Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả thẩm định dự án đầu tư tại NHCT Hải Dương

Cho vay dự án đem lại nguồn lợi tức lớn, chủ yếu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Nhưng để cho vay an toàn, hiệu quả thì không đơn giản. Nó cần một khâu thẩm định đầy đủ chi tiết chính xác khách quan cũng như các điều kiện vĩ mô thuận lợi. Trong khuôn khổ của bản chuyên đề này em chỉ xin đưa ra những vấn đề chung nhất và một số suy nghĩ của em để có thể hy vọng góp phần vào việc hoàn thiện công tác thẩm định dự án của Ngân hàng Công thương Hải Dương.

doc85 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 784 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả thẩm định dự án đầu tư tại NHCT Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ dự tính của dự án sau này có độ chính xác cao. V. thẩm định phương diện kinh tế tài chính. Dự toán và nguồn vốn đầu tư Từ hoạt động thẩm định của phương diện kỹ thuật cũng như mặt thị trường, nhân lực cho ta một con số tổng quát về vốn đầu tư của dự án đóng mới 2 sà lan boong nổi 400 tấn/1 sà lan và 1 đầu máy đẩy công suất 180 cv như sau: - Tổng dự toán theo quyết định phê duyệt: 1.900.000.000đ - Tổng dự toán sau khi thẩm định: 1.900.000.000đ - Nguồn vốn đầu tư: + Vốn tự có: 1.200.000.000đ chiếm tỷ lệ 63,2% + Vốn huy động: 0 + Vốn vay: 700.000.000đ chiếm 36,8% Nội dung đầu tư: - 2 sà lan: 800 tấn * 2.000.000đ/tấn = 1.600.000.000đ - 1 đầu máy đẩy: 300.000.000đ 3. Danh muc đầu tư: Bảng danh mục đầu tư (tính cho 1 sà lan): Số TT Hạng mục chi phí Thành tiền I Chi phí trực tiếp 1 Vật tư thiết bị 579.955.000 2 Nhân công 63.000.000 3 Điện năng 31.600.000 II Chi phí chung 29.343.000 III Thu nhập chịu thuế tính trước 24.508.000 IV VAT (5%) 35.194.000 V Chi phí khác 36.400.000 Tổng cộng 800.000.000 Vậy tổng vốn đầu tư: 800 * 2 + 300 = 1.900 (triệu đồng) Bảng tổng hợp vật tư thiết bị sà lan boong nổi 400 tấn (trong hợp đồng kinh tế). 4. Tính toán hiệu quả kinh tế vốn đầu tư a. Tính toán doanh thu: Doanh thu của Công ty tính trên cơ sở sau: - Hợp đồng kinh tế đã ký với Công ty than Tây Bắc – Yên Bái. - Tính trên thời gian khai thác có hiệu quả các hợp đồng, trên nguyên tắc thuê theo đơn giá cố định. - Qua khảo sát thị trường: Thực tế Công ty đã ký hợp đồng vận chuyển với Công ty than Tây Bắc – Yên Bái với giá cước Tây Bắc 70.000đ/tấn. Do vậy tổng giá thành một năm cho thuê sẽ là: 800 tấn * 70.000đ/tấn * 2 chuyến/tháng * 9 tháng = 1.008.000.000đ (một năm kinh doanh 9 tháng, 3 tháng nghỉ mưa bão, bảo dưỡng tàu). Xác định chi phí hàng năm - Nhiên liệu + Lệ phí giao thông 39% doanh thu: 1.008.000.000đ * 39% = 393.120.000đ - Chi phí hao hụt hàng hoá: 1.008.000.000đ * 0,5% = 5.040.000đ - Chi phí khấu hao TSCĐ: 1.900.000.000/10 năm = 190.000.000đ - Chi phí sửa chữa, bảo dưỡng: 1.008.000.000 * 2% = 20.160.000đ - Chi phí mua bảo hiểm: = 28.000.000đ - Chi lương công nhân: 18 người * 800.000đ/người/tháng * 9 tháng = 129.600.000đ - Chi phí lương quản lý: 2 người * 600.000đ/người * 12 tháng = 14.400.000đ - Chi lương công nhân nghỉ 3 tháng mưa bão: 18 người * 500.000đ/người/tháng * 3 tháng = 27.000.000đ - Chi bến bãi: 800.000đ * 2 chuyến * 9 tháng = 14.400.000đ - Chi trả lãi ngân hàng: 700.000.000đ * 0,70%/tháng * 12 tháng = 58.800.000đ - Thuế các loại: 1.008.000.000đ * 2% = 20.160.000đ - Chi khác: = 9.880.000đ Tổng chi = 910.560.000đ c. Tính toán các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn - Lợi nhuận sau thuế hàng năm: 1.008.000 – 910.560.000 = 97.440.000đ. - Tỷ suất sinh lời hàng năm: 97.440.000/1.900.000.000 = 5,128421% - Điểm hoà vốn: 73%. - Thời gian hoàn vốn: 54 tháng. VI. Phương án cho vay, thu nợ 1. Phương án cho vay - Tổng số vốn cho vay: 700.000.000đ. - Lãi suất cho vay: 0,7%/tháng (được điều chỉnh khi lãi suất thị trường thay đổi). Cho vay theo tiến độ thực hiện dự án. 2. Dự án thu nợ: Thu nợ thành 18 kỳ (3 tháng 1 kỳ). * Nguồn trả nợ hàng quý: - Khấu hao TSCĐ: 190.000.000 * 36,8%/4 = 17.480.000đ - Lợi nhuận: 97.440.000 * 36,8%/4 = 8.964.480đ - Nguồn khác: 50.000.000/4 = 12.500.000đ Tổng cộng: 38.944.480đ * Thời gian cho vay: 60 tháng - Thời gian thu nợ: 54 tháng - Thời gian ân hạn: 6 tháng C_ Thẩm định biện pháp bảo đảm tiền vay - Hình thức bảo đảm tiền vay: Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3. - Loại tài sản đảm bảo: quyền sử dụng đất và nhà, các tài sản xây dựng trên đất. - Giấy tờ pháp lý: Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 380, 10, 38 do UBND thị xã cấp. - Tình trạng tài sản: đảm bảo. - Định giá tài sản: 990.000.000đ. Như vậy qua các mục A, B, C ta thấy rằng Công ty đã đáp ứng được điều kiện đủ để ngân hàng cho vay. Phần II: Kết luận- Đề xuất Hồ sơ pháp lý - Quyết định phê duyệt dự án đóng mới đoàn tàu thuỷ nội địa ngày 20/05/2002 của Chủ tichu HĐQT Công ty TNHH vận tải thuỷ Hưng Thịnh. - Hợp đồng kinh tế số 08/HĐ-KINH Tế về việc đóng mới sà lan boong nổi 400 tấn (giữa Công ty và Xí nghiệp cơ khí thủy HOạT đẫNG). - Dự án đóng mới tàu đoàn thuỷ nội địa Tỷ lệ vốn tự có tham gia vào dự án: 1.200.000.000/1.900.000.000 = 63,2% Các rủi ro có thể xảy ra và biện pháp phòng ngừa: - Các rủi ro có thể xảy ra: tai nạn giao thông, gió bão. - Biện pháp phòng ngừa: Công ty đã chủ động mua bảo hiểm, tiến hành trích lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh khác để có thể trả nợ cho ngân hàng. Hơn nữa, trong một năm Công ty chỉ làm việc 9 tháng, còn 3 tháng nghỉ tránh mưa bão, bảo dưỡng tàu. Lợi ích kinh tế- xã hội - Đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá bằng đường thuỷ giữa các vùng đẩy mạnh phát triển kinh tế giưã các vùng. - Tạo thêm công việc thường xuyên cho 18 lao động. - Đóng góp thêm cho Ngân sách Nhà nước. Kết luận: Qua phân tích cho thấy: Công ty có đủ tư cách pháp nhân, hồ sơ pháp lý đầy đủ, có kinh nghiệm và việc vận chuyển hàng hoá bằng đường thuỷ. Công ty có tình hình tài chính lành mạnh, đội ngũ lãnh đạo có trình độ, kinh nghiệm trong việc vận chuyển hàng hoá bằng đường thuỷ, có hợp đồng thuê tàu. Sổ sách theo kế toán theo dõi tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính đúng chế độ kế toán của Nhà nước. Đội ngũ lao động có kinh nghiệm trong công việc. Dự án xó tính khả thi, hiệu quả. Công ty có khả năng trả vốn vay ngân hàng. Đề xuất của cán bộ tín dụng: cho vay. III. Đánh giá hiệu quả thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Công thương Hải Dương. Những kết quả thu được từ công tác thẩm định dự án đầu tư. Một là: Khâu tổ chức, cán bộ thực hiện. Mỗi một dự án