Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay xuất nhập khẩu tại Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hà Nội

Trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế như hiện nay với sự xuất hiện ngày càng nhiều các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng 100% vốn nước ngoài đã và đang đặt ra nhiều thách thức cho toàn hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội nói riêng. Vấn đề đặt ra cho ngân hàng hiện nay là làm sao phát huy được những thế mạnh hiện có đồng thời phải có chiến lược cụ thể cho thời gian sắp tới để không bị tụt hậu trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Muốn làm được điều đó không chỉ phụ thuộc vào năng lực của chi nhánh mà còn cần sự hỗ trợ cả về mặt tài chính cũng như về mặt quản lý đào tạo chuyên môn nghiệp vụ của trung tâm điều hành và ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.

doc70 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay xuất nhập khẩu tại Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã thành lập dược 03 chi nhánh ngân hàng cấp 2 loạI 5, 09 phòng giao dịch, đưa tổng số chi nhánh trực thuộc lên 13 chi nhánh trong đó có 10 chi nhánh cấp 2 loại 4 và 03 chi nhánh cấp 2 loại 5, với 42 phòng giao dịch ở các khu dân cư tập trung, khu đô thị mới, trung tâm thành phố, siêu thị …trên khắp các quận nội thành do vậy đã thu hút được lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư khá lớn tạo điều kiện cho chi nhánh đủ nguồn vốn đáp ứng cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuát kinh doanh đầu tư các dự án lớn mở rộng sản xuất, thay đổi thiết bị công nghệ , triển khai xây dựng khu dô thị mới … Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn b. Công tác sử dụng vốn Năm 2002 là một năm cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng trên mọi mặt. Trên địa bàn Hà Nội hiện nay có hơn 70 chi nhánh Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng nước ngoài. Các Ngân hàng cạnh tranh nhau khốc liệt, các Ngân hàng khác hơn hẳn NHNo & PTNT Hà Nội về công nghệ, con người, kinh nghiệm, bề dày, do đó đây là cuộc cạnh tranh rất khó khăn cho NHN0 & PTNT Hà Nội. trước tình hình đó NHN0 & PTNT Hà Nội đã đưa ra những chính sách để phục vụ khách hàng nhằm giữ khách hàng cũ, khách hàng truyền thống và thu hút thêm khách hàng mới. Ngân hàng đã chú trọng trong phong cách phục vụ của nhân viên Ngân hàng với khách hàng, sửa sang lại trụ sở làm việc, mở thêm nhiều điểm giao dịch, giảm lãi suất với khách hàng vay vốn lớn, vay trả sòng phẳng có uy tín,giảm phí thanh toán, phục vụ chứng từ giao dịch trực tiếp tại đơn vị, thu tiền tại đơn vị, cải tiến thủ tục bảo lãnh, thủ tục cho vay. Trong năm 2002, NHNo & PTNT Hà Nội đã mở rộng đầu tư tín dụng cho các thành phần kinh tế chú trọng mở rộng cho vay trung dài hạn để hỗ trợ cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị, mở rộng quy mô sản xuất, trong năm đã áp dụng phương thức đầu tư tín dụng đồng tài trợ đối với 2 dự án lớn đó là cho tổng công ty thủy tinh và gốm xây dựng vay 206 tỷ đồng để xây dựng nhà máy kính nổi bình dương, công ty sứ thanh trì 30 tỷ để xây dựng nhà máy sứ bình dương, tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp vay 12 triệu USD để đầu tư dự án xe BUS xuất khẩu sang IRAQ... Việc đầu tư tín dụng năm 2002được tập trung cho các dự án thực sự có hiệu quả không phân biệt thành phần kinh tế đã góp phần tích cực cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá cơ sở vật chất, kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong cơ chế trị trường, dư nợ trung dài hạn của NHNo&PTNT Hà Nội chiếm 37,2% tổng dư nợ. Nhờ đổi mới kinh doanh nên năm 2002 có thêm 18 doanh nghiệp vay vốn tín dụng tại Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. Bên cạnh tổ chức cho vay các dự án lớn tập trung NHN0 &PTNT Hà Nội còn mở rộng cho vay sinh hoạt đối với công chức, viên chức, sĩ quan, công nhân viên quốc phong trong các doanh nghiệp, trường học, bệnh viện, lực lượng vũ trang, với gần 400 tỷ đồng, do vậy đã hỗ trợ cho nhiều gia đình cải tạo, sửa chữa nhà ở, mua sắm các tiện nghi sinh hoạt trong gia đình nhằm nâng cao đời sống sinh hoạt trong gia đình nhằm nâng cao đời sống sinh hoạt cho cán bộ công nhân viên trước nhất là khối hành chính sự nghiệp. Cho vay hộ nghèo : năm 2002, được sự giúp đỡ của các quận,Phường, NHNo & PTNT Hà Nội đã giải ngân cho gần 700 hộ nghèo vay 2.100 triệu đồng, một số hộ đã tạo được công ăn việc làm, thu nhập tăng, đời sống được cải thiện, trả nợ Ngân hàng sòng phẳng, cuối năm 2002 còn 835 hộ có dư nợ vay Ngân hàng 2.300 triệu đồng, tuy số lượng hộ vay và dư nợ cho vay hộ nghèo của NHNo & PTNT Hà Nội không lớn nhưng đa góp phần cùng các cấp các ngành của Hà Nội thực hiện chương trình 03 của thành uỷ Hà Nội về xoá đói giảm nghèo trên địa bàn Hà Nội . c. Các công tác khác Năm 2002 NHNo & PTNT Hà Nội luôn chú trọng đến các công tác hỗ trợ cho kinh doanh đó là : Công tác quản lý và điều hành: Nhận thức được những khó khăn và thách thức trong năm 2002. Ban lãnh đạo NHN0 & PTNT Hà Nội đã xác định phương châm hoạt động đúng đắn, đạt mục tiêu an toàn, tiết kiệm và hiệu quả lên hàng đầu, tập trung chấn chỉnh các hoạt động Ngân hàng rà soát lại các quy trình nghiệp vụ và bộ máy tổ chức, nhân sự, công tác chỉ đạo điều hành luôn luôn theo sát các diễn biến về nguồn vốn, đầu tư vốn để từ dó có sự chỉ đạo kịp thời về lãi suất và đảm bảo khả năng chi trả. Công tác kiểm soát : được nâng cao cả về chất lượng, kết hợp cả hai hình thức kiểm soát từ xa và tại chỗ, đã có tác dụng ngăn ngừa được sớm những sai sót vi phạm. Công tác đào tạo : năm 2005, NHNo& PTNT Hà Nội đã tổ chức đào tạo tại chỗ các nghiệp vụ tín dụng, kế toán, vi tính và ngân quỹ cho đội ngũ cán bộ vào những ngày nghỉ cuối tuần đạt kết quả tốt. Công tác thi đua : được phát động thường xuyên, đẩy mạnh vai trò các đoàn thể, công đoàn, đoàn thanh niên, phụ nữ, dân quân tự vệ, phát huy sáng kiến cải tiến công tác, thưởng phạt nghiêm minh, chính sách rõ ràng đã góp phần tích cực vào kết quả hoạt động kinh doanh năm 2005. Riêng năm 2005 kết quả kinh doanh như sau: Nguồn vốn + Tổng nguồn vốn 9276 tỷ, tăng 119 tỷ so với năm 2003 Trong đó: -Nội tệ 8.357 tỷ, giảm 109 tỷ so với năm 2003 - Ngoại tệ: 919 tỷ, tăng 228tỷ so với năm 2003 + Cơ cấu huy động vốn Tiền gửi không kì hạn: 1.344 tỷ Tiền gửi có kì hạn < 12 tháng: 4.622 tỷ Tiền gửi từ 12 tháng trở lên 3.310 tỷ + Phân theo tính chất nguồn huy động -Tiền gửi tiết kiệm: 1.998 tỷ Trong đó: Ngoại tệ quy đổi VNĐ: 770 tỷ -Tiền gửi TCKT, TCXH: 3.960 tỷ Trong đó: Ngoại tệ quy đổi VNĐ: 149 tỷ -Tiền gửi TCTD: 