Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước tại ngân hàng công thương chi nhánh Đống Đa

Do tình hình kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay phát triển nhanh và có nhiều mối quan hệ xã hội mới phát sinh trong nền KTTT thực sự phải có giải pháp để điều chỉnh, đó là hệ thống các điều lệ luật quy định các chuẩn tắc đó. Tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh trong sự phát triển kinh tế. Do vậy, cần có một hệ thống pháp luật đồng bộ làm chỗ dựa pháp lý cho Ngân hàng và các DN là rất cần thiết. Trong vấn đề xử lý nợ quá hạn bằng TSĐB hiện nay của ngân hàng đang gặp nhiều khó khăn từ môi trường pháp lý, nên để ngân hàng chủ động hơn trong việc xử lý TSĐB để thu hồi nợ, khi đến hạn trả mà bên khách hàng vay vốn không có khả năng trả nợ ngân hàng có đơn lên toà án để ra ngay quyết định cho ngân hàng phát mại tài sản mà không cần thiết phải tiến hành các bước điều tra, hoà giải, xét xử như hiện nay để làm cho tình hình thu nợ bị kéo dài và tốn kém. Nhà nước cần tăng cường biện pháp quản lý đối với các doanh nghiệp, cần phải kiên quyết trong việc sắp xếp lại DNNN, đẩy mạnh cổ phần hóa chỉ nên để các doanh nghiệp thực sự làm ăn có hiệu quả hoặc các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cần thiết phải phát triển dân sinh, tạo điều kiện để nâng cao HQCV. Việc hoàn thiện môi trường pháp lý là rất cần thiết, các văn bản luật không được chồng chéo nhau mà vừa đảm bảo tính bình đẳng vừa kích thích cho tất cả các hoạt động của nền kinh tế phát triển. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo việc đánh giá hiệu quả thường xuyên các DNNN kể cả trước và sau khi chuyển đổi. Có như vậy mới giúp các DNNN vươn lên trong hoạt động của mình, giúp ngân hàng yên tâm hơn với các khoản cho vay.

doc71 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1656 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước tại ngân hàng công thương chi nhánh Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cạnh tranh của các ngân hàng. Lúc đó dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước chiếm đến 70%-80% tổng dư nợ cho vay của các chi nhánh ngân hàng thương mại nhà nước nhưng từ năm 2004 đến nay tình hình đã khác. Trong nền kinh tế thị trường đang hội nhập, doanh nghiệp nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Hoạt động của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả, khả năng tạo ra lợi nhuận kém, hàng tồn kho tiêu thụ chậm, công nợ chưa thanh toán được... cộng thêm các cơ chế, quy chế quản lý của doanh nghiệp nhà nước cũng ngày càng trở nên bất cập với thực tiễn... khiến các ngân hàng e ngại khi xem xét cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước. Mức độ tín nhiệm đối với ngân hàng cũng là một hàn thử biểu để đo tính hiệu quả của các doanh nghiệp. Tình hình các ngân hàng e ngại cho vay doanh nghiệp Nhà nước đang đặt ra những vấn đề đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa việc sắp xếp, tổ chức lại, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước. Nếu không làm được như vậy, các doanh nghiệp Nhà nước khó lòng tìm kiếm được tài trợ về vốn từ các nhà đầu tư và định chế tài chính trung gian để đạt được mục tiêu giữ vị trí then chốt và nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội trong nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta. e. Tình hình thu nợ đối với các khoản vay của DNNN Tình hình thu nợ Đơn vị: Tỷ dồng Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Doanh số cho vay DNNN 1,568 1,800 1,865 1,100 Doanh số thu nợ DNNN 1,418 1,772 1,586 1,076 Doanh số thu nợ cho biết số tiền mà ngân hàng cho vay đã thu về từ số tiền vay đến hạn trả mà ngân hàng đã thu được. Từ bảng số liệu ta thấy rằng khả năng thu hồi vốn của Chi nhánh qua các năm là khá cao, luôn xấp xỉ doanh số cho vay trong năm của Chi nhánh. Cụ thể năm 2004 doanh số cho vay là 1,568 tỷ đồng, doanh số thu nợ đạt 1,418 tỷ đồng. Năm 2005 doanh số cho vay đạt 1,800 tỷ đồng và doanh số thu nợ tăng lên hẳn so với năm trước là 1,772 tỷ đồng; đặc biệt năm 2007 doanh số cho vay là 1,100 tỷ đồng và thu nợ đạt rất cao là 1,076 tỷ đồng. Càng ngày doanh số thu nợ càng đạt tỷ lệ cao so với doanh số cho vay của Chi nhánh, một thực tế rằng tại NHCTĐĐ tình hình thu nợ đạt tỷ lệ cao hơn hẳn so với các NHTM trong địa bàn là do phương hướng hoạt động kinh doanh của Chi nhánh là chất lượng tín dụng là mục tiêu hàng đầu chứ không phải tăng trưởng dư nợ như trước đây. Xét tình hình thu nợ theo kỳ hạn tín dụng: tỷ lệ giữa thu nợ và cho vay của Chi nhánh trong ngắn hạn vẫn luôn lớn hơn nhiều so với trung và dài hạn. Lý do chủ yếu vẫn là các khoản vay ngắn hạn thường ít rủi ro hơn các khoản cho vay trung và dài hạn, việc thu nợ trong ngắn hạn luôn hiệu quả hơn. Trong khi tỷ lệ giữa thu nợ và cho vay ngắn hạn luôn đạt ở mức cao trên 87% trong 4 năm qua thì tỷ trọng thu hồi vốn trung và dài hạn trong 4 năm 2004, 2005, 2006 và 2007 theo thứ tự là 18.22%, 74.3%, 77.5%, và 82.45% tuy nhiên tỷ lệ thu nợ trung và dài hạn có xu hướng tăng lên nhưng mức tăng vẫn chưa nhanh. g. Tỷ lệ lợi nhuận khối DNNN đóng góp trong tổng lợi nhuận của Chi nhánh Trong những năm gần đây, thực hiện sự chỉ đạo của NHCTVN về việc tăng cường, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng, nghiên cứu thị trường, đưa ra mức phí phù hợp. Do đó chi nhánh đã hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu được giao về thu phí dịch vụ. Đáp lại nỗ lực của Chi nhánh trong việc quảng bá, giới thiệu những loại hình sản phẩm dịch vụ các DNNN đã tham gia nhiều dịch vụ tại Chi nhánh như chuyển khoản, ủy quyền, trả lương cán bộ công nhân viên qua tài khoản ATM, sử dụng thẻ Visa – Master. Hoạt động dịch vụ với các DNNN đã đem lại hàng chục tỷ đồng cho chi nhánh chiếm một tỷ lệ đáng kể trong lợi nhuận toàn Chi nhánh. Với các dịch vụ hiện tại mặc dù chưa thể đáp ứng được mọi nhu cầu của khách hàng nhưng nhìn chung vẫn giúp các DNNN hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Để đáp lại niềm tin của khách hàng, Chi nhánh luôn cố gắng hoàn thiện hơn nữa hoạt động dịch vụ để hoạt động này ngày càng chính xác, nhanh chóng và an toàn, tiện lợi…cho các bên tham gia. 2.3. Đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay DNNN tại Chi nhánh 2.3.1. Thành tựu đã đạt được NHCTCNĐĐ trong thời gian qua không ngừng phát triển và cả phạm vi và quy mô chất lượng hoạt động tín dụng đối với các thành phần kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách cân đối và ổn định. Trong thành tích chung đó trong những năm qua, HQCV với khối DNNN tại Chi nhánh đã dần được nâng cao. Thứ nhất, quy mô hoạt động tín dụng đối với các DNNN thực hiện theo định hướng giảm về chiều rộng – tăng về chiều sâu. Nhờ đó mà HQCV DNNN đã được cải thiện. Chi nhánh đã phần nào đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các DN, góp phần mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh của DN trên thị trường trong nước và quốc tế, cũng như góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và ổn định. Sự tăng trưởng này, Chi nhánh hàng năm luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch lợi nhuận được giao và thực hiện tốt nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước của mình. Thứ hai, Chi nhánh đã tạo lập và duy trì tốt mối quan hệ tín dụng với các khách hàng truyền thống và ngày càng chuyển dịch theo hướng tập trung chủ yếu vào khách hàng hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, có uy tín cao. Đặc biệt, Chi nhánh đã thiết lập được môi quan hệ thường xuyên, lâu dài và có sự tín nhiệm nhất định với một số Tổng công ty và công ty lớn. Có thể nói đây là một trong những yếu tố đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng của Chi nhánh trong thời gian qua cũng như trong tương lai. Thứ ba, Cơ cấu cho vay của Chi nhánh đã có những đổi mới thích hợp gắn liền với việc phát triển kinh tế đất nước, cho vay theo dự án đối với các công ty lớn hoạt động trong những ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như Tổng công ty xây dựng công trình giao thông số 8, Xí nghiệp dược phẩm TWI, Công ty Cao Su Sao Vàng, Nhà máy ô tô 3 – 2... mang lại sự phát triển cho DN cũng như góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng rất chú trọng vào việc đảm bảo chất lượng của sự mở rộng ấy, hạn chế tối đa nợ quá hạn mới phát sinh còn những khoản nợ quá hạn của các năm trước Chi nhánh đã tích cực áp dụng nhiều biện pháp để xử lý để thu hồi lại vốn, thực hiện giãn nợ, giảm lãi suất nợ quá hạn đối với các DN đang gặp khó khăn nhưng có khả năng sẽ trả hết các khoản nợ quá hạn. Ngoài ra, đối với những đối tượng khách hàng có hiện tượng chây ỳ, không muốn trả nợ Chi nhánh cũng có những biện pháp cứng rắn cùng với Ban xử lý nợ tồn đọng để có cách thu hồi vốn góp phần hạn chế tổn thất cho Chi nhánh, lành mạnh tình hình tài chính, nâng cao uy tín và vị thế của Chi nhánh trên thị trường. Thứ tư, Chi nhánh đã tiến hành thẩm định, tổ chức quản lý các hoạt động tín dụng ngày càng hoàn thiện hơn bằng cách nâng cao trình độ của CBTD cũng như hiện đại hoá hệ thống thông tin trong quản lý như: Quy trình xử lý nghiệp vụ cho vay trên Incas... Nhờ vậy mà Chi nhánh nói riêng cũng như hệ thống NHCTVN đã quản lý, giám sát các khoản tín dụng một cách chặt chẽ trong tất cả các khâu từ khi thẩm định dự án, theo dõi quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng cho đến khi khách hàng trả hết nợ và lãi cho Ngân hàng. Cuối cùng, công tác phục vụ khách hàng có nhiều đổi mới: Hoạt động Marketing phát triển mạnh mẽ cùng phong cách phục vụ giao dịch văn minh, lịch sự của đội ngũ cán bộ đã thực sự tạo được ấn tượng tốt và tạo niềm tin cho khách hàng, tăng số lượng khách hàng va mở rộng thị phần. Có được những thành tựu trên nhờ quán triệt chỉ đạo của các cấp, ban lãnh đạo, phương thức làm việc hiệu quả và sự hợp tác với các DNNN ngày càng tốt cùng với sự nỗ lực không ngừng của tập thể cán bộ công nhân viên tại Chi nhánh. Bên cạnh những thành tích đó, chúng ta cũng phải xem xét một số khó khăn và những vấn đề còn tồn tại để rút ra những bài học kinh nghiệm, tìm ra những giải pháp để nâng cao hơn nữa HQCV đối với DNNN trong những năm tiếp theo. 2.3.2. Các hạn chế và nguyên nhân Mặc dù NHCTVN nói chung và Chi nhánh nói riêng đã có nhiều cố gắng từng bước đổi mới, hiện đại hoá Ngân hàng nhưng trong quá trình thực hiện gặp rất nhiều khó khăn. Trong hoạt động cho vay DNNN cũng không tránh khỏi những hạn chế đó. 2.3.2.1. Các hạn chế Thứ nhất, về đối tượng cho vay, chất lượng khoản vay. Dư nợ DNNN vẫn còn cao, theo đó rủi ro tiềm ẩn với ngân hàng vẫn lớn. Mặc dù những khoản cho vay DNNN có TSĐB có xu hướng tăng nhưng vẫn còn nhiều hoạt động cho vay không có TSĐB. Tuy đây không phải là chỉ tiêu chính để đánh giá HQCV cũng như sự an toàn của khoản vay nhưng trước sự biến đổi bất thường của thị trường hiện nay thì việc cho vay không có TSĐB cũng rất đáng lo ngại. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Chi nhánh chưa thực sự đạt được hiệu quả cao, qua phân tích trên có thể thấy rằng Chi nhánh chỉ thực sự quan tâm tới tín dụng ngắn hạn. Đây là điều mà Chi nhánh cần lưu ý bởi khi tín dụng được mở rộng sẽ làm cho các hoạt động khác của Ngân hàng cũng có sự chuyển biến như hoạt động thanh toán, hoạt động dịch vụ ngân hàng, bảo lãnh… Quy mô cho vay trung và dài hạn chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, nhiều dự án trung – dài hạn mới chỉ dừng lại ở hợp đồng chứ chưa thể giải ngân được. Chúng ta thấy rằng an toàn vốn là điều rất quan trọng nhưng nếu ngân hàng muốn mở rộng quy mô tín dụng và đặc biệt là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn thì vấn đề an toàn vốn khó có thể đạt được vì rủi ro tín dụng đối với cho vay trung – dài hạn thường rất lớn. Thứ hai, về quy trình thẩm định tín dụng, đánh giá khách hàng chủ yếu dựa trên sổ tay tín dụng và tính một cách thủ công nên mất nhiều thời gian và khó có thể đạt được sự khách quan khi xem xét các chỉ tiêu mang tính định tính. Công tác thẩm định, đánh giá khách hàng tại Chi nhánh là do mỗi CBTD phải phụ trách nhiều khách hàng nên không thể giám sát một cách thường xuyên và trong quá trình thẩm định lại khách hàng thì CBTD thường chỉ thẩm định qua các BCTC khách hàng mang đến. Một DN thường có nhiều BCTC khác nhau nên thông tin trên BCTC này cũng là một vấn đề cần quan tâm. Thứ ba, vấn đề thông tin về khách hàng. Chi nhánh thường không có đầy đủ các thông tin chính xác về khách hàng. Chi nhánh còn gặp nhiều khó khăn trong công tác thu thập, xử lý thông tin. Thứ tư, về nghiệp vụ và kinh nghiệm của CBTD. Kinh doanh ngân hàng là một nghề đòi hỏi cao về kỹ năng chuyên môn và kinh nghiệm công tác. Nhưng kinh nghiệm lại chỉ có thể tích lũy trong thời gian công tác vì vậy đòi hỏi kinh nghiệm với lực lượng cán bộ trẻ là một yêu cầu khó có thể đáp ứng. Hiện tại Chi nhánh có đội ngũ CBTD khá trẻ và làm công tác tín dụng chưa lâu, đối với các cán bộ trẻ thì hạn chế lớn nhất là kinh nghiệm nhưng đổi lại họ có tinh thần học hỏi rất cao, năng động, nhiệt tình trong công tác. Việc đội ngũ CBTD không đồng đều có thể làm cho chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng. Thứ năm, về tài sản thế chấp cầm cố không đáp ứng đủ chất lượng. Thế chấp, cầm cố tài sản là phương thức đảm bảo tiền vay phòng khi khách hàng không còn khả năng thanh toán thì Ngân hàng vẫn có thể thu hồi được vốn, một mặt để chống đỡ các tổn thất khi khách hàng không trả được