Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2015

Từ việc phân tích thực trạng hiệu quả thu hút và sử dụng vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, tổng hợp kinh nghiệp một số nước liên quan, có thể rút ra một số kết luận như sau: 1) Vai trò của vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn Việt Nam giai đoạn qua đã thực sự là một tác nhân góp phần tạo ra những đột phá trong tăng trưởng nông nghiệp nói riêng, và phát triển nông thôn nói chung. Cụ thể, nó đã góp phần làm tăng GDP nông nghiệp, tạo thêm cơ hội cải tiến trang thiết bị nông nghiệp, tạo thêm công ăn việc làm; bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, các nhà máy các khu công nghiệp ngày càng nhiều, các dự án lớn trong nông nghiệp ngày càng tăng góp phần chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và nông thôn. 2) Vốn FDI đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn không nhiều so với các lĩnh vực khác, chỉ chiếm khoảng từ 3,3% đến 3,9% trong tổng vốn FDI hàng năm đầu tư vào Việt Nam. Lượng vốn đầu tư hàng năm không có sự biến động nhiều, tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn lại có xu hướng giảm thể hiện qua chỉ số ICOR có xu hướng tăng dần. Điều đó cho thấy, khả năng hấp thụ vốn FDI trong nông nghiệp, nông thôn đã hạn chế. Một số nguyên cơ bản làm cho hiệu quả FDI giảm đó là chưa có quy hoạch và kế hoạch đồng bộ trong thu hút vốn, năng lực quản lý của cán bộ, tay nghề công nhân, cũng như cơ sở hạ tầng kỹ thuật không đáp ứng được so với nhu cầu đầu tư. 3) Khối lượng vốn FDI đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn có sự khác biệt lớn giữa các vùng miền trong nước, cũng như sự khác biệt giữa các lĩnh vực trong nội bộ ngành nông nghiệp, nông thôn. 4) Các đối tác, nhà đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn vẫn chưa đa dạng, chủ yếu là các nước châu Á; chúng ta chưa đủ khả năng thu hút các nhà đầu tư lớn đến từ các nước có tiềm năng và thế mạnh về nông nghiệp như Hoa Kỳ, Canada, Úc. Điều này cho thấy cơ chế chính sách, cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn cũng như khả năng vận động, xúc tiến đầu tư của Việt Nam trong lĩnh vực này vẫn còn rất hạn chế. 5) Để nâng cao hiệu quả thu hút, cũng như sử dụng tốt vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2015, chuyên đề đã đưa ra được 2 nhóm giải pháp đó là nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút FDI (có 3 giải pháp cụ thể) và nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng FDI (có 9 giải pháp cụ thể).

doc97 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1665 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng dân và doanh nghiệp chưa hợp lý, nhưng chủ yếu là do nông dân Việt Nam còn mang nặng tư tưởng tiểu nông, sản xuất nhỏ, không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận với nhà đầu tư (như tự ý mang sản phẩm đi bán thu lời, không tự giác trong công việc…). Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 1/2006, nhưng quy hoạch các vùng kinh tế - sinh thái vẫn chưa được thực hiện nhiều ở các địa phương trong cả nước Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu trong nước đối với dự án chế biến gỗ, sữa, dầu thực vật, đường mía chưa được thực hiện có hiệu quả. Hiện nay hầu hết các dự án ĐTNN đều không sử dụng hoặc sử dụng rất hạn chế nguồn nguyên liệu trong nước để chế biến mà chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài. Yêu cầu bắt buộc nhà đầu tư phải phát triển nguồn nguyên liệu trong nước không khả thi vì những lý do sau: + Chưa có biện pháp và chế tài thích đáng để buộc các doanh nghiệp thực hiện đúng cam kết tại Giáy phép đầu tư về chế biến gắn với đầu tư phát triển vùng nguyên liệu. + Số lượng và chất lượng nguyên liệu ( giống cây, giống con) ở Việt Nam còn hạn chế, không phù hợp với dây chuyền công nghệ. + Việc xây dựng vùng nguyên liệu khó khăn do điều kiện hạ tầng kém, điều kiện thời tiết không phù hợp. 2.3.4.5. Hệ thống tổ chức sản xuất, thu mua, chế biến và tiêu thụ nông sản, hải sản thực phẩm còn nhiều bất cập Hệ thống sản xuất, tiêu thụ hàng nông sản còn nhiều bất cập do chưa thiết lập được mối quan hệ giữa các hộ nông dân với các doanh nghiệp, chưa phát huy hết vai trò của Hiệp hội theo ngành hàng Có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến sự bất cập của hệ thống sản xuất, tiêu thụ hàng nông sản, hải sản, thực phẩm trong đó có nguyên nhân quan trọng nhất là chưa thiết lập được mối quan hệ gắn bó lâu dài, bền vững giữa các hộ nông dân sản xuất nông sản, thực phẩm với các doanh nghiệp ĐTNN thu mua, chế biến ở trên từng địa bàn và chưa phát huy hết vai trò của các Hiệp hội theo ngành hàng để điều tiết chung các hoạt động sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản, thực phẩm phù hợp với quan hệ cung – cầu trên phạm vi quốc gia, khu vực cũng như trên thị trường thế giới. Tình trạng này đã tạo ra sự mất cân dối liên tục giữa cung và cầu về nguyên liệu do người nông dân sản xuất với việc thu mua,bảo quản chế biến của các doanh nghiệp. Hiện tượng tranh mua, đẩy giá lên cao, tranh bán ép giá xuống thường xuyên diễn ra ở nhiều nơi, nhiều lúc và ở cả tại thị trường trong và ngoài nước đã và đang gây bất lợi cho cả người nông dân sản xuất, các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ và cả nền kinh tế nói chung. 2.3.4.6. Công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn còn kém hiệu quả - Công tác xúc tiến gặp khó khăn do thiếu nguồn kinh phí để tổ chức vận động đầu tư và hoàn chỉnh các tài liệu tuyên truyền đầu tư; các hoạt động xúc tiến đầu tư còn dàn trải. Trong thời gian qua, công tác xúc tiến ĐTNN nói chung và xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp đã có nhiếu cố gắng nhưng vẫn gặp khó khăn lớn do thiếu nguồn kinh phí để tổ chức các cuộc vận động đầu tư ở nước ngoài và hoàn chỉnh các tài liệu tuyên truyền đầu tư. Các hoạt động xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực này còn dàn trải, chưa chú trọng vào các đối tác chiến lược và dự án quan trọng. Việc nghiên cứu đối tác nước ngoài, nhất là các tập đoàn xuyên quốc giac có tiềm năng đầu tư trong lĩnh vực này chưa được quan tâm đúng mức; chưa tổ chức được nhiều các cuộc vận động đầu tư tại các địa bàn trọng điểm. Việc thu hút ĐTNN trong lĩnh vực này chưa gắn kết với việc huy động nguồn ODA, chưa tranh thủ ODA để hỗ trợ các dự án ĐTNN vào các ngành trọng điểm và các vùng cần thu hút vốn đầu tư. Tóm lại, tất cả các yếu tố trên không chỉ gây khó khăn cho nhà đầu tư trong việc lựa chọn cơ hội đầu tư, chuẩn bị dự án mà còn gây lúng túng cho các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xác định chủ trương thực hiện ĐTNN trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và phát triển nông thôn. Vì thế lĩnh vực này vẫn chưa thể trở thành điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Cần phải có những giải pháp tích cực khắc phục tình trạng này để kéo FDI vào NN & PTNT. Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐẾN NĂM 2015 3.1. NHỮNG CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ FDI TRONG LĨNH VỰC NN VÀ PTNT ĐẾN NĂM 2015 3.1.1. Cơ sở khoa học Xu thế tất yếu có tính quy luật của xã hội đó là vốn đầu tư luôn được di chuyển từ nơi có khả năng sinh lời thấp (hoặc khó có khả năng sinh lời) đến nơi có khả năng sinh lời cao (hoặc dễ có khả năng sinh lời). Vốn đầu tư nước ngoài theo nghĩa rộng gồm cả vốn bằng tiền, công nghệ, kỹ thuật, lao động kỹ thuật cao, kỹ năng quản lý.... Sự di chuyển này thường sảy ra theo 3 hướng: Hướng thứ nhất, di chuyển theo không gian: trong cùng một lĩnh vực nhưng nhà đầu tư của quốc gia này quyết định đầu tư ở quốc gia khác, trường hợp này thường từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Hướng thứ hai, di chuyển khỏi lĩnh vực: các nhà đầu tư rút một phần vốn (hoặc toàn bộ vốn) từ lĩnh vực này sang đầu tư ở lĩnh vực khác có khả năng sinh lời cao hơn. Ví dụ, rút vốn từ lĩnh vực công nghiệp sang đầu tư ở lĩnh vực dịch vụ, giải trí, nông nghiệp, môi trường... Hướng thứ ba, tổng hợp: đây là sự kết hợp cả xu hướng thứ nhất và thứ hai. Ví dụ, các nhà đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp ở các nước có nền nông nghiệp hiện đại sang đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp ở các nước có nền nông nghiệp truyền thống. Xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể tăng hoặc giảm ở những giai đoạn khác nhau; tăng hay giảm phụ thuộc vào nhiều yếu tố xuất phát từ nhiều phía, không riêng gì từ phía nước đầu tư và nước nhận đầu tư. Lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là một điểm đến có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc bảo toàn và sinh lời của vốn. Các điều kiện được các nhà đầu tư đánh giá cao đó là môi trường luật pháp thông thoáng hơn (thủ tục hành chính được cải cách đơn giản hơn, chỉ số bảo vệ các nhà đầu tư cao hơn so với các nước Đông Nam Á), chính trị ổn định, lực lượng lao động dồi dào, tài nguyên đa dạng (đặc biệt là tài nguyên đất và tài nguyên sinh vật), có giao thông đường thuỷ (hiện nay có tới 85% khối lượng hàng hoá từ nước này sang nước khác được vận chuyển bằng đường thuỷ) và là cửa ngõ để vào các nước Đông Nam Á khác. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang bị suy giảm mạnh như hiện nay, mức đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ giảm mạnh trong những năm tới. Khi nền kinh tế thế giới được phục hồi, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ tăng mạnh, có thể tăng trở lại vào năm 2010. Với xu thế như vậy, việc chuẩn bị các yếu tố để thu hút và hấp thụ hiệu quả FDI là điều phải được tính trước. 3.1.2. Cơ sở pháp lý Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao. Khắc phục những hạn chế, tăng lực cho giai đoạn từ nay đến năm 2020, tại Hội nghị lần thứ 7 khoá X, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (Tam nông). Nội dung Nghị quyết đã khẳng định mục tiêu đến năm 2020 là "Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,5 - 4%/năm; sử dựng đất nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, trước hết là hệ thống thuỷ lợi đảm bảo tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa 2 vụ. Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo...". Thực hiện đường lối chỉ đạo của Đảng, Chính phủ đã có Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2008 về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong Chương trình hành động, Chính phủ đã đưa ra 5 nhiệm vụ chủ yếu. Trong đó, có nội dung thực hiện công tác quy hoạch (có 9 vấn đề cần phải thực hiện), xây dựng mới các chương trình mục tiêu quốc gia đến năm 2020 (có 3 chương trình được xây dựng mới), xây dựng các đề án đến năm 2020 (có 36 đề án sẽ được thực hiện). Nguồn kinh phí để thực hiện các nội dung trong Chương trình của Chính phủ được đánh giá là vô cùng lớn, chiếm khoảng 40% tổng GDP. Trong đó, nguồn vốn nước ngoài như vốn ODA và vốn FDI có vai trò rất quan trọng. Vì thế, Chính phủ đã có Nghị quyết số 13/NQ - CP ngày 07 tháng 4 năm 2009 về định hướng, giải pháp thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới. Nội dung Nghị Quyết đã chọn lọc các lĩnh vực quan trọng cần thu hút đầu tư nước ngoài, trong đó lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn có 2 lĩnh vực gồm: phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực; chế biến nông sản, phát triển các vùng khó khăn, nông nghiệp và nông thôn. Để cụ thể hoá kế hoạch thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, Chính phủ đã yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành "Chương trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn”. Nội dung chính của Chương trình hướng vào phát triển công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây, con có năng suất, chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường, nhất là các sản phẩm có giá trị kinh tế cao (cà phê, chè, rau quả, hoa cây cảnh, chăn nuôi, tô, cá và các loại nhuyễn thể); sử dụng công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch để nâng cao giá trị và mức độ vệ sinh an toàn thực phẩm của sản phẩm, tạo ra thị trường tiêu thụ nông sản ổn định, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Bên cạnh, mục tiêu chính, Chương trình đã nêu cụ thể 5 lĩnh vực ưu tiên thu hút vốn FDI gồm: 1) Ngành trồng trọt, bảo quản và chế biến lương thực: - Lúa, ngô: trong lĩnh vực này chủ yếu tập trung thu hút các dự án ĐTNN vào khâu bảo quản, chế biến lương thực ở các địa phương đạt trình độ công nghệ tiên tiến để giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu xuất khẩu. - Rau đậu và hoa các loại: theo quy hoạch đến năm 2010 diện tích rau đậu, hoa các loại dự kiến đạt 1 triệu ha và đến năm 2020 đạt khoảng 1,1 - 1,2 triệu ha; sản lượng đến năm 2010 ước đạt 15,2 triệu tấn và năm 2020 ước đạt 20,7 triệu tấn. Để đạt mục tiêu đó, cần thu hút các dự án ĐTNN vào các vùng sản xuất rau chất lượng cao, tập trung theo công nghệ sạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; phát triển trồng nấm cho tiêu dùng trong nước; phát triển các loại hoa, cây cảnh đáp ứng cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Các dự án đầu tư này có thể bố trí chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long và một số vùng khác có khí hậu mát, lạnh quanh năm. 2) Ngành chế biến (nông sản, hải sản và thực phẩm) - Mía đường: đến nay cả nước có đến 38 nhà máy mía đường, trong đó có 5 nhà máy có vốn ĐTNT. Như vậy có thể nói số lượng nhà máy và công suất của các nhà máy đã đủ, không cần đầu tư thêm. Do đó, ngoài việc thu hút khuyến khích các nhà mày sử dụng hết công suất, cần xem xét đến khả năng thu hút vốn ĐTNN vào việc chết biến đường kết hợp với sản xuất ethanol (cồn) và phát điện, đồng thời tiếp tục đầu tư thâm canh; nghiên cứu và sử dụng giống mía có năng suất và trữ lượng đường cao. Các vùng dự án cần bố trí vùng nguyên liệu tại duyên hải Nam Trung Bộ, duyên hải Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long. - Cà phê: Trong vong năm 5 tới (đến năm 2015) không cần thiết huy động vốn đầu tư trồng mới đặc biệt là cà phê robusta, nên ổn định ở diện tích 450.000 - 500.000 ha, với sản lượng 1 triệu tấn. Do đó, với lĩnh vực này cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào việc chế biến đặc biệt là chế biến cà phê hoà tan, cà phê rang xay... để đến 2015 đạt sản lượng từ 10.000 - 15.000 tấn/năm, trong đó xuất khẩu chiếm 50%. - Chè: Mục tiêu chung của ngành chè đến năm 2010 - 2015 là trồng mới và thay thế dần diện tích chf cũ đạt mức ổn định khoảng 130.000 ha (đến năm 2020 ổn định ở diện tích 140.000 ha); sản lượng chè bút tươi đến năm 2015 ước đạt 900 ngàn tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 200 triệu USD, giải quyết việc làm cho khoảng 1,5 triệu lao động trên cả nước. Để đạt được mục tiêu này, ngoài việc mở rộng các cơ sở chế biến trong nước, cà thu hút ĐTNT vào ngành này để cải thiện chất lượng giống chè, kiểm soát ngặt dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong chè, nâng cao năng suất và chất lượng đạt hiệu quả xuất khẩu cao. Các dự án ĐTNT có thể thực hiện tại một số tỉnh miền núi như Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu, Yên Bái, Sơn La và Lâm Đồng. - Cao su: Định hướng đến năm 2015 và lâu hơn nữa của ngành cao su là nâng cao chất lượng cao su, phát triển nhanh công nghiệp chế biến mủ cao su xuất khẩu. Theo định hướng đó, cần tập trung thu hút ĐTNN vào đầu tư các nhà máy công nghệ hiện đại để nâng cao năng lực chế biến mủ cao su lu tâm (latex); phát triển các sản phẩm công nghiệp cao su dùng làm nguyên liệu ngành giày dép và may mặc; xây dựng các cơ sở chế biến các sản phẩm gỗ cao su công nghệ hiện đại như máy ván sợi (MDF), ván ép, gỗ đúc... để nâng cao giá trị gỗ cao su. - Rau quả: cần thu hút đầu tư ĐTNN để thực hiện các mục tiêu sau: xây dựng các vùng nguyên liệu cây ăn qủa chủ lực, có lợi thế cạnh tranh, tập trung cho các nhà máy theo hướng chủ yếu là thâm canh, xây dựng các vườn giống đạt tiêu chuẩn và kiểm soát chất lượng; hiện đại hoá công nghệ bảo quản rau, quả tươi phù hợp với vùng nguyên liệu và thị trường tiêu thụ; xây dựng hệ thống thu hái, tuyển chọn, bảo quản, đóng gói những loại rau quả có chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. 3) Ngành chăn nuôi và chế biến thức ăn chăn nuôi - Chăn nuôi: thu hút FDI để phát triển các loại gia súc gia cầm theo hướng sản xuất hàng hoá, hình thành các vùng chăn nuôi tập trung dưới hình thức trang trại, nuôi công nghiệp gắn với sơ chế giết mổ và chế biến công nghiệp. - Chế biến thức ăn chăn nuôi: mục tiêu của ngành chế biến thức ăn chăn nuôi công nghiệp đến năm 2020 là đưa tỷ lệ sử dụng thức ăn chăn nuôi công nghiệp từ 42% lên trên 70%. Để thực hiện mục tiêu đó, vai trò của ĐTNN rất quan trọng. Do đó, mục tiêu thu hút ĐTNN tập trung vào xây dựng và cung ứng nguyên liệu cho sản xuất thức ăn chăn nuôi (như: ngô, đậu tương, cỏ...) và đầu tư hạ tầng, thiết bị bốc dỡ, kho cảng biển nước sâu chuyên cho xuất - nhập nguyên liệu, thức ăn chăn nuôi. - Chế biến sản phẩm chăn nuôi: Hiện nay, tỷ trọng thịt được giết mổ, chế biến công nghiệp còn rất khiêm tốn do công nghệ lạc hậu. Do vậy, cần thu hút ĐTNN để thực hiện các dự án giết mổ, chế biến công nghiệp nhằm góp phần tăng tỷ trọng thịt được giết mổ, chế biến công nghiệp từ 4% năm 2006 đến khoảng 25% năm 2015 và 37% năm 2020. 4) Ngành trồng rừng - chế biến gỗ - Ngành trồng rừng, chế biến bột giấy: Đến năm 2007, Việt Nam có khoảng 2,1 triệu ha đất trống phù hợp cho trồng rừng sản xuất nguyên liệu, cùng với tổng diện tích 3 loại rừng 16,24 triệu ha, trong đó rừng sản xuất là 8,4 triệu ha. Để sử dụng hiệu quả tài nguyên này, định hướng thu thút ĐTNN vào các nội dung sau: + Sản xuất giống cây có chất lượng, năng suất cao nhằm đáp ứng nhu cầu trồng rừng nguyên liệu phục vụ chế biến gỗ, lâm sản. + Trồng lại diện tích rừng trồng sản xuất hiện có (khoảng 840 nghìn ha) và áp dụng các biện pháp kĩ thuật lâm sinh tiên tiến để đầu tư trồng mới loại cây mọc nhanh, năng suất cao cung cấp nguyên liệu gỗ cho công nghiệp chế biến ván nhân tạo, giấy. + Khuyến khích các dự án trồng rừng nguyên liệu ở những nơi phù hợp với các giống cây có năng suất, chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu của ngành chế biến gỗ. Khuyến khích các chủ đầu tư xin cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững cử FSC cho các khu rừng trồng mới này. - Ngành chế biến gỗ, lâm sản: Trong những năm gần đây, ngành chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc với kim ngạch xuất khẩu luôn tăng trưởng cao, năm 2007 đạt gần 2,4 tỷ USD, tăng gấp hơn 10 lần so với năm 2000 (219 triệu USD). Hiện có khoảng hơn 900 doanh nghiệp tham gia chế biến gỗ xuất khẩu, trong đó có gần 300 doanh nghiệp ĐTNN quy mô lớn. Định hướng thu hút ĐTNN để thực hiện các dự án sau: + Phát triển các sản phẩm có ưu thế cạnh tranh cao như đồ gỗ nội thất, đồ gỗ ngoài trời, đồ mộc mỹ nghệ và sản phẩm mây tre. + Xây dựng, mở rộng các khu công nghiệp chế biến lâm sản ở các vùng có khả năng cung cấp đủ nguyên liệu, ổn định, thuận lợi về cơ sở hạ tầng, đảm bảo có lợi nhuận và cạnh tranh được trên thị trường khu vực và quốc tế. + Xây dựng các cơ sở sản xuất, chế biến tổng hợp gỗ rừng trồng và lâm sản ngoài gỗ; chế biến ván nhân tạo và bột giấy, giảm dần chế biến dăm gỗ xuất khẩu. + Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ sử dụng nhiều lao động, ít nguyên liệu song đạt giá trị cao... 5) Ngành thủy sản - Khai thác thủy sản: Việt Nam có chiều dài bờ biển 3260 km với trên 1000 km2 vùng đặc quyền kinh tế; trữ lượng hải sản khoảng 5 triệu tấn với khả năng khai thác bền vững, tối đa 2 triệu tẩn/năm. Định hướng thu hút ĐTNN trong ngành này là tập trung vào các dự án sử dụng công nghệ khai thác nghề cá có trách nhiệm, khai thác loài