660tỷ Trong đó Ngoại tệ quy đổi VNĐ: 0 Huy động kì phiếu: 529 tỷ Trong đó Ngoại tệ quy đổi VNĐ: 23 tỷ Tiền gửi khác: 2.129 tỷ 2.2 Thực trạng cho vay xuất nhập khẩu tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội 2.2.1 Các hình thức cho vay xuất nhập khẩu tại ngân hàng Cùng với đà tăng trưởng mạnh mẽ, ổn định về hoạt động cho vay của ngân hàng, nghiệp vụ cho vay xuất nhập khẩu cũng đã đạt được kết quả đáng kể. Vì vậy, việc tìm hiểu tình hình mở rộng đối với hoạt động xuất nhập khẩu tại ngân hàng được thực hiện qua thực tế về hoạt động cho vay mà chi nhánh đã đạt được trong lĩnh vực này. Lợi ích của cho vay xuất nhập khẩu không chỉ làm tăng doanh số cho vay và doanh số dư nợ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà nó còn góp phần tạo nguồn thu nhập từ các khoản phí dịch vụ thu được từ các khâu liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế. Hiện nay, tại chi nhánh đã áp dụng một số hình thức cho vay xuất nhập khẩu phổ biến trong hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. • Cho vay mở L/C Ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn thành phố Hà Nội là một ngân hàng thuộc hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nên điều kiện cho vay mở L/C của chi nhánh áp dụng theo văn bản hướng dẫn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam. Cụ thể quy định bộ hồ sơ mở L/C bao gồm: - Thư yêu cầu mở L/C - Bản sao có xác nhận sao y bản chính của khách hàng. Khách hàng chịu trách nhiệm pháp lý về việc sao y từ văn bản chính: + Hợp đồng nhập khẩu + Văn bản cho phép nhập khẩu của bộ thương mại hoặc cơ quan quản lý chuyên ngành ( đối với hàng nhập khẩu có điều kiện ) + Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số thuế xuất nhập khẩu ( đối với khách hàng giao dịch lần đầu ). * Quy trình tiếp nhận, xử lý hồ sơ mở L/C của khách hàng: - Thanh toán viên kiểm tra hồ sơ mở L/C, vào sổ theo dõi. Sổ theo dõi hồ sơ mở L/C phải ghi rõ những thông tin sau: Ngày mở L/C, số L/C, tên khách hàng xin mở L/C, trị giá L/C, loại L/C ( phân theo kỳ hạn thanh toán ), nguồn vốn thanh toán, ngày thực tế thanh toán, ghi chú khác ( nếu ngân hàng thấy cần thiết ). - Kiểm tra nội dung thư yêu cầu mở L/C. Nếu nội dung không rõ ràng, các điều kiện, chỉ thị có sự mâu thuẫn, phải hướng dẫn và yêu cầu khách hàng hoàn chỉnh trước khi mở L/C. Thanh toán viên không tự động sửa chữa hoặc bổ sung các chi tiết thay khách hàng. Đơn yêu cầu mở L/C phải có đầy đủ chữ ký của chủ tài khoản và kế toán trưởng. - Lưu ý khách hàng nếu có sự khác biệt giữa nội dung thư yêu cầu mở L/C với các điều kiện liên quan trong hợp đồng nhập khẩu. - Nếu người xin mở L/C tự mua boả hiểm ( mua hàng theo điều kiện CFR, FOB, CIP.....), hàng hoá phải được mua bảo hiểm bằng loại tiền tệ của L/C ở mức tối đa là 110% trị giá của hoá đơn. Người xin mở L/C phải xuất trình Hợp đồng mua bảo hiểm/Giấy chứng nhận bảo hiểm cùng với hồ sơ yêu cầu mở L/C. * Xác định mức ký quỹ và nguồn vốn thanh toán L/C › L/C thanh toán bằng vốn vay ngân hàng - Phòng tín dụng xét, trình duyệt hồ sơ cho vay theo chế độ tín dụng hiện hành của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, đề xuất mức ký quỹ mở L/C (cán bộ tín dụng đề xuất, phụ trách phòng tín dụng ký trình lãnh đạo duyệt). Ngân hàng nông nghiệp không cho khách hàng mở L/C vay để chuyển vào tài khoản ký quỹ. - Hồ sơ mở L/C thanh toán bằng vốn vay ngân hàng nông nghiệp phải có quyết định phê duyệt phương án vay vốn hoặc hợp đồng tín dụng ký với khách hàng xin mở L/C. - Ngày ngân hàng thanh toán bộ chứng từ là ngày hạch toán nhận nợ vay (điều khoản này ghi sẵn vào hợp đồng tín dụng hoặc giấy nhận nợ) › L/C thanh toán bằng vốn tự có của khách hàng xin mở L/C - Khách hàng ký quỹ đủ 100% trị giá L/C (tính cả tỷ lệ vượt giá trị L/C do dung sai nếu có): Phòng thanh toán quốc tế tiếp nhận và trình duyệt hồ sơ mở L/C. - Trường hợp khách hàng xin mở L/C ký quỹ thấp hơn 100% trị giá L/C tuỳ thuộc đối tượng khách hàng và hạn mức mở L/C, giám đốc chi nhánh giao cho phòng thanh toán quốc tế hoặc phòng tín dụng thẩm định hồ sơ, đề xuất mức ký quỹ. Chi nhánh quyết định mức ký quỹ trên cơ sở đảm bảo an toàn thanh toán và thu hút khách hàng trên địa bàn. - Trên cơ sở độ tín nhiệm của khách hàng: Giám đốc quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp yêu cầu khách hàng ký, đóng dấu sẵn đơn xin vay, giấy nhận nợ ( theo mẫu đơn xin vay, giấy nợ đang áp dụng ) cho phần giá trị chưa ký quỹ của L/C. - Ngày chi nhánh thanh toán bộ chứng từ là ngày hạch toán nhận nợ vay. Số tiền nhận nợ là số tiền ngân hàng nông nghiệp phải thanh toán theo bộ chứng từ (điều khoản này ghi sẵn trong hợp đồng tín dụng hoặc giấy nhận nợ ) › Xác nhận số dư ký quỹ mở L/C - Khách hàng phải chuyển đủ số tiền ký quỹ vào tài khoản ký quỹ trước khi mở L/C. Trưởng phòng kế toán chi nhánh xác nhận số dư tài khoản ký quỹ, ghi rõ ngày, tháng và ký tên. • Cho vay thanh toán hộ nhờ thu hàng nhập Sau khi thanh toán viên của phòng thanh toán quốc tế tiếp nhận và thông báo chứng từ nhờ thu cho khách hàng, nếu khách hàng có cam kết trả tiền bằng văn bản hoặc ký chấp nhận thanh toán hối phiếu vào ngày đáo hạn, thanh toán viên sẽ giao bộ chứng từ cho khách hàng. Đến hạn thanh toán, yêu cầu khách hàng trả tiền và lập điện trả tiền theo chỉ thị nhờ thu, báo cáo phụ trách phòng trình lãnh đạo phê duyệt, đồng thời thu phí theo quy định hiện hành của ngân hàng nông nghiệp. Trường hợp nhận được bộ chứng từ nhờ thu, trong đó hối phiếu đòi tiền ngân hàng nông nghiệp hoặc vận đơn ghi người nhận hàng theo lệnh của ngân hàng nông nghiệp, thanh toán viên trình lãnh dạo để cho ngân hàng gửi nhờ thu từ chối việc thu hộ đồng thời thông báo cho khách hàng về bộ chứng từ nhận được và việc từ chối thu hộ. Ngân hàng nông nghiệp chỉ ký hậu giao chứng từ cho khách hàng khi: - Hoặc ngân hàng nông nghiệp gửi nhờ thu chỉ thị cho ngân hàng nông nghiệp ký hậu mà ngân hàng nông nghiệp không phải chịu trách nhiệm thanh toán. - Hoặc khách hàng ký quỹ 100%. - Hoặc khách hàng yêu cầu vay ngân hàng nông nghiệp thì phải tuân thủ các quy định cho vay hiện hành của ngân hàng nông nghiệp. Sau khi hồ sơ cho vay do phòng tín dụng lập được giám đốc phê duyệt cho vay sẽ giao chứng từ cho khách hàng. Trong trường hợp này ngân hàng cho vay dựa vào chứng từ chứ không phải dựa vào hàng hoá, nên ngân hàng phải kiểm tra bộ chứng từ cẩn thận nếu phù hợp mới cho vay. Đối với nhà nhập khẩu thì hàng vừa cập bến phải nộp tiền cho ngân hàng để thanh toán cho nhà xuất khẩu, thì mới nhận được chứng từ để nhận hàng, bán hàng và thu hồi vốn. Đó là khoảng thời gian khá dài, do đó nhà nhập khẩu cần có khoản vay từ ngân hàng để thanh toán bộ nhờ thu. Ngân hàng sẽ tiến hàn thẩm định tính toán hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng tài chính, khả năng trả nợ, thế chấp tài sản, để quyết định. Khi thẩm định ngân hàng phải xem xét cẩn thận về uy tín của khách hàng, tình hình tài chính, lô hàng phải dễ tiêu thụ trên thị trường. Vì vậy, để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn Ngân hàng có nhiệm vụ giám sát tình hình nhập hàng, vận chuyển bốc xếp, vấn đề kho bãi, tình hình thực hiện hợp đồng giữa nhà nhập khẩu với bên thứ 3. • Cho vay dự các dự án sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu có thị trường xuất khẩu. Đối với khách hàng vay vốn cho các dự án sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu chủ yếu bằng ngoại tệ thì phải thực hiện đúng theo các quy định về điều kiện, hồ sơ cho vay ngoại têh. Vì vậy ngoài các điều kiện vay vốn theo quy định trong quy chế cho vay của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam như: - Có năng lực pháp luật dân sự, nămg lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật; - Mục đích vốn vay hợp pháp; có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn; - Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của chính phủ, ngân hàng Nhà nước Việt Nam và hướng dẫn của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam. Để được vay ngoại tệ doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu phải có thêm điều kiện: xuất khẩu hoặc thu mua, chế biến, gia công, sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu có thị trường tiêu thụ. Về hồ sơ, khách hàng gửi ngân hàng bản sao có xác nhận sao y bản chính hợp đồng xuất khẩu hoặc thu mua, chế biến, gia công, sản xuất, mua bán hàng xuất khẩu. 2.2.2 Kết quả cho vay xuất nhập khẩu tại ngân hàng Muốn khẳng định việc mở rộng cho vay xuất nhập khẩu có phù hợp với thực tế tại chi nhánh hay không thì việc tìm hiểu, xem xét tình hình cho vay đối với các khách hàng có hoạt động xuất nhập khẩu là câu trả lời chính xác nhất. Trước hết, hãy cùng đánh giá những kết quả của hoạt động này thông qua các bản số liệu sau: Bảng 2.5 Tình hình cho vay nhập khẩu theo các hình thức Năm Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Cho vay mở L/C 149,734,261.25 170,040,906.11 181,475,819.96 Cho vay thanh toán hàng nhập 131,729,428.55 145,851,253.39 167,150,615.58 (Nguồn: Báo cáo hoạt động thanh toán quốc tế năm 2003-2005) Qua bảng số liệu cho thấy, tốc độ tăng trưởng về doanh số cho vay là rất cao qua từng năm. Doanh số cho vay phục vụ xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp tăng lên qua từng năm. Uy tín kinh nghiệm của ngân hàng ngày một tăng lên nên quan hệ với các ngân hàng được mở rộng. Đối với các khách hàng truyền thống có hoạt động nhập khẩu thường xuyên có thời hạn vay ngắn, ngân hàng thường quy định mức ký quỹ từ 10% trở lên còn đối với các khách hàng mới thì tuỳ theo năng lực tài chính của họ mà đưa ra một tỷ lệ ký quỹ thích hợp, đôi khi là 100% trị giá L/C. Với đặc điểm chung của nền kinh tế Việt Nam luôn ở trạng thái nhạp siêu thì các doanh nghiệp hoạt động ngoại thương cũng tập trung nhiều vào hoạt động nhập khẩu mua bán máy móc thiết bị từ nước ngoài để phục vụ sản xuất của đơn vị hoặc theo hợp đồng với một công ty khác. Doanh số cho vay nhập khẩu của ngân hàng luôn đạt tỷ trọng cao trong tổng doanh số cho vay và tập trung vào một số bạn hàng lớn có truyền thống lâu năm. Mặc dù cho vay nhập khẩu luôn chiếm tỷ trọng cao trong doanh số cho vay nhưng một số bạn hàng của chi nhánh cũng thường xuyên có nhu cầu vay vốn để thực hiện các phương án kinh doanh phục vụ xuất khẩu đặc biệt tập trung vào các mạt hàng nông sản như cà phê, tiêu, gạo ... Kết quả đó được thể hiện ở bản số liệu sau: Bảng 2.6 Tình hình thanh toán xuất khẩu Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2004 so 2003 2005 so 2004 +/- +/- L/C xuất 152.349 1.325.995 152.349 1.173.646 Nhờ thu xuất 300.809 1.003.464 1.081.286 702.655 77.822 Chuyển tiền đến 11.603.380 29.612.269 11.603.380 18.008.889 ( Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động đối ngoại năm 03/04/05 phòng thanh toán quốc tế) Việc phát triển về nghiệp vụ thanh toán xuất khẩu và giá trị thanh toán đã góp phần làm tăng nguồn thu dịch vụ thanh toán cho ngân hàng với vai trò là một trung gian giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu đồng thời đặt ra nhu cầu phát triển mạng lưới chi nhánh của ngân hàng cần phát triển hơn nữa cũng như phải mở rộng quan hệ với các ngân hàng nước ngoài để tạo mối quan hệ thường xuyên để tận dụng cơ hội trở thành ngân hàng thanh toán cho ngân hàng bạn. Nói tóm lại, nhờ có chính sách khách hàng đúng đắn cùng với quá trình tự hoàn thiện về nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ mà kết quả kinh doanh nói chung, hoạt động cho vay xuất nhập khẩu nói riêng của ngân hàng đã đạt được những kết quả đáng kể và cần được phát huy ytong thời gian tới. 2.3 Đánh giá tình hình cho vay xuất nhập khẩu tại ngân hàng Qua việc phân tích kết quả cho vay xuất nhập khẩu tại ngân hàng ở trên có thể kết luận hoạt động này đã đạt được những thành tựu đáng kể. Thành tích đó thể hiện qua doanh số cho vay không ngừng tăng lên qua các năm cả về giá trị tuyệt đối cũng như tốc độ tăng trưởng, luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh số cho vay của toàn ngân hàng. Sự tăng trưởng cho vay xuất nhập khẩu của ngân hàng mang tính tất yếu trong điều kiện nhu cầu vốn của khách hàng không ngừng tăng lên trong khi đó khả năng huy động vốn của ngân hàng vẫn đảm bảo nhu cầu vay của khách hàng. Thêm vào đó, các khách hàng luôn đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, hoàn trả đúng hạn, tạo được niềm tin của ngân hàng để duy trì mối quan hệ lâu dài. Có thể phân tích những kết quả cụ thể sau: 2.3.1 Những kết quả đạt được Trong quá trình hoạt động ngân hàng đã xác định phương châm cho vay là phải an toàn, hiệu quả, có thể tăng trưởng chậm nhưng chắc chắn, sự thành đạt của khách hàng cũng chính là sự thành công của ngân hàng. Để tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh, bên cạnh sự trợ giúp của trung tâm điều hành. Ngân hàng đã dần hình thành hướng kinh doanh hiện đại chủ động tìm đến với khách hàng, thông qua nhiều nguồn thông tin để tìm kiếm các dự án lớn, có tính khả thi. Đến nay, dù vẫn còn những khó khăn trong việc cho vay xuất khẩu nhưng chi nhánh cũng đã đạt được những kết quả tăng đáng kể trong lĩnh vực này. - Doanh số cho vay xuất nhập khẩu tăng lên hàng năm, đặc biệt là thông qua các hình thức cho vay mở L/C, cho vay thanh toán