đều do một người trực tiếp chịu trách nhiệm chính với sự trợ giúp của các cán bộ khác của Phòng kinh doanh, của giám đốc để đảm bảo tính khách quan, hạn chế sai sót có thể xảy ra. Những người thẩm định đều có trình độ, năng động, kinh nghiệm, nhiệt tình. Hơn nữa họ luôn được ngân hàng tạo điều kiện bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghiệp vụ. Hai là: Nội dung và phương pháp thực hiện. - Các nội dung thẩm định đầy đủ (cả lý thuyết lẫn thực tế) về mặt pháp lý, thị trường, kỹ thuật, hiệu quả kinh tế-tài chính và chi tiết thành các khoản mục: Doanh thu, chi phí, lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn, NPV, IRR, dựa vào thông tin do khách hàng cung cấp để ngân hàng đánh giá cho kết quả cuối cùng. - Cán bộ ngân hàng đã có những quan hệ tốt, rộng rãi với các cơ quan, khách hàng đối tác của mình, của khách hàng để kiểm nghiệm thông tin, thu thập thông tin toàn diện cho công tác thẩm định. - Trong quá trình giải ngân, cán bộ tín dụng thường xuyên theo dõi, kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng tránh sai sót khách quan lẫn chủ quan và cả những hoạt động giám sát sau này, khi dự án đi vào thực hiện. - Nhờ những điểm trên mà lượng vốn cung ứng của ngân hàng đã không ngừng tăng lên, mà nợ quá hạn lại giảm dần. Những hạn chế trong hoạt động Thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng. -Một là: Theo phần phân tích về công tác tín dụng của ngân hàng. Cho vay đối với DNNN chiếm tỷ trọng lớn (trên 90%), hơn nữa cho vay dự án dài hạn đều tập trung ở khu vực này. Như vậy cán bộ tín dụng, thẩm định chỉ có ít kinh nghiệm đối với “ khoảng trống” còn lại, họ khó khăn hơn trong việc hoàn thiện kỹ năng cũng như kinh nghiệm, thẩm định dự án đầu tư. Như chúng ta đều biết DNNN chỉ cần có lãi trong hai năm gần đây, dự án khả thi đã là “con mồi” béo bở để các NHQD cạnh tranh nhau trong việc cho vay. Khi cho vay được rồi trong quá trình kiểm soát nguồn vốn, ngân hanàg muốn “xin” nắm tình hình sử dụng vốn thì doanh nghiệp viện lý do “bận”, chưa lập báo cáo tài chính, hoặc chưa được cấp trên duyệt. để từ chối Nếu Ngân hàng làm “căng” quá thì DNNN này đi vay ngân hàng khác ngay. Vì đặc điểm này, không những làm hạn chế tính khách quan, lẫn chủ quan trong thẩm định cho vay của chi nhánh. - Hai là: Từ đặc điểm trên, ngân hàng “tin tưởng” vào DNNN, có xem xét, thẩm định các mặt pháp lý, tài chính, tình hình kinh doanh, nhưng còn hơi sơ sài. - Ba là: Kiểm tra các thông tin. + Ngân hàng chưa vận dụng triệt để các thông tin rất quý báu về tính chất pháp lý, tài chính thông qua sở KHĐT, cục thuế, Sở tài chính vật giá. Vì đây là những nơi doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp báo cáo thường xuyên. Mà thực tế “mục tiêu”, “ý nghĩa” các bản báo cáo đó nhiều khi khác hẳn, mâu thuẫn hẳn với báo cáo tài chính nộp cho ngân hàng. + Liên hệ thực tế tại cơ sở doanh nghiệp còn ít. - Bốn là: Thẩm định phương diện kỹ thuật: Hoàn toàn phụ thuộc vào thông tin do doanh nghiệp cung cấp, chưa tiến hành thông tin tư vấn kỹ thuật một cách khách quan, độc lập (không để cho doanh nghiệp vay biết ai là nhà tư vấn kỹ thuật). Hơn nữa, về vận hành thực tế của công nghệ, thiết bị mới cán bộ ngân hàng còn hiểu biết còn hạn chế. Những mặt hạn chế trên do những nguyên nhân sau: +Về khách quan: - Một là: nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong tỉnh chưa làm ăn có hiệu quả cao, có thì thất thường, cơ cấu tổ chức lỏng lẻo, đội ngũ cán bộ công nhân viên còn thiếu kinh nghiệm, hình thức kinh doanh, chụp giật (bóp chẹt, lừa đảo khách hàng), rồi mua bán hoá đơn, khai khống doanh thu để chiếm đoạt VAT còn phổ biến, hơn nữa họ đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu sự đảm bảo cả về tính pháp lý cũng như tài sản đảm bảo. Bên cạnh đó, những chính sách của Nhà nước còn chưa khuyến khích, ưu tiên phát triển kinh tế ngoài quốc doanh. Ví dụ 1 sau sẽ thấy: DNNN thì khi bán được hàng hoá, chưa thu được tiền, gọi là doanh thu nhưng phần thuế doanh thu (nay là VAT) và thuế thu nhập doanh nghiệp chênh lệch đó có thể được hoãn nộp bình thường, dù chưa thu được tiền, nhiều khi khiến họ phải đi vay để mà nộp thuế. Ví dụ 2: Chưa có quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (mới ban hành NĐ 90/2001 cuối năm 2001). Trong khi DNNN có lực lượng hỗ trợ hùng mạnh là Nhà nước, các cơ quan khác. - Hai là: Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các NHQD với nhau làm giảm hiệu quả thẩm định dự án và cả kiểm soát sau vay (như đã nêu ở phần hạn chế). - Ba là: Các văn bản của Chính phủ, Bộ, Ngành, NHNN thay đổi rất nhanh, bất thường, lại chồng chéo nên làm cho ngân hàng không biết tuân theo chính sách nào? Khi nào? Hạn chế tính chủ động khi cho vay. Bên cạnh đó là sự điều hành chặt chẽ mọi mặt từ chính sách huy động, đến cho vay của Ngân hàng Công thương Việt Nam. - Bốn là: Thị trường mua bán nợ, Công ty xử lý tài sản nợ tồn đọng chưa đi vào hoạt động hiệu quả nên làm giảm tính mạo hiểm của doanh nghiệp khi thẩm định cho vay vì “sợ” không đạt chỉ tiêu trên giao. -Năm là: Các chuẩn mực kế toán, kiểm toán, chuẩn mực các chỉ tiêu báo cáo tài chính các ngành kinh tết, loại hình doanh nghiệp chưa đầy đủ thống nhất, nên cũng gây khó khăn cho ngân hàng khi thẩm định báo cáo tài chính của ngân hàng, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiêm và thẩm định còn đơn giản. * Về chủ quan: - Một là: Từ các nguyên nhân khách quan đã ảnh hưởng đến suy nghĩ, hành động của ngân hàng, của cán bộ thẩm định. - Hai là: Các cán bộ Ngân hàng không thể nào theo kịp các chính sách, văn bản của các cơ quan Nhà nước khi liên tục sửa đổi, ra mới chồng chéo. - Ba là: Bên cạnh đó hệ thống thông tin của ngân hàng còn chưa được trang bị đầy đủ, chưa nối mạng nội bộ và cả nước, khai thác thông tin, bên ngoài còn hạn chế, mất nhiều thời gian và chi phí nên ảnh hưởng nhiều đến hoạt động đánh giá, thẩm định dự án. Và như trên đã đề cập: Ngân hàng chưa có quan hệ sâu rộng với các sở KHĐT, sở TC, cục thuế, viện kiểm soát, toà án ND nên chưa tận dụng được các nguồn thông tin. - Bốn là: Chưa có điều kiện, khả năng thẩm định khách hàng đầy đủ, toàn diện về các mặt: + Cơ cấu tổ chức, nhân sự. + Marketing. + Tài chính. + Sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ. Qua việc phân tích trên, thẩm định dự án đầu tư của Công ty TNHH vận tải Hưng Thịnh cho ta thấy những kết quả đạt được cũng như hạn chế trong việc Thẩm định dự án đầu tư của Ngân hàng Công thương Hải Dương. Qua đó, để nhằm nâng cao hiệu quả