả của toàn bộ công việc. Trong quy trình tín dụng, SGD I-Ngân hàng Công thương Việt nam cần tập trung vào bước thẩm định dự án và kiểm soát vốn sau khi vay 3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định Nâng cao hiệu quả khâu thẩm định có tính chất quyết định tới hiệu quả cho vay sau này vì kết thúc khâu thẩm định sẽ đa ra kết quả là có chấp nhận cho khách hàng vay hay không. Thẩm định gồm hai bước cơ bản là thu thập thông tin và xử lý thông tin. Thứ nhất: Thu thập thông tin Việc thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như phỏng vấn người xin vay, sổ sách của ngân hàng, các nguồn thu thập từ các doanh nghiệp thông qua báo cáo tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn, các nguồn thông tin từ dịch vụ, các cơ quan cung ứng thông tin và từ các nguồn khác... Hiện nay có nhiều nguồn thông tin với độ chính xác lẫn lộn nhau. Vì vậy, để lựa chọn lựa thông tin nào là chính xác là rất khó. SGD I-Ngân hàng Công thương Việt nam chủ yếu thu thập thông tin từ phía khách hàng thông qua phỏng vấn trực tiếp, báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh và cũng có trường hợp SGD I cử cán bộ tới tận nơi sản xuất kinh doanh của khách hàng. Tuy nhiên, nếu chỉ thu thập nguồn tin từ phía khách hàng thì không có độ tin cậy cao vì chúng ta biết rằng khách hàng luôn muốn vay Ngân hàng một cách nhanh chóng nên thường xuyên xảy ra hiện tượng thiếu trung thực khi đưa ra những thông tin về mình. Vì vậy, SGD I cần mở rộng phạm vi thu thập những nguồn thông tin khác nhưng phải biết chọn lọc để tránh hiện tượng "loãng thông tin”. Để làm được điều đó cần chú ý tới những nguồn sau: - Cần chú trọng tới việc cử cán bộ có kiến thức nghiệp vụ Ngân hàng và có kiến thức chuyên môn của ngành nghề lĩnh vực mà khách hàng đang kinh doanh, đến tận địa bàn sản xuất của doanh nghiệp. Kết hợp với những thông tin do khách hàng cung cấp như báo cáo tài chính tình hình sản xuất kinh doanh. - SGD I phải thường xuyên theo dõi những thông tin được cung cấp từ hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng nhà nước Việt Nam, của ngân hàng Công thương Việt Nam. Hệ thống thông tin này được đánh giá là đáng tin cậy vì do nhà nước quản lý. Tuy nhiên, hệ thống này mới được thành lập nên chưa hoàn thiện và đầy đủ cả về số lượng và chất lượng. Thông tin thu được từ nguồn này mới chỉ có về tình hình dư nợ và nợ quá hạn phải thanh toán của doanh nghiệp tại các ngân hàng Công thương Việt nam, các thông tin về thị trường, về kinh tế, xã hội... đều không có. Bên cạnh đó, các Ngân hàng còn chưa thực sự tuân thủ chặt chẽ yêu cầu cung cấp thông tin. - SGD I cần có bộ phận riêng quản lý các hồ sơ giấy tờ của khách hàng kể cả với những khách hàng tạm thời không có quan hệ tín dụng với SGD I. Đây cũng sẽ là nguồn thông tin quan trọng trong nhiều trường hợp cần thiết. - Chú trọng nguồn thông tin đại chúng vì đây là nguồn thông tin khách quan nhất. Mặt khác, SGD I cần có sự hợp tác và trao đổi thường xuyên với những tổ chức tín dụng khác, các cơ quan, tổ chức chính quyền địa phương và giữ tốt mối quan hệ với khách hàng vì đôi khi họ có thể cung cấp cho chúng ta những thông tin quý báu. Để có thể thu thập các thông tin, tôi xin đề xuất một số phương pháp thu thập thông tin sau: - Phương pháp thu tin qua mạng máy tính nối với các tổ chức tín dụng khác. - Thu tin qua đường công văn từ các cơ quan quản lý của nhà nước hoặc chính quyền địa phương thuộc địa