hàng nhập khẩu cho vay thu mua hàng xuất khẩu.. đây là những nghiệp vụ đồng thời là cũng liên quan đến hoạt động của phòng thanh toán quốc tế do đó việc cho vay này cúng góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế của chi nhánh ngày càng được mở rộng. Bên cạnh đó, nó còn làm tăng nguồn thu nhập cho ngân hàng từ các khoản phí mở L/C, dịch vụ nhờ thu, chuyển tiền nước ngoài, hoặc hoạt động mua bán ngoại tệ. - Ngân hàng ngày càng thu hút nhiều doanh nghiệp hoạt động ngoại thương trực tiếp giao dịch trong đó đáng nói là số lượng doanh nghiệp cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có giấy chứng nhận xuất nhập khẩu của bộ thương mại cũng tăng lên khá nhanh. - Với chính sách tăng cường tìm kiếm khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chi nhánh luôn luôn chủ động tiếp cận các doanh nghiệp là khách hàng mới thông qua việc tìm hiểu hệ thống các doanh nghiệp trong địa bàn hoặc thông qua sự giới thiệu của những khách hàng đã từng giao dịch với ngân hàng. Điều đó cũng khẳng định một cách chắc chắn đường lối chiến lược là phát triển theo xu hướng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; tăng cường, tập trung phát triển khu vực khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Luôn bám sát các khách hàng đã tiếp cận và các khách hàng trên địa bàn. Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn, trong đó tập trung vốn tiền gửi từ các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp đồng thời tăng cường quảng cáo, tiếp thị để huy động vốn trong nhân dân đảm bảm cung ứng mức tối đa nhu cầu vốn của khách hàng vay nói chung và của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng. - Ngân hàng luôn bám sát định hướng phát triển kinh doanh của ngành từ đó xác định được chiến lược kinh doanh, tạo hướng đi đúng, phù hợp cho ngân hàng. Định ra kế hoạch phát triển cho từng năm, từng kỳ kế hoạch. Tuân thủ nguyên tắc trưởng dư nợ trên cơ sở an toàn, hiệu quả và vững chắc. Mở rộng đối tượng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tăng cường tiếp thị, nghiên cứu thẩm định năng lực của mọi đối tượng khách hàng trren địa bàn để thiết lập quan hệ tín dụng. Luôn coi trọng phong cách phục vụ và áp dụng lãi suất linh hoạt. Mở rộng hình thức cho vay như cho vay uỷ thác, cho vay đồng tài trợ một số các dự án lớn nhằm tăng trưởng tín dụng và đảm bảo an toàn tín dụng. Những năm đầu thế kỷ 21 nền kinh tế Việt Nam cũng như toàn thế giới đã có bước tăng trưởng tương đối ổn định dù chịu ảnh hưởng của nhngx biến động về chính trị xã hội ở một số nơi. Hoạt động thương mại toàn cầu vẫn diễn ra sôi động và các thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn ổn định do đó kim ngạch xuất nhập khẩu của chúng ta vẫn tăng đều qua các năm, cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu đã có sự thay đổi và nhu cầu nhập máy móc thiết bị hàm lượng ký thuật cao đang có xu hướng tăng lên. Điều đó, đòi hỏi các doanh nghiệp khi nhập khẩu phải chuẩn bị một số vốn tương đối lớn từ vốn tự có và vốn đi vay. Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hà Nội với địa bàn hoạt động là thành phố Hà Nội nên có số lượng khách hàng tham gia hoạt động ngoại thương khá cao và các doanh nghiệp này thường xuyên có nhu cầu vốn đẻ thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Việc tạo lập những mối quan hệ thân thiện, tin tưởng lẫn nhau giữa ngân hàng và khách hàng đã giúo cho quá trình xem xét, đánh giá phương án kinh doanh của cán bộ tín dụng trở nên nhanh chóng, an toàn bởi có thắc mắc gì có thể dễ dàng liên lạc trao đổi cùng giải quyết với khách hàng nhờ đó giảm thời gian chờ đợi của khách hàng đảm bảo thực hiện hợp đồng với khách hàng nước ngoài đúng hạn. 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1 Những hạn chế - Mặc dù đã hình thành quan hệ tín dụng với một số bạn hàng truyền thống có nhu cầu vay vốn để xuất nhập khẩu nhưng khả năng đáp ứng của Ngân hàng còn hạn chế nên số vốn các doanh nghiệp nà vay ở ngân hàng khác cũng rất cao. - Hoạt động cho vay xuất nhập khẩu của ngân hàng chưa phát sinh nợ quá hạn nhưng vẫn có một khoản xin gia hạn nợ, điều này đòi hỏi đội ngũ cán bộ tín dụng cần quan tâm hơn nữa đến công tác kiểm tra sau đối với khách hàng vay vốn để xác minh việc sử dụng vốn của doanh nghiệp có hợp lệ và có hiệu quả hay không đồng thời phải thường xuyên hối thúc khách hàng trả nợ khi sắp hết hạn của khoản vay. - Đối với hoạt động cho vay xuất nhập khẩu liên quan trực tiếp đến nghiệp vụ thanh toán quốc tế và đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có vốn ngoại ngữ tương đối để hiểu chính xác những điều khoản trong hợp đồng ngoại. Tuy nhiên, thực tế hiện nay số lượng cán bộ tín dụng thành thạo ngoại ngữ vẫn chưa nhiều nên khi nhận được hợp đồng ngoại vẫn phải mất thời gian để nhờ bộ phận khách dịch sang tiếng việt. - Số lượng khách hàng hoạt động xuất nhập khẩu có quan hệ tín dụng với ngân hàng có tưng lên hàng năm nhưng thủ tục cho vay, mức lĩa suất cho vay, mức cho vay vẫn có sự phân biệt giữa các doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Hiện nay, nhu cầu vốn trung, dài hạn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng khá lớn nhưng ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được do nguồn vốn trung và dài hạn còn hạn chế. Thực tế buộc các doanh nghiệp dù có quan hệ truyền thống với ngân hàng vẫn phải quan hệ với ngân hàng khác để tìm kiếm những nguồn vốn phù hợp với chu kỳ sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trên thực tế đó, ngân hàng cần có biện pháp tìm hiểu nhu cầu vốn thực tế của doanh nghiệp từ đó có phương án chuẩn bị nguồn vốn đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp ở mọi kỳ hạn. Thực hiện được điều đó ngân hàng không chỉ làm tăng thu nhập cho mình mà còn giữ được mối quan hệ lâu dài với những khách hàng truyền thống. - Ngân hàng đã có nhiều cố gắng trong việc tự đào tạo đội ngũ cán bộ trong hệ thống tuy nhiên do trình độ đội ngũ cán bộ nhân viên không đồng đều nên vẫn tồn tại một thực trạng là sự phân bổ không đều số lượng công việc. Thực tế đó đã gây nhiều khó khăn cho những cán bộ phải quản lý một số lượng lớn khách hàng là đôi khi không đảm bảo tính chính xác trong nghiệp vụ gây chậm trễ trong việc giải ngân cho khách hàng. - Công tác thẩm định của cán bộ tín dụng về năng lực tài chính của khách hàng, thẩm định dự án đầu tư còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu đảm bảo đánh giá được bản chất của toàn bộ hiện trạng để tè đó đưa ra những quyết định đầu tư một cách an toàn hiệu quả. - Các thông tin về khách hàng có quan hệ tín dụng với Ngân