cá có giá trị kinh tế cao, giảm tối đa khai thác loài cá phụ, đồng thời không làm xáo động ngư dân ở vùng khai thác. - Nuôi trồng thủy sản: Việt Nam có tiềm năng nuôi thủy sản lớn với trên 2 triệu ha, trong đó 500000 ha mặn lợ, 400000 ha hồ ao, ruộng trũng và 500000 ha vịnh đầm nuôi biển. Định hướng thu hút ĐTNN vào ngành này trong tời gian tới là khuyến khích các dự án sản xuất giống và nuôi các loài giá trị cao (như giống cá biển các loại, các loại giống bố mẹ sạch bệnh); sản xuất thức ăn hữu cơ, vi sinh phục vụ phương pháp nuôi GAP, nuôi trồng thủy sản trên biển và hải đảo... - Chế biến và xuất khẩu thủy sản: Định hướng thu hút ĐTNN tập trung vào việc đổi mới công nghệ chế biến phù hợp với tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, có chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế HACCP, GMP, SSOP; mở rộng chủng loại và khối lượng hàng thủy sản có giá trị gia tăng, hàng phối chế, hàng ăn liền đạt tỷ trọng 60 - 65% sản phẩm giá trị gia tăng trong cơ cấu giá trị xuất khẩu thủy sản. Như vậy có thể thấy, cơ sở pháp lý cho việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn được xây dựng một cách có hệ thống và chặt chẽ; nhiệm vụ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được Đảng và Chính phủ đánh giá là nhiệm vụ quan trọng góp phần thực hiện thành công công cuộc xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn tới. 3.1.3. Cơ sở thực tiễn Qua việc phân tích thức tế hiệu quả FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Chương 2 cho thấy, FDI đã có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp và thông thôn giai đoạn qua. FDI đã góp tăng thu cho ngân sách Nhà nước; từ năm 1998 đến nay, nộp ngân sách của khu vực có vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp đạt 200 triệu USD, và tăng dần qua các năm. FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, một yếu tố nền tảng đổi mới nông nghiệp nông thôn. đem vào Việt Nam nhiều thiết bị, công nghệ tiên tiến, nhiều giống cây, giống con có năng suất, chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế. FDI đã góp phần hình thành các khu công nghiệp mới trong nông thôn. FDI góp phần tạo việc làm, nâng cao mức sống dân cư nông thôn; đến nay các dự án ĐTNN vào lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp đã thu hút khoảng 140000 lao động trực tiếp, chưa kể số lượng lớn các lao động thời vụ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực tế thu hút và sử dụng FDI còn có nhiều mặt hạn chế. Tỷ trọng ĐTNN còn thấp và thiếu ổn định; chưa phát huy huy đầy đủ tiềm năng, thế mạnh trong ngành trồng trọt và chế biến nông sản, ĐTNN có xu hướng tập trung vào việc khai thac tiềm năng, nguồn lực sẵn có về đất đai, lao động. Phân bổ nguồn vốn ĐTNN không đồng đều giữa các địa phương, chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi như miền Đông Nam Bộ (54%), trong khi có tác động rất hạn chế đến khu vực miền núi phía Bắc (4%), đồng bằng sông Hồng (5%). Đối tác nước ngoài tham gia đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn thiếu tính đa dạng; cho đến nay, đã có các nhà đầu tư từ trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt Nam nhưng đối tác nước ngoài trong lĩnh vực này vẫn chủ yếu là các nhà đầu tư từ châu Á. Như vậy có thể thấy, việc thu hút, quản lý và sử dụng FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp nhưng chưa thực sự hiệu quả và tương xứng với vai trò của nền nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này thì nhiều, tuy nhiên có thể thấy một số nguyên nhân chính như sau: - Thủ tục hành chính, hành lang pháp lý trong việc thu hút và quản lý FDI còn quá phức tạp, rườm rà nhiều khi gây khó hiểu thậm chí gây hiểu nhầm cho các nhà đầu tư; một số điểm thiếu đồng bộ và nhất quán giữa các luật chung và luật chuyên ngành; thu tục cấp phép chưa nhanh chóng, còn nhiều phức tạp. - Cơ sở hạ tầng sản xuất yếu kém, đặc biệt là hạ tầng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn như đường giao thông, điện, cấp thoát nước, cơ sở hạ tầng cảng biển. - Nội dung và phương thức vận động, xúc tiến đầu tư còn nặng về hình thức và tính thời điểm, chưa chú trọng đến chiến lược vận động dài hạn và tới nhiều đối tượng đầu tư khác nhau. - Chưa có chiến lược, quy hoạch ngành rõ ràng cả về quy hoạch vùng sản xuất và quy hoạch nguồn lực. Điều này dẫn đến có những lĩnh vực có quá nhiều nhà đầu tư, nhưng có những lĩnh vực lại quá ít nhà đầu tư; nơi hấp thụ không hết vốn, nơi thì thiếu vốn. - Công tác thẩm định, xét duyệt thầu còn lõng lẻo; giám sát thực hiện các dự án đầu tư còn xem nhẹ và không cương quyết xử lý khi có sai phạm trong quá trình thực hiện. - Năng lực của cán bộ công chức có liên quan đến quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng (không đủ năng lực), thậm chí còn gây nhũng nhiễu cho các nhà đầu tư. Lượng lượng lao động trong nông thôn tuy nhiều nhưng chất lượng còn thấp (hiện nay có tới 77% số người trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo). - Chính sách đất đai, giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập; do quy định của Luật Đất đai nên việc sử dụng đất, thuê đất, giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư đang khó khăn, chậm chạp, nhiều tranh chấp; đất đai manh muốn khó cho các dự án khi sử dụng đất phát triển vùng nguyên liệu... - Các chính sách tín dụng, chính sách đầu tư còn mang nặng tính phân biệt giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước; việc áp dụng một số ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, đặc biệt là các ưu đãi nhằm khuyến khích sản xuất hàng nông sản xuất khẩu và sử dụng nguyên liệu trong nước không còn phù hợp. Những khó khăn vừa nêu sẽ là một thách thức rất lớn đối với việc thu hút và sử dụng hiệu quả FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trong khi, vai trò của các dự án ĐTNN trong lĩnh vực này đếu có tác động quan trọng đối với việc thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm góp phần thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn mà Đảng và Chính phủ đã đề ra. Do đó, các giải pháp để tháo gỡ vấn đề này, đón đầu được dòng di chuyển đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới luôn được các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách quan tâm. 3.2. NỘNG DUNG CỦA CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ FDI TRONG LĨNH VỰC NN VÀ PTNT ĐẾN NĂM 2015 Từ các căn cứ khoa học, pháp lý và thực tiễn cho thấy, để nâng cao hiệu quả vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2015, Việt Nam cần tập trung vào 2 nhóm giải pháp cơ bản đó là