nợ, một mặt khuyến khích các DN sử dụng tiền vay có hiệu quả hơn… Hiện tại khó khăn chung của các Ngân hàng khi thực hiện hoạt động này là sự hạn chế về thông tin thị trường, chưa có tổ chức định giá tín nhiệm nên khó xác định giá trị thị trường của tài sản. Thứ sáu, về công tác Marketing ngân hàng tuy Chi nhánh đã đạt được những kết quả, thành công bước đầu nhưng vẫn có nhiều hạn chế, điều này ít nhiều ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của dư nợ. Ngoài ra, quy mô cho vay ngoại tệ còn bị hạn chế, phần lớn khách hàng vay ngoại tệ là các DN hoạt động sản xuất kinh doanh phải nhập khẩu các nguyên liệu quý hiếm nhưng Chi nhánh không đáp ứng nhu cầu mua ngoại tệ của khách hàng. Và tỷ trọng cho vay ngoại tệ còn quá thấp do tình hình huy động ngoại tệ của Chi nhánh. Những hạn chế nêu trên về chất lượng tín dụng của Chi nhánh do nhiều nguyên nhân về phía ngân hàng cũng như một số nguyên nhân khách quan. 2.3.2.2. Các nguyên nhân a. Các nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, cơ chế cho vay còn nhiều bất cập. Trước hết là các điều kiện vay vốn như việc đảm bảo tiền vay hiện đang là nguyên nhân chính ngăn cản các DNNN vay vốn ngân hàng. Các DN khi muốn vay vốn của ngân hàng thì phải có TSĐB như máy móc thiết bị, quyền sử dụng đất… đặc biệt đối với các tài sản bất động sản thì Chi nhánh gặp khó khăn trong việc định giá các tài sản này, thường là đánh giá thấp hơn nhiều so với giá cả thị trường. Bên cạnh đó là việc quy định của Ngân hàng quy định chỉ cho vay khoản vốn không lớn hơn 70% giá trị TSĐB làm cho các DN thực sự bị hạn chế trong việc vay vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Về mặt thủ tục vay vốn, Chi nhánh chưa niêm yết công khai quy trình vay vốn, các thủ tục cần thiết tại các phòng Khách hàng như một số NHTMCP. Điều này có thể gây khó khăn cho khách hàng khi tiếp cận với ngân hàng. Thứ hai, quy trình thẩm định hiện nay còn nhiều vấn đề. Để thực hiện một món vay thì CBTD là người thực hiện hầu như tất cả các công đoạn họ phải thu thập thông tin về khách hàng, tiến hành phân tích đánh giá khách hàng, tính khả thi, khả năng trả nợ của phương án, kiểm tra các TSĐB tiền vay về giá trị và tính hợp pháp của tài sản và xử lý tài sản trong điều kiện cần thiết. Sau khi đã thẩm định về khách hàng vay vốn và các vấn đề liên quan đến phương án vay vốn, CBTD lập tờ trình thẩm định, có ý kiến đề xuất về việc cho vay hay không. Với quy trình tín dụng như vậy thì trách nhiệm của CBTD là quá lớn và họ khó có thể tránh khỏi các sai sót. Vì thế nên đạo đức và trực giác của người CBTD sẽ quyết định rất nhiều tới HQCV của ngân hàng. Thứ ba, Chi nhánh không có thông tin về khách hàng một cách đầy đủ và chính xác. Một phần là do cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thu thập và xử lý thông tin còn nhiều hạn chế khiến cho CBTD nhiều khi không thu thập được thông tin đầy đủ và kịp thời cần thiết cho công tác thẩm định tín dụng. Ngoài ra Chi nhánh còn gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm tra tính chính xác, trung thực của nguồn thông tin mà khách hàng gửi đến. Nhiều khi những thông tin do khách hàng cung cấp cho ngân hàng chỉ là những thông tin để đối phó với ngân hàng, để đảm bảo đủ điều kiện cho vay vốn. Chính công tác thu thập thông tin dựa vào số liệu của khách hàng cung cấp qua các BCTC có nhiều lúc là không chính xác, phản ánh một cách sai lệch tiềm lực tài chính của khách hàng. Do vậy, nếu công tác thu thập thông tin không tốt sẽ dẫn đến việc đánh giá không đúng hiệu quả của dự án cũng như khả năng của khách hàng. Còn hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng giữa Chi nhánh và NHCTVN cũng như NHNN chưa đáp ứng được yêu cầu trong việc xét duyệt, cho vay và quản lý vốn vay đối với các khách hàng nên chưa đóng vai trò là nguồn thông tin chủ lực. Vì vậy, vẫn không tránh khỏi được các rủi ro trong hoạt động cho vay. Nhưng gần đây, với sự đầu tư về hạ tầng công nghệ và con người các trung tâm này ngày càng khẳng định được vị trí của mình. Trong năm qua, hiệu quả thông tin của trung tâm thông tin tín dụng NHNNVN (CIC) đã có những cải tiến đáng kể: với thông tin cảnh báo định kỳ về danh sách khách hàng có quan hệ tín dụng tại nhiều tổ chức tín dụng, tình hình tài chính…đây là những thông tin cực kỳ hữu ích trong xét duyệt, thẩm định khách hàng – một kênh cung cấp thông tin hiệu quả. Minh chứng rõ nhất là khối ngân hàng thương mại cổ phần trong năm qua đã sử dụng rất hiệu quả kênh thông tin này thể hiện qua thống kê của CIC năm 2005 như sau: Khối NHTMNN chỉ khai thác 16.809 bản tin (bằng 83.4% năm 2004) trong khi khối NHTM cổ phần khai thác 40.346 bản tin (tăng hơn 2 lần so với năm 2004); các công ty tài chính và ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài khai thác tăng 10 đến 11 lần so với năm 2004. Thống kê này cũng phản ánh một hiện thực chung của các NHTMNN là chưa có thói quen sử dụng những kênh thông tin hiện đại tất nhiên quy mô của CIC hiện tại chưa thể đáp ứng được hết mọi khách hàng nhưng những gì mà CIC làm được trong năm qua đáng để các TCTD quan tâm. Thứ tư, về hình thức tín dụng và đối tượng cho vay tại Chi nhánh cho vay chủ yếu vẫn là cho vay theo từng lần và cho vay theo hạn mức, và khách hàng chủ yếu vẫn là các DN quốc doanh. Thứ năm, trình độ cán bộ ngân hàng đã được chuẩn hóa ở một mức nhất định. Hiện nay tại Chi nhánh có 55 cán bộ làm công tác tín dụng, trong đó hầu hết có trình độ đại học chuyên ngành, có 4 cán bộ có bằng thạc sỹ, bố trí tại các phòng khách hàng1, khách hàng 2, phòng KH cá nhân, và phòng giao dịch, như vậy lượng CBTD của Chi nhánh là chưa đáp ứng được nhu cầu. Ngoài ra có nhiều cán bộ trẻ, một số vừa ra trường, hết thời gian tập sự là phải tiếp cận giữ đơn vị ngay, nên còn nhiều hạn chế, chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý nghiệp vụ cũng như khả năng làm việc, tiếp xúc với khách hàng mà chủ yếu là lãnh đạo các DN. Khách hàng khi đến với ngân hàng thuộc nhiều ngành nghề kinh doanh khác nhau nên đòi hỏi CBTD có một sự hiểu biết nhất định về các ngành nghề đó điều này đòi hỏi một sự nỗ lực rất lớn của cá nhân mỗi CBTD trong việc tự tìm hiểu các loại kiến thức liên quan. Tuy nhiên, một CBTD phụ trách thường là nhiều khách hàng, các khách hàng này lại thuộc các ngành nghề kinh doanh khác nhau thì để quản lý tốt các khách hàng cũng rất khó khăn. Thứ sáu, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ của Chi nhánh cần thường xuyên hơn. Đội ngũ cán bộ phòng kiểm tra còn ít với khối lượng công việc đảm đương là rất lớn. Ngoài ra, việc xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghệ chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến mức độ trang bị và ứng dụng công nghệ vẫn còn thấp. Với