Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm nói chung và công ty Tân Đức Minh nói riếng không thể phủ nhận vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. Em xin đưa ra một số kiến nghị sau:
- Sở y tế các địa phương tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh thuốc, chống đầu cơ tích trữ, độc quyền nâng giá thuốc bất hợp lý và xử lý nghiêm các trường hợp vi pham.
- Nhà nước tiếp tục thực hiện “chính sách Quốc gia về giá thuốc của Việt Nam” và triển khai thực hiện chiến lược phát triển ngành Dược đến năm 2010; xây dựng và hoàn thiện đề án tăng cường quản lý nhà nước về Dược.
- Nhà nước ta khẳng định ngành Dược là ngành kinh tế mũi nhọn vì vậy phải ưu tiên các nguồn vốn khác nhau như ngân sách của nhà nước, ODA, FDI; tiến hành các dự án áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về quản lý sản xuất và quản lý chất lượng.
- Đầu tư mạnh hơn nữa để tạo nguồn nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp dược nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm thuốc có chất lượng tốt, giá rẻ, đảm bảo nhu cầu trong nước; phát triển nuôi trồng các cây con có tính dược cao làm phong phú nguồn dược liệu.
- Nhà nước cần khảo sát về tổng nhu cầu nhân lực có trình độ dược sĩ đại học và sau đại học của tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc để quy hoạch lại chương trình đào tạo, tăng thêm chỉ tiêu để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực về số lượng, chất lượng trên cơ sở đó cac doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuốc có nhu cầu sẽ tuyển dụng, lựa chọn và tạo điều kiện phát huy nguồn nhân lực đó phục vụ cho các mục tiêu của mình.
- Tuyên truyền, cung cấp cho người dân những kiến thức về thuốc cho mọi người dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua đó hạn chế được tình trạng lạm dụng thuốc, hay tạo điều kiện cho thuốc giả, thuốc nhái, thuốc kém chất lượng lưu hành trên thị trường.
108 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1750 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại công ty TNHH dược phẩm Tân Đức Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bỏ ra trong kỳ, công ty thu về được 0,624 đồng lợi nhuận. Trong 2 năm tiếp theo, khả năng sinh lợi của vốn kinh doanh tiếp tục tăng, 100 đồng vốn kinh doanh bỏ ra đã mang lại cho công ty giá trị lợi nhuận tương ứng là 1,022 đồng vào năm 2006 và 1,172 đồng vào năm 2007. Kết quả này cho thấy khả năng sinh lợi của vốn ngày càng lớn, công ty đã đạt mức hiệu quả năm sau cao hơn năm trước (giai đoạn 2005-2007).
* Sức sinh lợi của vốn cố định (SSLVCĐ):
Vốn cố định của công ty bao gồm toàn bộ giá trị tài sản phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty bao gồm: nhà làm việc hành chính, nhà kho, nhà để xe; các trang thiết bị, máy móc văn phòng; trang thiết bị bảo quản thuốc, phương tiện vận chuyển hàng hoá(ô tô).
Hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty 3 năm qua được đo bằng chỉ tiêu sức sinh lợi của vốn cố định. Năm 2005, 100 đồng vốn cố định phục vụ cho hoạt động kinh doanh đã mang lại cho công ty 4,217 đồng lợi nhuận. Năm 2006, trị số sức sinh lợi của vốn cố định đã tăng lên 9,587% so với năm 2005, với 100 đồng vốn cố định đưa vào sử dụng trong kỳ kinh doanh, công ty đã thu về 13,804 đồng lợi nhuận. Năm 2007, trị số này tiếp tục tăng và lớn hơn hai năm trước đó, đạt ở mức 25,191 đồng lợi nhuận/100 đồng vốn cố định. Như vậy, hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty Tân Đức Minh có xu hướng tăng theo thời gian. Đối với doanh nghiệp thương mại, vốn lưu động chiếm tỉ trong lớn trong tổng giá trị vốn kinh doanh của doanh nghiệp ấy, do vậu chi tiêu sức sinh lợi của vốn cố định không phải là chỉ tiêu duy nhất để xét xem công ty đã sử dụng vốn có hiệu quả hay không hay nói theo cách khác, hoạt động kinh doanh của công ty có đạt hiệu quả hay không trong 3 năm qua. Việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ giúp chúng ta đánh giá toàn diện hơn mức hiệu quả trong vấn đề sử dụng vốn cũng như tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của công ty.
* Sức sinh lợi của vốn lưu động (SSLVLĐ):
Một trong những điểm khác biệt giữa doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là VLĐ chiếm tỉ trọng lớn trong tổng giá trị vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại và với công ty Tân Đức Minh cũng vậy. Chúng ta có thể thấy rõ quy mô và tỉ trọng của VLĐ trong tổng số vốn kinh doanh của công ty Tân Đức Minh qua biểu đồ dưới đây:
Qua hai biểu đồ 2.5 và 2.6 chúng ta nhận thấy quy mô vốn lưu động (chỉ tiêu tuyệt đối) và tỉ trọng vốn lưu động (chỉ tiêu tương đối) của công ty Tân Đức Minh đều mang trị số lớn hơn so với vốn cố định và có xu hướng biến động tăng qua các năm (giai đoạn 2005-2007) điều này đúng lý thuyết cơ cấu vốn của doanh nghiệp kinh doanh thương mại.
Năm 2005, giá trị vốn lưu động của công ty Tân Đức Minh là 5,820,696,363 đồng, chiếm tỉ trọng 85,208% tổng giá trị vốn kinh doanh. Năm 2006, quy mô vốn lưu động của công ty lớn hơn so với năm 2005 (tăng 1,071,066,275), đạt trị số là 6,891,762,638 đồng (chiếm 92,595 tổng vốn kinh doanh trong kỳ. Năm 2007, quy mô vốn lưu động tiếp tục gia tăng, đạt giá trị cao nhất trong 3 năm từ năm 2005 đến năm 2007, đạt giá trị là 7,099,983,285 đồng (chiếm 95,349% tổng giá trị vốn kinh doanh), tăng 0,03% so với năm 2006 và tăng 0,2198 % so với năm 2005.
Trên thực tế, có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động, một trong những chỉ tiêu qua trọng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động là chỉ tiêu sức sinh lợi của vốn lưu động. Trên cơ sở so sánh trị số của chỉ tiêu sức sinh lợi của vốn lưu động qua các kỳ kinh doanh, chúng ta có thể đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động cũng như hiệu quả kinh doanh của công ty qua các thời kỳ. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh càng cao và ngược lại.
Năm 2005, với 100 đồng vốn lưu động, công ty đã thu được 0,732 đồng lợi nhuận sau thuế. Năm 2006, khả năng sinh lợi của vốn lưu động đã tăng lên 0.372 % so với năm 2005, con số này cho biết với 100 đồng vốn lưu động trong kỳ, công ty đã thu về một lượng lợi nhuận sau thuế với số tiền lớn hơn năm trước là 0,732 đồng, đạt ở mức 1,104 đồng lợi nhuận/100 đồng vốn lưu động. Năm 2007, trị số sức sinh lợi của vốn lưu động tiếp tục gia tăng, đạt ở mức 1,229 đồng lợi nhuận/100 đồng vốn lưu động, đây là mức cao nhất trong vòng 3 năm kể trong giai đoạn 2005-2007. Như vậy, tình hình sử dụng vốn lưu động của công ty Tân Đức Minh trong giai đoạn 2005-2007 đạt mức hiệu quả có xu hướng gia tăng theo thời gian.
Ngoài chỉ tiêu sức sinh lợi của vốn lưu động, chúng ta còn có thế sử dụng nhiều chỉ tiêu khác để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty Tân Đức Minh như chỉ tiêu về số vòng quay của vốn lưu động, thời gian một vòng quay vốn lưu động, mức đảm nhiệm của vốn lưu động. Kết quả phân tích của các chỉ tiêu này cũng cho chúng ta kết luận tương tự về hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty 3 năm gần đây.