của những mặt tích cực khắc phục những hạn chế còn tồn tại thì ngân hàng cần có những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện thêm công tác Thẩm định dự án đầu tư của mình. Chương III giải pháp nâng cao hiệu quả Thẩm Định dự án đầu tư tại ngân hàng công thương hải dương I. Phương hướng và nhiệm vụ công tác năm 2003 của Chi nhánh NHCT Hải Dương. Chi nhánh NHCT Hải Dương đề ra quyết tâm tiếp tục phát huy, giữ vững những thành tích đã đạt được và khắc phục những khó khăn, tồn tại trên các Để tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của chi nhánh trên các mặt công tác cũng như trong công tác kinh doanh của chi nhánh, kết thúc năm 2002, dựa vào những kết quả kinh doanh đã đạt được và kế hoạch phát triển hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống cũng như của chi nhánh, dựa vào dự án phát triển kinh tế tỉnh Hải dương đến năm 2005 đồng thời tiếp thu 8 định hướng trọng tâm của chủ tịch HĐQT- NHCT Việt Nam, 12 giải pháp của Tổng Giám đốc NHCT Việt Nam chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kinh doanh năm 2003 và những năm tiếp theo... mặt công tác của năm 2002, tiếp tục thực hiện phương châm “ Phát triển- An toàn- Hiệu quả”, chi nhánh NHCT Hải Dương đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ đối với hoạt động cho vay như sau: “Trong năm tới, chi nhánh sẽ tiếp tục mở rộng đầu tư tín dụng đối với mọi TPKT, quan tâm đến với các DNNN hoạt động làm ăn có hiệu quả, tập trung cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động kinh doanh trên mọi lĩnh vực. Phấn đấu tăng trưởng dư nợ cho vay với tốc độ 25% so với năm 2002 từ 440 tỉ lên 550 tỉ đồng, trong đó cho vay trung và dài hạn chiếm tỉ trọng 40% trong tổng dư nợ. Quan tâm và tìm mọi biện pháp tăng dư nợ cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh “. Chi nhánh đặt chỉ tiêu duy trì tỉ trọng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở mức 85% trong tổng dư nợ cho vay. * Định hướng về công tác thẩm định dự án đầu tư: Trong năm tới chi nhánh sẽ chú trọng các biện pháp nhằm duy trì quan hệ tín dụng với các khách hàng cũ, phát triển khách hàng mới, tìm kiếm các dự án đầu tư có hiệu quả để đầu tư, mặt khác Chi nhánh cũng chú trọng phát triển đào tạo, nâng cao năng lực, nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ tín dụng nhằm thực hiện tốt công tác thẩm định dự án đầu tư, đem lại các dự án có hiệu quả cao. Để đạt được các chỉ tiêu kế hoạch do NHCT Việt Nam và phương hướng nhiệm vụ kinh doanh của Chi nhánh, Chi nhánh cần thực hiện tốt một số giải pháp dưới đây. II. giải pháp Thực tế, công tác thẩm định dự án đầu tư của Chi nhánh chỉ có thể đạt hiệu quả hơn nếu những khó khăn hạn chế được khắc phục bằng chính những nỗ lực Ngân hàng. Ngân hàng phải là người chủ động trong việc khắc phục những khó khăn và hạn chế đang gặp phải, thông qua một số giải pháp sau: 1. Thu thập kịp thời, đầy đủ, chính xác các thông tin Hiệu quả thẩm định dự án đầu tư phụ thuộc rất lớn vào nguồn thông tin từ doanh nghiệp cung cấp cũng như do cán bộ thẩm định thu thập được. Tuy nhiên công tác thông tin tín dụng, phòng chống rủi ro trong hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam hiện nay còn nhiều sơ hở, yếu kém. Do vậy các Ngân hàng Thương mại thường bị động, lúng túng do thiếu thông tin trước những thay đổi về chủ trương, chính sách, những biến động khác thường trong và ngoài ngành cũng như thông tin về các doanh nghiệp đến vay vốn. Để khắc phục tình trạng này, nâng cao chất lượng thông tin là việc làm hết sức cấp bách, thông qua một số biện pháp sau: 1.1. Thu thập đầy đủ thông tin về khách hàng Hiện nay, ngoài những hồ sơ tài liệu theo quy định do doanh nghiệp gửi đến để vay vốn, Chi nhánh cũng có gặp gỡ khách hàng xin vay vốn và trực tiếp đến cơ sở sản xuất kinh doanh. Song muốn thu thập thêm thông tin một cách chính xác và hiệu quả nhất, Chi nhánh cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và thực hiện chúng một cách kỹ lưỡng, bằng cách. - Tổ chức những buổi trực tiếp phỏng vấn và thảo luận với khách hàng. Nhờ việc tổ chức những buổi phỏng vấn. Ngân hàng có thể thu thập được những thông tin khác không hề có trong hồ sơ xin vay hay báo cáo tài chính, nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp. Cũng qua đó, Ngân hàng yêu cầu chủ dự án đầu tư giải thích về các vấn đề còn chưa rõ ràng hoặc có mâu thuẫn trong hồ sơ vay vốn. Nhờ vào tính linh hoạt của cuộc phỏng vấn, công tác chuẩn bị, tổ chức các buổi phỏng vấn có thật sự chu đáo và nghiêm túc hay không mà lượng thông tin Ngân hàng thu thập được từ phía doanh nghiệp mới dồi dào và có chất lượng. - Việc điều tra trực tiếp doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là một cuộc phỏng vấn. Bên cạnh đó, cán bộ thẩm định phải kết hợp với việc thăm quan cơ sở sản xuất, văn phòng làm việc và điều tra năng lực sản xuất. Muốn thực hiện tốt công việc này, cần thiết phải soạn thảo một phiếu điều tra chi tiết bao gồm thứ tự, nội dung công việc cần hỏi; kết hợp với kỹ năng quan sát, giao tiếp cởi mở, tạo bầu không khí thoải mái và quan trọng nhất là việc đặt ra các câu hỏi để khuyến khích được khách hàng nói chuyện, từ đó khai thác được những thông tin bổ ích. - Để đảm bảo những thông tin về doanh nghiệp là chính xác, cán bộ thẩm định còn có thể thu thập thông tin từ những nguồn bên ngoài, từ các cơ quan hữu quan, các chuyên gia kỹ thuật, các đối tác làm ăn (cung cấp hoặc tiêu thụ sản phẩm) của doanh nghiệp, bản thân cán bộ công nhân viên của cơ sở và các văn bản có liên quan khác.: + Các thông tin từ trung tâm phòng ngừa rủi ro, về tình hình thanh toán, tình hình tài chính, các mối quan hệ làm ăn, khó khăn trong quá khứ và hiện tại về doanh nghiệp. - Các thông tin từ điều tra bạn hàng của doanh nghiệp (để có thông tin về sản phẩm của doanh nghiệp), những doanh nghiệp có sản phẩm cùng loại với sản phẩm của dự án, thông tin từ các cơ quan chủ quản ngành sản xuất kinh doanh của dự án. - Thông tin từ các Công ty kế toán, kiểm toán, Công ty tư vấn, các ngân hàng đã có quan hệ tín dụng với doanh nghiệp. - Tham khảo các tài liệu, chủ trương chính sách của nhà nước, thông tin trên các phương tiện đại chúng liên quan đến dự án. - Mặc dù Ngân hàng có thể thu thập thông tin từ khách hàng vay vốn rất nhiều nguồn khác nhau, cả trực tiếp và gián tiếp, song nguồn thông tin đầy đủ, chính xác nhất, do đã dược kiểm nghiệm thực tế qua một thời gian dài vay vốn, trả nợ, được thiết lập trên cơ sở một mối quan hệ bạn hàng lâu dài và sâu rộng