Với xu thế phát triển nhanh chóng của thị trường hiện nay, để có thể bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH, để tạo ra được một quỹ BHXH ổn định, vững chắc và thực hiện tốt nhiệm vụ chi trả các chế độ BHXH cho người lao động, đồng thời góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển; thì hoạt động đầu tư quỹ BHXH ở nước ta hiện nay cần được quan tâm nghiên cứu của Nhà nước và các Ban, Ngành có liên quan.
Năm vừa qua, tại hội nghị APEC lần thứ 8 đã thông qua lộ trình tự do thương mại và đầu tư; ngày 07/11/2006 Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức WTO. Trong xu thế hội nhập kinh tế tham gia đó, BHXH Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hệ thống ASXH Việt Nam, thì hiệu quả đầu tư quỹ BHXH có vai trò to lớn tạo tiềm lực tài chính cho quỹ, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển nhanh, đời sống nhân dân ngày một nâng cao, góp phần tạo ra bộ mặt mới cho đất nước trong quá trình hội nhập.
87 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1837 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trọng luôn đạt trên 91%. Như vậy, nguồn vốn nhàn rỗi đem đi đầu tư ngày càng gia tăng chứng tỏ trong hoạt động quản lý quỹ BHXH, hoạt động đầu tư quỹ ngày càng đóng vai trò quan trọng, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH. Mặt khác, tổng vốn đầu tư từ quỹ BHXH tăng lên với tốc độ cao và nguồn vốn nhàn rỗi hàng năm sẽ mở ra tiềm năng lớn cho BHXH Việt Nam tham gia vào các hoạt động đầu tư của thị trường tài chính rộng lớn.
2.2.Phân bổ nguồn vốn đầu tư
Hiện nay, BHXH Việt Nam mới chỉ thực hiện các biệm pháp đầu tư như mua trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, công trái của Kho bạc Nhà nước; cho quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển, các Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng chính sách vay. Số dư của quỹ BHXH gửi tại hai tài khoản tiền gửi của Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp là khá cao; nhưng lại chưa thực hiện vào một số dự án có nhu cầu về vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Việc phân bổ nguồn vốn đầu tư từ quỹ BHXH được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 6 : Phân bổ danh mục đầu tư từ quỹ BHXH Việt Nam
Đơn vị : %
Năm
Danh mục
đầu tư quỹ BHXH
2000
2001
2002
2005
2006*
Cho vay đối với NSNN
13,3
12,0
21,6
21,5
22,1
Quỹ hỗ trợ phát triển vay
39,6
37,7
34,5
19,52
18,9
Ngân hàng thương mại Nhà nước vay
36,3
46,7
41,1
39,78
39,97
Mua công trái
4,5
3,6
2,8
1,75
1,68
Mua trái phiếu Chính phủ
6,3
17,45
17,35
Tổng
100
100
100
100
100
Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Tạp chí BHXH Việt Nam
Nhìn vào bảng số liệu qua các năm ta thấy: Trong những năm 2000-2002,Vốn đầu tư phân bổ chủ yếu vào 2 danh mục: Tiền gửi Ngân hàng và cho vay thông qua quỹ hỗ trợ phát triển, nhưng trong vài năm lại đây, số tiền đầu tư lại được phân bổ chủ yếu cho 3 danh mục: Tiền gửi Ngân hàng, cho quỹ hỗ trợ phát triển vay và mua trái phiếu Chính phủ. Tỷ trọng vốn đầu tư vào công trái có xu hướng giảm từ 4,5%(năm 2000) còn 1,68% (năm 2006).Tỷ trọng vốn dành cho NSNN có xu hướng tăng lên từ 13,3% (năm 2000) lên trên 21% (giai đoạn 2002-2006). Đây hầu hết là các loại hình đầu tư có mức độ rủi ro rất thấp để đảm bảo nguồn vốn đầu tư của quỹ, nhưng cũng từ bảng số danh mục này ta thấy nguồn đầu tư của BHXH là rất thụ động, phụ thuộc nhiều vào các chính sách của Chính phủ, và giống như BHXH đem tiền đi gửi để các tổ chức tín dụng khác sử dụng để kinh doanh kiếm lời.
Các hoạt động đầu tư vào thị trường chứng khoán, các công trình trọng điểm quốc gia, các dự án, đầu tư bất động sản hay cho các doanh nghiệp vay thì chưa được BHXH Việt Nam thực sự quan tâm và thực hiện. Đây mới là những loại hình kinh doanh theo đúng nghĩa của các nhà kinh tế, ở các lĩnh vực này mức độ rủi ro và lợi nhuận là khá cao nhưng đòi hỏi nhà đầu tư phải có kinh nghiệm trong kinh doanh và am hiểu nền kinh tế thế giới nói chung và trong nước nói riêng.
Danh mục đầu tư quỹ BHXH là do Chính phủ quy định, BHXH phải dựa vào đó để đưa ra tỉ lệ đầu tư hợp lý cho từng loại. Như vậy, Chính phủ đã gián tiếp làm cho hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH bị động, trong khi đó Đảng và Nhà nước lại luôn yêu cầu BHXH phải đảm bảo thu – chi để giảm bớt gánh nặng cho NSNN, đây giống như một cái vòng luẩn quẩn không lối ra. Do đó. Nhà nước nên quy định một danh mục đầu tư thông thoáng hơn cho nguồn quỹ của BHXH, có như vậy hiệu quả đầu tư quỹ nhàn rỗi mới thực sự đem lại hiệu quả kinh tế cao.
* Rủi ro trong BHXH :
Tổng rủi ro các = Rủi ro + Rủi ro
danh mục đầu tư hệ thống phi hệ thống
Đối với BHXH hiệu quả trước hết là từ tiêu chuẩn “rủi ro nhỏ nhất” sau đó là “lợi suất tối đa có thể đạt được”. Khi đánh giá rủi ro, Nhà đầu tư đánh giá rủi ro từng tài sản và cả danh mục tài sản đầu tư, để loại bỏ rủi ro phi hệ thống bằng việc kết hợp nhiều tài sản trong danh mục đầu tư (hay đa dạng hoá) , trong khi rủi ro hệ thống là yếu tố không thể loại bỏ.
2.3. Đánh giá hiệu quả đầu tư từ quỹ BHXH.
Hàng năm, số tiền nhàn rỗi đem đi đầu tư và mang lại số tiền lớn cho quỹ BHXH, tình hình về hiệu quả đầu tư của quỹ BHXH được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 7: Lợi suất đầu tư được điều chỉnh theo vốn của BHXH Việt Nam
Năm
Tổng vốn đầutư đầu năm (Tỷ đồng)
Tổng vốn đầutư cuối năm(Tỷ đồng)
Số lãi thu được
(Triệu đồng)
Tổng vốn đầu tưbình quân năm(Tỷ đồng)
Lợi suất được điều chỉnh theo vốn (%)
1997
1.078
4.072
210
2.575
8,16
1998
4.072
7.493
470
5.782,5
8,13
1999
7.493
10.628
670
9.060,5
7,39
2000
10.628
15.663
820
13.145,5
6,24
2001
15.663
20.430
860
18.046,5
4,77
2002
20.430
25.270
1.610
22.850
7,05
2003
25.270
34.120
1.910
29.695
6,43
2004
34.120
42.570
2.600
38.345
6,78
2005
42.570
50.500
3.000
46.535
6,45
2006
50.500
63.200
3.795
56.850
6,68
Nguồn BHXH Việt Nam
Lợi suất bình quân trong đầu tư của BHXH Việt Nam trong vòng 10 năm:
8,16%+8,13%+7,39%+6,24%+4,77%+7,05%+6,43%+6,78%+6,45%+6,68%
10
= 6,805%
Qua bảng số liệu ta thấy: Mặc dù lãi hàng năm có xu hướng tăng dần nhưng hiệu quả đầu tư là rất thấp với bình quân lợi suất đầu tư là 6,80% và không ổn định. Tỷ lệ này mới chỉ giao động từ 4,77% (Năm 2001) đến 8,16% (năm 1997). Nguồn quỹ nhàn rỗi của BHXH được đem đi đầu tư là khá cao nhưng số lợi nhuận thu được là rất thấp, có thể nói cơ quan BHXH đã không thực sự có sự đầu tư thời gian và công sức trong quá trình tìm hiểu cơ hội cho các khoản đầu tư của mình. Do vậy, cần phải nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư, đồng thời phải mở rộng các hình thức đầu tư.
Mức độ rủi ro của toàn bộ danh mục đầu tư của BHXH Việt Nam :
2 = 1/10[(8,16-6,805)2 + (8,12-6,805)2 +…+ (6,68-6,805)2 = 0,88
Vậy = 0.94
Con số này phản ánh mức độ rủi ro của danh mục đầu tư quỹ qua các năm là rất thấp và rất an toàn, đây là con số mà mọi nhà đầu tư đều mong muốn có được. Nhưng cũng phải khẳng định ràng, khi mức độ rủi ro thấp mà lợi suất đạt được cũng thấp đồng nghĩa với sự kém hiệu của của dự án đầu tư.
Biểu đồ 3: Biểu đồ số lãi thu được qua các năm
Đơn vị: Tỷ đồng
Qua biểu đồ ta thấy: số lãi hàng năm thu được có xu hướng tăng lên, lãi thu được năm 2006 đã gấp 18 lần so với năm 1997, tiền lãi từ hoạt động đầu tư luôn có sự tăng trưởng qua các năm, tuy nhiên tốc độ tăng lại khác nhau. Lý do là số tiền đầu tư của từng năm khác nhau dựa vào những quy định của Chính phủ. Hàng năm, dựa vào kế hoạch của Chính phủ nhằm phục vụ nhu cầu về vốn của quỹ hỗ trợ phát triển và Ngân hàng phát triển mà quyết định số tiền đầu tư là bao nhiêu.
Từ những số liệu trên cho thấy, BHXH Việt Nam cần có những phương pháp đầu tư mới khoa học phù hợp với nền kinh tế phát triển hiện nay, phải tìm tòi học hỏi những kinh nghiệm đầu tư quỹ của BHXH các nước khác.
* Những tồn tại chủ yếu trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH.
- Những quy định pháp lý về đầu tư tư quỹ BHXH chưa quy định chi tiết cho từng loại nguồn vốn đầu tư dài hạn và ngắn hạn. Danh mục đầu tư chưa thể hiện được sự đa dạng hoá, đặc biệt là danh mục đầu tư chứng khoán chưa được đề cập. Phần lớn vốn nhàn rỗi của quỹ đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro thấp.
- Các quy định pháp lý chưa quy định hạn mức đầu tư đối với từng danh mục cũng chưa có sự phân cấp cụ thể về thẩm quyền quyết định đầu tư.
- Các quy định pháp lý chưa phân định rõ ràng các loại nguồn vốn đầu tư theo các chế độ BHXH để tạo đk cho BHXH Việt Nam có chính sách và chiến lược đầu tư phù hợp.
- Lãi suất đầu tư chỉ đảm bảo vấn đề bảo toàn vốn, không đạt được mục tiêu tăng trưởng : Hoạt động đầu tư quỹ chỉ mang tiền để ở những nơi an toàn và lãi suất thấp. Chưa phát huy được vai trò của một ngành kinh tế độc lập. Ví dụ: Nhà nước quy định quỹ chỉ được cho NSNN vay với lãi suất không kỳ hạn 0,3% tháng, hàng năm quỹ phải dành 40-42% nguồn vốn nhàn rỗi để cho vay theo chỉ định của Chính phủ. Những nguyên nhân này làm giảm hiệu quả của hoạt động đầu tư.
- Lãi suất đầu tư chưa hình thành và vận động theo quy luật lãi suất của thị trường.
- Chưa có bộ phận chuyên trách về đầu tư tài chính, hiện nay hoạt động đầu tư quỹ được giao cho Ban Kế hoạch – Tài chính thực hiện, chưa hình thành một bộ phận riêng để tầp trung vào nhiệm vụ đầu tư quỹ .
- Trình độ cán bộ còn yếu: Do mới thành lập và hoạt động đầu tư còn rất mới mẻ, trong khi đó BHXH Việt Nam chưa có đội ngũ cán bộ am hiểu sâu sắc về lĩnh vực đầu tư.
- Môi trường đầu tư: Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các công ty tài chính cũng như các ngân hàng thương mại đều thực hiện hoạt động cho vay và đầu tư rất có hiệu quả và chuyên nghiệp, đây chính là những đối thủ cạnh tranh rất lớn. Mặt khác, lượng vốn nhàn rỗi của BHXH Việt Nam cho vay theo chỉ thị của Chính phủ còn khá cao trong khi Nhà nước lại chưa thực sự có những ưu đãi cho BHXH trong việc ưu tiên công bố kế hoạch đầu tư phát triển ngành, vùng kinh tế.
3. Kinh nghiệm đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH ở một số nước và một số trung gian tài chính khác
3.1. Kinh nghiệm đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH ở một số nước trên thế giới
Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ là một hoạt động quan trọng của quỹ BHXH, do đó pháp luật về BHXH của hầu hết các nước đều có những quy định rất chặt chẽ và nghiêm ngặt về hoạt động này. Thông thường, người ta quy định quỹ BHXH được phép đầu tư vào các lĩnh vực: gửi tiền ở ngân hàng, mua các loại trái phiếu Chính phủ, cho các công ty vay vốn, trực tiếp liên doanh hay uỷ thác kinh doanh, tư vấn bảo hiểm, xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh doanh bất động sản…Ở các nước mà các chế độ chăm sóc y tế nằm trong hệ thống BHXH, người ta còn xây dựng các cơ sở y tế nhằm mục đích kinh doanh và phục vụ việc nghiên cứu xây dựng các chỉ tiêu về y tế. Nhìn chung, hoạt động đầu tư quỹ BHXH rất được chú trọng ở các nước.Tuy nhiên, hình thức, phương thức và chính sách thực hiện đầu tư ở mỗi nước lại không giống nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và trình độ phát triển thị trường tài chính của từng nước. Dưới đây là kinh nghiệm đầu tư quỹ BHXH ở một số nước và qua đó ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
3.1.1. Malaysia
Ở Malaysia, hoạt động BHXH được thực hiện bởi hai quỹ đó là quỹ BHXH do tổ chức BHXH Malaysia (SOCSO) quản lý và Quỹ phòng xa dành cho người lao động (EPF) do Bộ Tài chính quản lý.
Quỹ BHXH thuộc SOCSO thực hiện các chế độ: Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; y tế; phục hồi; tuất. Quỹ này được phép đầu tư vào các lĩnh vực:
- Trái phiếu Chính phủ Malaysia
- Các khoản đầu tư hoặc chứng khoán phát hành bởi các tổ chức tín dụng có tín nhiệm.
- Cổ phiếu và các giấy nhận nợ được định giá trên thị trường chứng khoán Malaysia
- Các khoản đầu tư khác do Chính phủ Malaysia quy định.
Quỹ EPF cung cấp các chế độ BHXH: Hưu trí, tử tuất, người sống phụ thuộc. Quỹ này được phép đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ Malaysia là 29,39%, đầu tư vào thị trường tiền tệ là 24,99%, các khoản vay và giấy nợ là 26,07%, cổ phiếu không có lãi cố định là 19,24%, đầu tư khác là 0,37% (theo số liệu năm 1997)
Trong bộ máy tổ chức của hai quỹ này đều có bộ phận chuyên trách về đầu tư tăng trưởng quỹ. Quỹ BHXH thuộc SOCSO có Ban Đầu tư; còn quỹ EPF có bộ phận quản lý hoạt động đầu tư bao gồm phòng Quản lý dự án, phòng Quản lý tài sản, phòng Đầu tư.