hàng không đầy đủ. Khả năng cập nhật thông ti n chưa được chú trọng gây tình trạng không nắm bắt được diễn biến thị trường để đánh giá hiệu quả của phương án. - Công tác đánh giá tài sản của ngân hàng còn nhiều bất cập, đặc biệt cới những tài sản có giá cả biến động như đất đai, nhà cửa... thì việc chỉ căn cứ mức giá quy định của chính phủ để định giá thì sẽ gây thiệt thòi cho doanh nghiệp vì thực tế việc mua bán đất đai vẫn diễn ra ngoài tầm kiểm soát của nhà nước. 2.3.2.2 Nguyên nhân - Nguyên nhân lớn nhất dẫn đến hạn chế trong cho vay xuất nhập khẩu là chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng còn non trẻ, số lượng cán bộ tín dụng được đào tạo đúng chuyên ngành ngân hàng còn hạn chế, đa số được bổ sung từ các bộ phận khác sang nên phải mất thời gian học viẹc và nâng cao chuyên môn đáp ứng yêu cầu ở vị trí mới. - Một số doanh nghiệp đang trong quá trình sắp xếp lại : Cổ phần hoá, sát nhập, giải thể... việc bàn giao quyết toán vốn, trách nhiệm đối với những khoản công nợ chưa được phân điịnh rõ rang. Do vậy, việc thẩm định tình hình tài chính chỉ căn cứ váóo liệu do đưon vị cung cấp chưa đảm bảo độ chính xác từ đó ảnh hưởng tới chất lượng công tác thẩm định và xác định mức đầu tư tín dụng. - Một số doanh nghiệp tự xây dựng dự án đầu tư tràn lan vốn tự có tham gia thấp chủ yếu là nguồn vốn đi vay, dự án không phát huy hiệu quả và không trả được nợ. - Việc cung cấp thông tin của khách hàng đôi khi không chính xác đã gây khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc đánh giá năng lực tực sự của khách hàng dẫn đến ra quyết định không chuẩn xác gây thiệt hại cho ngân hàng hoặc khách hàng. - Mặc dù Ngân hàng luôn chú trọng xác định khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là một thị trường đầy tiềm năng mà ngân hàng cần hướng tới nhưng thực tế vẫn còn nhiều khó khăn, điều đó xuất phát từ cả hai phía Ngân hàng và khách hàng. Phân tích thực trạng cho vay xuất nhập khẩu tại Ngân hàng trong 3 năm qua cho thấy những kết quả và hạn chế trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Qua đó khẳng định được vai trò những đóng góp quan trọng của ngân hàng trog việc thúc đẩy nền kinh tế đát nước phát triển theo hướng công nghiệp hoá hiẹn đại hoá. Để phát huy những kết quả đạt được và tìm biện pháp khắc phục những hạn chế trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động chovay xuất nhập khẩu nói riêng. Ngân hàng cần phối hợp giữ nhiều chính sách với mục tiêu rõ ràng và định hướng cụ thể. Việc tìm ra được hạn chế là quan trọng nhưng để khắc phục đựoc nó phụ thuộc vào nhiêu yếu tố mà yếu tố con người bao giờ cũng phải đặt lên hàng đầu, vì vậy chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cần được xác định ngay từ ban đầu, vì vậy chiến lược đào tạo nguồn nhân lực phải được xác định ngay từ bây giờ để Ngân hàng có thể tồn tại và phát triển trong tương lai. Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay xuất nhập khẩu tại ngân hàng 3.1 Định hướng hoạt động năm 2006 Chỉ tiêu: Năm 2006, trên cơ sở chỉ tiêu định hướng của ban giám đốc Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội trong năm 2006: • Tiếp tục tăng trưởng nguồn vốn ổn định so với năm 2005, đặc biệt là nguồn vốn huy động từ dân cư. • Nâng cao chất lượng tín dụng; mở rộng tín dụng theo hướng đầu tư có chọn lọc • Phát triển sẩn phẩm dịch vụ, nâng cao chất lượng đi đôi với mở rộng các dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách hàng. Mục tiêu cụ thể Chỉ tiêu Đơn vị TH 2005 KH 2006 So với 2006 +/- % 1. Số lượng sản phẩm DV triển khai - Sp DV mới SP SP 40 50 05 10 25 2. Số lượng khách hàng - Số lượng khách hàng tăng thêm Khách hàng Khách hàng 80.000 30.000 100.000 20.000 20.000 -10.000 25 -30 3. Phát triển thị phần - Tín dụng - Nguồn vốn - Dịch vụ (thẻ) 3.2 5.5 3.5 6.0 3.2 Giải pháp mở rộng cho vay xuất nhập khẩu tại ngân hàng 3.2.1 Các giải pháp về đào tạo cán bộ, hiện đại hoá ngân hàng Hoạt động ngân hàng nói chung và cho vay nói riêng luôn đòi hỏi những cán bộ làm ngiệp vụ phải có đầy đủ những tố chất nhất định mới đảm đương được công việc. Vì vậy, vấn đề nhân lực bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh doanh của bất cứ ngân hàng nào hiện nay. Trước thực tế cán bộ làm công tác tín dụng tại Ngân hàng vùa thiếu về số lượng trình độ không đồng đều thì công tác đào toạ chuyên môn không thể không được quan tâm. Các giải pháp cụ thể: - Duy trì công tác đào tạo tại chỗ, tham gia các khoá huấn luyện nghiệp vụ do ngành tổ chức, khuyến khích cán bộ tự học lớp nâng cao. Thay đổi mạnh mẽ và triệt để phong cách giao dịch với khách hàng, tạo lòng tin và uy tín tuyệt đối đối với hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nói chung và Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội nó riêng. - Trang bị đầy đủ máy móc thiết bị đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá ngân hàng, hoàn thiện chương trình ngân hàng bán lẻ và giao dịch một cửa, thực hiện đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng. Nối mạng với khách hàng lớn có quan hệ thường xuyên về tiền gửi, tiền vay thanh toán. - Thực hiện cơ chế khoán đến nhóm và người lao động đảm bảo công bằng về nghĩa vụ và quyền lợi, tạo động lực phát huy tính chủ động sáng tạo của từng cá nhân và tập thể người lao động. - Làm tốt công tác đoàn thể, phát động phong trào thi đua, tạo sự đoàn kết thống nhất, hỗ trợ công tác, nghiệp vụ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành tôt nhiệm vụ được giao. 3.2.2 Chính sách cho vay - Chính sách lãi suất của chi nhánh phải linh hoạt theo từng đối tượng vay vốn. Trên thực tế, lãi suất mà Ngân hàng đang áp dụng cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường cao hơn các ngân hàng khác. Do đó, đôi khi tạo ra sự so sánh cho khách hàng khi có nhu cầu vay vốn, đặc biệt các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường quan hệ với nhiều ngân hàng khác nhau vì vậy cơ hội để họ tìm được một khoản vay với lãi suất phù hợp là không khó. Để khắc phục tình trạng này, với các khách hàng truyền thống, có uy tín, vay trả xòng phẳng thì Ngân hàng có thể áp dụng những mức lãi suất thấp hơn. 3.2.3 Tích cực hoàn thiện hoạt động Marketing Marketing ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và nó đã trở thành một công cụ không thể thiếu trong chiến lược kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Do những đặc trưng của hoạt động ngân hàng mà Marketing Ngân hàng thể hiện nột dung hoạt động của mình thông qua các hoạt động của Ngân hàng thương mại. Các hoạt động của Ngân hàng thương mại rất đa dạng và phong phú, nhưng tựu chung có 5 