2.4. Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Tình hình tài chính của công ty được thể hiện rõ nét qua khả năng thanh toán. Nếu công ty có khả năng thanh toán cao thì tình hình tài chính càng khả quan và ngược lại, do vậy khi đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp, ta không thể không xem xét khả năng thanh toán của doanh nghiệp đó. Khả năng thanh toán của công ty có thể được tính toán thông qua rất nhiều chỉ tiêu. Có thể đánh giá khả năng thanh toán của công ty Tân Đức Minh giai đoạn 2005-2007 trên cơ sở tính toán các hệ số thanh toán được đề cập trong bảng số liệu sau:
Bảng 2.11: Khả năng thanh toán của công ty qua các năm
(2005-2007)
Đơn vị: đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
1. Tổng tài sản
7.684.090.036
7.282.166.587
7.690.939.189
2. Tổng số nợ phải thu
2.892.281.084
1.835.066.158
2.082.351.457
3. Tổng nợ phải trả
6.600.903.241
6.157.791.491
6.544.971.133
4. Tổng TSLĐ và đầu tư ngắn hạn
6.696.599.376
7.086.925.900
7.113.040.670
5. Tổng nợ ngắn hạn
5.300.903.241
4.857.751.491
4.744.971.133
6. Hệ số thanh toán hiện hành:
(6) = (1)/(3)
1,1641
1,1826
1,1751
7. Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn:
(7) = (4)/(5)
1,2632
1,4587
1,4991
8. Tỉ lệ các khoản nợ phải trả so với các khoản phải thu:
(8) = (3)/(2)
2,2822
3,3556
3,1431
Nguồn: Phòng Tài chính - kế toán
2.4.1. Khả năng thanh toán hiện hành
Năm 2005, hệ số thanh toán hiện hành của công ty bằng 1,1641. Trị số này lớn hơn 1 điều này cho thấy với toàn bộ giá trị thuần của tài sản hiện có, công ty có khả năng thanh toán được các khoản nợ. Năm 2006, trị số của hệ số thanh toán hiện hành cũng lớn hơn 1 và lớn hơn trị số khả năng thanh toán hiện hành của năm 2005, kết quả này cho thấy công ty hoạt động kinh doanh của công ty có hiệu quả, khả năng thanh toán của công ty kỳ này đã cao hơn so với năm 2005. Năm 2007, trị số thanh toán hiện hành là 1,1751, có sự giảm nhẹ so với năm 2006, tuy vậy trị số này vẫn lớn hơn 1, nghĩa là công ty có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ trong kỳ với tổng tài sản hiện có.
2.4.2. Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
Qua bảng số liệu, chúng ta nhận thấy hệ số thanh toán ngắn hạn của công ty có sự biến động tăng qua các năm. Trị số của hệ số thanh toán nợ ngắn hạn của công ty 3 năm từ năm 2005 đến năm 2007 lần lượt có giá trị là: 1,2632; 1,4587; 1,4991. Trị số thanh toán ngắn hạn này đều lớn hơn 1, cho thấy với toàn bộ tổng giá trị tài sản lưu động hiện có, công ty hoàn toàn có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trong 3 năm qua, nói theo cách khác, tình hình tài chính của công ty hết sức khả quan.
2.4.3. Mức độ đi chiếm dụng vốn của công ty
Mức độ đi chiếm dụng vốn của công ty được đo bằng chỉ tiêu: “tỉ lệ các khoản nợ phải trả so với các khoản nợ phải thu”. Trị số của chỉ tiêu này lớn hơn 1, chứng tỏ công ty số vốn doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn lớn hơn số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng.
Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, mức độ đi chiếm dụng vốn của công ty tăng qua các năm (2005-2007) và trị số của chỉ tiêu này qua 3 năm đều lớn hơn 1, điều này chứng tỏ số vốn doanh nghiệp đi chiếm dụng là rất lớn. Năm 2005, tỉ lệ các khoản nợ phải trả so với các khoản nợ phải thu bằng 2,2822 tương ứng với tỉ lệ là 228,22%, con số này cho chúng ta biết rằng tương ứng với 100 đồng nợ phải thu từ khách hàng, công ty sẽ phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán với nhà cung cấp là 228,22 đồng. Năm 2006, mức độ chiếm dụng vốn của công ty đạt tỷ lệ là 335,56%, tăng 7,34% so với năm 2005, nghĩa là với 100 đồng phải thu khách hàng trong kỳ kinh doanh, công ty sẽ phải có trả nợ cho nhà cung cấp số tiền là 335,56 đồng. Năm 2007, mức độ công ty đi chiếm dụng vốn là 314,31%. Mặc dù mức độ công ty đi chiếm chiếm dụng vốn trong năm 2007 có giảm so với năm 2006 nhưng mức độ giảm không đáng kể (giảm 0,0633 % so với năm 2006), đạt trị số là 314,31 đồng nợ phải trả/100 đồng nợ phải thu.
Như vậy, từ những con số phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy mức độ công ty đi chiếm dụng vốn rất lớn trong 3 năm qua (2005-2007). Đây không phải là một tín hiệu tốt. Công ty muốn tạo dựng chữ tín, xây dựng được mối quan hệ lâu dài với đối tác, phát triển bền vững cần quan tâm đến lợi ích của các đối tác, mọi hoạt động kinh doanh phải dựa trên lợi ich của cả hai bên mua và bán, có như vậy công việc kinh doanh mới đạt hiệu quả cao như mong muốn.
2.5. Hiệu quả sử dụng lao động
Bảng 2.10: Hiệu quả sử dụng lao động của công ty qua các năm (2005-2007)
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
1. Tổng lợi nhuận trong kỳ
đồng
42.613.302
76.076.494
87.239.889
2. Tổng lao động trong kỳ
người
40
40
40
3.Sức sinh lợi lao động:
(3) = (1)/(2)
đồng/người
1.065.332,55
1.901.912,35
2.180.997,23
Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính
Số liệu trong trên cho chúng ta thấy rằng sức sinh lợi lao động liên tục tăng qua các năm từ năm 2005 đến năm 2007. Năm 2005, một lao động tạo ra 1.065.332,55 đồng lợi nhuận. Năm 2006, một lao động bình quân tạo ra 1.901912,35 đồng, tăng 836.579,8 đồng (78,53%) so với năm 2005. Năm 2007, con số này đã tăng 279.084,88 đồng so với năm 2006, tương ứng với tỉ lệ tăng là 14,67%. Nguyên nhân của sự gia tăng sức sinh lợi lao động qua các năm là do tổng lợi nhuận trong kỳ của công ty tăng lên qua các năm trong khi số lượng lao động không thay đổi qua các năm (40 người). Nhưng do tốc độ tăng tổng lợi nhuận năm 2007 so với năm 2006 nhỏ hơn tốc độ tăng lợi nhuận của năm 2006 so với năm 2005, vì vậy tốc độ tăng của sức sinh lợi lao động cũng giảm theo.
Sức sinh lợi lao động của công ty liên tục tăng, điều này phản ánh công ty đã sử dụng lực lượng lao động có hiệu quả. Có được kết quả trên là do công ty đã biết tận dụng những uu thế về nguồn nhân lực của như trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm làm việc…của cán bộ công nhân viên cũng như sự bố trí, sắp xếp nhân sự một cách hợp lý, các chính sách đãi ngộ, khuyến khích người lao động góp phần tạo động lực làm việc cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty.
III. Đánh giá chung về hiệu quả kinh doanh của công ty
1. Những kết quả đạt được
Thời gian qua, với sự nỗ lực, phấn đấu của ban lãnh đạo cũng như của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty, hoạt động kinh doanh của công ty Tân Đức Minh đã đạt được kết quả đáng khích lệ. Sự thành công mà công ty có được như ngày nay phải kể đến những điểm mạnh trong hoạt động kinh doanh của công ty.