Như vậy, ở Malaysia, hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH được thực hiện đối với cả nguồn vốn đầu tư thu từ chế độ BHXH ngắn hạn (SOCSO) và nguồn vốn thu từ chế độ BHXH dài hạn (quỹ EPF).
3.1.2. Singapo
Quỹ phòng xa của Singapo (CPF) được thành lập năm 1955 với mục đích cung cấp các đảm bảo về tài chính cho người lao động trong trường hợp họ nghỉ hưu. Dần dần, quỹ này không chỉ cung cấp các chế độ BHXH mà còn cung cấp sự bảo vệ về mặt tài chính cho các thành viên của CPF và gia đình họ thông qua hệ thống bảo hiểm của CPF.
Theo luật pháp của Singapo, quỹ CPF chủ yếu đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ và các chứng khoán. Ngoài ra, CPF còn được phép đầu tư vào:
- Các chứng khoán có thu nhập cố định phát hành tại Singapo của bất kỳ một công ty nào được luật pháp thừa nhận
- Các khoản tiền gửi sinh lãi bằng đồng đola Singapo tại Ngân hàng nhà nước hoặc tại các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính ở Singapo.
- Các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng bằng đôla Singapo do các ngân hàng thương mại phát hành.
- Các cổ phần do các công ty đầu tư tài chính phát hành.
Quỹ CPF cũng được đầu tư ra nước ngoài nhưng giới hạn tối đa là 30% tổng số tiền của quỹ và chỉ được phép mua các chứng khoán loại A do các Chính phủ nước ngoài phát hành.
3.1.3. Philippin
Quỹ BHXH ở Philippin gồm 2 cơ quan: Hệ thống dịch vụ bảo hiểm Nhà nước (GSIS) và hệ thống BHXH (SSS).
Tổ chức BHXH Philippin (SSS) là tổ chức thực hiện các chế độ trợ cấp BHXH cho người lao động ở các khu vực tư nhân. Tổ chức này cung cấp các khoản vay cho các thành viên của mình với một tỉ lệ lãi suất quy định để các thành viên có thể sử dụng vào mục đích mua nhà, thực hiện các khoản đầu tư, chi tiêu vào giáo dục.
Đến cuối năm 2002, quỹ GSIS có số dư là 254,9 tỷ peso, quỹ SSS có số dư là 119 tỷ peso. Danh mục đầu tư quỹ SSS là: cho các thành viên tham gia bảo hiểm vay 56%, mua trái phiếu Chính phủ 12%, đầu tư vào thị trường chứng khoán 26%, đầu tư bất động sản 6%. Danh mục đầu tư GSIS là: cho các thành viên vay 45,211%, cho các đối tượng khác không phải là thành viên vay 10,47%, mua trái phiếu Chính phủ là 28,379%, đầu tư vào thị trường chứng khoán là 15,918%.
Tháng 9/2003, số dư quỹ SSS là 155,398 tỷ peso.Lãi đầu tư bình quân là 6,87% và danh mục đầu tư: cổ phiếu không có lãi cố định 29,1%; cho vay mua nhà ở 26,3%; cho vay đối với các thành viên 19,6%; cho vay đối khu vực Chính phủ 12,9%; cho vay đầu tư phát triển 7,1%; đầu tư bất động sản 5%.
Để thực hiện các hoạt động đầu tư, SSS chú trọng vào việc đào tạo các chuyên gia toán bảo hiểm. Ở đây, người ta cho rằng hai quan chức quan trọng cao cấp nhất của hệ thống BHXH là chuyên gia thiết kế chính sách và chuyên gia toán bảo hiểm.
3.1.4. Thái Lan
Quỹ BHXH Thái Lan là một nguồn lực tài chính chiếm vị trí quan trọng để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt được mục đích cải thiện và nâng cao phúc lợi xã hội.
Tính đến ngày 27/12/2002, tổng số dư quỹ BHXH là 163.391 triệu Bạt. Ngoài các khoản tiền gửi Ngân hàng Nhà nước 28,09%; tại các ngân hàng thương mại tư nhân 12,03% thì chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số tiền dư đầu tư quỹ BHXH là khoản đầu tư vào trái phiếu của các doanh nghiệp Nhà nước được Bộ tài chính bảo trợ 19,73%; đầu tư vào trái phiếu Chính phủ và hối phiếu kho bạc 13,07%; giấy nợ được xếp hạng tín dụng cao nhất 10,7%; chiếm tỷ lệ thấp hơn là các khoản đầu tư khác như trái phiếu của các doanh nghiệp khác nhưng không được Bộ Tài chính bảo trợ, giấy nợ không được xếp hạng tính dụng. Thu nhập từ các khoản đầu tư tài chính năm 2002 là 7.279,2 tỷ Bạt.
3.2. Kinh nghiệm đầu tư quỹ của một số trung gian tài chính khác
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, do nhu cầu ổn định sản xuất và đời sống của mọi thành viên trong xã hội, trên thực tế ngoài loại hình BHXH còn xuất hiện loại hình bảo hiểm thương mại (BHTM). BHTM có nhiều điểm tương đồng với BHXH, vì vậy kinh nghiệm đầu tư quỹ của một số công ty bảo hiểm trong nước và nước ngoài cũng là cơ sở để xây dựng một mô hình đầu tư quỹ BHXH Việt Nam đạt hiệu quả cao.
Hoạt động đầu tư là một lĩnh vực hoạt động có tầm quan trọng sống còn đối với việc duy trì và phát triển của Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt. Hoạt động đầu tư không những giúp Bảo Việt có được khoản lợi nhuận thường xuyên trong khi vẫn đảm bảo được khă năng thanh toán các hợp đồng bảo hiểm mà còn giúp quảng bá rộng rãi hình ảnh của Tập đoàn Bảo Việt trên thị trường Tài chính - Bảo hiểm. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của hoạt động đầu tư, Bảo Việt đã tích cực chuyển đổi mô hình đầu tư, thành lập công ty quản lý quỹ - tách biệt hẳn chức năng đầu tư với chức năng kinh doanh bảo hiểm. Công ty quản lý quỹ này thực hiện các loại hình kinh doanh: lập và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán theo quy định của pháp luật, thực hiện các hoạt động đầu tư tài chính và các hoạt động bổ trợ khác. Chính đầu tư là một vũ khí lợi hại giúp Bảo Việt đứng vững và tiếp tục phát triển.
Trong cấu trúc đầu tư của các công ty Bảo hiểm Châu Âu thì giá trị các khoản vốn đầu tư vào chứng khoán thường chiếm trên 85%, trong đó trái phiếu là loại tài sản đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất, ngoại trừ các công ty bảo hiểm của Anh chỉ đầu tư khoảng 35% quỹ dự phòng kỹ thuật vào trái phiếu. Lượng vốn đầu tư vào tiền gửi ngân hàng và các đầu tư khác chiếm một tỷ lệ rất nhỏ chiếm khoảng 1-3,6% giá trị vốn đầu tư của các công ty bảo hiểm. Đối với bất động sản, các công ty bảo hiểm cũng đầu tư vào một lượng vốn bình quân khoảng 7,8%, trong đó những nước thấp nhất là Đan Mạch, Bỉ, Đức, Anh…Trừ hai nước Italia và Thuỵ Sỹ, giá trị khoản đầu tư này của các công ty BHXH vượt quá 10% vào các năm 1994, 1995,1997.
Trong cấu trúc đầu tư của các công ty bảo hiểm Nhật Bản, cũng giống như các công ty bảo hiểm Châu Âu, các lĩnh vực đầu tư ít bỏ vốn nhất của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ Nhật Bản là đầu tư vào bất động sản và đầu tư khác. Các lĩnh vực đầu tư chủ yếu của họ là chứng khoán, cho vay và gửi tiền tiết kiệm. Tỉ trọng vốn đầu tư vào các lĩnh vực tương đối đồng đều, cao nhất là trái phiếu trên 30% và thấp nhất là tiền gửi cũng trên 16%. Sở dĩ đầu tư vào trái phiếu ở Nhật Bản không lớn như các công ty bảo hiểm Châu Âu vì nguồn vốn đầu tư của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ này là nguồn vốn vay ngắn hạn, loại đầu tư thích hợp nhất là đầu tư ngắn hạn như cho vay, gửi tiền, mua và bán các loại chứng khoán.