hệ thống Incas hiện tại nếu đầu tư thêm các phần mềm bổ trợ thì có thể triển khai việc kiểm tra, giám sát từ xa một cách hiệu quả. Cuối cùng, trong hoạt động Marketing ngân hàng: Chi nhánh mới chỉ tập trung vào các hoạt động như quảng cáo, khuyếch trương còn việc áp dụng Marketing vào việc phân tích thị trường, nghiên cứu khách hàng nhằm nâng cao chất lượng các dịch vụ còn chưa tốt, cũng như chưa có các biện pháp tích cực để thu hút thêm khách hàng. b./ Các nguyên nhân khách quan Đây là các nguyên nhân từ phía khách hàng cũng như từ môi trường kinh doanh ảnh hưởng tới HQCV của ngân hàng. Thứ nhất, khách hàng không đủ điều kiện vay vốn của ngân hàng. Đây là nguyên nhân cho các khách hàng phải làm các báo cáo giả trong hồ sơ tín dụng do không đáp ứng đủ các điều kiện về vốn tự có, về tài sản thế chấp, về tính khả thi của dự án. Trong tín dụng trung và dài hạn tỷ lệ vốn tự có của khách hàng tham gia đầu tư phải đảm bảo từ 30 – 50% tổng vốn đầu tư dự án. Khách hàng cung cấp các thông tin về tình hình SXKD về tài chính không đầy đủ, thiếu chính xác hoặc không kịp thời, gây khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát của ngân hàng. Thứ hai, khả năng quản lý của chủ DN còn nhiều hạn chế. Do đặc thù những khách hàng lớn thường có mô hình quản lý phức tạp, qua nhiều cấp trung gian kết hợp với địa bàn SXKD dàn trải (ví dụ như khối xây dựng cơ sở hạ tầng) nên trong hoạt động quản lý của DN gặp rất nhiều khó khăn ảnh hưởng đến hiệu quả SXKD. Thứ ba, về môi trường pháp lý. Sự ra đời của luật NHNN và luật các tổ chức tín dụng đã tạo ra một hành lang pháp lý cho hoạt động của các NHTM, định hướng hoạt động kinh doanh của ngân hàng có hiệu quả và đúng pháp luật. Tuy nhiên, hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của ngành ngân hàng đã được cải tiến nhiều nhưng vẫn còn chưa được đầy đủ và thiếu tính khoa học, có những sự chồng chéo chưa đồng bộ làm cho việc xử lý theo đúng luật này lại mâu thuẫn với bộ luật kia. Ở nước ta hiện nay chưa có luật sở hữu và những văn bản dưới luật về lĩnh vực này. Hệ thống pháp luật ban hành không đồng bộ và không phù hợp với yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Thực tế các cơ quan chịu trách nhiệm cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý Nhà nước đối với thị trường bất động sản chưa thực sự rộng khắp việc cấp giấy sở hữu hoặc sử dụng tài sản. Do đó, thế chấp và xử lý tài sản thế chấp vay Ngân hàng có rất nhiều khó khăn phức tạp. Pháp lệnh kế toán thống kê, các chuẩn mực kế toán của bộ tài chính chưa đủ hiệu lực bắt buộc khách hàng thực hiện chế độ hạch toán chính xác kịp thời, việc thanh toán không kịp thời, sổ sách chứng từ sơ sài, các số liệu quyết toán và BCTC chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc, số liệu phản ánh không chính xác thực trạng tình hình SXKD tài chính của khách hàng. Mặt khác, hệ thống ngân hàng hiện nay ở nước ta hoạt động không có sự thống nhất về nhiều mặt như về lãi suất hoặc các điều kiện vay vốn, mặc dù cạnh tranh là động lực cho phát triển nhưng trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ này lại có đặc biệt của nó và đặc biệt là trong cạnh tranh lãi suất trong thời gian cuối năm 2005 đã làm cho các ngân hàng bị thất bại nặng nề khi các NHTMNN khác đã chấp nhận bản cam kết về lãi suất của hiệp hội các ngân hàng Việt Nam nhưng cuối cùng khi ký xong đã không thực hiện làm cho làn sóng cạnh tranh lãi suất cứ thế tiếp diễn nếu không có sự can thiệp của NHNN thì tình hình hoạt động ngân hàng sẽ có nhiều sự thay đổi cụ thể là có nhiều ngân hàng cổ phần sẽ sụp đổ và kéo theo sự xuống dốc của NHTMNN ở Việt Nam. Các nguyên nhân cơ bản trên đây tác động đan xen với nhau, không tách rời. Một hậu quả có thể do nhiều nguyên nhân làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao HQCV DNNN của ngân hàng, nợ quá hạn, nợ khó đòi liên tục tăng trong thời gian gần đây. Tóm lại, toàn bộ chương 2 đã tập trung phân tích thực tiễn hoạt động cho vay với một số chỉ tiêu đánh giá hoạt động cho vay DNNN để thấy những thành công đã và đang là động lực phát triển của ngân hàng đồng thời cũng thấy được những hạn chế và khó khăn, nguyên nhân tác động tới HQCV DNNN mà Chi nhánh đang gặp phải, và từ đó có các biện pháp để khắc phục hạn chế đó trong chương tiếp theo. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI NHCT CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA 3.1. Phương hướng phát triển của NHCTCNĐĐ đối với hoạt động cho vay DNNN 3.1.1. Phương hướng phát triển DNNN ở nước ta Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần 3 khóa IX đã xác định phương hướng cụ thể cho việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN như sau: * Sắp xếp, tổ chức lại sao cho DNNN thông qua cổ phần hóa, công ty hóa sao cho có cơ cấu hợp lý, hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Phát triển đồng đều các lĩnh vực giúp Nhà nước chi phối, điều khiển được sự phát triển của nền kinh tế, đảm bảo ổn định vĩ mô và cân đối nền kinh tế. * Nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm trong việc xây dựng các mô hình mới, nhất là mô hình các tập đoàn kinh tế, tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Đây là hai mô hình rất mới mẻ ở nước ta, sự ra đời của chúng cũng rất khác so với các nước trên thế giới, trong khi môi trường pháp lý lại chưa có hoặc còn quá thiếu. Sự thành công của chúng sẽ mở ra xu hướng phát triển mới đối với các DNNN, tạo sức phát triển mới trong cạnh tranh quốc tế và giữ được vai trò là công cụ vật chất để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô. Nếu không thực hiện đồng bộ và hiệu quả việc này sẽ kéo theo sự đổ vỡ, tổn thất về kinh tế và xã hội rất lớn, thậm chí không hình dung nổi. Hơn 16 năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã rút được nhiều bài học cả thành công và chưa thành công trong quá trình đi lên. Không ít lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội đã áp dụng máy móc 'cái mới' của nước ngoài, không ít trường hợp rơi vào tình trạng 'cũ người mà mới ta'... nhưng chậm được phát hiện. Do đó, chúng ta phải rất thận trọng trong chỉ đạo xây dựng thí điểm các mô hình này nhằm tránh những vấp váp, sai lầm. Nhưng không vì thế mà lại rơi vào tình trạng do dự, cầu toàn. * Cùng với việc kiện toàn đội ngũ cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp, phải tiếp tục đổi mới cơ chế nhằm thu hút, quy tụ người có tài, tận tâm với công việc được cống hiến, phát huy năng lực, sở trường, với sự đãi ngộ thỏa đáng. Khi đã xác định rõ ràng những lĩnh vực Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, thì phải tạo lập kịp thời cơ chế để đảm bảo đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp hoạt động. Qua rà soát hơn 