bàn hoạt động của SGD I. - Phương pháp thu tin trực tiếp từ doanh nghiệp, gặp gỡ trực tiếp để phỏng vấn lãnh đạo doanh nghiệp hoặc gián tiếp qua điện thoại, fax, tìm hiểu trực tiếp tại địa điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để chuyển đến doanh nghiệp gửi về SGD I các thông tin dưới dạng văn bản. - Thu thập thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng nhà nước, phòng thông tin tín dụng của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam: đây là đầu mối thu thập các thông tin tín dụng liên quan đến khách hàng của các Ngân Hàng Thương Mại. - Phương pháp thu thập thông tin từ các cơ quan thông tin báo chí, đây là phương pháp đơn giản nhưng rất hữu hiệu, thông tin có nguồn gốc xác thực, đa dạng, phong phú. - Phương pháp thu thập thông tin qua các mạng thông tin điện tử như mạng Internet, Vinanet, mạng trí tuệ Việt Nam của FPT, tin tueter... Như vậy, công việc thu thập thông tin rất phức tạp, vì vậy, SGD I nên thiết lập một bộ phận thông tin tín dụng cho riêng mình. Điều này không chỉ làm tốt cho khâu thẩm định mà giúp ích cho cả quá trình cho vay của SGD I, trong việc hạn chế rủi ro tín dụng, nâng cao hiệu quả công tác cho vay. Thứ hai: Phân tích thông tin tín dụng Khi có được các thông tin cần thiết thì việc lựa chọn khách hàng là rất quan trọng. Lâu nay trong thực tế thường chỉ có khách hàng lựa chọn Ngân hàng, Ngân hàng thực hiện tín dụng đối với hầu hết các khách hàng đến với mình. Thực ra ở đây phải là quan hệ hai chiều: Khách hàng lựa chọn Ngân hàng và Ngân hàng lựa chọn khách hàng. Điều này rất quan trọng vì nó hạn chế rủi ro cho Ngân hàng, đảm bảo vốn cho vay ra thu hồi đầy đủ, đúng hạn và có lãi, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Khi lựa chọn khách hàng, Ngân hàng cần chú ý chọn khách hàng có hoạt động kinh doanh có hiệu quả, làm ăn có uy tín và sẵn lòng trả nợ đúng hạn. Ngân hàng có thể xem xét quan hệ kinh doanh của khách hàng với các tổ chức kinh tế khác qua nhiều năm để có cơ sở đánh giá mức độ, uy tín của khách hàng. Việc lựa chọn khách hàng phải được thực hiện một cách chủ động (nghĩa là nếu biết đơn vị kinh tế nào làm ăn có hiệu quả và có uy tín thì Ngân hàng có thể chủ động đến đặt quan hệ tín dụng với đơn vị đó). Ngân hàng không nên ở thế bị động, ngồi chờ khách hàng đến gõ cửa xin vay, khi đó Ngân hàng mới xem xét có cho khách hàng vay hay không. Việc lựa chọn khách hàng phải áp dụng cho mọi thành phần kinh tế, tránh tình trạng đối với thành phần kinh tế quốc doanh, Ngân hàng cứ cho vay mà không xem xét đơn vị đó kinh doanh có hiệu quả hay không. Ngoài ra, SGD I có thể tiến hành xếp loại người lãnh đạo quản lý, điều hành doanh nghiệp đang có quan hệ tín dụng tại các tổ chức tín dụng. Việc xếp loại này dựa trên tiêu thức kỹ năng và kinh nghiệm của các nhà quản lý. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định cần có sự phối hợp giữa các chuyên gia, những cán bộ tư vấn về các lĩnh vực như giá cả, kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản phẩm... 3.2.4. Nâng cao hoạt động kiểm tra, kiểm soát của Sở giao dịch I Nâng cao vai trò của công tác thanh tra, kiểm soát là công việc rất quan trọng để đảm bảo chất lượng cho vay. Do đó, khi SGD I mở rộng đầu tư tín dụng để nâng cao chất lượng tín dụng thì vai trò của công tác thanh tra, kiểm soát phải được nâng lên ở mức tương xứng. Thông qua quá trình kiểm tra, giám sát vốn cho vay, SGD I phải thường xuyên đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng. Nếu phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm... thì phải thực hiện xử lý theo quyền và nghĩa vụ của mình theo quyết định của pháp luật. Điều này là rất cần thiết bởi vì trong quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng còn có thể qua nhiều thời gian mới bộc lộ những khuyết điểm nhất định. Vì thế phải giám sát khách hàng vay vốn theo dõi kịp thời khả năng rủi ro có thể xảy ra để có biện pháp đối phó thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng. Trong thực tế, việc giám sát vốn vay của khách hàng lại tuỳ thuộc vào khả năng, trình độ và từng điều kiện cụ thể của cán bộ tín dụng. Nhất là trong điều kiện hiện nay báo cáo số liệu của các khách hàng ngoài quốc doanh thường có độ tin cậy thấp ngoài vòng kiểm soát của cơ chế hiện hành thì việc giải quyết khoa học thông tin sai sự thật một cách hữu hiệu là một vấn đề còn nhiều lúng túng. Có chăng đây chỉ một biện pháp tình thế. Bởi vì, hiện nay ta chưa có biện pháp tích cực buộc các doanh nghiệp phải thực hiện đúng luật kế toán- thống kê. Vì vậy phải tăng cường hiệu quả của giám sát vốn vay trong hoạt động của SGD I với yêu cầu phải có chương trình giám sát riêng, cán bộ của bộ phận này phải có năng lực về đánh giá hoạt động tín dụng ở cả hai phía khách hàng và SGD I. Những người làm công tác này không liên quan đến hoạt động cho vay, thu nợ. Nhiệm vụ của bộ phận này là đánh giá tình hình hoạt động tín dụng nói chung, chất lượng tín dụng nói riêng để kiến nghị với các cấp lãnh đạo các biện pháp nhằm thiết lập hệ thống phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng mình. Ngoài ra, SGD I cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát nội bộ Ngân hàng nhằm thanh lọc những cán bộ tín dụng mất phẩm chất, tiêu cực, gây thất thoát nghiêm trọng và giảm uy tín của ngân hàng. 3.2.5. Nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên, có định hướng phát triển nguồn nhân lực Con người luôn là nhân tố có tính chất quyết định trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội nói chung và trong hoạt động cho vay nói riêng. Toàn bộ những quyết định cho vay, tiến trình thực hiện cho vay, thu hồi nợ không có máy móc hay một công cụ nào khác ngoài cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Vì vậy, kết quả cho vay phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ, tính năng động sáng tạo và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. SGD I-Ngân hàng Công thương Việt nam là Ngân hàng có đại đa số đội ngũ cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng, tại chức và trên đại học đã được đào tạo về chuyên môn Ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tế do tính chất phức tạp của nền kinh tế thị trường, sự phức tạp và đầy khó khăn trong công tác cho vay thì với đội ngũ cán bộ như hiện nay chưa thể đáp ứng kịp thời. Thực tế đòi hỏi cán bộ tín dụng luôn phải học hỏi, trau dồi kiến thức nghiệp vụ và cả những kiến thức tổng hợp khác một cách thường xuyên. Do đó để nâng cao chất lượng tín dụng, SGD I cũng nên đề ra chính sách phát triển nguồn nhân lực và chăm lo việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ với một số biện pháp như: - Chuyên môn hoá cán bộ tín dụng: Mỗi cán bộ tín dụng sẽ được giao phụ trách một nhóm khách hàng nhất định, có những đặc điểm chung về ngành nghề kinh doanh hoặc loại hình doanh nghiệp. Việc phân nhóm tuỳ theo năng lực, sở trường, kinh nghiệm của từng cán bộ tín dụng. Qua đó, cán bộ tín dụng có thể hiểu biết khách hàng một cách sâu sắc, tập trung vào một công việc của mình và giảm chi phí trong điều tra, tìm hiểu khách hàng, giảm sai sót trong quá trình thẩm định, góp phần nâng cao chất lợng tín dụng. - Đào tạo các kỹ năng: SGD I cần đào tạo cán bộ tín dụng theo các kỹ năng như kỹ năng giao tiếp, kĩ năng điều tra, kĩ năng phân tích, kĩ năng viết, kĩ năng đàm phán... - Có cơ chế khen thưởng, đãi ngộ hợp lý đối với các cán bộ tín dụng, thưởng phạt nghiêm minh: những cán bộ tín dụng thiếu tinh thần trách nhiệm, làm thất thoát vốn, vi phạm cơ chế cần được xử lý nghiêm khắc, đặc biệt đối với những cán bộ tín dụng có hành vi tiêu cực làm ảnh hởng đến lợi ích của SGD I. Tuỳ theo mức độ có thể áp dụng các hình thức xử lý, kỷ luật như: chuyển công tác khác, tạm đình chỉ, sa thải... Ngoài việc nâng cao trách nhiệm của cán bộ Sở giao dịch phải có chế độ khen thưởng đối với những cán bộ có thành tích xuất sắc trong hoạt động tín dụng. Đây là việc làm quan trọng nhằm giải quyết tình trạng cán bộ tín dụng “ ngại” cho vay. Do yếu tố tâm lý cán bộ tín dụng cho rằng nếu cho vay thu nợ hàng trăm tỷ cũng không được khen tặng, tăng lương nhưng chỉ cần một phát sinh quá hạn là bị chỉ trích, xử lý và bị coi là yếu kém. 3.3. Kiến Nghị 3.3.1. Đối với Ngân hàng Công thương Việt nam Ngân hàng Công thương Việt Nam nên dành cho SGD I-Ngân hàng Công thương Việt nam cũng như các chi nhánh của mình nhiều quyền tự quyết hơn nhằm nâng cao tính tự chủ của các chi nhánh. Ngân hàng nên phát triển việc nhận và trả tiền gửi tiết kiệm tại nhà theo yêu cầu của khách hàng (có thu phí thấp). Thể thức này sẽ đáp ứng được nhu cầu cho những người già muốn tránh được rủi ro khi mang tiền trên đường. Khuyến khích người gửi tiền gửi luôn lãi của họ khi dến hạn mà họ không cần đến. Ngân hàng Công Thương Việt Nam nên tổ chức nhiều hội thảo chuyên đề tín dụng để cho các cán bộ tín dụng của các chi nhánh có điều kiện trao đổi kinh nghiệm công tác và nâng cao trình độ của mình. Ngân hàng Công Thương Việt Nam nên nghiên cứu tạo ra hành lang pháp lý để bảo vệ cán bộ tín dụng. Ngân hàng Công Thương Việt Nam nên tiếp tục phát huy việc sử dụng mạng vi tính để thu nhận số liệu báo cáo, hạn chế làm báo cáo bằng tay để cán bộ tín dụng tập trung thời gian vào chuyên môn hơn. Triển khai kịp thời, hướng dẫn cụ thể các văn bản, quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Để phục vụ khách hàng vay vốn một cách thuận lợi, nhanh chóng, đề nghị Ngân hàng Công thương Việt Nam cho phép bỏ những thủ tục giấy tờ không cần thiết. Hiện nay, đã có rất nhiều khách hàng là các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, hộ sản xuất kinh doanh phàn nàn rằng để vay vốn của Ngân hàng thì cần phải có quá nhiều điều kiện liên quan đến nhiều loại giấy tờ không cần thiết và tốn rất nhiều thời gian. Đặc biệt đối với chiết khấu giấy tờ có giá Ngân hàng Công thương Việt Nam phải có hướng dẫn cụ thể với thủ tục gọn nhẹ, giải quyết cho vay nhanh chóng để thu hút được khách hàng. Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước để tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin tín dụng, nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi thông tin, giúp các chi nhánh phòng ngừa rủi ro một cách tốt nhất. Tăng cường hoạt động thanh tra kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống nhằm chấn chỉnh các hoạt động của chi nhánh và đội ngũ nhân sự. Tặng quà và mở một số tài khoản tượng trưng cho một số trẻ em tiêu biểu để khuếch trương tên tuổi của Ngân hàng mình. 3.3.2. Đối Với Ngân hàng nhà nước Cần khẩn trương mở rộng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt như séc,hối phiếu..mà trước mắt là trong các giao dịch Ngân hàng song song với việc hiện đại háo hệ thống thanh toán. Trên cơ sở đó và cùng với các trái phiếu chính phủ làm phương tiện thế chấp, như vậy thì thị trường liên hàng mới có thể phát triển các giao dịch ngắn hạn, nâng cao hiệu quả quản lý vốn và chu chuyển vốn. Khẩn trương để Luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng nhanh chóng đi vào cuộc sống và phát huy hiệu lực. Muốn như vậy đòi hỏi Ngân hàng phải tuyên truyền phổ biến sâu rộng để hệ thống các Ngân hàng, các tổ chức kinh tế xã hội và người dân nắm được những nội dung cơ bản và cụ thể các điều luật để tự giác và thực hiện nghiêm chỉnh. Mặt khác, Ngân hàng cần trình chính phủ hoặc phối hợp với các cơ quan,các ban ngành có liên quan,ban hành những văn bản hướng dẫn dưới luật nhằm triển khai đồng bộ luật Ngân hàng nhà nước, luật các tổ chức tín dụng và đồng thời phải nhanh chóng có những văn bản chỉ đạo và hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể để thi hành thống nhất trong toàn hệ thông.Chỉ có như vậy thì các ngân hàng mới có thể có một môi trường hoạt động tốt để, chấp tránh nghiêm chỉnh Luật sẽ tránh được những rủi ro không đáng có và sẽ nâng cao được hiệu quả công tác tín dụng. Cần tạo sự công bằng trong cạnh tranh với các tổ chức, các ngân hàng trong nước và nước ngoài tránh tinhg trạng phân biệt để các ngân hàng có cái nhìn không tốt về Ngân hàng nhà nước. Cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát; giúp cho trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng hoạt động hữu hiệu hơn nữa. Với các khách hàng truyền thống, làm ăn có hiệu quả có tín nhiệm cao thì có thể cho vay không cần thế chấp. 3.3.3. Đối với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền Chính phủ cần hoàn chỉnh đề án nghiên cứu cải tiến cách định giá tài sản đảm bảo bằng việc xem xét khung giá đối với quyền sử dụng đất sao cho phản ánh được giá cả thị trường và xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách trong việc đánh giá bất động sản. Phát triển thị trường chứng khoán hơn nữa cho tương xứng với vai trò của nó, tạo kênh huy động vốn dài hạn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho Ngân hàng tham gia kinh doanh, tìm kiếm thông tin trên thị trường chứng khoán. Các ngành chức năng có liên quan tạo điều kiện giúp đỡ Ngân hàng trong khâu thẩm định các tài sản thế chấp có hợp pháp hay không, trong khâu thu hồi nợ quá hạn của Ngân hàng một cách tốt hơn nữa. Kết Luận Không ai có thể phủ nhận những công cuộc đổi mới ở Việt nam trong những năm gần đây, với việc trở thành thành viên chính thức của WTO, nền kinh tế Việt nam đã vươn mình ra biển lớn, mà ở đó có đầy những cơ hội nhưng cũng không thiếu thách thức. Song song bên cái chung của nền kinh tế thì hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đã phải gồng mình lên để phát triển theo kịp với nhu cầu chung của nền kinh tế thị trường, những kết quả đạt được đáng kể như: kiềm chế lạm phát, duy trì giá trị đồng tiền Việt nam, ổn định tỷ giá hối đoái, tăng cường cán cân trong thanh toán quốc tế và thanh toán trong nước, giải