Quan sát tổng thể về cấu trúc đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi của các công ty bảo hiểm ở các nước, có thể nhận thấy xu hướng chính là:
- Vốn đầu tư bất động sản và tiền gửi của các các công ty bảo hiểm có xu hướng giảm mạnh.
- Vốn đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu có xu hướng tăng lên trong đó trái phiếu là quan trọng nhất.
3.3. Bài học kinh nghiệm
Qua nghiên cứu kinh nghiệm đầu tư tăng trưởng quỹ ở một số nước và một số trung gian tài chính, có thể rút ra một số vấn đề sau:
- Nhìn chung, quỹ BHXH của các nước có số dư lớn, các hoạt động đầu tư rất phát triển nên hầu hết các nước đều có tổ chức chuyên trách về đầu tư tăng trưởng quỹ.
- Nguyên tắc trong hoạt động đầu tư là phải đảm bảo lợi ích giữa các bên tham gia đầu tư, đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro, đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên.
- Chính phủ các nước đều quản lý chặt chẽ các hoạt động đầu nên phần lớn các dự án đầu tư đều được Chính phủ cho phép. Nhìn chung, các nước đều quy định danh mục quỹ được phép đầu tư.
- Về thời hạn cho vay vốn, các nước đều rất cẩn thận trong việc quyết định vấn đề này. Thông thường phải có những đánh giá để phân biệt nguồn vốn dài hạn và ngắn hạn để có phương pháp đầu tư đúng đắn, hạn chế rủi ro.
Như vậy, sau hơn mười năm thành lập, cùng với sự ham học hỏi và không ngừng phấn đấu của cán bộ công nhân viên chức trong ngành, BHXH Việt Nam đã thực sự lớn mạnh cả về chất và lượng. Năm 2006, Luật BHXH được ban hành đã quy định rất chi tiết các chính sách BHXH, đến đầu năm 2007 khi luật chính thức có hiệu lực thì một loạt các Quyết định của Chính phủ được ban hành để hướng dẫn cụ thể việc thực hiện luật; trong đó có Quyết định số ngày /3/2007 về quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Nhưng để thực sự đạt được kết quả tốt thì trước mắt BHXH Việt Nam cần phải có một phòng ban chuyên trách về đầu tư quỹ với những cán bộ có kinh nghiệm trong lĩnh vực này, nhất là phải am hiểu và biết đánh giá về thị trường chứng khoán, từ đó đưa ra danh mục đầu tư chứng khoán cụ thể, không nên chỉ chú trọng vào đầu tư những lĩnh vực có mức độ rủi ro thấp. Mặt khác, Nhà nước nên có những chính sách thông thoáng hơn trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH, có như vậy thì BHXH Việt Nam mới thực sự lớn mạnh cả về chất và lượng, đảm bảo sự phát triển bền vững trong tương lai.
Trên đây là một số kết luận rút ra từ việc nghiên cứu kinh nghiệm đầu tư quỹ của các nước và các trung gian tài chính, để làm luận cứ cho việc nghiên cứu chương sau của đề tài.
CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TĂNG TRƯỞNG QUỸ BHXH VIỆT NAM
I. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN BHXH VIỆT NAM
1. Mục tiêu phát triển BHXH Việt Nam
Bảo hiểm xã hội là một trong những nội dung cơ bản của quyền con người trong xã hội văn minh. Ở nước ta, BHXH là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa về kinh tế - xã hội - chính trị và nhân văn sâu sắc, đã được hiến pháp quy định: “Hưởng BHXH là quyền của tất cả người lao động trong các thành phần kinh tế”, văn kiện Đại hội đại biểu của Đảng lần thứ VII đã khẳng định: “Thực hiện chế độ BHXH đối vớ người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế”, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Khẩn trương mở rộng hệ thống BHXH và ASXH…thực hiện các chính sách bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm BHXH cho người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế, cứu trợ những người gặp rủi ro bất hạnh.”. Vì vậy, mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý BHXH trong nền kinh tế thị trường là phải xây dựng một quỹ BHXH tồn tại độc lập với NSNN, đảm bảo cân đối tự hạch toán độc lập đúng như bản chất vốn có của nó, đồng thời đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa quyền lợi và nghiã vụ nhằm ổn định cuộc sống của người lao động. BHXH Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc cũng như đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước cần phải xác định rõ, đúng đắn mục tiêu và nhiệm vụ sau:
- Mọi hoạt động của BHXH đều phải thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần thay thế thu nhập của các đầu tư tham gia BHXH khi họ bị ốm đau, thai sản, TNLĐ – BNN, hưu trí, tử tuất nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho họ. Đó là mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội của đất nước góp phần giữ vững thể chế của Đảng và Nhà nước.
- Từng bước thực hiện BHXH đến mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân và tiến tới thực hiện BHYT toàn dân.
- Tăng nhanh nguồn thu quỹ BHXH từ sự đóng góp của các bên tham gia, thực hiện chi đúng, chi đủ, kịp thời, giảm đần nguồn chi từ NSNN, đảm bảo cân đối quỹ dài lâu. Phần nhàn rỗi đem đầu tư tăng trưởng mà chủ yếu là trái phiếu Chính phủ và các trái phiếu khác, phần còn lại đầu tư vào các dự án quốc gia nhằm góp phần phát triển kinh tế đất nước.
- Nâng cao năng lực quản lý của bộ máy ngành BHXH Việt Nam.
2. Phương hướng phát triển BHXH của Đảng và Nhà nước
* Nhận thức đúng vai trò của BHXH trong quản lý Nhà nước, bảo đảm ASXH và nguyên tắc tổ chức, quản lý phát triển BHXH.
- BHXH là hoạt động sự nghiệp dịch vụ công, một trong những chức năng của quản lý Nhà nước. Kinh tế thị trường càng phát triển, tăng trưởng càng cao thì nguy cơ phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, nạn thất nghiệp gia tăng, tiềm ẩn bất ổn định xã hội lớn…nên việc tăng cường quản lý Nhà nước với hệ thống chính sách BHXH phù hợp là cơ sở để kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững.
- Quán triệt các nguyên tắc cơ bản của BHXH là mở rộng mọi thành viên xã hội tham gia BHXH, đảm bảo tính bền vững của quỹ BHXH, tính ổn định về thể chế tổ chức BHXH (ổn định lâu dài, quản lý hiệu quả), tính chuyên nghiệp và hiện đại, Nhà nước giữ vai trò đóng góp và bảo trợ rủi ro.
* Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế BHXH.
- Cụ thể hoá Luật BHXH, trong đó tập trung xác định rõ đầu tư tham gia BHXH bắt buộc và tự nguyện; quyền lợi , nghĩa vụ và trách nhiệm của người tham gia BHXH, của tổ chức BHXH, của các Bộ, ngành liên quan như Bộ Lao động – Thương binh xã hội, Bộ nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch và Đầu tư,…
- Thể chế tài chính: xác định các nguồn tài chính, có thể quản lý sử dụng quỹ BHXH, các chế độ kiểm tra, thanh tra, kiểm toán.
- Thể chế về tổ chức bộ máy và nhân sự của hệ thống BHXH.
* Thực hiện quỹ BHXH tồn tại độc lập với NSNN trong nền kinh tế thị trường và trở thành một bộ phận của hệ thống tài chính Quốc gia, một tụ điểm của thị trường tài chính, thực hiện cân đối thu chi quỹ và các biệm pháp đảm bảo an toàn và tăng trưởng quỹ .
* Hoàn thiện mô hình tổ chức bên trong của BHXH Việt Nam.