vấn đề chính: Nghiên cứu thị trường, dịch vụ Ngân hàng, giá của dịch vụ Ngân hàng, hoạt động xúc tiến khuyếch trương và hoạt động phân phối dịch vụ của ngân hàng. Nhận thức đượcvấn đề này trong những năm qua Ngân hàng đã tích cực áp dụng các biện pháp khác nhau để đẩy mạnh hoạt động Marketing góp phần tạo hình ảnh của ngân hàng trên phạm vi thành phố Hà nội được các Ngân hàng bạn đánh giá cao. Trong thời gian tới , chi nhánh cần duy trì và đổi mới phương thức hoạt động Marketing bằng cách nhanh chóng hiện đại hoá hoạt động Ngân hàng, tăng cường khả năng phân tóch các thông tin, quan tâm thực sự đến việc nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh, tăng cường khả năng lưu trữ thông tin một cách có hệ thống... Bên cạnh đó, Ngân hàng cần phải tìm kiếm cách thức quảng cáo cho khách hàng hiện có để tranh thủ khách hàng tiềm năng. Tăng cường tổ chức quảng cáo thông qua đội ngũ cán bộ của Ngân hàng, tìm kiếm khách hàng, chủ động đặt quan hệ với khách hàng, dùng các chính sách ưu đãi thu hút khách hàng. Trong quá trình giao tiếp đặt mối quan hệ với khách hàng, cán bộ Ngân hàng phải có nghệ thuật ứng xử, giao tiếp, thái độ làm việc để làm sao giữ được mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Muốn vậy, bản thân người cán bộ tín dụng phải hiểu được nhu cầu và mong muốn của khách hàng là gì và khả năng đáp ứng của ngân hàng ra sao. Trong quá trình cấp vốn, Ngân hàng cần quan tâm việc nâng cao chất lượng dịch vụ của mình, đặc biệt khả năng tư vấn thông tin kinh tế cho khách hàng. Nếu dịch vụ tư vấn được hoàn thiện không những nó là nguồn bổ sung cho dịch vụ chính mà về lâu dài nó có thể phát triển thành một dịch vụ vhính cuat hoạt động Ngân hàng. Có thể nói, việc làm này sẽ kích thích khách hàng sử dụng dịch vụ của Ngân hàng. Ngoài vấn đề cung cấp thông tin kinh tế cho khách hàng ngân hàng cần tiếp tục thực hiện đa dạng hoá các dịch vụ và hình thức tiếp cận khách hàng, đồng thời tìm mọi cách để giản tiện thủ tục giao dịch và phiền hà cho khách hàng để nâng cao chất lượng dịch vụ của Ngân hàng trong thời gian tới. Để làm được điều này đòi hỏi Ngân hàng không chỉ mở các lớp giảng dạy chuyên môn, nghiệp vụ mà phải kết hợp đào tạo kỹ năng tiếp thị, tư vấn khách hàng cho đội ngũ nhân viên thường xuyên tiếp xúc với khách hàng. Bên cạnh đó, cần có chính sách khuyến khích, khen thưởng thích đáng với công tác tìm kiếm khách hàng mới dành cho những cán bộ làm nghiệp vụ tín dụng, giao dịch tại quầy, các thanh toán viên của phòng thanh toán quốc tế... Trong điều kiện môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng, tính cạnh tranh gay gắt hơn, đòi hỏi bản thân Ngân hàng cần phải biết nắm bắt cơ hội kinh doanh mọtt cách nhanh nhạy. Muốn làm được như vậy cần phải cải thiện công tác thu nhập, phân tích thông tin về khách hàng, thị trường, xu hướng biến động của tất cả các yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Bên cạnh đó, vấn đề chủ động tìm kiếm, tiếp cận, tư vấn, giúp đỡ khách hàng trong quá trình giao dịch cũng phải được quan tâm hơn nữa để giảm thiểu thời gian giao dịch cho khách hàng, đảm bảo hoạt động kinh doanh của khách hàng không bị gián đoạn, toạ được sự tin tưởng, giữ được mối quan hệ thân thiện, lâu dài giữa khách hàng với Ngân hàng. 3.2.4 Đẩy mạnh công tác kiểm tra sau, trong cho vay xuất nhập khẩu Cho vay là nghiệp vụ mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các Ngân hàng thương mại nên việc mở rộng cho vay là cần thiết để mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đồng thời đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề chất lượng cho vay mới có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của bất cứ Ngân hàng nào. Nếu Ngân hàng gia tăng quy mô cho vay mà không quan tâm đến chất lượng cho vay, sẵn sàng bỏ qua những nguyên tắc cơ bản khi cho vay thì sự cố gắng đó cũng chỉ là vô nghĩa nếu không đảm bảo được khả năng thu hồi nợ từ khách hàng. Chất lượng cho vay là kết quả các khoản cho vay được thực hiện trọn vẹn, người vay thực hiện đúng cam kết trong hợp đồn tín dụng, Ngân hàng thu hồi được cả gốc và phần lãi cho việc chấp nhận rủi ro đúng hạn quy định. Trên thực tế trong quan hệ vay vốn thì quyền cho vay thực tế là ở Ngân hàng, quyền trả nợ thuộc về trách nhiệm và ý thức hoàn trả của người vay, do đó khi Ngân hàng đã quyết định cho vay và giải ngân cho khách hàng thì việc thu hồi vốn lại phụ thuộc người vay hay nói chính xác là phụ thuộc vào hiệu quả của việc sử dụng khoản tiền đó. Đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá thường được vận chuyển bằng tàu biển và khi về được lưu tại kho của người nhập trước khi bán lại cho khách hàng trong nước nên dễ phát sinh khách hàng trong nước phá bỏ hợp đồng và hàng hoá bị ứ đọng tại kho, người vay không thu hồi được vốn để hoàn trả cho Ngân hàng. Thực tế đó đòi hỏi cán bộ tín dụng phụ trách cho vay xuất nhập khẩu phải thường xuyên tìm hiểu tình hình tiêu thụ hàng hoá của khách hàng có đúng như cam kết hay không và khi gần đến kỳ trả nợ phải thường xuyên nhắc nhở khách hàng hoàn trả để không dẫn đến phát sinh nợ quá hạn vừa làm mất uy tín cho khách hàng vừa gây thiệt hại cho Ngân hàng. Như vậy, trong quan hệ vay mượn, việc cho vay là đơn giản vì nó phụ thuộc vào quyết định của Ngân hàng còn việc thu hồi nợ lại rất khó khăn mà đôi khi Ngân hàng không có khả năng đánh giá hết. Nói tóm lại, để có một khoản vay an toàn, hiệu quả thì vấn đề kiểm tra sau đối với việc sử dụng vốn của khách hàng là rất quan trọng ngay cả khi với khách hang quen thuộc. Kết quả kiểm tra sau là căn cứ để Ngân hàng đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng đồng thời xem xét có nên tiếp tục cho vay hay không. Công tác này được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc góp phần nâng cao chất lượng hoạt động cho vay nói chung và cho vay xuất nhập khẩu nói riêng, từ đó Ngân hàng mới xây dựng chiến lược mở rộng cho vay đáp ứng tối đa nhu cầu vốn của khách hàng. 3.2.5 Tăng cường công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ Kiểm tra, kiểm toán nội bộ là khâu vô cùng quan trọng trong việc mở rộng cho vay và nâng cao chất lượng cho vay xuất nhập khẩu. Nó là một trong những yếu tố đảm bảo tính an toàn, hiệu quả cho hoạt động của Ngân hàng. Một thực tế hiện nay tại chi nhánh là đội ngũ cán bộ làm công tác này còn mỏng, chủ yếu là các cán bộ lâu năm còn chua có đội nguc nhân viên để thay thế vì vậy việc tăng cường nhân lực cho phòng là điều cần làm ngay. Hoạt động kiểm tra kiểm soát không chỉ đơnthuần là kiểm tra tính hợp lệ, chuẩn mực của các bộ hồ sơ mà vai trò quan trọng hơn của nó là tìm ra những vi phạm, sai sót để có biện pháp kịp thời khắc phục, sửa chữa tránh dẫn đến hậu quả đáng tiếc. Một chính sách kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, linh hoạt là vấn đề đặt ra cho những người xây dựng cơ chế, chính sách tại Ngân hàng để luôn phù hợp với quy định đã đề ra nhưng cũng đảm bảo luôn theo đúng xu hướng phát triển của ngành. 