giữa Ngân hàng và doanh nghiệp. Công việc cho vay của ngân hàng sẽ dễ dàng hơn nếu doanh nghiệp là một khách hàng lâu năm, đã từng vay vốn của Ngân hàng. Với những khách hàng này, Ngân hàng đã hiểu rõ và nắm được một lượng thông tin tương đối về họ, do vậy Ngân hàng giảm được những chi phí cho việc thu thập và xử lý thông tin. Nhất là khi doanh nghiệp và Ngân hàng đã tin tưởng nhau thì doanh nghiệp sẽ cung cấp cho Ngân hàng những thông tin có độ tin cậy cao. 1.2. Thiết lập một hệ thống thu thập, lưu trữ thông tin thường xuyên cho bản thân chi nhánh Hiện nay, hệ thống Ngân hàng công thương đã có phòng thông tin và phòng ngừa rủi ro, tuy nhiên vị trí và chức năng còn mờ nhạt chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho toàn hệ thống nói chung và hoạt động thẩm định nói riêng. Do vậy, thiết nghĩ Chi nhánh nên thiết lập một hệ thống thu thập, xử lý và lưu trữ thông tin riêng. Thông tin không chỉ từ nguồn báo chí, văn bản pháp quy như hiện nay mà có thể khai thác nguồn thông tin nội bộ, đồng thời xây dựng một bộ phận chuyên nghiên cứu dự báo thông tin phục vụ trực tiếp cho Chi nhánh. Giữa các phòng ban với nhau và hệ thống này cần có sự trao đổi thông tin đa chiều và không định kỳ khi có nhu cầu (thay vì một chiều và định kỳ hiện nay), đặc biệt giữa phòng nguồn vốn , phòng kế toán, các phòng tín dụng và phòng thẩm định. Khi có một khách hàng vay vốn tại Chi nhánh thì tài khoản và tất cả các khoản thanh toán qua Ngân hàng đều phải được theo dõi thường xuyên bởi phòng kế toán, song cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định trực tiếp giao dịch với khách hàng cũng cần nắm được các thông tin này. Các cán bộ thẩm định và cán bộ tín dụng ngoài việc chủ động khai thác thông tin từ các nguồn bên ngoài sẽ coi trung tâm thông tin của Chi nhánh làm một nguồn đáng tin cậy có thể đáp ứng nhanh chóng các yêu cầu phát sinh cũng như nhận và lưu trữ thông tin từ họ. 1.3 Đa dạng hoá các nguồn cung cấp thông tin Đồng thời với việc phát triển hệ thống thông tin. Chi nhánh cũng cần đa dạng hoá các nguồn cung cấp thông tin . Ngay nay, một khối lượng khổng lồ thông tin thuộc đủ mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong nước và quốc tế đang được cập nhật hàng ngày trên các xa lộ thông tin. Qua mạng Internet và ngay cả các mạng thông tin trong nước đều có những nguồn thông tin rất đa dạng và tiện dụng. Chi nhánh cần nhanh chóng giao cho một bộ phận khai thác và phân phối thông tin cho toàn bộ các phòng ban. Chi nhánh cần thiết phải xây dựng được một mối quan hệ thường xuyên với các bộ, ngành, với ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại khác nhằm trao đổi thông tin cần thiết trong lĩnh vực kinh tế - xã hội , kể cả những thông tin kinh nghiệm, kỹ năng qui trình nghiệp vụ thẩm định. Có thể nói trao đổi thông tin giữa các ngân hàng thương mại là tương đối khó khăn bởi thông tin là một thứ vũ khí cạnh tranh vô cùng lợi hại. Song điều đó là cần thiết, nhất là giữa các ngân hàng quốc doanh vì nó đem lại lợi ích cho các bên trong các trường hợp như trao đổi tổng kết kinh nghiệm, tránh những khoản vay đảo nợ hay rủi ro thế chấp cùng một tài sản tại nhiều ngân hàng , thông báo về các dự án cùng loại đang được thẩm định tại các ngân hàng và đặc biệt là khi các ngân hàng tham gia đồng tài trợ cho một dự án. Để đảm bảo việc cung cấp thông tin có chất lượng cao cho hoạt động thẩm định, trong các trường hợp đặc biệt cần thiết ngân hàng nên tính đến việc mua các thông tin. Những thông tin quan trọng mang tính chuyên môn cao và không có mua sẵn như thông tin công nghệ kỹ thuật, các phân tính đánh giá thị trường, điều kiện tự nhiên xã hội,... có thể được cung cấp bởi những nguồn tin cậy nhưng chỉ khi ngân hàng chịu chi phí cho nó. Tuy nhiên những thông tin thu thập từ các công ty kinh doanh thông tin không được phân tích hay cung cấp các lời khuyên. Thông tin đó chỉ được mang tính chất thamkhảo và quyền quyết định phụ thuộc vào ngân hàng. Cũng như là mua thông tin, ngân hàng có thể đặt hàng thuê các chuyên gia, các công ty tư vấn trong và ngoài nước góp ý kiến, tham gia phân tích cthẩm định dự án hay thực hiện những nghiên cứu chuyên sâu có liên quan. Việc thuê này sẽ là cần thiết nhất là khi hoạt động của dự án bao trù mọi ngành kinh tế - xã hội , mọi lĩnh vực chuyên môn, kỹ thuật khác nhau (mặc dù đã có sự tham gia của những cơ quan tổ chức chuyên môn trong quá trình lập dự án) 2. Hoàn thiện hơn nữa hội dung và phương pháp thẩm định Có thể nói, việc thẩm định toàn diện mọi nội dung của dự án là cơ sở quảntọng nhất cho việc ra quyết định đầu tư một cách chính xác , khách quan. Mọi nội dung của dự án đều có mối liên quan mật thiết với nhau. Chẳng hạn , kết quả thẩm định về thị trường là cơ sở để đánh giá lựa chọn kỹ thuật, qui mô sản xuất của dự án (vì thị trường là nơi quyết định khả năng tiêu thụ cảu dự án) còn kết quả thẩm định về mặt kỹ thuật lại là có cơ sở để xác định hiệu quả tài chính , là cơ sở để đánh giá lợi ích kinh tế xã hội của dự án. Chi nhánh cần xác định một phương pháp thẩm định khoa học, kết hợp với kinh nghiệm quảnlý thực tiễn và các nguồn thông tin đáng tin cậy * Khi phân tích nguồn vốn đầu tư Cán bộ thẩm định cần tích cực tìm hiểu, lưu trữ các thông tin của các dự án đầu tư có hiệu quả cao làm cơ sở kiểm tra thẩm định nguồn vốn xây dựng. Nhất là vốn mua thiết bị, các chi phí liên qua, tránh việc tính thừa hay tính thiếu nguồn vốn đầu tư. Ngân hàng nên tính ra nguồn vốn đầu tư theo ngân hàng là hợp lý để so sánh với tổng vốn đầu tư của dự án, tổng mức vốn giai đoạn chuẩn bị đầu tư, mức vốn đầu tư phân bổ cho từng hạng mục xây lắp, thiết bị, kiến thiết cơ bản khác và dự phòng của dự án. Để dự tính nguồn vốn đầu tư chính xác, ngân hàng cần chú ý phân tích các yếu tố lạm phát, tỷ giá hối đoái (đối với những dự án có nhập khẩu máy móc thiết bị từ nước ngoài) nhất là đối với dự án gồm những hạng mục đầu tư kéo dài trong nhiều năm. * Với những mặt thẩm định kỹ thuật, môi trường, thị trường .... của dự án nếu Chi nhánh không có điều kiện để thẩm định một cách kỹ càng nên thuê những công ty chuyên gia về thẩm định, không nên bỏ qua hoặc thẩm định sơ sài bất cứ mặt nào của dự án. Sở dĩ ngân hàng cần chú ý thích đáng tới công tác thẩm định công nghệ kỹ thuật, vì Việt Nam đang có nhu càu lớn về việc chuyển giao các công nghệ hiện đại từ nước ngoài để thay thế những công nghệ đã quá lạc hậu trong nước Những công nghệ thải ra của nước ngoài có khi vẫn hiện đại hơn so với công nghệ hiện có tại Việt