- Mô hình tổ chức BHXH Việt Nam bao gồm cả BHYT là tổ chức sự nghiệp độc lập thuộc Chính phủ là phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính, tách bạch chức năng quản lý hành chính Nhà nước và sự nghiệp dịch vụ công. BHXH Việt Nam là tổ chức thực hiện dịch vụ công về thực hiện các chính sách pháp luật về BHXH. Do đó, cần có quan điểm nhất quán trong việc giữ ổn định mô hình tổ chức BHXH Việt Nam như hiện nay.
- Vấn đề tập trung hiện nay là tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức bên trong của hệ thống BHXH Việt Nam theo hướng hình thành các tổ chức dịch vụ bảo hiểm theo từng loại hình bảo hiểm: Bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm thai sản ốm đau, BHYT, tai nạn lao động,…hoặc tổ chức theo mô hình BHXH tự nguyện và bắt buộc.
* Xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức ngành BHXH Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, hình thành đội ngũ cán bộ hoạt động xã hội chuyên nghiệp.
- Đổi mới nội dung và phương thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đạt tiêu chuẩn ngạch bậc.
- Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ, đảm bảo vận hành hệ thống quản lý theo yêu cầu điện tử hoá.
* Mở rộng các hoạt động quốc tế trong khu vực và trên thế giới, tham gia các tổ chức tương ứng của khu vực và quốc tế. Chia sẻ kinh nghiệm tổ chức BHXH và kinh nghiệm mở rộng các loại hình BHXH, vấn đề xã hội hoá các hoạt động dịch vụ.
II. NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH NÓI CHUNG VÀ Ở VIỆT NAM NÓI RIÊNG.
1. Đầu tư quỹ BHXH phải đứng trên lợi ích của người lao động, của Nhà nước và của xã hội.
1.1.Cơ sở quan điểm
- Mục đích đầu tư quỹ BHXH trước hết là nhằm đảm bảo thực hiện trách nhiệm của BHXH đối với người lao động, do đó mọi hoạt động luôn đặt lợi ích người lao động lên hàng đầu.
- Quỹ BHXH là một quỹ tài chính nằm ngoài NSNN nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống của người lao động, do đó hoạt động đầu tư của quỹ BHXH phải luôn luôn hướng tới mục tiêu tăng trưởng quỹ, dần dần giảm bớt gánh nặng cho NSNN.
- Mục tiêu hoạt động của quỹ BHXH là nhằm ổn định và phát triển nền kinh tế - xã hội. Vì thế hoạt động của quỹ BHXH phải góp phần đắc lực vào việc làm tăng lợi ích xã hội đó là tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
1.2. Định hướng
Trong hoạt động đầu tư của quỹ BHXH cần phải có quan điểm rõ ràng và đúng đắn khi đánh giá và lựa chọn phương án đầu tư. Quy trình tạo lập và phân tích các dự án đầu tư phải thực hiện hai nhóm mục tiêu chính đó là: Nhóm mục tiêu về tài chính và nhóm mục tiêu kinh tế - xã hội.
- Nhóm mục tiêu tài chính, hoạt động đầu tư của quỹ BHXH phải đạt được lợi nhuận nhất định nào đó, tối thiểu là bằng tỷ lệ trượt giá để hoạt động đầu tư không làm tăng giá trị của quỹ thì ít nhất cũng phải bảo toàn được nguồn vốn đầu tư.
- Nhóm mục tiêu kinh tế - xã hội, hoạt động đầu tư của quỹ phải góp phần giải quyết các vấn đề dân số, việc làm và công bằng xã hội.
2. Đầu tư vào các tài sản tài chính là chiến lược lâu dài và quan trọng nhất trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH.
2.1. Cơ sở của quan điểm
- Xuất phát từ nguyên tắc đầu tư từ quỹ BHXH, đặc biệt là nguyên tắc an toàn và thanh khoản. Để đảm bảo khả năng thanh toán của các khoản đầu tư, BHXH phải ưu tiên đầu tư vào các tài sản tài chính.
- Xuất phát từ nguồn vốn đầu tư của quỹ BHXH là chỉ tạm thời nhàn rỗi, việc đầu tư bằng nguồn vốn này phải hướng vào tài sản tài chính. Chứng khoán đáp ứng được yêu cầu thanh khoản của hoạt động đầu tư quỹ như: Cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ.
- Thị trường tài chính nước ta đang trong giai đoạn phát triển và hoàn thiên, các loại tài sản tài chính đã và đang ngày càng đa dạng và mang đến những cơ hội kiếm lời tôt. Như vậy, về lâu dài việc đầu tư vào các loại chứng khoán sẽ phải là hoạt động đầu tư quan trọng nhất của quỹ BHXH.
2.2. Định hướng cơ bản
- Để đầu tư quỹ BHXH vào thị trường tài chính thì phải phù hợp với đặc điểm của nguồn vốn đầu tư. BHXH cần phải phân định rõ ràng nguồn vốn đầu tư ngắn hạn và dài hạn có yêu cầu sử dụng không giống nhau. Sau khi phân định nguồn vốn cần phải xây dựng chiến lược phân bổ vốn vào các loại tài sản tài chính sao cho phù hợp với tính chất và đặc điểm của từng nguồn vốn.
- Đối với nguồn vốn ngắn hạn, chỉ nên để đầu tư vào các tài sản tài chính ngắn hạn. các loại tài sản này phải có tính lỏng cao và khả năng tạo ra dòng thu nhập trong thời gian ngắn. Do đó, mua và giữ các trái phiếu ngắn hạn, mua và bán cổ phiếu để hưởng chênh lệch giá.
- Đối với nguồn vốn dài hạn, cần ưu tiên đầu tư vào các loại chứng khoán dài hạn, các chứng khoán này phải thoả mãn các yêu cầu: Khả năng tạo ra thu nhập cao và ổn định; thời hạn nắm giữ chứng khoán phải trùng khớp với thời gian chi trả dự kiến của các chế độ BHXH dài hạn; lãi suất chứng khoán có thu nhập ổn định, cộng với lãi suất thu được do tái đầu tư, thu nhập đó phải lớn hơn lãi suất giả định làm căn cứ tính phí BHXH dài hạn. Do đó, đầu tư vào trái phiếu là chiến lược quan trọng nhất trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH đặc biệt là trái phiếu Chính phủ.
3. Tham gia vào thị trường chứng khoán
Hoạt động đầu tư quỹ BHXH chỉ được thực hiện trên cơ sở phân tích rủi ro và xu hướng vận động của thị trường thông qua việc vận dụng các lý thuyết kinh tế hiện đại đã được kiểm chứng ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
3.1. Cơ sở quan điểm
- Thị trường chứng khoán là một sản phẩm đỉnh cao của kinh tế thị trường. Đó là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán các loại chứng khoán có thể mang lại lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư. Trong nền kinh tế mọi mô hình và quyết định về tài chính đều phải tính đến yếu tố thị trường chứng khoán như là một vấn đệ mang tính cốt lõi. Do đó hoạt động đầu tư quỹ BHXH cũng không tách rời thị trường chứng khoán.
- Tham gia vào thị trường chứng khoán là xu hướng mang tính chiến lược. Tuy nhiên, việc đầu tư vào thị trường này đòi hỏi phải hết sức thận trọng. Để tham gia vào thị trường chứng khoán đòi hỏi phải vận dụng những lý thuyết kinh tế hiện đại về thị trường chứng khoán đã được kiểm chứng ở các nước có nền kinh tế phát triển để có quyết định đầu tư đúng đắn.
3.2. Định hướng cơ bản
- Tối đa hoá danh mục đầu tư bằng vận dụng tính linh hoạt các mô hình lưa chọn danh mục tài sản đầu tư.
- Ưu tiên hàng đầu việc sử dụng nguồn vốn đầu tư của BHXH để đầu tư vào các trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu Chính phủ, đồng thời phải xây dựng phương án đầu tư trái phiếu có hiệu quả.