5.000 DNNN, hầu hết trong số này đang trong tình trạng thiếu vốn điều lệ. Điều đó đã gây không ít trở ngại to lớn đối với các doanh nghiệp, nhất là trong khi các đối thủ cạnh tranh với DNNN lại có số vốn lớn hơn nhiều lần. Ngay cả các tổng công ty mạnh đang được chúng ta xây dựng thành các tập đoàn kinh tế, nếu so về vốn, thì cũng đang thua kém rất nhiều các tập đoàn kinh tế cùng ngành nghề của các nước đang làm ăn ở ta. Trong điều kiện hiện nay, chúng ta đang có cơ hội để tăng vốn cho các DNNN. Các DNNN còn lại không nhiều trong khi Nhà nước đang nắm giữ nguồn vốn thu được từ cổ phần hóa. Bởi vậy, nếu thực hiện tốt cơ chế tăng vốn thì các doanh nghiệp sẽ chủ động và hoạt động hiệu quả hơn. * Đồng thời với việc tích cực rà soát để sửa đổi, bổ sung các văn bản đã có và ban hành các văn bản pháp quy khác liên quan đến đổi mới và phát triển doanh nghiệp, trong đó có DNNN, đúng chương trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của Quốc hội, Thường vụ Quốc hội và Chính phủ cần xử lý thỏa đáng những vấn đề, những công việc ách tắc, hoặc những hậu quả cũ. 3.1.2. Phương hướng, mục tiêu hoạt động cho vay DNNN của Chi nhánh Dựa trên phương hướng mục tiêu của NHCTVN, Chi nhánh hoạt động chủ yếu trên địa bàn quận có uy tín lâu nay nên thu hút được nhiều khách hàng lớn trong đó có cả những công ty, tổng công ty lớn, vì thế nguồn vốn huy động và dư nợ tăng trưởng liên tục qua các năm. Tuy nhiên, nguồn vốn huy động của Chi nhánh lại chủ yếu là loại không kỳ hạn nên Chi nhánh luôn bị động trong hoạt động cho vay và đầu tư. Xuất phát từ định hướng chung của NHCTVN là “Phát triển – an toàn – hiệu quả” trong thời gian tới hoạt động cho vay DNNN của Chi nhánh đi theo hướng sau: * Chi nhánh tiếp tục tổng kết tình hình cho vay DNNN từ đó đưa ra chính sách tín dụng, phương pháp phân tích đánh giá khách hàng, phương thức quản lý tín dụng hợp lý. Duy trì mức tăng trưởng trong huy động vốn và cho vay ở mức hợp lý đồng thời thiết lập, củng cố và duy trì các mối quan hệ thường xuyên với các khách hàng truyền thống, khách hàng lớn và đồng thời tìm kiếm các khách hàng có tiềm năng. Duy trì mối quan hệ theo nguyên tắc cả hai cùng có lợi “lấy hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của Ngân hàng” và “thành công của khách hàng là thành công của ngân hàng”. * Thực hiện đa dạng hoá các phương thức cho vay vì hiện nay phương thức cho vay chủ yếu là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của các khách hàng có tình hình kinh doanh lành mạnh. Góp phần thúc đẩy quá trình SXKD tại các DN này và từ đó nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân. Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa phương thức cho vay đồng tài trợ đối với các nhu cầu vay lớn của khách hàng đặc biệt là các dự án trọng điểm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương. Chi nhánh đã sử dụng phương thức cho vay này nhưng chưa nhiều vì một phần là do các dự án đến trình xin vay tại Chi nhánh là không quá lớn, Chi nhánh đã thực hiện cho vay đồng tài trợ cùng với Ngân hàng VCB chi nhánh Quảng Ninh trong công trình vay vốn tài trợ xây cầu đường của Công ty xây dựng Đông Bắc. * Thực hiện tăng trưởng tín dụng đi đôi với an toàn và hiệu quả, tiếp tục thực hiện các biện pháp để giải quyết nợ quá hạn, cơ cấu lại dư nợ cho vay DNNN và duy trì tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1%. Đồng thời thực hiện tăng cường thu hút tiền gửi ngoại tệ của khách hàng, vận động các DN có hàng xuất khẩu mở tài khoản tiền gửi tại Chi nhánh và sử dụng các dịch vụ thanh toán quốc tế tại Chi nhánh. Tăng tỷ trọng cho vay có TSĐB đối với DNNN. Việc tăng tỷ trọng này không chỉ có ý nghĩa với Chi nhánh mà còn tạo động lực để các DNNN tăng vốn chủ sở hữu thông qua việc nâng cao hiệu quả SXKD. * Đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và đồng thời tăng cường đào tạo thêm nghiệp vụ cho các cán bộ cũng như phẩm chất đạo đức của cán bộ ngân hàng. Tăng cường kiểm tra kiểm soát nội bộ. Các chỉ tiêu kinh doanh cụ thể: - Nguồn vốn huy động đến 31/12/2008 đạt: 3500 tỷ đồng. - Tổng dư nợ đạt: 2400 tỷ đồng. - Dư nợ trung và dài hạn đạt: 40% - Tỷ lệ nợ quá hạn: 1% - Lợi nhuận hạch toán đạt : 80 tỷ đồng Tiếp tục thực hiện chương trình tái cơ cấu, cơ cấu lại bộ máy điều hành hoạt động tín dụng gọn nhẹ, năng động và hiệu quả hơn nhằm đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Căn cứ vào phương hướng phát triển hoạt động cho vay đối với DNNN và những tồn tại trong hoạt động này tại Chi nhánh mà ta có những giải pháp để nâng cao hoạt động cho vay, phát huy được tốt nhất vai trò – vị thế của ngân hàng trong nền kinh tế. 3.2. Giải pháp nâng cao HQCV DNNN tại NHCT Chi nhánh Đống Đa 3.2.1. Xây dựng chiến lược kinh doanh cụ thể và dài hạn, hướng vào khách hàng trên cơ sở khảo sát điều tra thị trường toàn diện và chi tiết Trong bối cảnh mà sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ ngày càng trở nên gay gắt thì việc xây dựng một chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ giúp cho hoạt động của Chi nhánh vận hành hiệu quả và thuận lợi. Để có một chiến lược kinh doanh hiệu quả thì điều kiện cần thiết đầu tiên là nhà hoạch định phải có được trong tay những thông tin chính xác, đầy đủ về thị trường gồm những thông tin về phân đoạn khách hàng, hành vi của từng nhóm khách hàng trên các phân đoạn đó, quy mô, tính chất, tốc độ phát triển của các nhóm, các đối thủ cạnh tranh chủ yếu và tiềm năng trên từng phân đoạn, khả năng thâm nhập thị trường của các đối thủ mới đặc biệt là các đối thủ từ nước ngoài... Tuy nhiên, một thực tế rõ ràng là hầu hết các Ngân hàng Việt Nam đều xây dựng chiến lược kinh doanh mà không tiến hành các nghiên cứu thị trường một cách toàn diện và việc nghiên cứu thị trường chưa được tiến hành một cách bài bản. Điều đó đã dẫn tới tính mơ hồ, chung chung của các chiến lược kinh doanh, làm phân tán nguồn lực của các Ngân hàng thể hiện ở việc đầu tư dàn trải, manh mún và tự phát, không có hệ thống và định hướng gây lãng phí nguồn lực. Sự quá giống nhau trong chiến lược kinh doanh của các Ngân hàng đã dãn tới sự cạnh tranh gay gắt quá mức và có dấu hiệu không lành mạnh, làm yếu đi sức mạnh của từng Ngân hàng cũng như của toàn hệ thống trong khi vẫn còn nhiều mảng thị trường đang bị bỏ ngỏ. Không có một Ngân hàng nào có lợi thế tuyệt đối trên tất cả các mảng thị trường. Vì vậy, các Ngân hàng Việt nam nói chung, Chi nhánh NHCT Đống Đa nói riêng cần xây dựng một tầm nhìn, một chiến lược kinh doanh dài hạn, chủ động tìm hiểu nhu cầu của khách hàng để có thể đa dạng hoá sản phẩm, đầu tư vào những phân đoạn thị trường mà Chi nhánh có thể nhằm định vị được sản phẩm trên thị trường mục tiêu, khai thác tối ưu những lợi thế đã có, tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh, có định hướng phát triển rõ ràng, cụ thể. Đây là một việc làm không hề dễ dàng song Chi nhánh lại không thể không làm nếu muốn phát triển hiệu quả và bền vững 3.2.2. Tăng cường công tác huy động vốn để tài trợ cho các DNNN Huy động và sử dụng vốn là hai mặt có quan hệ biện chứng với nhau, có huy động được nguồn vốn mới có cơ sở sử dụng vốn và ngược lại có sử dụng vốn hiệu quả mới tiếp tục bổ sung vào nguồn vốn, mở rộng quy mô kinh doanh. Do vậy, muốn nâng cao HQCV thì ngân hàng phải có các biện pháp tăng cường huy động vốn. Hiện nay, Chi nhánh có nguồn vốn tăng trưởng ổn định qua các năm tuy nhiên quy mô chưa thực sự lớn so với các NHTM khác trên địa bàn. Việc mở rộng nguồn vốn huy động luôn cần thiết và ngân hàng có được đầu vào đủ mạnh mới có khả năng đầu tư vào các dự án, công trình trọng điểm có hiệu quả nhưng cần nguồn tài trợ lớn. Hiện nay Chi nhánh có cơ cấu huy động loại tiền chưa đa dạng, chủ yếu là VND (chiếm từ 80 – 84%), các loại ngoại tệ khác chiếm tỷ lệ còn lại (trong đó USD chiếm 93%). Cơ cấu theo kỳ hạn cũng chưa phong phú, mức lãi suất chưa hấp dẫn. Chi nhánh cần đa dạng hóa các tiền gửi về kỳ hạn với lãi suất linh hoạt, phương thức trả lãi phù hợp: trả lãi trước, trả lãi bậc thang… mở rộng hình thức huy động như huy động bằng vàng, các loại ngoại tệ có giá trị chuyển đổi cao. Điều chỉnh cơ cấu nguồn hợp lý hơn để tạo ra nguồn có chi phí rẻ và đảm bảo khả năng thanh khoản. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của huy động vốn đối với cán bộ công nhân viên nhằm phục vụ nhanh chóng, chính xác, kịp thời mọi nhu cầu giao dịch của khách hàng. Tiếp cận khách hàng mới thông qua việc khoán chỉ tiêu thu hút khách hàng sử dụng tài khoản ATM để trả lương cho nhân viên cho từng CBTD phụ trách các DN đó bên cạnh nỗ lực Marketing chung của Chi nhánh. Vừa tạo được nguồn có chi phí rẻ lại gắn kết được quan hệ của khách hàng với ngân hàng. Một điều mà các Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang làm và rất hiệu quả hiện nay là: thông qua việc cho vay đối với DN, họ sẽ tìm cách thu hút nguồn tiền gửi từ chính những người lao động làm việc trong các DN ấy thông qua việc phát triển tài khoản ATM và các dịch vụ ngân hàng cá nhân hiện đại, tạo được mối quan hệ rất tốt và thực hiện mục tiêu “Bán mềm” đối với những khách hàng này: tức là một khách hàng khi đã sử dụng một dịch vụ của ngân hàng thì sẽ có xu hướng sử dụng tất cả các dịch vụ khác của chính ngân hàng đó và hình thành một mối quan hệ “chung thủy” thông qua nâng cao chất lượng phục vụ (Thành công điển hình là HSBC, Standard Charter bank). Khi phân tích kỹ chiến lược kinh doanh này của các ngân hàng có một điều rất dễ nhận ra là uy tín của họ ngày càng được nâng cao do hiệu quả truyền miệng của khách hàng; Tiếp theo là họ sẽ có chi phí nguồn rất thấp: vì hầu hết các khách hàng của các DN sử dụng dịch vụ cá nhân tại ngân hàng như duy trì tài khoản ATM thường xuyên với số dư lớn, gửi tiền có kỳ hạn nhưng liên tiếp nhau tức là đến hạn nhưng không rút mà gửi tiếp. Như vậy thực tế nhiều khi ngân hàng huy động trên danh nghĩa là kỳ hạn ngắn hạn nhưng thông qua nghiệp vụ chuyển hoán kỳ hạn với các ưu thế trên thì trở thành nguồn trung và thậm chí dài hạn với chi phí cực thấp. Nhờ đó họ lại có ưu thế trong việc tài trợ trung và dài hạn. Các NHTM Việt Nam chưa thực sự chú ý đến điều này. 3.2.3. Thực hiện tốt quy trình tín dụng Cải tiến thủ tục cho vay: cần phải đơn giản hoá thủ tục cho vay, thủ tục gọn nhẹ mà vẫn đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng. Nỗ lực hơn nữa trong việc rút ngắn hơn nữa thời gian xét duyệt hồ sơ xin vay nhưng vẫn đảm bảo HQCV để biến yếu tố này thành một trong những yếu tố cạnh tranh với ngân hàng khác trong việc thu hút khách hàng. Cần nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án cho vay. Thẩm định tài chính dự án cho vay là bước quan trọng trong quy trình tín dụng, nó có tính chất quyết định tới HQCV sau này. Thẩm định tín dụng bao gồm thu thập thông tin và xử lý thông tin. * Về chất lượng thông tin thu thập Chi nhánh có thể thu thập thông tin về khách hàng từ các nguồn khác nhau như phỏng vấn trực tiếp khách hàng, xem xét BCTC, các nguồn thông tin từ dịch vụ, các cơ quan cung ứng thông tin, các phương tiện thông tin đại chúng. Mặc dù nguồn thông tin là khá nhiều nhưng lại không đảm bảo độ chính xác, bởi vậy việc lựa chọn thông tin chính xác và đủ độ tin cậy rất khó. Đối với Chi nhánh, việc thu thập thông tin chủ yếu vẫn là thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp khách hàng, các BCTC, báo cáo kết quả kinh doanh. Đây là nguồn thông tin dễ tìm kiếm và không tốn kém chi phí để thu thập. Tuy nhiên, nếu chỉ thu thập thông tin từ phía khách hàng thì mức độ chính xác là thấp và không đáng tin cậy. Vì vậy, Chi nhánh cần mở rộng phạm vi, thu thập thêm những nguồn thông tin khác. Chi nhánh cần chú ý các nguồn thông tin sau: Thông tin điều tra trực tiếp tại cơ sở sản xuất kinh doanh: Cần nắm bắt được nhịp độ sản xuất chung của DN, mối quan hệ với bạn hàng như thế nào, trách nhiệm và thái độ của công nhân đối với công việc, quan hệ giữa ban lãnh đạo với nhân viên, từ đó CBTD có thể đoán được thông tin mà mình khai thác được là đúng hay sai thông qua thái độ phản ứng của người được phỏng vấn; Thông tin thu thập từ bên ngoài: Chi nhánh có thể thu thập thông tin từ các tổ chức tín dụng, các đối thủ cạnh tranh, các bạn hàng của chủ đầu tư, các DN hoạt động cùng ngành nghề. Qua đó xác định được uy tín và vị thế của khách hàng mình trên thị trường. Chi nhánh có thể thu thập được thông qua các công ty kiểm toán, chi cục thuế. Các thông tin từ các ngân hàng mà trước đây khách hàng đã từng có mối quan hệ, từ các phương tiện thông tin đại chúng. Chi nhánh nên thành lập bộ phận chuyên khai thác thông tin và tập trung nâng cấp các trang thiết bị cho lĩnh vực này. Đặc biệt Chi nhánh nên thành lập bộ phận lưu trữ thông tin khách hàng tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác thông tin tại Ngân hàng và tạo điều kiện cho việc sử dụng thông tin có hiệu quả; Đối với thông tin được cung cấp từ CIC và của NHCTVN: Hệ thống thông tin này được xem là đáng tin cậy vì do Nhà nước quản lý. Thông tin thu thập từ nguồn này mới chỉ có về tình hình về dư nợ, nợ quá hạn phải thanh toán của DN tại Chi nhánh. Vì vậy, Chi nhánh cần thường xuyên cập nhật để có cái nhìn khách quan về khách hàng của mình và cũng để nắm rõ tình hình hoạt động của dự án mà khách hàng đang sử dụng vốn của Chi nhánh. * Phân tích thông tin tín dụng Khi có được các thông tin cần thiết, ngân hàng tiến hành phân tích thông tin để đưa ra quyết định cho vay. Chi nhánh nên phân tích thông tin dựa