Nam. Thế nhưng nhiều cán bộ thẩm định do không có thông tin về tiến bộ, khoa học kỹ thuật ở khu vực và trên thế giới , chỉ dựa trên tính ưu việt so với công nghệ trong nước mà tính toán hiệu quả do vậy không lường trước được áp lực cạnh tranh về giá cả, chất lượng của sản phẩm ngoại nhập được sản xuất từ những công nghệ hiện đại hơn. Về mặt thị trường, theo xu hướng phát triển chung, ngân hàng nên chỉ nghĩ đến việc áp dụng các mô hình kinh tế lượng dự báo khả năng tiêu thụ, khả năng phát triển (dưới dạng các phần mềm máy tính) cho những dự án quan trọng. * Xác định khả năng trả nợ Khi thẩm định dự án đầu tư, ngân hàng rất quan tâm khi nào thì doanh nghiệp có tiền để trả nợ. Đây là nguồn tiền mặt chứ không phải là tiền lấy từ kế hoạch KHTSCĐ hay lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp , bởi đó chỉ là những số liệu trong sổ sách kế toán mà thôi . Do vậy cần tiêu chuẩn hoá quan điểm : nguồn trả nợ duy nhất của ngân hàng là dòng tiền mặt. Từ đó những số liệu mà ngân hàng cần quan tâm là tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp và căn cứ lập kế hoạch trả nợ cần phải dựa vào chu kỳ tiền mặt của doanh nghiệp. Phân tích đánh giá tình trạng tiền mặt trong suốt quá trình hoạt động của dự án giúp cho việc xem xét liệu vốn tự có và các khoản vay dài hạn có thích hợp với những điều kiện vay trả đã ký kết trong hợp đồng tín dụng hay không/ Liệu sự thiếu hụt tiền mặt có xảy ra không và nếu xảy ra thì sẽ được giải quyết như thế nào? Tốt nhất là phân tích khả năng thanh toán của dự án trong từng năm và với giá cả hiện hành. Năm nào doanh nghiệp có nguồn thu tiền mặt lớn thì năm đó trả nợ nhiềuhơn. Những năm dự án đem lại lợi nhuận âm thì ngân hàng phải tính đến việc khấu trừ khoản đó khỏi nguồn trả nợ, nếu doanh nghiệp không chắc chắn huy động được nguồn khác thay thế. Nếu về lâu dài, thực sự dự án đem lại hiệu quả thì ngân hàng có thể đề nghị hỗ trợ doanh nghiệp trả nợ năm đó, đề nghị ngân hàng miễn giảm thuế hoặc ngân hàng có thể bố trí cho vay ngắn hạn nếu cần. Cần nhận thức được rằng, nếu dự án thực sự có hiệu quả thì chắc chắn sẽ trả được nợ, vấn đề chỉ còn là thời gian thế nào cho hợp lý. Ngân hàng không nên chỉ phụ thuộc cứng nhắc vàonguồn vốn của mình về thời hạn và tính chất (thực tế ngân hàng không hề thiếu vốn cho vay đối với các thời hạn), vì như vậy sẽ gây khó khăn cho những khách hàng và những dự án làm ăn có hiệu quả về tài chính kinh tế xã hội lâu dài nhưng thiếu nguồn trả nợ trước mắt. Cán bộ thẩm định luôn quan tâm đến thời gian hoàn trả vốn vay của dự án. Vì vậy khi tính toán thời gian hoàn trả vốn vay dựa trên dòng tiền của dự án, cần quan tâm tới giá trị thời gian của tiền. Nếu tích luỹ kế nguồn trả nợ qua các năm thì phải đưa về cùng môt thời điểm , như vậy mới đem lại một kết quả chính xác về tính khả thì về mặt tài chính của dự án. * Việc tính toán và sử dụng các chỉ tiêu tài chính Các chỉ tiêu NPV, IRR phải được coi là những chỉ tiêu tổng hợp , cơ bản phản ánh hiệu quả, tính chất của dự án mà không thể không xét đến khi thẩm định. Từ đó ccs chỉ tiêu NPV, IRR cần thiết phải xây dựng 100% các dự án. - Việc sử dụng chỉ tiêu NPV trong thẩm định về mặt tài chính dự án đầu tư có nhiều ý nghĩa, cho ta quyết định có đầu tư vào dự án hay không. Song nhược điểm chính của phương pháp này là nó rất nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất chiết khấu và NPV sẽ không phải là một tiêu chuẩn tốt nếu không xác định được lãi suất chiết khấu hợp lý. Hiện nay ngân hàng thường lấy lãi suất cho vay dài hạn của ngân hàng làm lãi suất chiết khấu khi tính NPV của một dự án. Cách xác định này chỉ chính xác khi dự án có toàn bộ vốn đầu tư lấy từ nguồn vốn đi vay của ngân hàng. Nhưng đây là vấn đề không thể xảy ra vì theo quy định, bên chủ dự án phải có một số vốn nhất định tham gia vào dự án. Theo em , những dự án vay vốn với lãi suất 9%/năm thì có thể sử dụng LSCK 10%/năm (vì vốn vay ngân hàng thường chiếm tỷ trọng lớn, thường đến 80% tổng vốn đầu tư của dự án). Những dự án vay vốn theo kế hoạch Nhà nước với lãi suất 0,65%/tháng (hay 7,8%/năm) thì ngân hàng có thể sử dụng mức lãi suất chiết khấu là 9% để dễ tính toán và cũng không sai lệch là bao nhiêu. - Ngoài ra, các dòng chi phí và lợi ích của dự án đều được chiết khấu với một tỷ lệ chiết khấu như nhau, nhưng do những biến động về chi phí của từng loại vốn tham gia vào dự án qua các năm khác nhau nên ngân hàng có thể sử dụng các tỷ lệ chiết khấu thay đổi để phản ánh được sự thay đổi của các yếu tố ảnh hưởng đến dự án một cách kịp thời. ngân hàng cũng có thể tính NPV, IRR theo phương pháp có sử dụng tái đầu tư nguồn thu vào trong dự án hoặc sử dụng đầu tư vào phương án khác, để các chỉ tiêu này được chính xác hơn. * Phân tích độ nhạy của dự án Khi tính độ nhạy của dự án thì ngân hàng mới chỉ xem xét sự ảnh hưởng của các yếu tố cơ bản như giá nguyên vật liệu , giá bán sản phẩm, lạm phát.... đến các chỉ tiêu hiệu quả của dự án NPV, IRR. Tuy nhiên ngân hàng cần phải tính đến ảnh hưởng của những yếu tố khác như thuế, lãi vay, khấu hao, phương án trả nợ.... thay đổi thì nó ảnh hưởng như thế nào đến dự án. Ngân hàng cũng cần tính điểm tối đa hoặc tối thiểu mà các yếu tố này có thể đạt tới để dự án khả thi và trên cơ sở đó so sánh với thực tế để xem xét dự án có thực sự khả thi hay không? Khi có những biến đổi nhỏ của các yếu tố này thì tác động đến dự án lớn hay nhỏ? Dự án có mức biến động nhỏ thì càng bảo đảm an toàn và có tính khả thi cao. Tóm lại, chi nhánh cần kiểm tra, rà soát lại các chỉ tiêu tài chính đang áp dụng trong thẩm định dự án đầu tư để phát hiện ra những hạn chế và chuẩn hoá lại phương pháp và nội dung thẩm định tối ưu nhất hiện nay, đồng thời xử lý một cách linh hoạt theo tình hình thực tế của công việc. Có như vậy thì mới tránh được rủi ro do không thẩm định khâu này hay thẩm định sơ sài khâu kia, dẫn đến sai lệch trong quyết định đầu tư, gây ra thiệt hại cho ngân hàng. 3. Giải pháp về con người: Nâng cao trình độ cho các cán bộ làm công tác thẩm định Trong mọi công việc, con người luôn là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại, vì vậy ngân hàng cần có sự quan tầm đầu tư thường xuyên để xây dựng một đội ngũ cán bộ nhân viên (trực tiếp hoặc làm các công việc liên quan đến thẩm định) đủ về số lượng, tốt về chất lượng để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng khó khăn hơn của công việc. Hiện nay, tất cả các cán bộ thẩm định đều có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, được đào tạo