III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH VIỆT NAM
1. Giải pháp nâng cao hiệu quả tạo lập nguồn vốn
1.1. Mở rộng đối tượng tham gia.
Hiện nay, theo luật BHXH có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc; trong đó các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác,…và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động đều phải tham gia BHXH cho người lao động của mình; điều đó có nghĩ là các tổ chức và cá nhân có thuê mướn từ 1 lao động trở lên đã phải tham gia BHXH, khác hẳn với trước kia là phải từ 10 lao động trở lên. Như vậy, với Luật mới này thì đối tượng tham gia BHXH đã tăng lên khá cao so với trước đây, và đây chính là điều kiện thuận lợi cho quỹ BHXH đảm bảo cân đối thu chi và phát triển bền vững.
Trong Luật BHXH cũng đã quy định rõ ràng các chế độ BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp sắp tới được triển khai.
- Thiết kế chế độ hưu trí, tử tuất tự nguyện : Đối tượng của BHXH tự nguyện là hầu hết người lao động không có quan hệ lao động. Ở nước ta, đối tượng này chủ yếu là nông dân, thợ thủ công cá thể và những người tự tạo ra việc làm.
Theo số liệu thống kê năm 2001, thu nhập bình quân của người ở khu vực nông thôn là 300-400 nghìn đồng/tháng. Với mức thu nhập này từ mức trung bình trở lên, hàng tháng người nông dân có thể tiết kiệm một khoản nhất định để đảm bảo tuổi già. Nhu cầu cầu của người lao động qua kết quả điều tra cho thấy 81,24% tổng số lao động xã hội có nhu cầu tham gia BHXH Hưu trí, chiếm 91,7% tổng số người có nhu cầu tham gia BHXH; 35,75% người có nguyện vọng tham gia chế độ tử tuất và 29,3% người có nguyện vọng tham gia chế độ ốm đau.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế phát triển mạnh mẽ như hiện nay, các loại hình Bảo hiểm Nhân thọ của các công ty bảo hiểm cũng đồng loạt đưa ra các sản phẩm bảo hiểm mới phù hợp với hầu hết các tầng lớp nhân dân, đây chính là các đối thủ cạnh tranh lớn đối với các loại hình BHXH tự nguyện. Nhưng ta có thể nhận thấy một lợi thế vô cùng lớn của BHXH đó chính là quan niệm của nhân dân về BHXH là sự uy tín, sự đảm bảo chắc chắn cho tương lai của người tham gia. Vì vậy để có thể thực hiện rộng rãi chế độ bảo hiểm tự nguyện thì trước tiên BHXH Việt Nam phải có sự đầu tư trong công tác tuyên truyền đến mọi tầng lớp nhân dâm.
- Xây dựng Bảo hiểm thất nghiệp: Thất nghiệp và thiếu việc làm đang là vấn đề bức xúc hiện nay đối với nước ta. Hơn nữa, nước ta đã là một thành viên của tổ chức WTO, tham gia vào quá trình tự do hoá thương mại thì thất nghiệp trở thành một vấn đề của nền kinh tế nước ta, khi đó hàng loạt các công ty không đáp ứng những tiêu chuẩn của thị trường sẽ bị sụp đổ, và như vậy sẽ có hàng vạn người thất nghiệp. Vì vậy, bảo hiểm thất nghiệp là một tất yếu cần triển khai trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc triển khai này không phải đơn giản, nhất là khi các loại hình thất nghiệp ở nước ta rất đa dạng. Mặc dù trong luật BHXH đã đề cập đến vấn đề này nhưng thực sự các quy định trong đó còn quá chung chung; chỉ chưa đầy hai năm nữa Bảo hiểm thất nghiệp được triển khai mà hầu hết người lao động vẫn chưa thực sự được tiếp cận với những thông tin về loại hình bảo hiểm này.Vấn đề đặt ra hiện nay là phải tuyên truyền rộng rãi BHXH nói chung và Bảo hiểm thất nghiệp nói riêng đến mọi người dân.
- Vận động đông đảo người dân tham gia BHYT: trước hết dần dần đưa BHYT học sinh- sinh viên trở thành bắt buộc. Đối với BHYT tự nguyện, các đối tượng là nông dân, người lao động tự do sẽ thực hiện BHYT tự nguyện theo từng bước, từng giai đoạn, tiến tới thực hiện BHYT bắt buộc trong cả nước.
1.2. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền
Hiện nay, nhiều người lao động chưa hiểu rõ về các chính sách, chế độ BHXH, đặc biệt là lao động trong khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên chưa tham gia vào BHXH hoặc bị giới chủ chiếm dụng khoản đóng góp đó của họ mà không hay biết.
Để tăng số người tham gia BHXH, tăng thu cho quỹ cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin tuyên truyền. Bài học kinh nghiệm về công tác tuyên truyền có hiệu quả là phải có nội dung biệm pháp tuyên truyền đối với từng đối tượng, không thể áp dụng một biệm pháp chung cho nhiều đối tượng. Đối tượng nào không hiểu về chính sách chế độ nào thì tuyên truyền về chính sách chế độ đó, đồng thời phải biết phối hợp với các cơ quan thông tin tuyên truyền đại chúng trong công tác tuyên truyền về BHXH. Có như vậy mới giúp người lao động hiểu rõ được các chính sách chế độ BHXH, từ đó họ tự nguyện tham gia đóng BHXH và đấu tranh với chủ sử dụng lao động đóng BHXH cho họ.
1.3. Có chế tài xử phạt đối với trường hợp không chấp hành chính sách chế độ BHXH
Hiện nay tình trạng chưa kịp đóng hoặc cố tình không chịu đóng BHXH của chủ sử dụng lao động là rất phổ biến. Nhiều doanh nghiệp còn chấp nhận chụi phạt khi bị cơ quan phát hiện còn hơn là đóng đầy đủ BHXH cho người lao động. Đây là một thực tế cần phải được chấn chỉnh ngay.
Biệm pháp xử phạt này nhămg tăng cường pháp chế trong thu BHXH. Nhưng hiện nay, trong các văn bản pháp quy của Nhà nước mới giao cho BHXH Việt Nam quyền kiểm tra, chứ không có quyền xử lý các trường hợp vi phạm chính sách như: nộp chậm hoặc không nộp BHXH, thủ đoạn ký hợp đồng dưới 3 tháng để trốn đóng BHXH; khi phát hiện ra lại không có quyền xử phạt mà lập các biên bản gửi các cơ quan có thẩm quyển xử lý nên không kịp thời. Để công tác thu có hiệu quả, thì Chính phủ cần giao cho ngành BHXH có quyền kiểm tra, thanh tra, quyền xử phạt. Đặc biệt, mức xử phạt cũng phải được điều chỉnh lớn hơn hoặc bằng mức thu BHXH ở đơn vị đó.
1.4. Tăng cường công tác quản lý chống thất thoát quỹ.
Tăng cường công tác quản lý quỹ BHXH thực chất là công tác tổ chức khoa học các nghiệp vụ thống kê, kế toán, hạch toán thu - chi, đồng thời nghiêm khắc xử lý các hiện tượng buông lỏng quản lý, tham ô, lãng phí. Để quản lý quỹ BHXH được an toàn không bị thất thoát quỹ cần phải thực hiện tốt các vấn đề sau:
- Thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc quản lý quỹ tập trung thống nhất, không phân tán quỹ, chia nhỏ quỹ cho nhiều cơ quan quản lý .
- Tổ chức thực hiện công tác thống kê, kế toán, hạch toán khoa học, rõ ràng theo đúng chế độ kế toán Nhà nước, thực hiện chế độ công khai quỹ .
- Thực hiện nghiêm khắc sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về công tác đầu tư tăng trưởng quỹ . Trong khi thực hiện phải thực hiện đầy đủ các nguyên tắc đầu tư: An toàn, hiệu quả, thu hồi vốn nhanh và lợi ích xã hội.
- Thường xuyên kiểm tra công tác thu - chi quỹ
- Nghiêm khắc xử lý các trường hợp buông lỏng quản lý quỹ, tham ô, lãng phí gây thất thoát quỹ .