nhóm giải pháp thu hút hiệu quả FDI và nhóm giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả FDI. Nội dung cụ thể của hai nhóm giải pháp này như sau: 3.2.1. Các giải pháp thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn Để thu hút một cách có hiệu quả các nhà đầu tư quốc tế (các dòng vốn FDI) đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, cần phải thực hiện một cách đồng bộ và triệt để các giải pháp sau đây: 3.2.1.1. Tiếp tục đổi mới chính sách cải thiện môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh Thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với việc thu hút đầu tư. Thủ tục quá phức tạp, rườm rà nhiều khi gây khó hiểu thậm chí hiểu nhầm dẫn đến không thu hút được các nhà đầu tư và khó thực hiện khi đã quyết định dự án đầu tư. Ngoài ra, thủ tục đầu tư rườm rà, phức tạp tạo ra những khe hở để quan chức địa phương sách nhiễu gây phiền hà hoặc đòi ăn hối lộ, gây thiệt hại đến lợi ích và làm nản lòng các nhà đầu tư. Hiện nay, hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư và kinh doanh vẫn còn một số điểm thiếu đồng bộ và nhất quán giữa các luật chung và luật chuyên ngành; thu tục cấp phép chưa nhanh chóng, còn nhiều phức tạp. Điều này đã tạo ra sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế trong nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; tạo ra cách hiểu khác nhau với cùng một vấn đề nên gây khó khăn cho việc xét cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như hướng dẫn các doanh nghiệp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án. Do đó, Chính phủ nên giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các bộ chuyên nghành, các địa phương tiếp tục rà roát, điều chỉnh lại những điểm đang còn bất cập trong các văn bản pháp luật, chính sách hiện hành nhằm tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch và thu tục nhanh gọn tạo ấn tượng để các nhà đầu tư ra quyết định đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thay vì đầu từ vào lĩnh vực khác hoặc cùng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nhưng lại ở nước khác. Kinh nghiệm quốc tế những năm qua cũng cho thấy, mức độ thông thoáng như nhau, tính hấp dẫn do luật đầu tư mang lại cao như nhau, nhưng ở nước nào có thủ tục đơn giản, gọn nhẹ thì ở đó thu hút vốn đầu tư mạnh hơn. Chẳng hạn trong một số nước ở khu vực, Thái Lan là nước thực hiện đơn giản hóa thủ tục đầu tư khá mạnh. Cơ quan hợp tác đầu tư là cửa duy nhất tiếp nhận hồ sơ và giải quyết công việc tiếp theo, đồng thời thay mặt các nhà đầu tư đi liên hệ với các cơ quan hữu quan, rồi trả lời các nhà đầu tư, tạo điều kiện rất thuận lợi cho họ. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho Thái Lan trở thành một nước thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất trong khu vực. 3.2.1.2. Nâng cấp cơ sở hạ tầng sản xuất Hiện nay, sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng sản xuất như đường giao thông, hệ thống cảng biển, nguồn điện, nguồn nước, thông tin... đang là nhân tố quan trọng gây tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư. Thông thường các nhà đầu tư sẽ tính toán từ việc thực hiện tiến độ xây dựng công trình dự án đến việc vận chuyển nguyên liệu đầu vào cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nếu hệ thống cơ sở hạ tầng không đảm bảo, các nhà đầu tư sẽ lo ngại, thậm chí có muốn cũng không thể đầu tư được. Để thu hút mạnh hơn nữa đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, Nhà nước cần đầu tư toàn bộ, hay có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp để xây dựng mới hoặc nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng. Trong các hạng mục của hạ tầng sản xuất, đặc biệt cần coi trọng đến các tuyến đường giao thông giữ vai trò kết nối liên thông giữa các vùng có lượng hàng hoá lớn đến các đường các bến cảng bốc xếp tiêu thụ. Trong những năm qua, chúng ta chưa chú trọng thu hút các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp có vốn ĐTNN đang hoạt động ở nông thôn bỏ một phần lợi nhuận để đầu tư vào các công trình hạ tầng. Do vậy ở nhiều vùng sản xuất hàng hóa, đường giao thông và các kết cấu hạ tầng khác đang quá tải xuống cấp nhưng không được tu bổ và nâng cấp. Để khắc phục tình trạng này phải có cơ chế, chính sách thu hút vốn của doanh nghiệp và các chủ thể khác đang tham gia kinh doanh tại chỗ cùng bỏ vốn cải tạo, nâng cấp các công trình kết cấu hạ tầng nông thôn. Bên cạnh việc huy động nguồn vốn Nhà nước là chủ yếu để phát triển hạ tầng nông nghiệp và nông thôn, cần khuyến khích doanh nghiệp có vốn ĐTNN tham gia mở rộng hạ tầng nông thôn theo hướng nâng cấp, tu bổ hệ thống tưới, tiêu, đê điều; xây dựng mới công trình thủy lợi cấp nước sản xuất và sinh hoạt ở các vùng trọng điểm thường bị hạn, lũ lụt đe dọa; áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm phù hợp với từng vùng sinh thái; xây dựng cơ chế quản lý hệ thống hạ tầng để tăng hiệu quả khai thác. 3.2.1.3. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư Đổi mới về cơ bản nội dung cũng như phương thức vận động, xúc tiến đầu tư; coi việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai dự án là biện pháp tốt nhất để xây dựng hình ảnh, nâng cao sự hiểu biết của nhà đầu tư nước ngoài về sức hấp dẫn và cạnh tranh của Việt Nam. Việc tạo điều kiện thuận lợi để triển khai có hiệu quả các dự án FDI đã được cấp phép đầu tư sẽ là biện pháp tốt nhất để xây dựng hình ảnh, nâng cao sự hiểu biết của nhà ĐTNN trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt Nam, cùng với đó là gián tiếp thúc đẩy nền nông nghiệp và nông thôn phát triển. Cụ thể giải pháp để thực hiện vấn đề này là: Cần nhanh chóng xây dựng kế hoạch và chương trình vân động đầu tư cụ thể ở trong nước và ngoài nước, tập trung vào các ngành, dự án và đối tác đầu tư trọng điểm cần thu hút FDI. Phải bố trí đủ ngân sách cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực này thành một khoản chi riêng nằm trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Cần xem xét xây dựng Quỹ xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp trên cơ sở ngân sách Nhà nước cấp (trích từ nguồn thu của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN) kết hợp với huy động đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp. Cần triển khai nghiên cứu tiềm năng, thế mạnh của các nước, vùng lãnh thổ cũng như của nhà ĐTNN trong việc đầu tư vào lĩnh vực này để có chính sách, cơ chế vận động thích hợp. Kết hợp hoạt động xúc tiến đầu tư với hoạt động xúc tiến thương mại tổ chức tại các thị trường trọng điểm qua các hội trợ, triển lãm, hội thảo chuyên ngành… Cần đổi mới và nâng cao chất lượng các ấn phẩm tuyên truyền ĐTNN nói chung và đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp nói riêng (bao gồm Sách hướng dẫn đầu tư, Danh mục dự án gọi vốn ĐTNN....) nhằm tạo sức hấp dẫn ban đầu của nhà đầu tư nước ngoài. 