chính quy chuyên sâu về một ngành kinh tế kỹ thuật nào đó, ngoài ra cũng nắm bắt được một cách bài bản các kiến thức về tài chính, Ngân hàng, kinh tế thị trường . Tuy nhiên, dù trình độ các cán bộ thẩm định của chi nhánh hiện nay nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu công việc, nhưng để thực hiện có hiệu quả công việc của mình thì cần phải tự nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học để có thể ứng dụng những chương trình phần mềm hiện đại vào việc thẩm định dự án. Ngoài ra họ cần phải biết rút kinh nghiệm sau mỗi lần thẩm định phải trực tiếp tham gia giám sát, quản lý tài chính dự án, bám sát với dự án mà mình đang đầu tư để có được hiệu quả thẩm định tốt nhất. Không chỉ có vậy, điều cần thiết khác mà mỗi người làm công tác thẩm định không thể thiếu là luôn đặt tinh thần trách nhiệm cũng như kỷ luật nghề nghiệp lên hàng đầu. Một cán bộ thẩm định với lòng nhiệt tình, sự tâm huyết với nghề sẽ có hướng giải quyết ổn thoả đối với những khó khăn của các khách hàng, phân tích kín kẽ, tư vấn những giải pháp khắc phục khó khăn.Từ đó vừa đảm bảo an toàn , vừa nâng cao uy tín của ngân hàng. Với mục đích nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định thì ngoài sự nỗ lực của bản thân môĩ cán bộ còn cần sự hỗ trợ của ngân hàng. - Ngân hàng tạo điều kiện cho cán bộ thẩm định đi học thêm để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; tổ chức các lớp nghiệp vụ ngắn ngày tập trung về hạch toán ké toán, quản trị kinh doanh, luật bảo hiểm, ngoại hối, thanh toán quốc tế..... Các văn bản tài liệu về qui trình nghiệp vụ, phương pháp thẩm định mới cần phải được cung cấp đầy đủ kịp thời đến từng cán bộ của chi nhánh. Các cán bộ chủ chốt có năng lực và triển vọng của ngân hàng cũng cần được tạo điều kiện tham dự các khoá học dài hạn trong và ngoài nước. - Ban lãnh đạo ngân hàng, hàng năm, nhận xét và đánh giá đối với từng cán bộ thẩm định, từ đó đặt kế hoạch bồi dưỡng hay thuyên chuyển cho phù hợp với yêu cầu công việc - Ban giám đốc, Ban kiểm soát cân xây dựng các quy chế kiểm tra, giám sát và các hình thức thưởng phạt hợp lý. Các chính sách đãi ngộ cũng cần được cụ thể hoá theo hướng tăng cường khuyến khích lợi ích vật chất và cơ hội thăng tiến để thúc đẩy ý thức trách nhiệm và tinh thần tự vươn lên của mỗi cá nhân. - Chi nhánh cần có chính sách thu hút và ưu đãi các chuyên gia giỏi để học về làm việc hoặc làm cộng tác viên, cố vấn cho Chi nhánh. - Chi nhánh cần khuyến khích các cá nhân chủ động đề xuất các ý kiến về nghiệp vụ thẩm định, về chính sách đối với cán bộ nhan viên. Tập hợp những đề xuất, sáng kiến, đề án nghiên cứu có giá trị để phổ biến và áp dụng, hoặc có sự giải thích rõ ràng tạo tâm lý, tình cảm tích cực trong cán bộ nhân viên khi có những bất bình hay kiến nghị. 4. Xây dựng chiến lược khách hàng: Khách hàng vừa là người cung cấp vốn cho Ngân hàng, vừa là người sử dụng nguồn vốn đó. Khách hàng là nhân tố cơ bản trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng . Do vây Chi nhánh NHCT Hải Dương phải xây dựng cho mình một chiến lược khách hàng hiệu quả qua những biện pháp sau: * Củng cố và phát triển khách hàng truyền thống: Sở dĩ Chi nhánh cần xây dựng cho mình một chính sách khách hàng truyền thống, vì việc thiết lạp một quan hệ bền vững giữa khách hàng và Ngân hàng quyết định tới sự tồn tại vật chất phát triển của Ngân hàng. Thông qua mối quan hệ lâu dài với khách hàng, bên cạnh việc duy trì được một quan hệ làm ăn ổn định, đây cũng là cách tốt nhất để thu thạp thông tin về khách hàng một cách chính xác đầy đủ và là cơ sở để Ngân hàng thực hiện tốt công tác thầm định dự án, tránh được những rủi ro đạo đức, kế hoạch hoá được nguồn vốn của mình, đáp ứng nhu cầu tín dụng trung và dài hạn. * Mở rộng chọn lọc đối với khách hàng mới: Chi nhánh nên tích cực bằng mọi biện pháp thu thút khách hàng để cho khép kín cả ngắn, trung và dài hạn với chu trình sản xuất. Đồng thời trên cơ sở thiết lập và nâng cao hiệu quả xử lý thông tin tín dụng. Chi nhánh mở rộng thị phần khách hàng bằng nhiều giải pháp cần thiết. Ngân hàng cũng cần quan tâm đến những doanh nghiệp ngoài quốc doanh bởi đây là một lực lượng khách hàng tiềm năng đang ngày càng lớn mạnh. Những dự án của doanh nghiệp thường có hiệu quả cao, thiết thực với đời sống và đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, đối với khách hàng mới, việc thẩm định sẽ có phần nào khó khăn hơn, tính rủi ro cao hơn nên Ngân hàng cần lưu ý. Thông qua chiến lược có chọn lọc khách hàng, Chi nhánh có thể quản lý khách hàng một cách sát thực hơn, chính xác hơn. Nhờ đó Chi nhánh có thể chủ đông trực tiếp tham gia vào những dự án mới của doanh nghiệp ngay từ giai đoạn đầu, không phải đợi một cách thụ đông đến lúc doanh nghiệp mang dự án đến xin vay. Đồng thời qua đó, Chi nhánh nắm rõ dự án ơn, giúp cho việc thẩm định được tiến hành nhanh chống, đơn giản và chính xác hơn. * Tư vấn giúp khách hàng nâng cao chất lượng soạn thảo dự án đầu tư: Một điều kiện quan trọng để Chi nhánh xét duyệt cho khách hàng vay vốn là phải có phương án, dự án đầu tư khả thi. đối với những doanh nghiệp cps kinh nghiệm thì việc xây dựng các dự án hay phương án vay vốn khả thi không phải là vấn đề quá phức tạp. Còn với những doanh nghiệp vừa và nhỏ hay doanh nghiệp tư nhân chưa có nhiều kinh nghiệm thì để xây dựng được một dự án khả thi là không dễ dàng. Nhiều dự án đưa đến Ngân hàng được lập sơ sài, tính toán theo kiểu thu chi đơn thuần, không phản ánh hết nội đung của dự án cũng như hiệu quả mà dự án sẽ đem lại. Vì vậy, việc lập dự án có hiệu quả, loại bỏ những dự án không có tính khả thi. Với cách làm này, Ngân hàng có thể chủ động tìm kiếm và khai thác những dự án có tính khả thi để ra quyết định cho vay. Đây cũng chính là điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng công tác thẩm định, đồng thời là lá chắn tốt nhất với những rủi ro từ phía khách hàng đối với hoạt động tín dụng của Ngân hàng. 5. Giải pháp về công tác thông tin điều hành: Thẩm định dự án đầu tư là tập hợp của rất nhiều hoạt động khác nhau có liên quan và liên hệ chặt chẽ với nhau. Do vậy việc sắp xếp, thông tin ra sao để kết hợp các hoạt động trong một tổng thể thống nhất, kế thừa, hỗ trợ cho nhau là một vấn đề cần quan tâm, xem xét. Bên cạnh đó, việc phân bổ chức năng phù hợp với mỗi cá nhân trong các hoạt động tác nghiệp sẽ tạo ra động lực, sức mạnh thông tin. Nói tóm lại, một cơ chế hoạt động phảo hội đủ hai tiêu chuẩn an toàn và hiệu quả. - Để đảm bảo tính hiệu quả, thông