3.2.6 Xây dựng chính sách cho vay xuất nhập khẩu Như phần thực trạng đã phân tích, hiện nay các hình thức cho vay phục vụ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng còn đơn giản, đối với cho vay nhập khẩu chủ yếu là cho vay mở L/C, cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập, còn cho vay xuát khẩu thì có hình thức cho vay ngắn hạn để doanh nghiệp thu mua hàng xuất. Vấn đề đặt ra ở đây không phải muốn mở rộng cho vay xuất nhập thì nhất thiết phải đa dạng hoá các hình thức cho vay mà điều quan trọng hơn là vẫn duy trì những hình thức như vậy nhưng quy mô của nó ngày càng tăng, hiệu quả tốt hơn. • Đối với cho vay nhập khẩu Thứ nhất, đối với các khách hàng truyền thống, chuyên hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu Ngân hàng có thể có những ưu đãi về mức ký quỹ, đơn giản hoá các thủ tục nhất là đối với cho vay từng lần, có thể áp dụng nhiều mức lãi suất theo hiệu quả của từng phương án nhập khẩu. Thứ hai, tăng cường công tác ngoại giao với các Ngân hàng bạn đẻ cùng tham gia đồng tài trợ cho các phương án nhập khẩu giá trị lớn. Thứ ba, tìm kiếm các dự án của chính phủ ký kết với các chính phủ hay Ngân hàng nước ngoài trong việc hỗ trợ nhập khẩu theo hình thức chuyển giao công nghệ, trợ giúp về mặt kỹ thuật để đóng vai trò là trung gian thanh toán bổ sung nguồn ngoại tệ phục vụ các món vay nhập khẩu quy mô nhỏ hơn. • Đối với cho vay xuất khẩu Thứ nhất, có thể phát triển hình thức cho vay bằng cách tạm ứng cho người xuất khẩu. Với tư cách là Ngân hàng phục vụ cho doanh ngiệp xuất khẩu, trong những tình huống nhà xuất khẩu gặp khó khăn sau khi xuát hàng mà chưa thuđược tiền nhưng lại phát sinh nhu cầu về vốn trong kinh doanh thì Ngân hàng có thể tạm ứng cho nhà xuất khẩu dựa vào sự đanh giá tính hiệu quả của phương án trên cở sở thẩm định, xem xét thực tế thị trường của mặt hàng đó cũng như theo dõi diễn biến giá cả thị trường tiêu thụ, tìm hểu khách hàng nhập khẩu từ những nguồn thông tin đáng tin cậy. Thứ hai, Ngân hàng trên cơ sở nhiều nguồn thông tin nắm bắt được từ các bộ ngành khác nhau có thể biết rõ được những mặt hàng hiện đang được đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường lớn, ổn định. Từ những tìm hiểu đó, Ngân hàng có thể tham gia các dự án phục vụ xuất khẩu như cho vay các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, thông qua nghiệp vụ này Ngân hàng không chỉ góp phần hhõ trợ các doang nghiệp xuất khhẩu trong địa bàn hiện nay đang có nhu cầu về vốn ngày càng tăng. Bên cạnh đó, Ngân hàng có thể tư vấn cho các doanh ngiệp trong việc lựa chọn mặt hàng, thị trường tiêu thụ, nguồn hàng đảm bảo hiệu quả của các phương án kinh doanh. 3.3 Một số đề xuất Hoạt động Ngân hàng vừa mang tính kinh tế vừa mang tính chính trị xã hội, nó được xem là mmọt lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm, một biến động nhỏ về kinh tế chính trị xẫ họi cũng lập tức tác động đến đời sống xã hội kinh tế của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy hoạt động Ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều cơ quan ban ngành mà mỗi điều chỉnh, sửa đổi chính sách, quy định của họ cũng đều tác động đến Ngân hàngmà trực tiếp ở đây là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Chính phủ. 3.3.1 Kiến nghị với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam với tư cách là cơ quan quản lý trực tiếp mọi hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội, mọi quy chế chính sách của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đưa ra đều tác động đến hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội. Chính vì vậy, để hỗ trợ hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội luôn ổn định, an toàn thì trong quá trình xây dựng và thực thi các quy chế mới Ngân hàng cần quan tâm hơn nữa công tác phổ biến, hướng dẫn việc thực hiện đảm bảo tính thống nhất, cập nhất trong toàn hệ thống. Chuẩn mực hoá cơ chế trích lập dự phòng rủi ro để các đơn vị thành viên trong toàn hệ thống chủ động trong công tác điều hành tín dụng, đưa mục tiêu an toàn lên hàng đầu nhưng cũng phải gắn việc mở rộng tín dụng với hiệu quả tài chính trong hoạt động tín dụng. Việc điều chuyển cán bộ từ các bộ phân khác sang làm việc tại Ngân hàng đã gây khó khăn trong việc sắp xếp công việc cho phù hợp với năng lực của họ, nếu trong điều kiện Trung tâm điều hành trên TW không sắp xếp được chương trình giảng dạy thì có thể hỗ trợ một phần kinh phí để các can bộ tham gia các chương trình đào tạo tại các trường kinh tế. Chính sách đó không chỉ khuyến khích các cán bộ ham học hỏi trong điều kiện thu nhập còn khiêm tốn mà nó còn có ý nghĩa lâu dài trong chiến lược phát triển của ngành và quan trọng hơn là nâng cao trình độ cán bộ để họ nhanh chóng nắm bắt công nghệ mới, đáp ứng đòi hỏi của thời đại hội nhập quốc tế về tài chính Ngân hàng. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước Việt Nam Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước cao nhất của Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội, Ngân hàng nhà nước Việt Nam thay mặt chính phủ chịu trách nhiệm xây dựng các chính sách, chiến lược điều hành mọi hoạt động tài chính ngân hàng. Điểm yếu lớn nhất của hệ thống luật Việt Nam nói chung và hệ thống luật Ngân hàng nói riêng là tính bất ổn định, chồng chéo, đôi khi không thống nhất đã gây nhiều khó khăn trong qua trình triển khai thực hiện và áp dụng vào thực tế. Trong giai đoạn chuẩn bị cho việc tham gia các tổ chức tài chính tiền tệ và sẵn sàng cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài khi chúng ta thực hiện các hiệp định thương mại quốc tế, thì việc hình thành một cơ chế quản lý mang tính vĩ mô, ổn định cần phải được xây dựng để phù hợp với thực tế. Đối với hoạt động cho vay xuất nhập khẩu bao gồm cả cho vay nội tệ và cho vay ngoại tệ chịu tác động trực tiếp bởi cơ chế quản lý ngoại hối theo quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, các ngân hàng thương mại phải đảm bảo một tỷ lệ dự trữ nhất định và các doanh nghịêp có nguồn thu, chi ngoại tệ khi thanh toán qua ngân hàng phải được theo dõi chặt chẽ nên đôi khi tạo ra tâm lý e ngại cho khách hàng khi lựa chọn phương thức thanh toán qua ngân hàng. Bên cạnh đó, Ngân hàng nhà nước Việt Nam nên có