3.2.2. Nhóm giải pháp quản lý và sử dụng vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn Để quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, cần phải thực hiện một cách đồng bộ và triệt để các giải pháp sau đây: 3.2.2.1. Cải cách hành chính trong quản lý vốn đầu tư nước ngoài Thực hiện sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước tạo ra sự đột phá về tổ chức để khắc phục sự chồng chéo trong quản lý vốn đầu tư nước ngoài như hiện nay. Chủ trương phân cấp là đúng nhưng trong điều kiện hệ thống quy hoạch chưa đồng bộ, năng lực quản lý ở một số địa phương còn yếu, việc phân cấp phải gắn với nâng cao năng lực. Không thể phân cấp đồng bộ như nhau mà phải tuỳ theo năng lực của chính quyền địa phương để đảm bảo hiệu quả kinh tế cho các dự án. Trong bối cảnh kinh tế khủng hoảng như hiện nay, việc thu hút vốn FDI nói chung và thu hút FDI vào nông nghiệp nói riêng càng trở nên khó khăn hơn. Song không nên vì sức ép đạt mục tiêu vốn đăng ký mà cấp phép tràn lan, không quan tâm tới chất lượng dự án. Trước tiên, hãy tạo thuận lợi cho những nhà đầu tư đã được cấp giấy phép giải ngân nhanh chóng. Để đảm bảo khả năng giải ngân tốt, trong điều kiện hiện nay, các bộ ngành cần ra soát phân các dự án đầu tư ra làm ba loại: một là các dự án có triển vọng thực hiện, những dự án này nếu gặp khó khăn thì các bộ, ngành nên giúp đỡ. Với những dự án thu hẹp phạm vi, dãn tiến độ, các bộ ngành cần xem họ bao giờ làm, thu hẹp như thế nào, cùng với họ có kế hoạch cụ thể,  không nên để DN muốn làm lúc nào cũng được. Với những dự án không có khả năng thực hiện, cần kiên quyết rút giấy phép, không nên chờ đợi như cách chúng ta đã chờ đợi việc thực hiện của rất nhiều dự án kéo dài từ 2001 đến nay mà không có động tĩnh gì. Từ khi Chính phủ phân cấp trong việc cấp phép và quản lý lĩnh vực FDI cho chính quyền địa phương, nhiều chính quyền địa phương đã đặt lợi ích địa phương lớn hơn lợi ích quốc gia, chạy theo thành tích  dẫn đến tình trạng cấp phép tràn lan làm mất cân đối chung, gây thiệt hại cả về kinh tế và tài nguyên thiên nhiên, gây xáo trộn và ảnh hưởng môi trường. 3.2.2.2. Xây dựng chiến lược và quy hoạch dài hạn Trong lĩnh vực nông lâm, ngư nghiệp và phát triển nông thôn, hạn chế lớn nhất là chưa có quy hoạch rõ ràng cả về quy hoạch vùng sản xuất và quy hoạch nguồn lực. Điều này dẫn đến có những lĩnh vực có quá nhiều nhà đầu tư, nhưng có những lĩnh vực lại quá ít nhà đầu tư; nơi hấp thụ không hết vốn, nơi thì thiếu vốn. Điều này đã gây ra sự phát triển thiên lệch, thiếu đồng bộ giữa các ngành và các địa phương trong cả nước, giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó, Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và PNTN phối hợp với các bộ ngành và địa phương xây dựng chiến lược phát triển nền nông nghiệp trong toàn quốc; rà soát, lập quy hoạch từng ngành, sản phẩm, trong đó xác định rõ ràng mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển, đặc biệt là phương án huy động vốn đầu tư của từng thành phần kinh tế khác nhau trong đó có vốn đầu tư nước ngoài một cách dài hạn. Căn cứ vào quy hoạch nói trên, các bộ, ngành và các địa phương cần xây dựng các danh mục dự án ưu tiên kêu gọi vốn ĐTNN với các thông tin cụ thể về mục tiêu, địa điểm, công suất và đối tác Việt Nam để làm cơ sở cho các nhà đầu tư lựa chọn, cũng như làm cơ sở cho chính quyền địa phương quản lý và bố trí lồng ghép các chương trình phát triển khác với FDI có hiệu quả. 3.2.2.3. Thắt chặt công tác thẩm định, quản lý dự án Một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc quản lý đầu tư và xây dựng là quản lý tốt công tác chuẩn bị đầu tư, trong đó có việc lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư. Thẩm định dự án được xem như một nhu cầu không thể thiếu và là cơ sở để ra quyết định hoặc cấp giấy phép đầu tư. Thực hiện tốt công tác này sẽ định hướng sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả cao và phù hợp với quy hoạch phát triển chung của đất nước. Ngoài ra, cần bổ sung các quy định cải tiến thủ tục đầu tư, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với ĐTNN theo hướng áp dụng từng bước chế độ đăng ký cấp giấp phép đầu tư và giảm thời gian xét duyệt dự án; quy định rõ chế độ thanh tra, kiểm tra, và quyền khiếu nại của doanh nghiệp; áp dụng chế độ khen thưởng và xử lý vi phạm đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Chính phủ chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ chuyên ngành và các địa phương rà soát lại các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đang thực hiện để một phần giúp đỡ các nhà đầu tư tháo gỡ khó khăn, mặt khác thúc giục các nhà đầu tư thực hiện đúng tiến độ cam kết, thậm chí thu hồi quyết định đầu tư khi dự án đầu tư không hiệu quả và trái mục tiêu. 3.2.2.4. Đào tạo nguồn nhân lực Để khắc phục những yếu kém hiện nay của nguồn nhân lực phục vụ các dự án ĐTNN trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, cần phải có chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhiều mặt cho lực lượng lao động hiện tại, cũng như đối với lực lượng lao động tương lai, kể cả cán bộ quản lý Nhà nước về ĐTNN và cán bộ tham gia quản lý doanh nghiệp ĐTNN và người lao động trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong lĩnh vực này. Cần triển khai thực hiện các giải pháp cụ thể sau: + Khẩn trương xây dựng một đội ngũ công chức chuyên nghiệp và hiện đại, cương quyết loại bỏ những cán bộ công chức gây phiền hà, nhũng nhiễu, những người không đủ năng lực thiếu trách nhiệm khi thực thi công vụ liên quan đến đầu tư và đầu tư nước ngoài. + Tăng chất lượng nguồn nhân lực và sử dụng nguồn lực thông qua phát triển hệ thống đào tạo nghề ở nông thôn, hệ thống khuyến nông, khuyến ngư, đào tạo chuyên giao kỹ thuật, kiến thức kinh tế và quản lý sản xuất, kiến thức về thị trường và thông tin. + Tập trung đầu tư đào tạo nghề nông thôn phi nông nghiệp, đặc biệt các nghề chế biến nông lâm thủy sản, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông nghiệp. + Hỗ trợ việc làm cho nông nghiệp và phi nông nghiệp để đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, coi đây là hướng chuyển dịch quan trọng để tăng thu nhập dân cư nông thôn. + Cải thiện nhanh hệ thống hạ tầng phúc lợi xã hội nông thôn, nâng cao tỷ lệ dân nông thôn tiếp cận