tin tín dụng, thẩm định cần phải được tinh giảm, gọn nhẹ đủ đảm bảo về số lượng và chất lượng để đáp ứng yêu cầu công việc. Sắp xếp phân công cán bộ cần căn cứ vào khả năng của mỗi người, từ đó phát huy tối đa trình độ kinh nghiệm, thế mạnh của mỗi cán bọ trong hoạt động thẩm định. Hoàn thiện hệ thống thông tin sao cho phối kết hợp chặt chẽ, hữu hiệu giữa thẩm định với tín dụng và các phòng ban khac, đảm bảo sự thống nhất về thông tin quản lý và hoạt động công tác thẩm định. - Về sự an toàn, cần thiết phải tạo ra một cơ chế kiểm tra giám sát tự nhiên thông qua quá trình hoạt động giữa các cá nhân, bộ phạn nhằm ngăn chặn các rủi ro, đặc biệt là rủi ro đạo đức. Bên cạnh việc kiện toàn lại bộ máy nhân sự, cơ chế hoạt động của công tác thẩm định, Chi nhánh cần tiếp tục hoàn chỉnh "Quy trình nghiệp vụ thẩm định dự án đầu tư"theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 mà Phòng thẩm định KTKT & TVĐT đang trực tiếp soạn thảo, lấy ý kiến của cán bộ và phòng ban khác để trình Ban lãnh đạo quyết định. Việc quyết định và hoàn thiện quy trình này là cần thiết, bởi vì công tác thẩm định luôn được thực hiện theo một trình tự, hay nói cách khác là theo các bước phân tích đánh giá. Mỗi nội dung thẩm định cho phép đánh giá một mặt cụ thể, tổng hợp các nội dung này được sự đánh giá toàn diện về dự án. Trong quy trình thẩm định dự án không thể cùng một lúc thẩm định được tất cả các nội dung mà phải thực hiện qua các bước, có thể kết quả này là cơ sở ở bước sau. Quy trình thẩm định phải được tiêu chuẩn hoá các bước, các thủ tục, đạt yêu cầu của Bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng thông qua việc tăng chất lượng dịch vụ, rút ngắn thời gian thẩm định và tư vấn hỗ trợ cho khách hàng. Một quy trình thẩm định khoa học, toàn diện, phương pháp thẩm định tiên tiến và cán bộ thẩm định tuân thủ đúng quy trình thì kết quả thẩm định sẽ tốt hơn và sát thực hơn. Việc thẩm định theo một trình tự khoa học còn liên kết được các cá nhân trong toàn ngân hàng, phát huy được mặt mạnh, hạn chế được mặt yếu của mỗi cá nhân đồng thời loại bỏ được những rủi ro vô ý cũng như cố ý và rút ngắn thời gian thẩm định. 6. Những giải pháp hỗ trợ thẩm định * Lập quỹ hỗ trợ cho việc thẩm định Cho đến nay, chưa có một Ngân hàng nào dùng các khoản chi phí trợ giúp trong quá trình thẩm định. Bởi vì Ngân hàng chưa tính đến việc bỏ chi phí để thu thập những thông tin có giá trị, nguồn thông tin mà Ngân hàng sử dụng đều là sẵn có, hoặc do khách hàng cung cấp; do Nhà nước quy định các tiêu chuẩn, chỉ tiêu kỹ thuật của ngành; hoặc do kinh nghiệm đúc kết từ những cán bộ có thâm niên trong nghề Ngay bản thân những người làm công tác thẩm định cũng nhận thức được sự cần thiết của những khoản chi phí hỗ trợ. Vì mặc dù còn lẻ tẻ, không thường xuyên song đã có những cuộc gặp gỡ tiếp xúc trực tiếp, đi thực tế tại các doanh nghiệp, đi thực thập và tìm hiểu thông tin cần đến chi phí. Việc thẩm định dự án đầu tư không phải chỉ một sớm một chiều, không chỉ hạn chế trong giai đoạn kiểm tra trước khi cho vay. Cán bộ thẩm định còn phải thường xuyên gặp gỡ, kiểm tra liên tục trong quá trình giải ngân vốn và xem xét doanh nghiệp sử dụng vốn vay có đúng mục đích và hiệ qủa hay không. Do vậy, Chi nhánh nên xem xét lập ra một quỹ riêng để chi phí cho hoạt động thẩm định dự án đầu tư. Nó góp phần làm giảm bớt khó khăn cho cán bộ khi tiến hành thẩm định, tạo điều kiện cho quá trình thẩm định thuận lợi hơn. Hỗ trợ về vật chất là rất thiết thực, nó không chỉ giúp cán bộ thẩm định có điều kiện công tác tốt hơn, có kinh phí cho việc đi thực tế tại các doanh nghiệp mà quỹ hỗ trợ còn có trách nhiệm khuyến khích vật chất, làm tăng tinh thần trách nhiệm của các cán bộ thẩm định với công việc của mình. Đi liền với hỗ trợ thì cũng gắn trách nhiệm của cán bộ thẩm định với các nhà dự án mà họ đang làm. Để thực hiện việc này thì cũng có nhiều cách như: Cho phép cán bộ thẩm định hưởng một khoản kinh phí khi tiến hành thẩm định một dự án khả thi - khoản này có thể là cố định. Hoặc một phương án khác là trích phần trăm từ giá trị hợp đồng khi món vay được thực hiện. Những hỗ trợ này trước mắt có thể làm tăng chi phí cho Ngân hàng, nhưng xét về lâu dài, đây chính là động lực thúc đẩy cho Ngân hàng phát triển. * Tổ chức quản lý sau thẩm định, đánh giá dự án đầu tư Các phòng Tín dụng tại Chi nhánh, thông qua việc theo dõi, giải quyết những vướng mắc trong quá trình cho vay, nên thực hiện đánh giá hiệu quả hoạt động của các dự án, so sánh với các ý kiến thẩm định trước đó, rút ra những thành công và những bất hợp lý trong quá trình thẩm định. Các bài học qua các dự án điển hình sẽ là cơ sở đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm cho những dự án sau, đồng thời qua đó mỗi cán bộ tham gia thẩm định sẽ hoàn thiện và nâng cao năng lực làm việc của mình. Chi nhánh nên thường xuyên kiểm soát quá trình bỏ vốn đầu tư, xem xét vòng luân chuyển vốn, vòng quay hàng tồn kho và nhu cầu vốn đầu tư cho từng giai đoạn, từng hạng mục từ đó sẽ có biện pháp giải ngân hợp lý, tránh lãng phí và ứ đọng vốn, đồng thời kiểm soát chủ đầu tư sử dụng vốn có mục đích không. Công tác đánh giá dự án sau khi đầu tư hiện nay tại hệ thống Ngân hàng công thương nói chung và Chi nhánh ngân hàng công thương Hải Dương nói riêng hầu như chưa thường xuyên, chỉ xảy ra đơn lẻ, tự phát. Do vậy, để đánh giá kết quả đạt được, phân tích các nguyên nhân thành công, thất bại trong công tác xét duyệt cho vay, tổng kết những bài học kinh nghiệm, tích luỹ những kiến thức để công tác thẩm định ngày một tốt hơn, thì cần phải chỉ đạo và phân công các phòng ban làm tốt chức năng này. III. kiến nghị 1. Kiến nghị với Chính phủ, cơ quan ngành, chính quyền địa phương. - Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình thành phần kinh tế thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước, khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển như nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã đề ra bằng các giải pháp cụ thể: Không phân biệt trong chính sách thuế, đưa quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ vào thực hiện nhanh chóng, hiệu quả tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận dễ dàng hơn với các ưu đãi theo luật khuyến khích đầu tư trong nước ( đã sửa đổi có hiệu lực1/1/99) nhưng do chính sách hành chính nhiều khe nên ít doanh nghiệp “với” tới được Chỉ khi doanh nghiệp ngoài quốc dân phát triển lành mạnh thì NH mới dám mạo hiểm. - Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách Nhà Nước + Các văn bản luật khi xây dựng trước tiên phải là không chồng chéo các cơ quan ngang quyền, thứ hai là phải có định hướng trước một thời gian dài cho luật đó, không thể thay đổi thường xuyên được. Thứ ba là chính xác toàn diện. Thứ tư là tính khả thi. + Các chính sách, thủ tục hành chính quá rườm rà, mâu thuẫn, không đồng bộ. - Ban hành đầy đủ các chuẩn mực kế toán, kiểm toán để các doanh nghiệp áp dụng một cách đồng bộ, thống nhấtm tiện lợi cho việc kiểm tra, kiểm soát của bộ tài chính, bộ KH-ĐTcũng như quá trình thẩm định của NH. Trước mắt quy định tất cả các doanh nghiệp Nhà Nước phải có kiểm toán độc lập trong hoạt động tài chính, kế toán dần tiến tới bắt buộc các loại hình doanh nghiệp. - Có hệ thống lương, thưởng phù hợp với các cán bộ NH nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng. 2. Kiến nghị đối với NHNN và NHCT Việt nam . 