những điều chỉnh về cơ chế, chính sách hoạt động của toàn hệ thống Ngân hàng thương mại để nâng cao tính tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Ngân hàng mình. Thường xuyên có những chương trình đào tạo mới và đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ bao cấp nhằm giúp các Ngân hàng cấp dưới luôn cập nhật được công nghệ mới cũng như ứng dụng chúng vào thực tế một cách hiệu quả 3.3.3 Kiến nghị với Nhà nước Hoạt động xuất nhập khẩu giữ vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhưng nó là một hoạt động kinh tế phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong và ngoài nước. Thực hiện thành công mục tiêu đó Nhà nước ta thời gian qua cũng đã có những cải cách về chính sách thương mại, chính sách thuế... nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động này. Trong điều kiện hiện nay, để đảm bảo cho hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra một cách ổn định, tăng trưởng, Nhà nước cần phải thường xuyên có những điều chỉnh về chính sách cho phù hợp với tình hình mới. Tạo điều kiện tốt nhất để các cơ quan, bộ ngành kiên quan đến hoạt động này hoạt động một cách thống nhất, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để cải cách cơ chế làm việc còn nhiều bất cập như hiện nay. Khi có những chính sách mới thì nhanh chóng công bố công khai, kíp thời kèm theo những văn bản hướng dẫn để đảm bảo việc thực hiện đồng bộ, thống nhất giữa các đơn vị có liên quan. Đặc biệt chú trọng đến công tác cập nhật đánh giá và dự báo các biến động thị trường để có những điều chỉnh về cơ cấu, giá cả, số lượng xuất nhập khẩu đảm bảo hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp không rơi vào thế bị động, bị thua lỗ vì không có thông tin. Việc xác định cơ cấu mặt hàng cho hoạt động xuất nhập khẩu vừa đảm bảo khai thác được lợi thế trong nước vừa đảm bảo mang lại nguồn thu không chỉ cho doanh nghiệp mà còn góp phần bổ sung vào ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ là rất quan trọng. Các Ngân hàng khi cho vay cũng phải trên cơ sở nắm vững chính sách của Nhà nước về các loại mặt hàng, số lượng, thị trường tiêu thụ mới quyết định xem phương án đó có hiệu quả như doanh nghiệp đã dự kiến hay không, từ đó mới quyết định mức cho vay và mức lãi tương ứng. Nhà nước cũng nhanh chóng hoàn chỉnh và đã vào áp dụng các luật mới về hoạt động thương mại, tài chính ngân hàng, xây dựng các kế hoạch phát triển dài hạn cho từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể dựa trên những kết quả đã đạt được cũng như phải thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp với xu hướng vận động của nền kinh tế. Để chuẩn bị cho lộ trình tham gia hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế và tựhc hiện các cam kết song phương và đa phương, chúng ta phải có những chiến lược, bước đi cụ thể cho từng giai đoạn nhất định. Muốn vậy, Nhà nước phải đề ra phương hướng, biện pháp thực hiện rõ rang để đảm bảo vừa đúng thời hạn vừa đạt được hiệu quả cao nhất không chỉ nhằm rút ngắn thời gian thực hiện mà quan trọng hơn là đảm bảo một sự chuẩn bị tốt nhất cho toàn bộ nền kinh tế nước ta trước khi bước vào giai đoạn phát triển mới. Đối với hoạt động Ngân hàng, việc Nhà nước thực hiện thí điểm dự án cổ phần hoá các Ngân hàng thương mại quốc doanh có thể xem là một bước đột phá trong chính sách quản lý vĩ mô đối với hoạt động ngân hàng tài chính. Điều đó thể hiện rõ quyết tâm của chúng ta phải tiến hành đổi mới để chuẩn bị cho việc thực hiện các chiến lược dài hạn đã đề ra cho ngành ngân hàng trong tiến trình thực hiện chính sách mở cửa chuẩn bị cho phép các ngân hàng nước ngoài được phép kinh doanh bình đăngr tại Việt Nam. Có thể nó trong vòng 4 năm tới sự cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là rất lớn, do đó đòi hỏi các ngân hàng phải có sự chuẩn bị từ bây giờ,thì mới có khả năng tồn tại và phát triển trong tương lai. Thực hiện được điều đó ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước thì bản thân các ngân hàng cũng phải tự đổi mới bằng chính năng lực của mình để đủ sức cạnh tranh, giữ vững thị phần trong nước và hướng tới mở rộng ra thị trường quốc tế. Kết luận Trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế như hiện nay với sự xuất hiện ngày càng nhiều các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng 100% vốn nước ngoài đã và đang đặt ra nhiều thách thức cho toàn hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội nói riêng. Vấn đề đặt ra cho ngân hàng hiện nay là làm sao phát huy được những thế mạnh hiện có đồng thời phải có chiến lược cụ thể cho thời gian sắp tới để không bị tụt hậu trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Muốn làm được điều đó không chỉ phụ thuộc vào năng lực của chi nhánh mà còn cần sự hỗ trợ cả về mặt tài chính cũng như về mặt quản lý đào tạo chuyên môn nghiệp vụ của trung tâm điều hành và ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Trên cơ sở những kết quả đạt được trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động cho vay xuất nhập khẩu nói riêng ngân hàng cần đặt ra những kế hoạch cụ thể để có thể sử dụng triệt để nguồn vốn huy động được đáp ứng nhu cầu vay vốn ngày càng tăng của khách hàng đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương. Việc mở rộng cho vay xuất nhập khẩu phải đảm bảo nguyên tắc an toàn, hiệu quả, có sự kết hợp giữa các phòng chuyên môn để đánh giá và thực hiện việc cho vay với thời gian ngắn nhất nhưng hiệu quả nhất. Thực tế hoạt độngcho vay xuất nhập khẩu đã được phản ánh một cách khá chi tiết trong bài viết này, tuy nhiên do thời gian và kinh nghiện còn hạn chế nên không tránh khỏ những sai xót, người viết mong muốn nhận được sự góp ý chân thành của những ai quan tâm đến lĩnh vực này. Xin chân thành cảm ơn! Danh mục tài liệu tham khảo 1/ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2003,2004,2005 của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội. 2/ Quản trị Ngân hàng thương mại – Peter S.Rose 3/ Quản lý và kinh doanh tiền tệ – Nhà xuất bản tài chính 4/ Giáo trình tài chính quốc tế- Học viện tài chính – Nhà xuất bản tài chính 5/ Quyết định 72/QĐ-HĐQT-TD v/v: ban hành quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống ngân hàng nông ngiệp Việt Nam 5/ Lý thuyết tài chính - Học viện tài chính 6/ Giáo trình kinh tế phát triển - Đại học KTQD 7/ Giáo trình ngân hàng thương mại - Đại học KTQD 8/ Luận văn giải pháp nâng cao cho vay XNK tại NHNN & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội – Nguyễn Lan Phương NH44A

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32255.doc
Tài liệu liên quan