với các dịch vụ phúc lợi. 3.2.2.5. Chính sách hỗ trợ, ưu đãi Tiếp tục duy trì và mở rộng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư hiện hành đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp, nhưng cần loại bỏ các tiêu chí áp dụng ưu đãi liên quan đến việc khuyến khích xuất khẩu và ưu tiên sử dụng nguyên liệu trong nước thay thế hàng nhập khẩu. Áp dụng tối đa các hình thức ưu đãi, hỗ trợ đầu tư được WTO cho phép (bao gồm các biện pháp được áp dụng trong khuôn khổ “ Hộp xanh” và “ Chương trình phát triển”) để khuyến khích các dự án ĐTNN trong lĩnh vực này. Xem xét áp dụng các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ đầu tư khác cho dự án nuôi, trồng, chế biến các sản phẩm nông, lâm, thủy sản để thay thế ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án này đã bị loại bỏ theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp mới được thông qua gần đây. Tiếp tục áp dụng thuế thu nhập ưu đãi cho các dự án đầu tư ứng dụng công nghệ sinh học để sản xuất các loại giống mới, dự án phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp, dịch vụ nông thôn. 3.2.2.6. Chính sách tín dụng đầu tư Xem xét lại các điều kiện và thủ tục vay vốn tín dụng đầu tư phát triển (dưới 3 hình thức: cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng) nhằm tạo thuận lợi hơn nữa để các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân, không phân biệt doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, tiếp cận một cách thuận lợi với nguồn tín dụng ưu đãi này (hiện có đến 70% dự án và 80% giá trị tín dụng ưu đãi được cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước). Tạo kênh hỗ trợ vốn cho các dự án liên doanh với nước ngoài để đáp ứng nguồn vốn bổ sung cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia góp vốn liên doanh thực hiện một số dự án thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư như giống, sản xuất sản phẩm xuất khẩu…. Áp dụng chính sách hỗ trợ ngân sách hoặc các nguồn vay ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài trong thực hiện công tác giải tỏa, đền bù đất thỏa đáng; khuyến khích người dân để đưa đất vào góp vốn. 3.2.2.7. Chính sách thương mại và thị trường Để khai thác có hiệu quả những tiềm năng, lợi thế của Việt Nam về nông nghiệp, cần phát triển thị trường nông, lâm, thủy sản đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm để thực hiện mục tiêu đó là đẩy mạnh thực hiện chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 80/2002/QĐ – TTG ngày 24/6/2002. Theo đó, những giải pháp cấp bách cần thực hiện gồm: + Rà soát, điều chỉnh, bổ sung hoặc xây dựng mới quy hoạch sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, nghề muối; hình thành vùng sản xuất nông sản hàng hóa lớn, gắn sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến và thị trường. + Thực hiện tốt chính sách về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đất đai, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, thông tin thị trường; phát triển các hợp tác xã, tổ hợp tác thu mua, tiêu thụ nông sản qua hợp đồng. + Kịp thời xử lý các hành vi vi phạm hợp đồng tiêu thụ nông sản theo quy định của pháp luật; tiếp tục phổ biến, tuyên truyền pháp luật và các chính sách liên quan đến sản xuất, tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng. + Xây dựng chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các mô hình hợp tác giữa hộ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản với các cơ sở chế biến, tiêu thụ, phát triển các tổ chức liên kết cộng đồng những người sản xuất trong ngành hàng. + Hỗ trợ doanh nghiệp, hộ sản xuất có hợp đồng tiêu thụ nông sản thực hiện đề án ứng dụng, đổi mới nâng cao trình độ khoa học công nghệ vay vốn trung và dài hạn từ Quỹ phát triển khoa học công nghệ quốc gia của Bộ và địa phương. Ngoài ra, cần mở rộng hệ thống hoạt động xúc tiêns thương mại; xây dựng sàn giao dịch nông sản; thiết lập hệ thống kinh doanh trên mạng và tăng cường hệ thống thông tin thị trường nông sản. 3.2.2.8. Chính sách đất đai, mặt nước trong nông nghiệp Để thực hiện những khó khăn trong việc sử dụng đất đai của các dự án ĐTNN vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, cần thực hiện các biện pháp sau: + Thức đẩy thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa để tránh tình trạng đất đai bị manh mún như hiện nay. Sớm sửa lại Luật Đất đai để tạo điều kiện trong việc tích tụ đất đai và sử dụng hiệu quả 7 quyền đối với người sử dụng đất. + Thực hiện nhất quán chính sách giao đất, sử dụng sản phẩm rừng trồng cho nhà đầu tư theo hướng vừa quản lý chặt chẽ nguồn tài nguyên rừng, vừa khuyến khích đầu tư, đảm bảo thực hiện cam kết trong việc giao đất thực hiện các dự án trồng rừng, trồng chè; xây dựng quy trình về giao đất, giao rừng để hướng dẫn các địa phương thống nhất thực hiện. Việc giao đất, mặt nước để nuôi trồng thủy sản phải theo quy hoạch đã được phê duyệt và gắn liền với việc bảo vệ môi trường sinh thái. + Hỗ trợ bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước hoặc các nguồn vay ưu đãi để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, đặc biệt là đền bù đất cho nông dân để đưa đất vào góp vốn. + Đơn giản hóa thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu rừng để đảm bảo cho rừng và đất rừng có chủ sở hữu cụ thể, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư có tài sản thế chấp khi vay vốn tại các tổ chức cho vay để đầu tư phát triển rừng. + Cho phép nông dân được chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông lâm ngư nghiệp nếu không trái với các yêu cầu bảo vệ vì lợi ích chung của xã hội. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất lúa, đất có rừng tự nhiên, ruộng muối kém hiệu quả sang phát triển nuôi trồng thủy sản phai tuân thủ quy hoạch đã được phê duyệt. Ngoài ra cần tiến hành quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất ở từng địa phương theo yêu cầu mới để khai thác tốt nhất quỹ đất chưa sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng tổng quỹ đất nông nghiệp hiện tại. Theo đó, từng địa phương phải tiến hành quy hoạch lại các mục đích sử dụng đất và xác định kế hoạch sử dụng đất để trên cơ sở đó xem xét cụ thể thực trạng sử dụng đất của từng tổ chức, doanh nghiệp và hộ gia đình ở nông thôn so với các mục đích sử dụng đất được xác định trong quy hoạch, kế hoạch. 