Một là, Công ty Tân Đức Minh tham gia vào thị trường kinh doanh theo mô hình đa dạng hoá. Các sản phẩm của công ty phong phú, đa dạng về chủng loại, giá cả đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhiều đối tượng khách hàng, góp phần hạn chế những rủi ro trong hoạt động kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
Hai là, xuất phát từ nhu cầu thị hiếu của khách hàng, công ty đã có những chính sách lựa chọn nhà cung ứng các sản phẩm thuốc hợp lý dựa vào khả năng cung ứng, chất lượng sản phẩm cung ứng, giá cả, phương tiện thanh toán, phương thức thanh toán…Tất cả loại sản phẩm thuốc công ty kinh doanh đều có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, được Bộ y tế cho phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam.
Ba là, các hoạt động bán hàng phát triển khá tốt trong những năm qua. Công ty có một đội ngũ bán hàng chuyên nghiệp, đã tạo lập được niềm tin với nhiều bạn hàng ở cả 3 miền của đất nước. Hàng hoá được đáp ứng một cách nhanh chóng, kịp thời nhu cầu của khách hàng về số lượng, chất lượng, thời gian giao hàng.
Bốn là, chính sách giả của công ty tương đối linh hoạt. Giá cả của sản phẩm được điều chỉnh theo tình hình biến động của thị trường như quy định điều chỉnh giá của Nhà nước được áp dụng với một số mặt hàng, sự điều chỉnh giả của nhà sản xuất, mức giá cạnh tranh các đối thủ đưa ra nhằm mục đích lôi kéo khách hàng…Sự linh hoạt trong chính sách giá còn được biểu hiện qua các chương trình khuyến mại giảm giá giành cho khách hàng mua thuốc với số lượng lớn.
Trong tháng 1 năm 2008, công ty đã tổ chức chương trình ưu đãi cho khách hàng với hai sản phẩm là Xạ Linh 1 và Chỉ Khát Hoàn.
* Với sản phẩm Xạ Linh 1, công ty đua ra hai mức giá thanh toán như sau:
Khách hàng mua từ 10 hộp Xạ Linh 1 trở lên sẽ được hưởng mức giá thanh toán là 80.000đồng/hộp (với điều kiện khách hàng thanh toán ngay). Như vậy, với mức giá này, khách hàng đã được chiết khấu 20% của mức giá trước đây (120.000 đồng/hộp).
Khách hàng mua dưới 10 hộp Xạ Linh 1, giá thanh toán là 95.000 đồng/hộp.
* Với sản phẩm Chỉ Khát Hoàn, khách hàng sẽ được hưởng tỉ lệ chiết khấu 10% so với mức giá cũ. Như vậy, một hộp Chỉ Khát Hoàn nếu trước đây được bán ra có giá là 25.000 đồng/hộp thì nay chỉ còn 22.500đồng/hộp.
Năm là, đội ngũ nhân viên trong công ty đa phần có bằng cấp, có tình thần đoàn kết, trách nhiêm, có ý thức kỷ luật cao, thực hiện nghiêm túc các nội quy trong công ty, nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu chung của công ty.
Trên đây là những kết quả công ty đạt được trong thời gian qua. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động kinh doanh của công ty còn tồn tại không ít hạn chế. Các hạn chế này đã tác động tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh của công ty.
2. Những hạn chế
2.1. Những hạn chế xuất phát từ các nhân tố chủ quan
Một là, công ty có quy mô nhỏ điều này đã ảnh hưởng đến hoạt động mua hàng của công ty từ khâu tìm kiếm đối tác, xác định lượng hàng hoá mua vào cho phù hợp và hoạt động bán hàng của công ty là khâu phân phối tiêu thụ sản phẩm.
Hai là, lượng khách hàng của công ty tập trung chủ yến trên địa bàn Hà Nội, một số ít ở khu vực miền Trung và miền Nam, công ty chưa có một mạng lưới phân phối rộng khắp các tỉnh thành cả nước.
Ba là, hiện nay giá bán của một số loại dược phẩm của công ty còn ở mức cao so với mức giá bán của sản phẩm cùng loại trên thị trường. Đây là một bất lợi làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty trước các đối thủ khác, ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của công ty.
Bốn là, hàng năm, công ty chưa có số liệu thống kê đầy đủ doanh số bán từng chủng loại mặt hàng tương ứng với từng đối tượng khách hàng khác nhau của công ty; do vậy chưa đánh giá đúng kết quả của hoạt động bán hàng, các kết luận liên quan đến việc bán hàng chưa phản ánh đúng tình hình thực tế.
Năm là, các chính sách marketing của công ty còn mang nặng tính chủ quan, chưa có căn cứ khoa học, thiếu tính chuyên nghiệp. Công ty chưa có phòng Marketing độc lập, công việc nghiên cứu thị trường vẫn do phòng Kinh doanh đảm nhiệm. Hạn chế này đã làm gia tăng những chi phí phát sinh không cần thiết, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của công ty.
Sáu là, công ty chưa có trang web của riêng mình nên nhiều khách hàng “chưa biết đến” công ty; các thông tin về đối tác để làm căn cứ, cơ sở cho việc đưa ra quyết định kinh doanh chưa được cập nhật một cách đầy đủ, có hệ thống; do đó ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh của công ty. Vì vậy, hạn chế này cũng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của công ty.
2.2. Những hạn chế xuất phát từ các nhân tố khách quan
Một là, thuốc là loại sản phẩm mang tính chất đặc thù cao, nhu cầu tiêu dùng loại sản phẩm này chịu ảnh hưởng, bị chi phối rất lớn từ lời khuyên, ý kiến của các chuyên gia tư vấn về sức khỏe, các bác sĩ, các dược sĩ ở các cửa hàng thuốc hay qua những lời giới thiệu của người thân trong gia đình, bạn bè. Đối với các loại hàng hoá thông thường, chất lượng và giá trị sử dụng là hai tính chất cơ bản để người tiêu dùng chọn lựa và quyết định tiêu dùng. Đối với thuốc, chỉ có nhà chuyên môn mới có điều kiện để đánh giá hai tính chất này. Mỗi khi cảm thấy bệnh tình không quá nặng, người bệnh thường đi khám bác sỹ hoặc khi bệnh cũ tái phát, người bệnh lại dùng chính những đơn thuốc cũ để mua lại.
Sự sùng bái, sự tin tưởng tuyệt đối của người bệnh vào bác sỹ, dược sỹ đã ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Một thực tế ở Việt Nam cho thấy, chế độ tiền lương cho bác sỹ còn bộc lộ nhiều bất cập nên nhiều bác sỹ dễ bị các đại lý phân phối thuốc thao túng và chi phối, bất chấp các nguyên tắc, đạo đức, chuẩn mức của y đức.
Hai là, tâm lý tiêu dùng của người tiêu dùng đối với mặt hàng này cũng là yếu tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Tâm lý sính hàng ngoại, hiện tượng lạm dụng các biệt dược đắt tiền là hiện tượng phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Thêm vào đó, các hãng thuốc nước ngoài với sức mạnh thương hiệu, sức mạnh tài chính ào ạt đổ vào thị trường Việt Nam. Việc quản lý Dược chưa phải lúc nào cũng bám kịp khi nhiều sản phẩm thuốc ngoại bằng nhiều đường tiểu ngạch chảy về. Chính điều này đã làm giảm uy tín của doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thuốc trong nước nói chung và công ty TNHH Dược phẩm Tân Đức Minh nói riêng.