- Nhanh chóng ban hành các văn bản cụ thể hoá luật; xây dựng quy trình quản lý thu BHXH cho phù hợp với từng đối tượng.
1.5. Thường xuyên nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ công chức viên trong ngành BHXH
Đây là điều kiện cơ bản nhất, quyết định hiệu quả của từng giải pháp vì áp dụng giải pháp nào cũng cần có đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ.
Thường xuyên tiến hành rà soát, đánh giá lại đội ngũ công viên chức thuộc thẩm quyền quản lý trên cơ sở đó bố trí điều chỉnh lại cho phù hợp. Khó khăn lớn nhất của công tác nhân sự là trong thời gian đầu mới thành lập thì chuyên môn nghiệp vụ của những công chức, viên chức còn hạn chế,không đồng đều và chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ đổi mới.
Nhưng do yêu cầu triển khai ngay các hoạt động của ngành, BHXH Việt Nam đã chỉ định BHXH các tỉnh, Thành phố thực hiện phương trâm vừa học vừa làm vừa tổng vừa tổng kết rút kinh nghiệm để nâng cao dần nghiệp vụ chuyên môn cho công viên chức. Chính vì vậy mà đến nay đội ngũ cán bộ ngành đã không ngừng lớn mạnh về cả chất và lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ được giao.
Để đáp ứng được yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn tới, đòi hỏi cần có những giải pháp về công tác đào tạo và đào tạo lại đối với cán bộ như sau:
- Đưa ra mục tiêu, nội dung, đối tượng và phương pháp đào tạo
- Thời gian và điều kiện đào tạo (cơ sở vật chất, kinh phí…)
- Phối hợp với các trường Đại học khẩn trương hoàn chỉnh giáo trình về chuyên ngành đào tao BHXH, thực hiện việc tuyển dụng lớp thế hệ cán bộ mới nghiêm ngặt được đào tạo chính quy.
- Phối hợp với các trường Đại học và các trung tâm dạy nghề tổ chức đào tạo lại một số cán bộ hiện có.
- Tuyển mới và đào tạo cán bộ trong ngành về trình độ quản lý, sử dụng công nghệ thông tin đối với toàn bộ cán bộ trong ngành.
1.6. Phải có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại
Trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, việc quản lý thu - chi, quản lý đối tượng không chỉ dừng lại bằng các phương tiện thủ công, mà phải áp dụng kỹ thuật tiên tiến:
- Phải triển khai nhanh dự án phát triển công nghệ thông tin trong toàn ngành. Khi dự án được triển khai, toàn hệ thống được nối mạng, khi đó sẽ có điều kiện quản lý quỹ được chặt chẽ, hạn chế thất thoát quỹ; đồng thời có điều kiện quản lý mở rộng đối tượng tham gia BHXH, có nhiều thông tin phục vụ cho công tác khai thác nguồn thu, tăng nhanh số người tham gia BHXH sẽ được khai thác trên mạng.
- Đầu tư các phương tiện kỹ thuật như: phương tiện hiện đại phục vụ cho công tác thông tin tuyên truyền; các phương tiện thiết bị phục vụ việc bảo vệ an toàn tiền mặt…đồng thời phải bố trí đủ kinh phí hoạt động bộ máy.
- Triển khai công tác đóng nộp chi trả qua hệ thống ATM, mở tài khoản riêng cho mỗi người trong hệ thống Ngân hàng.
- Xây dựng cơ sở vật chất cho ngành BHXH, đặc biệt ở cấp quận huyện để tạo điều kiện cho người lao động thuận tiện đóng nộp, khiếu nại và dễ dàng cho người tham gia BHXH tự nguyện.
2. Giải pháp tổ chức quản lý nguồn vốn đầu tư
- BHXH cần sớm thành lập tổ chức chuyên trách thực hiện đầu tư: Ở Việt Nam hiện nay chưa có một tổ chức chuyên trách thực hiện nhiệm vụ đầu tư quỹ BHXH. Mọi hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ do Ban Kế hoạch – Tài chính thuộc BHXH Việt Nam thực hiện; do đó mang lại hiệu quả chưa cao.
- BHXH Việt Nam nên lựa chọn dịch vụ uỷ thác để quản lý nguồn vốn đầu tư hoặc thành lập Ban quản lý đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH: Trước mắt BHXH Việt Nam chưa có đủ điều kiện thành lập công ty đầu tư tăng trưởng quỹ chuyên nghiệp thì có thể sử dụng một trong hai mô hình quản lý nguồn vốn trên.
- Huy động triệt để nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi vào hoạt động tài chính.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ BHXH
3.1. Giải pháp về chính sách trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH
Để xây dựng chính sách trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH được tập trung vào các nội dung sau:
Phân định rõ ràng nguồn vốn đầu tư
Theo tính chất nhàn rỗi của nguồn vốn đầu tư, vốn đầu tư quỹ BHXH được chia thành 2 loại
+ Nguồn vốn đầu tư ngắn hạn:Nên sử dụng mua tín phiếu kho bạc Nhà nước, kỳ phiếu của NHTM,…
+ nguồn vốn đầu tư dài hạn: Nên đầu tư vào tài sản tài chính dài hạn và mức độ rủi ro khác nhau.
- Đa dạng hoá danh mục đầu tư.
Để hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt Nam đạt hiệu quả cao, bên cạnh các hoạt động đầu tư trên, Chính phủ cần cho phép quỹ BHXH đầu tư vào các lĩnh vưc:
+ Cung cấp dịch vụ cho thuê tài chính
+ Góp vốn liên doanh, vốn cổ phần
+ Kinh doanh bất động sản
+ Quy định cụ thể hạn mức đầu tư đối với từng lĩnh vực
Hạn mức đầu tư là chỉ số vốn đầu tư tối đa ma quỹ BHXH có thể sử dụng để đầu tư vào một tài sản,một dự án hay một danh mục nào đó.
+ Đối với lĩnh vực đầu tư an toàn, chủ yếu là đầu tư thông qua tổ chức tài chính tiền tệ của Nhà nước: cho NSNN vay, mua trái phiếu, kỳ phiếu của Nhà nước hoặc các tổ chức tài chính Nhà nước phát hành… thì nên sử dụng khoảng 80% nguồn vốn đầu tư quỹ BHXH .
+ Đối với lĩnh vực đầu tư có khả năng sinh lời cao nhưng rủi ro nhiều: Bất động sản, cổ phiếu, trực tiếp đầu tư vào các dự án kinh doanh … thì nên sử dụng khoảng 20% nguồn vốn đầu tư từ quỹ BHXH.
- Phân cấp thẩm quyền quy định đầu: tư cụ thể đối với Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng quản lý quỹ BHXH và Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam.
- Ban hành các chính sách khuyến khích và ưu đãi đối với hoạt động đầu tư quỹ BHXH
+ Miễn thuế cho các hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH coi đó là một khoản NSNN cấp bù cho quỹ
+ Đơn giản hoá các thủ tục hành chính có liên quan đến hoạt động đầu tư quỹ BHXH.
+ Ưu tiên cho BHXH Việt Nam được đầu tư vào các lĩnh vực, dự án mà ở đó vốn đảm bảo an toàn, rủi ro ít mang lại hiệu quả cao cho xã hội.
3.2. Xây dựng chiến lược tương thích đối với từng loại nguồn vốn đầu tư của quỹ BHXH
- Ưu tiên hàng đầu cho các trái phiếu có độ an toàn cao như: Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu của các tổ chức tài chính có tiềm lực kinh tế mạnh
- Xây dựng chiến lược xử lý rủi ro đối với trái phiếu đầu tư
+ Khồng bán trái phiếu trước kỳ hạn mà sử dụng tiền mới thu của các đối tượng tham gia đóng góp để thanh toán.
+ Phân tích kinh tế vĩ mô để dự báo xu hướng lãi suất: phân tích kinh tế gồm GDP, lạm phát, thâm hụt NSNN, lãi suất thị trường…; phân tích tiền tệ :cung cầu về tiền.