vào những tiêu thức tài chính và phi tài chính tuỳ theo quy mô của từng DN xin vay. Nói đến khả năng tài chính của khách hàng ngân hàng không chỉ xem xét quy mô hoạt động của DN biểu hiện qua vốn chủ sở hữu, mà bên cạnh đó là phải biết được năng lực SXKD của DN, sức cạnh tranh của hàng hoá mà DN sản xuất ra, triển vọng của DN trong tương lai, từ đó xem xét khả năng trả nợ của khách hàng. Thường xuyên đánh giá tình hình tài chính của khách hàng sẽ giúp Chi nhánh đánh giá tình hình SXKD của khách hàng, xác định được sự vận động của đồng vốn trong DN và từ đó có quyết định đúng đắn trong quan hệ tín dụng nhằm giảm thiểu các rủi ro nâng cao HQCV của ngân hàng. Muốn có HQCV cao thì ngoài việc thẩm định dự án thì cần phải hiểu rõ về khách hàng của mình và về đối tượng đầu tư. Sự hiểu biết đó tuỳ thuộc vào khả năng nắm bắt tình hình tài chính của khách hàng thông qua phân tích BCTC. Phân tích BCTC phải xem xu hướng phát triển của DN theo hướng từ 3 đến 5 năm đồng thời phải so sánh với các DN khác trong cùng ngành nghề kinh doanh và cùng với xu hướng của nền kinh tế. Phân tích BCTC DN là việc làm rất cần thiết và quan trọng trong quá trình đi đến quyết định có cho vay hay không. Hiện nay quy trình xử lý thông tin tín dụng còn mất rất nhiều thời gian, việc xếp hạng tín dụng đôi khi còn thiếu chính xác bởi lẽ với quy trình xếp hạng tín dụng thủ công tùy thuộc vào năng lực và cảm tính của nhân viên tín dụng, do vậy rất dễ dẫn đến tiềm ẩn rủi ro về con người. Nếu có thể trong thời gian sớm nhất Chi nhánh nên áp dụng công nghệ tự động hóa việc phân loại tín dụng (điều mà các ngân hàng ở nhiều nơi trên thế giới đã vận dụng). Ưu điểm nổi bật của phương thức này là nhanh chóng, chi phí thấp và giảm rủi ro. Theo chuyên gia tín dụng của ANZ bank Hà Nội thì “Điểm khác biệt lớn nhất giữa hệ thống thủ công và hệ thống tự động là công nghệ quản trị rủi ro. Đối với ngân hàng nước ngoài điều đó đã được quan tâm từ lâu và họ có nhiều công cụ để thực hiện”. Rủi ro phát sinh từ sai sót và thiên vị cá nhân được loại bỏ tối đa trong hệ thống xếp hạng tự động. Theo đó, các tiêu chí đánh giá được chọn lọc từ thông dữ liệu về khách hàng trong quá khứ, chương trình phần mềm sẽ tự động phân loại khách hàng vào nhóm tín dụng phù hợp nhất. Sau đó kết quả xếp hạng được trả lại trực tiếp tới khách hàng. Thông thường đi kèm với kết quả này là thông báo của ngân hàng về việc chấp nhận hoặc từ chối yêu cầu của khách hàng, các điều kiện về hạn mức và lãi suất… Áp dụng công nghệ như thế ngoài việc giúp ngân hàng rút ngắn thời gian, tăng độ tin cậy tín dụng, nó còn giúp ngân hàng tạo cảm giác thỏa mãn cho khách hàng. 3.2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Trong bất cứ loại hình kinh doanh nào con người vẫn luôn là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành bại của mọi hoạt động. Đặc biệt trong kinh doanh ngân hàng là ngành kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt và đầy các rủi ro, vai trò của con người lại càng được đề cao va phát huy. CBTD phải thể hiện đầy đủ tư cách một người nắm vững trình độ chuyên môn, nhanh nhạy và có tư chất đạo đức và kiến thức xã hội phong phú. Đây là một công tác quan trọng hàng đầu. Các cán bộ kinh doanh cũng tự mình nâng cao trình độ của bản thân để thích nghi với những yêu cầu của thời đại. Chi nhánh cần có định hướng đào tạo, tuyển chọn và sử dụng nguồn nhân lực sao cho phù hợp. Cụ thể là: * Đối với cán bộ quản lý điều hành hoạt động tín dụng Ngoài các kiến thức cơ bản về nghiệp vụ, cần phải nắm chắc các văn bản pháp luật về kinh tế ngân hàng, hiểu rõ các quy định và thể chế của ngành, có khả năng phân tích những sai sót trong văn bản chế độ, từ đó rút ra những ý kiến chỉ đạo bổ sung về nghiệp vụ cho cấp dưới. * Đối với đội ngũ CBTD Các CBTD được tạo điều kiện học hỏi, trau dồi kiến thức, tích luỹ kinh nghiệm cũng như ý thức đạo đức để có thể hoàn thành công việc được xuất sắc. Họ được huấn luyện, tham dự vào các lớp học về giáo dục những phẩm chất cần có của người CBTD, những yêu cầu về trình độ, kỹ năng nghiệp vụ, tác phong làm việc, phong cách phục vụ. Đặc biệt trong năm 2005, Chi nhánh có những bước thay đổi rõ rệt trong công tác đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các CBTD, góp phần tránh những sai lầm không đáng có trong quá trình cho vay. Ngoài ra, cần có chế độ phân định rõ ràng giữa quyền hạn và trách nhiệm, các CBTD còn được hưởng chế độ ưu đãi, khen thưởng thích hợp, tạo phấn khích, thi đua trong công việc, đồng thời có chế độ kỷ luật nghiêm khắc với những cán bộ có hành vi tiêu cực gây tổn thất cho ngân hàng. Ngân hàng còn chú trọng môi trường làm việc trong sạch, lành mạnh, thân ái giữa các thành viên. Đây là một biện pháp được coi là rất tích cực để đưa Ngân hàng lên những tầm phát triển mới. 3.2.5. Tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ An toàn trong kinh doanh tiền tệ, tín dụng phụ thuộc vào công tác kiểm tra, kiểm soát rất nhiều. Thực tế đã chứng minh tại Chi nhánh trong những năm qua đã coi trong công tác này và hoạt động kiểm tra kiểm soát rất hữu hiệu do vậy những hiện tượng vi phạm mặc dù có nhưng không ở mức độ thường xuyên, phổ biến và nghiêm trọng. Nhưng phải thống nhất một quan điểm là việc kiểm tra kiểm soát tạo điều kiện cho kinh doanh hiệu quả hơn, thuận lợi hơn chứ không phải mang tính xử phạt và gây phiền hà ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh. Trong thực tế, việc giám sát vốn vay của khách hàng lại tuỳ thuộc vào khả năng trình độ của từng CBTD. Vì vậy, phải tăng cường hiệu quả của giám sát vốn vay trong hoạt động của Chi nhánh, nhiệm vụ của bộ phận giám sát là đánh giá tình hình hoạt động nói chung, chất lượng tín dụng nói riêng để đưa ra các biện pháp nhằm thiết lập hệ thống phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra với hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Tăng cường công tác kiểm tra soát nội bộ là một vấn đề có ý nghĩa cho sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Tất cả các cán bộ lãnh đạo, nhân viên của ngân hàng phải nhận thức đầy đủ và tạo điều kiện cho đội ngũ kiểm tra viên hoàn thành nhiệm vụ thì chất lượng tín dụng cũng như chất lượng kinh doanh mới được nâng cao. 3.2.6. Áp dụng công nghệ hiện đại, tin học hóa hoạt động cho vay Trong nền kinh tế tri thức, tốc độ xử lý thông tin là rất quan trọng. Sẽ là khập khiễng khi ta thực hiện phép so sánh giữa các NHTMVN và các ngân hàng nước ngoài về trình độ công nghệ thông tin nhưng không vì thế mà ta bỏ qua những gì đang diễn ra. Sở dĩ nói như vậy là vì không lâu nữa – theo dự báo là vào mùa thu năm nay Việt Nam sẽ ra nhập WTO, lĩnh vực ngân hàng sẽ dần phải mở cửa hoàn toàn khi đó các NHTM nước ngoài sẽ tràn vào với sức mạnh của họ thì sự chịu đựng trong cạnh tranh của các NHTMVN là rất khó khăn. Theo quan điểm một số NHTMVN cho rằng khi đó chúng ta chỉ có một lợi thế duy nhất là hiểu được văn hóa bản địa của dân tộc mình nhưng theo khẩu hiệu hoạt động của tập đoàn ngân hàng hàng đầu của Anh Quốc đang hoạt động tại Việt Nam là HSBC “ngân hàng toàn cầu am hiểu địa phương” và quan trọng hơn không chỉ là khẩu hiệu mà họ đã biến thành hành động cụ thể thì lợi thế duy nhất đó của NHTMVN sẽ không còn nữa. Vì vậy hệ thống NHCT nói chung và Chi nhánh nói riêng cần sớm trang bị công nghệ hiện đại phục vụ hoạt động cho vay và hơn thế nữa công nghệ thông tin hiện đại còn giúp cho Chi nhánh có thể triển khai các dịch vụ ngân hàng hiện đại như Phonebanking, Internetbanking, ngân hàng điện tử…bổ trợ cho hoạt động chính của Chi nhánh. 