Một hạn chế khách quan khác, thủ tục hành chính còn tồn tại nhiều bất cập, tốc độ xét duyệt và cấp phép đăng ký lưu hành cho các loại thuốc còn mất nhiều thời gian. Do hạn chế số lượng nhà cung cấp đã làm hạn chế số lượng sản phẩm cung ứng ra thị trường, kết quả là giá một số sản phẩm tăng lên cao, cộng thêm với sự xuất hiện của nhiều sản phẩm thay thế trên thị trường đã ảnh hưởng đến cơ chi tiêu của người bệnh, quyết định tiêu dùng đối với một số mặt hàng thuốc.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH TẠI CÔNG TY TNHH DƯỢC PHẨM TÂN ĐỨC MINH
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH TẠI
CÔNG TY TNHH DƯỢC PHẨM TÂN ĐỨC MINH
I. Thực trạng ngành Dược Việt Nam
1. Những kết quả đạt được và những hạn chế tồn tại
1.1. Những kết quả đạt được
Theo đánh giá của Tổ chức y tế thế giới (WHO), năng lực của ngành Dược Việt Nam đang ở cấp độ 2,5-3 trong 4 cấp độ phát triển (theo tiêu chuẩn của tổ chức này), tức là có khả năng sản xuất một số loại thuốc gốc Generic và xuất khẩu được một số dược phẩm.
Thời gian qua, ngành công nghiệp Dược với sự tham gia của các thành phần kinh tế đã đạt được những bước tiến mới, từng bước đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của cộng đồng. Hiện tại, thuốc sản xuất trong nước đã đáp ứng tương đối đầy đủ nhu cầu về thuốc thiết yếu và thuốc phục vụ công tác điều trị trong bệnh viện. Thuốc sản xuất trong nước hiện nay đã đảm bảo được khoảng 773 hoạt chất, chiếm khoảng hơn 50% trong tổng số hơn 1500 hoạt chất đang được phép lưu hành tại Việt Nam và theo phân loại của WHO, sản xuất trong nước đã đảm bảo được 20 trong số 27 nhóm dược lý.
Hiện ở nước ta có 180 doanh nghiệp sản xuất thuốc trong đó có 76 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn thực hành sản xuất thuốc tốt, 83 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thuốc có nguồn gốc từ dược liệu.
1.2. Những hạn chế tồn tại
Nền công nghiệp Dược Việt Nam còn non yếu, chứ chủ động được thuốc sản xuất trong nước đáp ứng nhu cầu của người dân. Hầu hết các cơ sơ sản xuất thuốc trong nước sản xuất mang tính tự phát, mới chỉ chú trọng đầu tư vào công nghiệp bào chế, sản xuất những sản phẩm thông thường, đơn giản mà chưa quan tâm đến việc cho ra đời các loại thuốc đặc trị, các loại thuốc ở dạng bào chế đặc biệt; các sản phẩm chất lượng cao chưa nhiều, chưa tương xứng với tiềm năng về nguyên liệu và thị trường Việt Nam.
Có thể nói, sự chuyển biến của ngành Dược trong thời gian qua còn quá chậm. Theo quy định của Bộ y tế từ năm 2004 đến năm 2006, tất cả các nhà máy dược phải đạt tiêu chuẩn GMP, nhưng sau đó phải gia hạn dần đến năm 2007 và giờ là 1/07/2008.
Một hạn chế khác, trong thời gian qua, giá cả thuốc trên thị trường có nhiều biến động. Một trong những nguyên nhân của hiện trạng này là do sự mất cân đối về cung cầu. Thực tế ở nước ta trong những năm qua cho thấy trong khi nhu cầu sử dụng thuốc của người dân Việt Nam tăng nhanh thì số lượng các loại thuốc có mặt trên thị trường của một số chủng loại thuốc thuộc nhóm kê đơn còn hạn chế, điều này dẫn đến sự xuất hiện của một số nhà độc quyền kinh doanh các nhóm sản phẩm đó, gây ra sự khan hiếm giả tạo đẩy giá thuóc lên cao. Thêm vào đó, sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất thuốc cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến giá cả mặt hàng này. Qua khảo sát thị trường dược phẩm trong hai tháng năm 2008 thuốc sản xuất trong nước có 0,33% mặt hàng trong tổng số 3000 mặt hàng được khảo sát tăng giá với mức tăng trung bình là 5,04% và 0,31% mặt hàng giảm giá với mức giảm trung bình là 5,45%.
Mặt khác, sự khó khăn về ngân sách y tế, hạ tầng cơ sở kém phát triển, sự bất cập về năng lực quản lý, việc thiếu cán bộ dược đặc biệt ở tuyến y tế cơ sở…đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc đảm bảo công bằng trong cung ứng thuốc, đặc biệt là thuốc có chất lượng tốt cho người dân ở nước ta.
2. Triển vọng phát triển thị trường dược Việt Nam
Ngày nay, thuốc có vai trò quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Bức tranh về bệnh tật ở nước ta trong nhiều thập niên vừa qua đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực, trong đó có sự góp sức của ngành Dược trong việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm dược phục vụ mục tiêu chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Mặc dù thuốc không đóng vai trò duy nhất trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân, nhưng thuốc giữ vai trò quan trọng trong việc phục hồi, duy trì chăm sóc sức khoẻ người bệnh.
Một thực tế cho thấy, mặc dù sản lượng thuốc trên thế giới ngày một tăng, thế nhưng điều quan tâm nhất là sự phân bố tiêu dùng thuốc lại có sự chênh lệch giữa các quốc gia phát triển và quốc gia đang phát triển. Theo sự đánh giá của WHO, các nước đang phát triển chiếm khoảng hơn 75% dân số toàn cầu, nhưng chỉ được hưởng thụ khoảng 22% số dược phẩm được sản xuất ra mỗi năm trên thê giới. Mức hưởng thụ thuốc bình quân hàng năm trên đầu người ở một số nước châu Âu và Bắc Mỹ vào khoảng 300 USD, Nhật Bản là 400 USD trong khi ở các nước đang phát triển khoảng 10-15 USD. Xét về mặt lượng, Việt Nam đang có mức hưởng thụ thuốc thấp nhất thế giới và kể cả so với các nước trong khu vực (mức bình quân trên thế giới hiện nay là 50 USD/người/năm, ở các nước đang phát triển là 20 USD. Như vậy, tiềm năng phát triển thị trường dược phẩm nói chung và thị trường thuốc nói riêng ở Việt Nam còn rất lớn.
Mặt khác, khi nền kinh tế phát triển, nhu nhập của người Việt Nam tăng lên, nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân cũng ngày một gia tăng khiến thị trường nước ta được nhìn nhận như một tiềm năng lớn. Chi phí cho sức khỏe tăng nhanh, chi phí thuốc ngày chiếm tỉ trọng lớn trong ngân sách y tế và trong cơ cấu chi tiêu của mỗi gia đình người Việt.