- Lựa chọn danh mục đầu tư trái phiếu tạo dòng tiền ổn định đối với BHXH.
Đối với cơ quan BHXH rất cần một dòng tiền ổn định để chi trả các khoản trợ cấp hàng năm. BHXH có thể sử dụng giải pháp kết hợp nhiều trái phiếu có lãi suất dự thưởng và thời hạn khác nhau để thực thi mục đích này.
3.3. Xây dựng danh mục đầu tư tối ưu so với lợi tức tối đa và giảm thiểu rủi ro bằng việc vận dụng linh hoạt các mô hình lựa chọn danh mục tài sản đầu tư đã được kiểm chứng ở các nước áp dụng thành công trong điều kiện cụ thể của nước ta.
VI. ĐIỀU KIỆN CHO VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH
Về phía Nhà nước
- Nhà nước cần nghiên cứu xây dựng các chế độ sao cho mức đóng của các bên thực hiện BHXH và mức hưởng thụ cho từng loại đầu tư hưởng chế độ BHXH; các loại hình BHXH nên áp dụng sao cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng loại hình lao động cũng như phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có như vậy mới góp phần đảm bảo cân đối quỹ BHXH, thuận lợi cho việc tạo nguồn vốn đầu tư.
- Hiện nay, Luật BHXH đã có hiệu lực thi hành nhưng những văn bản hướng dẫn chi tiết luật còn khá ít, trong khi đó các loại hình BHXH tự nguyện sắp được triển khai nhưng người dân vẫn chưa thực sự hiểu rõ về nó,vì vậy Nhà nước nên tạo điều kiện hỗ trợ BHXH Việt Nam quảng bá tốt các vấn đề này. Mặt khác Nhà nước cũng quy định rõ quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH cũng như quyền và trách nhiệm của cơ quan BHXH Việt Nam trong việc thực thi các hoạt động BHXH. Điều này giúp cho BHXH Việt Nam có thể thực hiện các biệm pháp tăng cường quản lý chặt chẽ hoạt động thu chi quỹ BHXH và hoạt động đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ .
- Nhanh chóng hoàn thiện quy chế quản lý tài chính đối với hoạt động của hệ thống BHXH Việt Nam, trong đó cần xác định rõ trách nhiệm đóng góp và hỗ trợ của NSNN đối với quỹ BHXH cũng như vai trò bảo hộ của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ .
- Nhà nước cần cấp bách có những chính sách phát triển thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ…, đặc biệt là thị trường trái phiếu tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
- Cần đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho ngành BHXH để tiếp tục củng cố và từng bước hiện đại hoá toàn bộ hệ thống BHXH Việt Nam, trong đó chú trọng đến việc ứng dụng tin học vào quản lý thông tin và tài chính.
- Nâng cao hiệu quả điều hành nền kinh tế vĩ mô. Trong chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ cũng cần phải công bố kế hoạch đầu tư phát triển ngành, vùng, lĩnh vực kinh tế mà ưu tiên cho BHXH Việt Nam có thể xây dựng kế hoạch đầu tư quỹ của mình.
2. Về phía Bảo hiểm xã hội Việt Nam
- Lựa chọn phương thức tổ chức quản lý đầu tư phù hợp với quy mô của quỹ BHXH: Có hai phương án để BHXH Việt Nam lựa chọn là thành lập Công ty đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH và thành lập Ban quản lý đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
Đối với hoàn cảnh và điều kiện của Bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện nay thì có lẽ nên thành lập mô hình Ban quản lý đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH là phù hợp hơn cả.
- Tiếp tục nâng cao trình độ quản lý của các cán bộ trực tiếp làm công tác đầu tư, tuyển dụng và đào tạo đội ngũ cán bộ có khả năng thẩm định các dự án đầu tư tài chính để trong tương lai BHXH Việt Nam có thể thực hiện đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh lớn.
- Có chế độ đãi ngộ thoả đáng cho đội ngũ cán bộ làm công tác đầu tư tài chính. Có như vậy các cán bộ này mới thực sự có điều kiện phát huy khả năng vốn có của mình.
- Tăng cường đầu tư phát triển và hiện đại hoá cơ sở vật chất phục vụ công việc của toàn hệ thống BHXH Việt Nam, tạo cơ sở hạ tầng cho việc ứng dụng các thành tựu tiên tiến của công nghệ thông tin vào quản lý quỹ BHXH.
- Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về quản lý tài chính quỹ BHXH; đồng thời phải tích cực chủ động hợp tác với các cơ quan, doanh nghiệp, các tổ chức tài chính tín dụng để tranh thủ sự giúp đỡ và tìm kiếm cơ hội đầu tư thuận lợi.
- BHXH Việt Nam cần không ngừng mở rộng các hoạt động hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế về đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất cho ngành BHXH cũng như học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong công tác đầu tư quỹ BHXH.
KẾT LUẬN
Với xu thế phát triển nhanh chóng của thị trường hiện nay, để có thể bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH, để tạo ra được một quỹ BHXH ổn định, vững chắc và thực hiện tốt nhiệm vụ chi trả các chế độ BHXH cho người lao động, đồng thời góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển; thì hoạt động đầu tư quỹ BHXH ở nước ta hiện nay cần được quan tâm nghiên cứu của Nhà nước và các Ban, Ngành có liên quan.
Năm vừa qua, tại hội nghị APEC lần thứ 8 đã thông qua lộ trình tự do thương mại và đầu tư; ngày 07/11/2006 Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức WTO. Trong xu thế hội nhập kinh tế tham gia đó, BHXH Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hệ thống ASXH Việt Nam, thì hiệu quả đầu tư quỹ BHXH có vai trò to lớn tạo tiềm lực tài chính cho quỹ, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển nhanh, đời sống nhân dân ngày một nâng cao, góp phần tạo ra bộ mặt mới cho đất nước trong quá trình hội nhập.
Khi phân tích thực trạng hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt Nam, em đã nhận thấy được một số nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động đầu tư quỹ BHXH, và từ việc nghiên cứu đó em đã đưa vào trong đề tài của mình một số giải pháp có tính trước mắt và lâu dài đối với hoạt động này; nếu thực hiện được có thể sẽ làm cho quỹ BHXH Việt Nam phát triển vững chắc trong tương lai.
Do thời gian hạn hẹp và trình độ còn hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi thiếu sót nên em mong được sự góp ý của các thầy, cô, anh chị trong BHXH Việt Nam để em hoàn thành đề tôt hơn chuyên đề này.
Để hoàn thành được đề tài này, em đã nhận được rất nhiều sụ giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn, của các cán bộ đang làm việc tại BHXH Việt Nam nói chung và tại Ban Kế hoạch - Tài chính nói riêng. Qua đây cho phép em gủi lời cảm ơn đến Thạc sỹ Nguyễn Ngọc Hương và các cô chú anh chị đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực tập tốt nghiệp, hoàn thiện chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Bảo hiểm – Nhà xuất bản Thống kê năm 2004/ Chủ biên TÀI SảN. Nguyễn Văn Định - ĐH Kinh Tế Quốc Dân
Bảo hiểm xã hội Việt Nam (1998 – 2005) Báo cáo tổng kết hoạt động của BHXH Việt Nam qua các năm
Bảo hiểm xã hội Việt Nam – Báo cáo tổng kết hoạt động của BHXH Việt Nam năm 2005 và nhiệm vụ năm 2006
Hệ thống các văn bản pháp quy về BHXH Việt Nam – Nhà xuất bản Tài chính (tháng 01/2000)
Tạp chí BHXH Việt Nam năm 2003, 2005,2006,2007.
“Góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách BHXH ở nước ta hiện nay” – Nhà xuất bản chính trị quốc gia/PGS- PTS Đỗ Minh Cương, PGS Mạc Văn Tiến (1994).
Luật BHXH tháng 6/2006
Một số trang web trên mạng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31903.doc