3.2.2.9. Giảm thiểu chi phí kinh doanh Việc cải cách quy trình cấp giấy phép kinh doanh sẽ giúp các doanh nghiệp FDI giảm thiểu được chi phí kinh doanh cả trực tiếp và gián tiếp, làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp từ đó sẽ làm tăng hiệu quả thu hút và sử dụng vốn. Việc các doanh nghiệp phải nộp quá nhiều loại phí và lệ phí đã làm cho giá thành sản phẩm bị đội lên đáng kể, dẫn tới sản phẩm không có tính cạnh tranh không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay cả thị trường nội địa. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp, làm giảm nhu cầu đầu tư để sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế các loại phí, lệ phí bất hợp lý cần được loại bỏ hoặc giảm thiểu.Ví dụ bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, bỏ thuế thu nhập do tái đầu tư, các loại cước phí đối với hàng xuất nhập khẩu như phí tắc nghẽn cảng, phí ưu tiên bố trí cầu bến cho tàu… KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Từ việc phân tích thực trạng hiệu quả thu hút và sử dụng vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, tổng hợp kinh nghiệp một số nước liên quan, có thể rút ra một số kết luận như sau: 1) Vai trò của vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn Việt Nam giai đoạn qua đã thực sự là một tác nhân góp phần tạo ra những đột phá trong tăng trưởng nông nghiệp nói riêng, và phát triển nông thôn nói chung. Cụ thể, nó đã góp phần làm tăng GDP nông nghiệp, tạo thêm cơ hội cải tiến trang thiết bị nông nghiệp, tạo thêm công ăn việc làm; bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, các nhà máy các khu công nghiệp ngày càng nhiều, các dự án lớn trong nông nghiệp ngày càng tăng góp phần chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và nông thôn. 2) Vốn FDI đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn không nhiều so với các lĩnh vực khác, chỉ chiếm khoảng từ 3,3% đến 3,9% trong tổng vốn FDI hàng năm đầu tư vào Việt Nam. Lượng vốn đầu tư hàng năm không có sự biến động nhiều, tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn lại có xu hướng giảm thể hiện qua chỉ số ICOR có xu hướng tăng dần. Điều đó cho thấy, khả năng hấp thụ vốn FDI trong nông nghiệp, nông thôn đã hạn chế. Một số nguyên cơ bản làm cho hiệu quả FDI giảm đó là chưa có quy hoạch và kế hoạch đồng bộ trong thu hút vốn, năng lực quản lý của cán bộ, tay nghề công nhân, cũng như cơ sở hạ tầng kỹ thuật không đáp ứng được so với nhu cầu đầu tư... 3) Khối lượng vốn FDI đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn có sự khác biệt lớn giữa các vùng miền trong nước, cũng như sự khác biệt giữa các lĩnh vực trong nội bộ ngành nông nghiệp, nông thôn. 4) Các đối tác, nhà đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn vẫn chưa đa dạng, chủ yếu là các nước châu Á; chúng ta chưa đủ khả năng thu hút các nhà đầu tư lớn đến từ các nước có tiềm năng và thế mạnh về nông nghiệp như Hoa Kỳ, Canada, Úc... Điều này cho thấy cơ chế chính sách, cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn cũng như khả năng vận động, xúc tiến đầu tư của Việt Nam trong lĩnh vực này vẫn còn rất hạn chế. 5) Để nâng cao hiệu quả thu hút, cũng như sử dụng tốt vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2015, chuyên đề đã đưa ra được 2 nhóm giải pháp đó là nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút FDI (có 3 giải pháp cụ thể) và nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng FDI (có 9 giải pháp cụ thể). 2. Kiến nghị Những giải pháp này cần được thực hiện thường xuyên, liên tục và cần đặt trong tổng thể chính sách phát triển NLN&NT nói chung. Tuy nhiên, trong thời gian trước mắt, cần thực hiện ngay các bước tiếp theo dưới đây: - Rà soát và hoàn thiện quy hoạch từng ngành/sản phẩm - Hoàn thiện Danh mục và Tóm tắt dự án gọi vốn ĐTNN - Bố trí ngân sách cho hoạt động xúc tiến đầu tư - Nghiên cứu tiềm năng đầu tư của các nước /vùng lãnh thổ - Tổ chức các chương trình vận động đầu tư ở nước ngoài - Soạn thảo các tài liệu, ấn phẩm tuyên truyền đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2002). Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010, Báo Nhân dân, (số 17054, ra ngày 30/3/2002). Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2008). Nghị quyết Số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007). Kỷ yếu Hội nghị tổng kết 20 năm đầu tư nước ngoài tại việt nam, Hà Nội. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2009). Chương trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn". Hồ Sỹ Chi, 1991. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ở tầm vĩ mô. Nhà xuất bản Thống kê. Hà Nội. Chính phủ (2002). Quyết định Số 80/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 24 tháng 6 năm 2002 về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng. Chính phủ (2005). Quyết định số 150/2005/QĐ-TTG ngày 20/06/2005 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản cả nước đến năm 2010 và tầm nhìn 2020. Chính phủ (2006). Nghị định Số 151/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất của Nhà nước. Chính phủ (2008a). Nghị định số 124/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11 tháng 12 năm 2008 về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính phủ (2008b). Nghị quuyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2008 về Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chính phủ (2009). Nghị quyết Số 13/2009/NQ-CP ngày 7 tháng 4 năm 2009 về định hướng, giải pháp thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới. Nguyễn Quang Huy (2009). Đánh giá hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 3 năm 2006 - 2008. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 1 - 2009: trang 25 - 29. Phạm Huyền (2009) Thu hút FDI 5 tháng đầu năm giảm 76,3%. Tại website: www.vietnamnet.vn/kinhte/2009/05/849530/. Quốc hội (2006). Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010. Đặng Kim Sơn, 2009. Kinh tế Nông thôn và sứ mệnh giải cứu. tại website: www.kinhtenongthon.com.vn Tổng cục Thống kê (2008). Niên giám thống kê năm 2007. Nhà xuất bản Thống kê. Hà Nội. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2000). Giáo trình kinh tế đầu tư. Nhà xuất bản Thống kê. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2004). Giáo trình Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2006). Giáo trình Kinh tế phát triển. Nhà xuất bản Lao động – xã hội. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2006). Chính sách phát triển kinh tế: Kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc Các website: - www.agroviet.gov.vn (Bộ NN & PTNT) - vukehoach.mard.gov.vn (Vụ Kế hoạch – Bộ NN & PTNN) -www.mpi.gov.vn (Bộ Kế hoạch và đầu tư) -www.ipsard.gov.vn (Viện CS và chiến lược PT NNNT) PHỤ LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21279.doc
Tài liệu liên quan