Ngành Dược là một trong những ngành có tốc độ phát triển cao, đạt khoảng 18 - 20%; tổng giá trị tiền thuốc trung bình hàng năm tăng từ 15-17%; tiền thuốc bình quân đầu người tăng từ 12 đến 14 %. Số liệu thống kê giá trị tiền thuốc sử dụng và tiền thuốc sử dụng bình quân của người Việt Nam qua các năm (2005-2008) được thể hiện qua bảng dưới đây:
Bảng 3.1: Tổng giá trị tiền thuốc sử dụng và tiền thuốc sử dụng bình quân của người Việt Nam
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008 (dự báo)
Số tiền
(USD)
Tỉ lệ % tăng
(2006/2005)
Số tiền
(USD)
Tỉ lệ % tăng
(2007/2006)
Số tiền
(USD)
Tỉ lệ % tăng
(2008/2007)
1.Tổng giá trị tiền thuốc sử dụng
960 triệu
17
1.114
triệu
16,5
1.293
triệu
16,07
2.Tiền thuốc sử dụng bình quân
11,23
14
12,69
13
14,5
14,26
Nguồn: Cục quản lý Dược
Hiện nay ở nước ta, thuốc sản xuất trong nước mới đáp ứng được khoảng hơn 50 % nhu cầu sử dụng, phần còn lại ta phải nhập khầu. Năm 2007, lượng thuốc nhập khẩu trị giá khoảng 777,45 triệu USD, trong đó tỷ trọng nguyên liệu nhập khẩu so với thuốc thành phẩm nhập khẩu chiếm khoảng 25% tổng trị giá thuốc nhập khẩu. Như vậy, nhu cầu tiêu dùng thuốc của người dân nước ta còn rất lớn. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dược phẩm trong nước
II. Định hướng phát triển của ngành Dược Việt Nam
1. Mục tiêu tổng quát
Chính sách của Nhà nước ta trong lĩnh vực dược là phát triển ngành Dược trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chủ động hội nhập khu vực và thế giới đảm bảo cung ứng đủ thuốc thường xuyên, có chất lượng; đảm bảo sử dụng hợp lý, an toàn phục vụ sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2010
Nội dung mục tiêu cụ thể của Quốc gia trong lĩnh vực dược bao gồm một số điểm chính sau đây:
Đầu tư công nghệ hiện đại, đổi mới trang thiết bị, đổi mới quản lý để ngành công nghiệp dược từng bước đáp ứng nguồn nguyên liệu dùng để sản xuất thuốc. Phấn đấu đến hết năm 2010, tất cả các cơ sở sản xuất và kinh doanh thuốc đều đạt tiêu chuẩn thực hành tốt (GP).
Xây dựng mô hình quản lý dược phẩm phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện cơ chế chính sách đáp ứng yêu cầu quản lý tổng thể ngành Dược.
Bảo đảm sản xuất trong nước đáp ứng 60% nhu cầu phòng bệnh và chữa bệnh của xã hội, trong đó 20% là thuốc y học cổ truyền thành phẩm, bình quân thuốc đầu người một năm đạt khoảng 20 USD.
III. Định hướng phát triển của công ty
1. Mục tiêu của công ty trong thời gian tới
Mục tiêu chung:
- Kinh doanh các loại thuốc thành phẩm phục vụ mục tiêu phục vụ cho nhu cầu phòng và chữa bệnh của người dân với chất lượng cao.
- Đứng vững trong cạnh, duy trì và ngày càng khẳng định vị thế của công ty trên thị trường.
- Trở thành nhà phân phối độc quyền nhiều loại thuốc của nhiều nhà sản xuất có uy tín.
- Là đối tác, bạn hàng tin cậy của nhiều nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Mục tiêu cụ thể năm 2008:
- Tăng doanh thu, lợi nhuận. Dựa vào năng lực của công ty cũng như tình hình thị trường hiện tại, ban lãnh đạo công ty đã thống nhất đề ra các mức doanh thu, lợi nhuận cần đạt được trong năm 2008, đó là:
+ Về tổng doanh thu thuần: Công ty cố gắng phấn đấu đạt 54.300 triệu đồng
+ Về lợi nhuận sau thuế: Giá trị lợi nhuận sau thuế công ty quyết tâm đạt khoảng 88 triệu đồng.
- Làm tròn nghĩa vụ với nhà nước và với người lao động.
2. Phương hướng của công ty trong thời gian tới
Về nguồn hàng:
Công ty chú trọng công tác quản trị nghiệp vụ tạo nguồn và mua hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng đúng sô lượng, đảm bảo chất lượng, đồng bộ, kịp thời.
Thời gian tới, công ty tiếp tục phát triền mô hình kinh doanh đa dạng hoá. Hoạt động kinh doanh ngày càng được mở rộng, ngoài đối tác, bạn hàng truyền thống, công ty từng bước thiết lập mối quan hệ với các đối tác nước ngoài, bổ sung các mặt hàng thuốc thành phẩm vào danh mục sản phẩm kinh doanh của công ty.
Bên cạnh đó, công ty tích cực tìm kiếm, khai thác các cơ hội kinh doanh, phát triền các hình thức, lĩnh vực kinh doanh mới phù hợp với chức năng kinh doanh của công ty.
Về thị trường, khách hàng:
Công ty tiếp tục hoàn thiện mạng lưới phân phối ở cả 3 miền Bắc - Trung - Nam.
Bên cạnh việc củng cố, duy trì mối quan hệ với các khách hàng truyền thống, công ty tiếp tục thu hút thêm nhiều khách hàng mới thông qua các hoạt động xúc tiến, mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng khi mua hàng của công ty, góp phần gia tăng doanh số bán, lợi nhuận, tăng cường vị thế của công ty trên thị trường.
Nguồn nhân lực:
Công ty hướng tới việc thu hút, tuyển chọn những người lao động giỏi đặc biệt đội ngũ bán hàng trẻ, năng động, được đào tạo qua các trường y, dược, kinh tế, có trình độ và kinh nghiệm thực tế đáp ứng nhu cầu kinh doanh.
Quan tâm, chăm lo hơn nữa quyền lợi của người lao động góp phần tạo động lực phát huy năng lực, sự sáng tạo của mỗi thành viên vào sự nghiệp phát triển chung của công ty.
Về cơ sở vật chất-kỹ thuật:
Thời gian tới, công ty dự kiến giành một khoản tiền đầu tư, đổi mới các máy móc, trang thiết bị văn phòng như máy tính, máy phô tô, máy fax nhằm tạo nên môi trường làm việc thuận lợi, hiện đại, hiệu quả cho toàn công ty.
Xây dựng thêm nhà kho chứa hàng nhằm thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng về số lượng, chất lượng.
IV. Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại công ty TNHH dược phẩm Tân Đức Minh
1. Nâng cao chất lượng nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên đối với bất kỳ doanh nghiệp nao muốn tham gia vào thị trường kinh doanh một sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Nghiên cứu thị trường giúp công ty có được các thông tin về khách hàng, về sản phẩm, về đối thủ cạnh tranh hiện tại cũng như các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn trên cơ sở đó, công ty sẽ nhận biết được những cơ hội kinh doanh cũng như những thách thức công ty sẽ phải đối mặt. Hiệu quả của công tác nghiên cứu thị trường quyết định đến hiệu quả của các chiến lược kinh doanh của công ty như chiến lược về sản phẩm, về giá, về phân phối…
Hiện tại, công ty Tân Đức Minh chưa có đội ngũ nghiên cứu thị trường riêng biệt mà công việc này vẫn do phòng Kinh doanh đảm nhiệm, tính chuyên môn chưa cao do vậy ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian qua. Một thực tế cho thấy, một số sản phẩm thuốc công ty mua về bán rất chậm do không nắm bắt được nhu cầu khách hàng, hàng tồn kho, ứ đọng vốn.
Để công tác nghiên cứu thị trường đạt hiệu quả, công ty cần giành một nguồn kinh phí tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu thị trường được tiến hành một cách thường xuyên, lâu dài. Mặt khác, trong quá trình nghiên cứu thị trường, công ty cần có phân đoạn thị trường nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Đối với thị trường là khu vực thành thị, thu nhập của dân cư cao, công ty tập trung vào việc phân phối các sản phẩm đặc trị. Đối với thị trường nông thôn, tỉnh lẻ, thu nhập của người dân còn thấp, công ty tập trung phân phối các sản phảm thuốc mang tính chất phổ biến, thông dụng và có giá phù hợp với mức thu nhập của người dân. Có thể nói thuốc là sản phẩm đặc biệt, đường cầu về sản phẩm kém co giãn so với giá, song đối với những sản phẩm thuốc mang tính chất phổ biến, người dân có thu nhập thấp có thể lựa chọn các biệt dược thay thế có giá rẻ hơn.