2.1. Ngân hàng Nhà Nước: - Thực hiện cải cách triệt để hệ thống ngân hàng thương mại: + Đổi mới, nâng cấp trang thiết bị như: máy tính, nối mạng nội bộ các NH, lắp đặt máy ATM các chương trình phần mềm quản lý hoạt động kinh doanh + Xử lý tài sản nợ tồn đọng. + Cơ cấu lại tổ chức hành chính, cán bộ: nhiều NH có quá nhiều cán bộ, có cơ cấu tổ chức cồng kềnh, không hiệu quả, công tác đào tạo gặp khó khăn do trình độ, năng lực tuổi tác cán bộ công nhân viên + Cấp thêm vốn cho NH - Tăng cường vai trò của trung tâm phòng ngừa rủi ro(IRR) và trung tâm thông tin tín dụng( CIC): + Mở rộng đối tượng thu thập, xử lý thông tin không chỉ doanh nghiệp Nhà Nước, doanh nghiệp lớn mà đa dạng tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo địa bàn chi nhánh của trung tâm( 90% doanh nghiệp ở Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ) thông tin phải đầy đủ các khía cạnh từ quản lý, marketing thị trườngđến tài chính. Kết hợp với các ban ngành như: Tổng cục thuế, tổng cục thống kê, bộ tài chính, uỷ ban kế hoạch,VCCI, hiệp hội doanh nghiệp, báo chí thông tin, các uỷ ban nhân dân tỉnhđể thu thập thông tin đó ban hành các chuẩn mực cho các chỉ tiêu hiệu quả trong phân tích tài chính( như NPV, IRR, BEP, lãi suất chiết khấu) cho từng ngành nghề ở Việt Nam. 2.2. Ngân hàng Công Thương Việt nam : - Nên phối hợp với ngân hàng thương mại khác như: Ngân hàng Đầu tư và phát triển, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng Chính sách cùng nhau hạn chế sự canh tranh không lành mạnh trong tín dụng cũng như trong hoạt động thẩm định để đoàn kết, chuẩn bị đối phó với những thách thức mà các ngân hàng sẽ gặp phải khi hiệp định thương mại Việt Mỹ có tác động lớn, Việt nam dự định gia nhập TWO vào 2005 và đặc biệt là khu vực mậu dịch tự do AFTA đang cận kề. - Chuyển hướng kinh doanh của hệ thống dần sang doanh nghiệp ngoài quốc doanh để tăng quy mô, tỷ trọng khách hàng đó, đem lại lợi nhuận cao hơn, chấp nhận rủi ro có chọn lọc, để hoàn thiện mình. Kết luận Cho vay dự án đem lại nguồn lợi tức lớn, chủ yếu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Nhưng để cho vay an toàn, hiệu quả thì không đơn giản. Nó cần một khâu thẩm định đầy đủ chi tiết chính xác khách quan cũng như các điều kiện vĩ mô thuận lợi. Trong khuôn khổ của bản chuyên đề này em chỉ xin đưa ra những vấn đề chung nhất và một số suy nghĩ của em để có thể hy vọng góp phần vào việc hoàn thiện công tác thẩm định dự án của Ngân hàng Công thương Hải Dương. Một lần nữa em xin cảm ơn giáo viên, TS. Nguyễn Thị Thu Thảo. Em cũng trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các cán bộ tại Ngân hàng, các thầy cô giáo khoa NH-TC đã hỗ trợ em trong quá trình hoàn thành bản chuyên đề này. Hải Dương, ngày 28 tháng 04 năm 2003 Sinh viên: Nguyễn Ngọc Bảo Tài liệu tham khảo Giáo trình tài chính doanh nghiệp. PGS-TS Lưu thị Hương Trường ĐH KTQD Hà Nội Quyết định dự toán vốn đầu tư. Phân tích kinh tế các dự án đầu tư. Nhà xuất bản thống kê Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính. F.S.Miskin- Nhà xuất bản chính trị quốc gia Nghiệp vụ ngân hàng thương mại. Edward Reed và Edward. K.Gill Các báo cáo tài chính của NHCT Hải Dương 2000-2003 Hồ sơ dự án mở rộng sản xuất kinh doanh Công ty TNHH vận tải Hưng Thịnh. Tạp chí luận văn tốt nghiệp khoa NH-TC khoá 40. Tạp chí ngân hàng các số năm 2001,2002. Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I: Tổng quan về thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Thương mại 3 I. Ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay dự án của ngân hàng thương mại 3 1. Khái niệm, vai trò và các nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại 3 1.1. Khái niệm, vai trò 3 1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM 4 2. Hoạt động tín dụng (cho vay) của NHTM 8 2.1. Khái niệm, vai trò 8 2.2. Phân loại 9 II. Dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại 10 1. Dự án đầu tư (DAĐT) 10 1.1. Khái niệm, đặc điểm 10 1.2. Chu trình của dự án đầu tư 11 2. Thẩm định dự án đầu tư 12 2.1. Khái niệm, vai trò 12 2.2. Quy trình thẩm định dự án đầu tư 13 2.3. Nội dung thẩm định dự án đầu tư 14 3. Hiệu quả thẩm định dự án đầu tư 29 Chương II: Thực trạng hoạt động thẩm định dự án các doanh nghiệp tại ngân hàng công thương Hải Dương 31 I. Khái quát về hoạt động kinh doanh của NHCT Hải Dương 31 1. Lịch sử hình thành và cơ cấu tổ chức 31 2. Khái quát tình hình hoạt động của NHCT Hải Dương 35 II. Thực trạng hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại NHTC Hải Dương 44 III. Đánh giá hiệu quả thẩm đ ịnh dự án đầu tư các doanh nghiệp tại ngân hàng công thương Hải Dương 57 1. Những kết quả thu được từ công tác thẩm định dự án đầu tư 57 2. Những hạn chế trong hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng 58 Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng công thương Hải Dương 62 I. Phương hướng 62 II. Giải pháp 63 1. Thu thập kịp thời đầy đủ chính xác các thông tin 63 1.1. Thu thập đầy đủ thông tin về khách hàng 63 1.2. Thiết lập hệ thống thu thập lưu trữ thông tin thường xuyên cho bản thân chi nhánh 65 1.3. Đa dạng hoá các nguồn cung cấp thông tin 66 2. Hoàn thiện hơn nữa nội dung và phương pháp thẩm định 67 3. Giải pháp về con người 71 4. Xây dựng chiến lược khách hàng 73 5. Giải pháp về công tác thông tin điều hành 75 6. Những giải pháp hỗ trợ thẩm định 76 III. Kiến nghị 78 1. Kiến nghị với Chính phủ, cơ quan ngành, chính quyền địa phương 78 2. Kiến nghị đối với NHNN và NHCT Việt Nam 79 Kết luận 81 Tài liệu tham khảo 82

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH334.doc
Tài liệu liên quan