quyết sự thiếu hụt giá trị đồng bản tệ được coi là những bước tiên phong trong chiến lược quản lý các kế hoạch, chính sách nhằm mở rộng cơ chế thị trường và khai thác các tiềm năng kinh tế nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế hơn nữa. Tuy nhiên trong năm nay với sự lạm phát toàn cầu với những biến động kinh tế mang tầm ảnh hưởng thế giới, hệ thống ngân hàng đã gặp phải rất nhiều khó khăn và chưa thể đạt được những mục tiêu kinh tế như: còn chưa đồng bộ tương xứng với tầm phát triển của kinh tế thị trường ở Việt nam, cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài rất khó khăn, nguồn huy động còn hạn chế do tỷ lệ tiết kiệm chưa cao, cho vay các thành phần kinh tế chưa thực sự có an toàn trên toàn bộ hệ thống các doanh nghiệp. Chính vì vậy, bằng những kiến thức còn hạn chế khi nghiên cứu và tình hình thực tế đặt ra của hệ thống ngân hàng nói chung và của SGD I Ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng, em chọn đề tài "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam". Bởi vì, Chất lượng tín dụng chưa và không bao giờ là vấn đề cũ đối với từng Ngân hàng thương mại nói chung và SGD I-Ngân hàng Công thương Việt nam nói riêng. Nó luôn đòi hỏi phải được nâng cao trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng. Chuyên đề này đã hệ thống hoá các lý luận cơ bản về tín dụng, chất lượng tín dụng, tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng tín dụng. Từ nghiên cứu lý luận, đã soi rọi vào thực tiễn hoạt động của SGD I-Ngân hàng Công thương Việt nam, phân tích đánh giá chất lượng tín dụng để từ đó tìm ra nguyên nhân, những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Từ lý luận và thực tiễn, chuyên đề đã đưa ra một số giải pháp phù hợp với điều kiện hiện nay của SGD I-Ngân hàng Công thương Việt nam nhằm nâng cao chất lợng tín dụng. Cho đến nay trong công tác tín dụng, SGD I-Ngân hàng Công thương Việt nam đã đạt được một số thành tựu đáng kể tuy rằng không phải là không còn hạn chế. Hy vọng rằng trong tương lai Ngân hàng sẽ vẫn duy trì và phát triển hơn nữa những thành quả đó, góp phần cấp vốn một cách có hiệu quả cho kinh tế Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Tài liệu tham khảo Giáo trình nghiệp vụ Ngân hàng thương mại -- Học viện Tài chính Giáo trình Ngân hàng thương mại -- Đại học Kinh tế quốc dân Giáo trình Phân tích tài chính doanh nghiệp -- Học viện Tài chính Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam/ luật các tổ chức tín dụng Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2008 của Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt nam Quyết định 001/NHCT-SY Ngân hàng Công thương Việt nam Thời báo kinh tế www.google.com.vn Tạp chí ngân hàng Công thương Các tài liệu khác. Nhận xét của đơn vị thực tập Họ và tên người nhận xét: Chức vụ: Chuyên đề cuối khóa Sinh viên: Lê trọng Đức Đề tài: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam ............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. Hà Nội, tháng 4 năm 2009 Người nhận xét Lời cam đoan Em xin cam đoan những số liệu được sử dụng trong bài viết là hoàn toàn của Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam. Cũng như lời văn bài viết là hoàn toàn của cá nhân em! Nếu có gì sai sót em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm Hà Nội, tháng 4/2009 Sinh viên: Lê trọng Đức Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22127.doc
Tài liệu liên quan