2. Giải pháp về sản phầm
Chiến lược sản phẩm giữ vai trò quan trọng đối với mọi doanh nghiệp, là vũ khí sắc bén trong cạnh tranh trên thị trường. Nếu sản phẩm có chất lượng tốt, khách hàng dễ dàng chấp nhận. Chiến lược sản phẩm đảm bảo cho công ty thực hiện được các mục tiêu khác như mục tiêu về lợi nhuận, mục tiêu mở rộng sức tiêu thụ sản phẩm…
Kết quả của quá trình công nghiệp hoá y học đã cho ra đời nhiều loại sản phẩm thuốc mới đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Một triết lý kinh doanh đã chỉ ra rằng người tiêu dùng chỉ mua những sản phẩm họ cần chứ không phải mua những thứ mà công ty có. Do vậy, muốn kinh doanh có lãi, công ty phải nắm bắt nhu cầu khách hàng để xem xét sản phẩm của công ty có đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của khách hàng hay không. Để làm được điều này, công ty phải thường xuyên có sự phân tích, đánh giá sản phẩm cũng như khả năng thích ứng của sản phẩm đến đâu. Việc phân tích sản phẩm và khả năng thích ứng của thị trường đối với sản phẩm là hết sức cần thiết giúp công ty tránh được những chi phí không cần thiết do thiếu hiểu biết về thị trường.
Là một doanh nghiệp thương mại, công ty Tân Đức Minh cần phân tích khả năng thích ứng của từng loại sản phẩm công ty kinh doanh trên thị trường bao gồm những nội dung chủ yếu:
- Công ty cần định kỳ đánh giá mức độ thành công sản phẩm trên thị trường thông qua doanh thu bán đối với từng loại sản phẩm tương ứng với từng đối tượng khách hàng. Việc đánh giá này giúp công ty biết được mức độ chấp nhận sản phẩm của người tiêu dùng.
- Phát hiện ra những khuyết tật về sản phẩm, kịp thời thông báo với nhà sản xuất, đảm bảo chất lượng sản phẩm đầu vào.
3. Giải pháp về giá
Giá cả là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của công ty. Nếu đòi hỏi giá quá cao, doanh thu bán hàng sẽ giảm sút nhanh chóng, ngược lại giá quá thấp có thể phương hại đến hoạt động kinh doanh của công ty. Do vậy, để xây dựng mức giá hợp lý đòi hỏi công ty phải xem xét một cách toàn diện các nhân tố ảnh hưởng đến giá bao gồm các nhân tố có thể kiểm soát được và các nhân tố không thể kiểm soát được. Các nhân tố có thể kiểm soát được bao gồm các chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh như chi phí vận chuyển, chi phí bán hàng, chi phí yểm trợ xúc tiến bán. Các nhân tố không kiểm soát được bao gồm quan hệ cung- cầu trên thị trường, sự cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại và các đối thủ tiềm năng.
Bên cạnh đó, công ty cần xác định rõ mục tiêu của chính sách giá cả. Các mục tiêu của chính sách giá cả cần được tính đến bao gồm:
- Tăng khối lượng bán sản phẩm: Việc gia tăng khối lượng hàng hoá giúp công ty giảm được chi phí kinh doanh trên mỗi đơn vị sản phẩm, qua đó duy trì, đảm bảo cho người lao động, củng cố vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
- Bảo đảm sự ổn định của công ty, tránh được những phản ứng bất lợi từ phía các đối thủ cạnh tranh. Khi theo đuổi mục tiêu này, công ty nên chấp nhận mức giá cạnh tranh.
Theo Thông tư liên tịch hướng dẫn quản lý giá thuốc theo đúng quy định của Luật Dược 2005 và Nghị định 79/2006/NĐ-CP, các cơ sở sản xuất, nhập khẩu thuốc kê khai giá bán buôn dự kiến cho toàn bộ khâu bán buôn và các cơ sở bán buôn không được bán cao hơn giá bán buôn đó. Công ty cần nắm rõ quy định này trong việc định giá cho các sản phẩm của mình.
4. Giải pháp về kênh phân phối
Kết quả của hoạt động bán hàng có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty, tổ chức kênh phân phối hợp lý sẽ góp phần tăng tốc độ tiêu thụ hàng hoá, giảm bớt các chi phí trung gian phát sinh không cần thiết. Đối với một doanh nghiệp thương mại, hoạt động kinh doanh có hiệu quả hay không chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố phân phối. Tốc độ tiêu thụ của sản phẩm quyết định tốc độ quay của vốn lưu động qua đó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các giải pháp đề ra cho việc tổ chức, thiết lập kênh phân phối đó là:
Tiếp tục phát triển hình thức bán buôn, bán lẻ cho các cửa hàng thuốc
Nâng cao chất lượng của kho hàng về nhiệt độ bảo quản, trang thiết bị bảo quản hàng.
Trong thời gian tới, công ty thiết lập mạng lưới đại lý phân phối ở cả 3 khu vực Bắc-Trung-Nam nhằm giảm chi phí lưu thông hàng hoá, chi phí bán hàng.
Công ty cần thường xuyên phân tích, đánh giá hiệu quả của kênh phân phối phải trả lời được các câu hỏi sau:
- Phương thức phân phối công ty đang áp dụng đã phải là phương thức tốt nhất chưa? Liệu có thể tìm ra một phương thức phân phối khác có hiệu quả tương đương nhưng chi phí rẻ hơn không?
- Có đối thủ cạnh tranh nào cũng đang thiết lập kênh phân phối giống công ty không? Nếu không thì tại sao? Lý do nào khiến họ không chọn lựa hình thức phân phối ấy?
5. Tăng cường các hoạt động xúc tiến
Mục đích của các hoạt động xúc tiến nhằm thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội bán hàng, qua đó góp phần gia tăng lợi nhuận cho công ty. Các hoạt động xúc tiến được công ty áp dụng trong hoạt động kinh doanh bao gồm: khuyến mại, quảng cáo, thực hiện các dịch vụ phục vụ khách hàng (vận chuyển hàng hoá đến địa điểm khách hàng yêu cầu, tư vấn, giải đáp những thắc mắc của khách hàng về công dụng sản phẩm, giá cả sản phẩm,…). Thực tế cho thấy trong những năm qua cho thấy công ty chưa xây dựng kế hoạch cụ thể cho các hoạt động này, do vậy hiệu quả mang lại từ các hoạt động này còn rất thấp, đặc biệt là hoạt động quảng cáo. Do vậy, một số giải pháp đề ra nhằm tăng tính hiệu quả của hoạt động xúc tiến bao gồm:
- Về quảng cáo:
+ Công ty cần xác định rõ mục tiêu của quảng cáo. Mục tiêu của quảng cáo cần hướng vào hai vấn đề:
Thứ nhất, tăng số lượng hàng hoá tiêu thụ trên thị trường truyền thống và mở ra thị trường mới. Đối với các mặt hàng thuốc quen thuộc với người tiêu dùng thì khi công ty đặt mục tiêu quảng cáo nhằm tăng khối lượng tiêu thụ thì đồng thời phải nghĩ ngay đến việc tìm kiếm, thu hút khách hàng mới.
Thứ hai, khi tiến hành hoạt động quảng cáo nhằm mục đích giới thiệu sản phẩm thì các chương trình quảng cáo sản phẩm của công ty phải nhấn mạnh đến công dụng, những ưu thế của sản phẩm nhằm lôi kéo, gây sự quan tâm, thu hút lòng tin của khách hàng.
+ Công ty cần lập kế hoạch quảng cáo trong mỗi kỳ kinh doanh bao gồm: kế hoạch về phương tiện quảng cáo, thời gian tiến hành quảng cáo, tần suất quảng cáo. Ngoài phương tiện quảng cáo trên ti vi, trên báo, công ty cần khai thác lợi thế của các phương tiện khác như mạng intenet, radio. Mỗi phương tiện quảng cáo chứa đựng các ưu, nhược điểm khác nhau, do vậy tuỳ thuộc chiến lược kinh doanh của công ty trong từng giai đoạn cụ thể, ngân sách cho hoạt động quảng cáo, công ty lựa chọn phương tiện quảng cáo sao cho phù hợp.