3.2. Một số kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ Do tình hình kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay phát triển nhanh và có nhiều mối quan hệ xã hội mới phát sinh trong nền KTTT thực sự phải có giải pháp để điều chỉnh, đó là hệ thống các điều lệ luật quy định các chuẩn tắc đó. Tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh trong sự phát triển kinh tế. Do vậy, cần có một hệ thống pháp luật đồng bộ làm chỗ dựa pháp lý cho Ngân hàng và các DN là rất cần thiết. Trong vấn đề xử lý nợ quá hạn bằng TSĐB hiện nay của ngân hàng đang gặp nhiều khó khăn từ môi trường pháp lý, nên để ngân hàng chủ động hơn trong việc xử lý TSĐB để thu hồi nợ, khi đến hạn trả mà bên khách hàng vay vốn không có khả năng trả nợ ngân hàng có đơn lên toà án để ra ngay quyết định cho ngân hàng phát mại tài sản mà không cần thiết phải tiến hành các bước điều tra, hoà giải, xét xử như hiện nay để làm cho tình hình thu nợ bị kéo dài và tốn kém. Nhà nước cần tăng cường biện pháp quản lý đối với các doanh nghiệp, cần phải kiên quyết trong việc sắp xếp lại DNNN, đẩy mạnh cổ phần hóa chỉ nên để các doanh nghiệp thực sự làm ăn có hiệu quả hoặc các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cần thiết phải phát triển dân sinh, tạo điều kiện để nâng cao HQCV. Việc hoàn thiện môi trường pháp lý là rất cần thiết, các văn bản luật không được chồng chéo nhau mà vừa đảm bảo tính bình đẳng vừa kích thích cho tất cả các hoạt động của nền kinh tế phát triển. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo việc đánh giá hiệu quả thường xuyên các DNNN kể cả trước và sau khi chuyển đổi. Có như vậy mới giúp các DNNN vươn lên trong hoạt động của mình, giúp ngân hàng yên tâm hơn với các khoản cho vay. 3.3.2. Kiến nghị đối với NHCT Việt Nam NHCTVN đã khẳng định được vị trí, vai trò là một trong những NHTM chủ lực của hệ thống NHTMNN góp phần đắc lực vào sự phát triển kinh tế đất nước những năm qua. Với vai trò là người quản lý, NHCT Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên cũng cần phải có một số điều chỉnh để phát huy hơn nữa tính năng động và tự chủ của NHCTCNĐĐ cũng như các Chi nhánh khác. Cụ thể: * Cần triển khai kịp thời hơn nữa việc hướng dẫn cụ thể các văn bản, qui định của NHNN về hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, tạo điều kiện cho các chi nhánh hoạt động đúng hành lang pháp lý và đảm bảo chất lượng cao. * Cần có hướng dẫn quy trình cho vay một cách cụ thể hơn tới các chi nhánh, đồng thời cũng cần trao quyền chủ động hơn nữa cho các chi nhánh trong việc mở rộng tín dụng cũng như thực hiện nghiệp vụ cho vay. Bên cạnh đó, NHCTVN nên bổ sung các cơ chế, biện pháp cụ thể để tăng cường hiệu lực trong việc chấp hành thể lệ và quy trình tín dụng của cán bộ tín dụng tại các cơ sở. * Trong tình hình cạnh tranh hiện nay, NHCTVN cần phải thu hút thêm nguồn ngoại tệ dài hạn, đặc biệt là phải chú ý đến nguồn ngoại tệ từ nước ngoài như cho vay uỷ thác của các tổ chức quốc tế, nguồn vay ưu đãi, kiều hối… để đáp ứng nhu cầu tín dụng bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu đồng thời cũng thu hút các khách hàng xuất khẩu mở tài khoản thanh toán ở hệ thống NHCT. NHCT Việt Nam nên hỗ trợ cho các chi nhánh để các chi nhánh này có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng bằng ngoại tệ. * Cần đẩy mạnh và tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm phát hiện kịp thời những sai sót, những vi phạm trong quá trình cho vay, góp phần hạn chế tổn thất cho ngân hàng. *Mở rộng hơn trong công tác Marketing, giới thiệu về ngân hàng qua các hệ thống thông tin đại chúng, sử dụng các công cụ Marketing mới như quảng cáo trên truyền hình, tài trợ, PR…nhằm tạo lòng tin trong người dân chiếm lĩnh thị trương khi hội nhập. KẾT LUẬN Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì ngân hàng thương mại ngày càng khẳng định được vai trò của nó trong việc tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ của tất cả các ngành, thành phần kinh tế. Song song với việc mở rộng quy mô cho vay thì HQCV lại có nguy cơ giảm sút trong thời gian qua. Là một trong những Chi nhánh hàng đầu của hệ thống NHCTVN nhưng NHCTCNĐĐ cũng không nằm ngoài tình trạng trên. Một trong những giải pháp hữu hiệu nhất để giải quyết tình trạng trên là việc nghiên cứu những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động cho vay DNNN để lựa chọn biện pháp cho vay hữu hiệu nhất. Để thực hiện tốt những vấn đề này đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu cả về môi trường kinh tế, pháp luật, cơ chế nghiệp vụ, công tác tổ chức đào tạo…và các nguyên tắc thực thi giải pháp đó. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến HQCV DNNN và những khó khăn vướng mắc trong hoạt động cho vay để đưa ra giải pháp thích hợp là vô cùng cần thiết. Trên cơ sở đó, em đã mạnh dạn đề xuất những giải pháp, kiến nghị mong muốn trong thời gian tới Chi nhánh có thể hoàn thiện và nâng cao HQCV DNNN để có thể phát triển tương xứng với tiềm năng hiện có của mình. Tuy nhiên nghiệp vụ tín dụng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng là một vấn đề phức tạp đòi hỏi quá trình nghiên cứu và thực tế tiếp cận trực tiếp nghiệp vụ này. Vì vậy, chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự quan tâm, đóng góp quý báu từ phía thầy cô và những ai quan tâm đến vấn đề này để em có thể hoàn chỉnh hơn vốn kiến thức phục vụ cho công việc sau này. DANH MỤC VIẾT TẮT NHNN: Ngân hàng Nhà nước NH: Ngân hàng NHTM: Ngân hàng thương mại NHCT: Ngân hàng công thương NHCTCHĐĐ: Ngân hàng công thương chi nhánh Đống Đa DN: Doanh nghiệp DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước DNNQD: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh HQHĐCV: Hiệu quả hoạt động cho vay CBTD: Cán bộ tín dụng KTTT: Kinh tế thị trường XHCN: Xã hội chủ nghĩa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc30761.doc
Tài liệu liên quan