+ Đánh giá hiệu quả hoạt động quảng cáo: Mục đích của quảng cáo là làm cho việc bán hàng nhanh hơn, thuận lợi hơn. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa quảng cáo và bán hàng là mối quan hệ gián tiếp, nghĩa là hiệu quả quảng cáo mang lại là lâu dài. Mặc dù vậy, để đánh giá hiệu quả quảng cáo, công ty cần dựa vào mục tiêu đề ra của quảng cáo đã đạt được ở mức độ nào bằng cách đánh giá hiệu quả những thông tin trong quảng cáo. Những thông tin trong quảng cáo có hiệu quả hay không thể hiện ở chỗ nó có thu hút khách hàng, thái độ của khách hàng như thế nào đối với sản phẩm của công ty.
+ Công ty cần tìm hiểu các văn bản pháp luật quảng cáo nói chung và quy định quảng cáo đối với mặt hàng dược phẩm nói riêng để tránh những sai sót khi tiến hành quảng cáo.
- Khuyến mại: Đây cũng là hình thức có tác dụng tăng tốc độ tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp.
Là một doanh nghiệp kinh doanh thuốc, các hình thức khuyến mại công ty có thể áp dụng đó là: chiết khấu, giảm giá, tặng quà cho khách hàng khi mua với số lượng lớn hoặc vào những dịp lễ tết, tặng kèm theo các sản phẩm thuốc khác.
- Tổ chức hội nghị khách hàng, mở các cuộc hội thảo về sức khoẻ, mời các chuyên gia cung cấp các thông tin về sức khoẻ con người, nguyên nhân của căn bệnh, cách phòng bệnh, điều trị bệnh.
- Tham gia các hội chợ triển lãm dược phẩm tạo điều kiện cho công ty gặp gỡ, thiết lập mối quan hệ các nhà sản xuất, kinh doanh dược phẩm, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh dược phẩm.
- Bên cạnh đó, công ty có thể thực hiện chất lượng các dịch vụ bán hàng như:
+ Tạo điều kiện giao nhận thuận lợi cho các bạn hàng truyền thống nhằm giữ vững, củng cố, phát triển mối quan hệ với khách hàng truyền thống.
+ Thực hiện các dịch vụ chăm sóc khách hàng sau một thời gian tiêu dùng sản phẩm của công ty.
6. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Vốn là một trong những điều kiện tiên quyết mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần phải có để tiến hành hoạt động kinh doanh. Người xưa có câu: “Buôn tài không bằng dài buôn”, tiềm năng về vốn, sự trường vốn góp phần tạo nên tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh đòi hỏi công ty phân tích, đánh giá cơ cấu vốn một cách hợp lý, huy động, phân bổ vốn sao cho phù hợp với mục tiêu kinh doanh. Thực tế cho thấy, số vốn doanh nghiệp đi chiếm dụng lớn hơn hay nhỏ hơn số vốn doanh nghiệp bị các doanh nghiệp khác đi chiếm dụng hoặc mức độ tự chủ, độc lập về vốn thấp đều phản ánh một tình hình tài chính không lành manh.
Thực tế tình hình kinh doanh của công ty qua các năm (2005-2007) cho thấy tỉ lệ các khoản nợ phải trả chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn vốn: 85,90% năm 2005, 85,099% vào năm 2006 và năm 2007 là 84,55 %. Đây là một cơ cấu bất hợp lý, công ty sẽ gặp rủi ro khi thị trường có sự biến động. Vì vậy, trong thời gian tới, công ty cần bổ sung nguồn vốn chủ sở hữu, tránh tình trạng mất tự chủ về vốn, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
7. Giảm chi phí kinh doanh
Chi phí kinh doanh là yếu tố đầu vào ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty, vì vậy giảm chi phí kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
Với công ty Tân Đức Minh, giá vốn hàng bán chiếm tỉ trọng lớn trong tổng chi phí kinh doanh. Để giảm được khoản mục chi phí này đòi hỏi công ty phải nghiên cứu, tìm nguồn hàng với giá cả hợp lý. Công ty có thể lựa chọn hình thức mua hàng theo nhu cầu hay mua nhiều hàng. Với hình thức mua hàng theo nhu cầu nghĩa là căn cứ vào diễn biến thị trường, tốc độ bán ra của công ty, xem xét lượng tồn kho thực tế, công ty sẽ quyết định xem lượng hàng sẽ mua trong từng lần. Với hình thức mua hàng theo nhu cầu, công ty sẽ tiết kiệm được chi phí vận chuyển do lượng tồn kho ít, không bị đọng vốn, tránh được rủi ro do biến động của giá cả. Tuy nhiên, nhược điểm của hình thức mua hàng này là chi phí mua hàng cao do mua với số lượng ít và phải mua nhiều lần, có nguy cơ bị thiếu hàng bán nếu việc nhập hàng về bị chậm trễ, mất đi cơ hội kinh doanh của công ty. Còn với hình thức mua hàng nhiều, công ty sẽ giảm được chi phí mua hàng, có thể được hưởng các ưu đãi từ phía các nhà sản xuất, chớp được cơ hội bán hàng. Nhược điểm của hình thức bán hàng này là phải sử dụng một lượng tiền lớn để thanh toán tiền hàng do đó sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu ngân quỹ của công ty, chi phí bảo quản hàng hoá lớn. Mỗi hình thức mua hàng có những ưu điểm và nhược điểm khác biệt, vì vậy công ty cần cân nhắc trong việc lựa chọn hình thức mua hàng. Việc lựa chọn hình thức mua hàng phải căn cứ vào đặc công dụng của từng sản phẩm, giá cả của sản phẩm, mức độ cung cấp loại sản phẩm đó trên thị trường.
Bên cạnh giảm giá vốn hàng bán, công ty cần giảm chi phí vận chuyển hàng hoá. Hiện nay, chi phí vận chuyển phục vụ nhu cầu của khách hàng ở các tỉnh còn rất lớn. Để giảm chi phí này, công ty cần thiết phải xây dựng mạng lưới đại lý bán hàng ở các tỉnh. Điều này góp phẩn đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng, kịp thời đồng thời giảm chi phí vận chuyển hàng hóa.
8. Giải pháp về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nhân tố trung tâm quyết định tới hiệu quả kinh doanh của công ty bởi chính họ là những tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của công ty. Nhân lực được coi là nguồn vốn đặc biệt, là tài sản quý giá của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực có chất lượng cao sẽ tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực, chăm lo đến đời sống người lao động về tất cả trong cuộc sống của mọi cá nhân là giải pháp lâu dài để công ty phát triển, nâng cao sức cạnh tranh.
Kinh doanh trong lĩnh vực dược phẩm đòi hỏi nhân viên trình dược, nhân viên kho phải có kiến thức, trình độ chuyên môn nhất định về dược phẩm. Đối với nhân viên vận chuyển, công ty cần tuyển dụng những người lao động có sức khỏe, yêu nghề, trung thực, có tinh thần trách nhiệm. Đối với nhân viên bán hàng, công ty cần tuyển dụng những người có đầy đủ các tố chất như: sự nhạy bén, có kiến thức, kinh nghiệm, có khả năng thuyết phục, thu hút khách hàng. Công ty cần tuyển dụng thêm các nhân viên Marketing, các nhân viên này sẽ đảm nhiệm công việc nghiên cứu thị trường, theo dõi sự biến động của thị trường, sự biến động về giá cả, động thái của đối thủ cạnh tranh.
Ngày nay, thu hút người tài đã khó nhưng giữ chân họ lại càng khó hơn, vì vậy phúc lợi là một trong những yếu tố quan trọng để gắn kết họ lâu dài. Các đãi ngộ về vật chất công ty áp dụng cần được rà soát lại và điều chỉnh lại sao vừa phù hợp với khả năng nguồn quỹ cho phép, vừa góp phần tạo ra động lực khuyến khích người lao động. Công ty có thể đưa ra một mức tiền thưởng bình quân cho người lao động vào những dịp lễ tết, sinh nhật và đưa ra mức tiền thưởng khác nhau cho những nhân viên hoàn thành xuất sắc.
Cần có sự đảm bảo cho các thành viên trong công ty phát huy dược tính năng động, sáng tạo trong kinh doanh, trong việc tham gia tháo luận những giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty và sức cạnh tranh của từng loại sản phẩm.
Tuy vậy, nếu duy trì chính sách đãi ngộ tài chính với mức lương và các khoản phúc lợi lớn, đôi khi lại gây ra gánh nặng tài chính cho bản công ty, do vậy ngoài chính sách đãi ngộ vật chất, công ty cần quan tâm chú trọng đến chính sách đãi ngộ tinh thần, chẳng hạn như: tổ chức đi tham quan cho nhân viên trong công ty, tổ chức buổi tiệc liên hoan trong công ty…
9. Ứng dụng thương mại điện tử trong kinh doanh
Có thể nói một trong những vấn đề nổi cộm của nhiều ngành nghề, trong đó có ngành Dược hiện nay là khả năng điện tử hoá hệ thống chưa tốt. Tính đến thời điểm hiện nay, chưa có đơn vị kinh doanh dược phẩm nào áp dụng quy trình phân phối điện tử vào việc quản lý bán hàng. Công ty cần nhận thức rõ tầm quan trọng cũng như những lợi thế của việc ứng dụng thương mại điện tử vào kinh doanh, trên cơ sở đó nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường. Một trong những giải pháp cần đặt ra trước mắt đó là công ty nên xây dựng trang web của riêng mình nhằm cung cấp cho khách hàng những thông tin đầy đủ, chi tiết về công ty cũng như về sản phẩm công ty kinh doanh và thông qua việc đặt hàng qua mạng, công ty sẽ đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
V. Một số kiến nghị
1. Với cơ quan Nhà nước
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm nói chung và công ty Tân Đức Minh nói riếng không thể phủ nhận vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. Em xin đưa ra một số kiến nghị sau:
- Sở y tế các địa phương tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh thuốc, chống đầu cơ tích trữ, độc quyền nâng giá thuốc bất hợp lý và xử lý nghiêm các trường hợp vi pham.
- Nhà nước tiếp tục thực hiện “chính sách Quốc gia về giá thuốc của Việt Nam” và triển khai thực hiện chiến lược phát triển ngành Dược đến năm 2010; xây dựng và hoàn thiện đề án tăng cường quản lý nhà nước về Dược.
- Nhà nước ta khẳng định ngành Dược là ngành kinh tế mũi nhọn vì vậy phải ưu tiên các nguồn vốn khác nhau như ngân sách của nhà nước, ODA, FDI; tiến hành các dự án áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về quản lý sản xuất và quản lý chất lượng.
- Đầu tư mạnh hơn nữa để tạo nguồn nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp dược nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm thuốc có chất lượng tốt, giá rẻ, đảm bảo nhu cầu trong nước; phát triển nuôi trồng các cây con có tính dược cao làm phong phú nguồn dược liệu.
- Nhà nước cần khảo sát về tổng nhu cầu nhân lực có trình độ dược sĩ đại học và sau đại học của tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc để quy hoạch lại chương trình đào tạo, tăng thêm chỉ tiêu để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực về số lượng, chất lượng trên cơ sở đó cac doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuốc có nhu cầu sẽ tuyển dụng, lựa chọn và tạo điều kiện phát huy nguồn nhân lực đó phục vụ cho các mục tiêu của mình.
- Tuyên truyền, cung cấp cho người dân những kiến thức về thuốc cho mọi người dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua đó hạn chế được tình trạng lạm dụng thuốc, hay tạo điều kiện cho thuốc giả, thuốc nhái, thuốc kém chất lượng lưu hành trên thị trường.
2. Với công ty
Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, công ty cần chú trọng những vấn đề sau:
- Đảm bảo nguồn hàng nhập về có chất lượng tốt.
- Đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu, không vì mục tiêu lợi nhuận mà vi phạm đạo đức kinh doanh.
- Tăng cường quỹ hỗ trợ người lao động như quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi tạo động lực làm việc cho người lao động.
- Đối với những sản phẩm công ty độc quyền phân phối, công ty nên niêm yết giá bán trên bao bì thuốc để tránh tình trạng khi qua khâu bán lẻ đến tay người tiêu dùng, giá thuốc bị chênh lệch quá lớn, ảnh hưởng đến uy tín của công ty, sự bất bình đẳng trong cung ứng thuốc cho người dân.
KẾT LUẬN
Trải qua quá trình thành lập và hoạt động, công ty TNHH Dược phẩm Tân Đức Minh đã trở thành một trong những nhà phân phối dược phẩm trên thị trường Việt Nam. Các chủng loại hàng hoá của công ty kinh doanh rất phong phú, đa dạng. Trong những năm qua, kết quả hoạt động kinh doanh của công ty rất khả quan, đây là một dấu hiệu đáng mừng tạo động lực để công ty phấn đấu trong những năm tiếp theo. Bên cạnh những điểm mạnh, những lợi thế cần khai thác triệt để, phát huy; công ty cần khắc phục những khó khăn, nhược điểm trong hoạt động kinh doanh để đạt được mục tiêu, hướng đến một sự phát triển bền vững, xác lập vị thế cạnh tranh trong tương lai.
Với đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại công ty TNHH Dược phẩm Tân Đức Minh”, em mong rằng những giải pháp được đưa ra sẽ mang lại hiệu quả cao cho công ty trong những năm tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Các tạp chí:
Tạp chí Doanh nghiệp, số 38 tháng 9 năm 2007.
Tạp chí Doanh nghiệp, số 41 tháng 10 năm 2007.
Tạp chí Khoa học thương mại, số 17 tháng 11 năm 2007.
Tạp chí Sức khoẻ và đời sống, số 50 tháng 2 năm 2008.
Tạp chí Thương mại, số18 tháng 10 năm 2007.
II. Các trang web:
III. Giáo trình, sách tham khảo:
GS.TS. Phạm Mạnh Hùng - PGS.TS. Lê Ngọc Trọng - PGS.TS. Lê Văn Truyền - PGS.TS. Nguyễn Văn Thưởng, Sách Y tế Việt Nam trong quá trình đổi mới, Nxb Y học, 2006.
PGS.TS. Đặng Đình Đào - GS.TS. Hoàng Đức Thân, Giáo trình Kinh tế thương mại, Nxb Thống kê, 2003.
PGS.TS. Hoàng Minh Đường - PGS.TS. Nguyễn Thừa Lộc, Giáo trình Quản trị kinh doanh thương mại, Nxb Lao động xã hội, 2006.
PGS.TS. Lưu Thị Hương - PGS.TS. Vũ Duy Hào, Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Lao động, 2004.
PGS.TS. Phạm Thị Gái, Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh, Nxb Thống kê, 2004.
PGS.TS. Trần Minh Đạo, Giáo trình Marketing căn bản, Nxb Giáo dục, 2002.
IV. Tài liệu của công ty:
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh qua các năm (2005-2007).
Bảng cân đối kế toán qua các năm (2005-2007).
Bảng tiền lương của công ty qua các năm (2005-2007).
Tình hình nộp thuế của công ty qua các năm (2005-2007).
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập, được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn, các thầy cô giáo trong khoa Thương Mại, các cô chú và anh chị trong công ty, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Qua đây, em muốn gửi lời trân trọng cảm ơn đến thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn, các thầy cô giáo trong khoa Thương mại cùng toàn thể các cô chú, anh chị trong công ty TNHH Dược phẩm Tân Đức Minh đã giúp đỡ em trong suốt thời gian qua.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11545.doc