Chuyên đề Giải pháp nâng cao hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam chi nhánh Hà Nội

Việc mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một tất yếu khách quan, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay. Nó không chỉ đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XNK mà nó còn đem lại thu nhập đáng kể cho NHTM. Không chỉ vậy, nó còn giúp cho các NHTM khẳng định được vị thế của mình trong hệ thống ngân hàng quốc gia, cũng như hệ thống ngân hàng quốc tế. Việc nguyên cứu giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại EIB Hà Nội là một vấn đề phức tạp. Tuy nhiên, sau một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu, chuyên đề đã hoàn thành một số công việc như sau: - Giới thiệu một cách khái quát về hoạt động của chi nhánh EIB Hà Nội, cũng như về hoạt động tín dụng tài trợ XNK, để từ đó nêu lên tầm quan trọng của hoạt động này hiện nay. - Phân biệt một số hình thức tín dụng tài trợ XNK, phân tích thực trạng và chỉ ra các ưu nhược điểm của các hình thức đó tại EIB Hà Nội hiện nay. - Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại EIB Hà Nội. Thông qua chuyên đề này, em hy vọng rằng một số giải pháp và kiến nghị đã nêu sẽ góp một phần nào vào quá tình định hướng và việc đề ra các giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại EIB Hà Nội nói riêng cũng như các ngân hàng thương mại nói chung. Trong điều kiện hạn chế về mặt thời gian, trình độ và kinh nghiệm nên chuyên đề có thể sẽ mắc một số sai lầm và thiếu sót, mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để chuyên đề ngày càng được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô Cao Ý Nhi và các anh chị trong Phòng Tín dụng - Đầu tư EIB Hà Nội đã hướng dẫn tận tình tình cho em hoàn thành chuyên đề này.

doc78 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ót có liên quan đến tên hàng hoá, chủng loại, số lượng, chất lượng hàng hoá, quy cách mà: . NH mở L/C là NH đại lý của EIB và được tín nhiệm cao . Nhà nhập khẩu có văn bản cam kết chấp nhận những bất hợp lệ có liên quan . Nhà nhập khẩu là đối tác có quan hệ mua bán thường xuyên với doanh nghiệp đề nghị xin chiết khấu và có quan hệ tốt trong thanh toán L/C xuất với EIB. EIB Hà Nội tiến hành thu nợ bằng cách gửi bộ chứng từ ra nược ngoài đòi thanh toán. Trong vòng 60 ngày kể từ ngày gửi chứng từ đòi tiền mà không nhận được báo có thì ngân hàng tự động ghi nợ tài khoản tiền gửi của khách hàng. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ tiền thì trong vòng 7 làm việc, ngân hàng sẽ chuyển số tiền ứng trước sang nợ quá hạn và khách hàng sẽ chịu mức lãi suất quá hạn theo quy định là 150% lãi suất cho vay. 2.2.2.2. Tài trợ nhập khẩu Hiện nay, các khoản tài trợ nhập khẩu chiếm khoảng 70% doanh số tài trợ tại EIB Hà Nội, đa số là bằng ngoại tệ, trong đó chủ yếu là USD. Tín dụng tài trợ nhập khẩu của EIB Hà Nội thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau: Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu; cho vay thanh toán bộ chứng từ theo L/C nhập, D/P nhập, và TTR; nghiệp vụ bão lãnh. - Mở L/C : Khi quyết định mở L/C, NH thường yêu cầu khách hàng phải ký quỹ một số tiền nhất định trong tổng số tiền mở L/C. EIB Hà Nội thường áp dụng tỷ lệ ký quỹ trong khoảng từ 10-100%, tuỳ theo từng loại khách hàng, từng loại L/C và căn cứ trên cơ sở các quy định của Nhà nước. Tiền ký quỹ là số tiền mà khách hàng phải nộp vào ngân hàng để làm đảm bảo cho việc trả nợ, và thường thì số tiền ký quỹ là bằng VNĐ. Đơn vị vay vốn nộp số tiền này vào tài khoản tiền gửi bằng VNĐ tại EIB Hà Nội, sau đó làm đơn xin mua ngoại tệ gửi cho ngân hàng. Trên cơ sở đó, NH xem xét và bán lượng ngoại tệ tương ứng cho đơn vị và chuyển số tiền này vào tài khoản ký quỹ mở L/C. - Cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập: Hình thức cho vay nhập khẩu này tại EIB Hà Nội bao gồm các hình thức chủ yếu sau: + Cho vay thanh toán bộ chứng từ nhập khẩu theo L/C do EIB Hà Nội phát hành . Đây là hình thức phổ biến nhất tại EIB Hà Nội, chiếm tỷ trọng từ 80-90% tổng dư nợ trong nhiều năm qua. + Cho vay thanh toán bộ chứng từ nhập khẩu theo L/C do TCTD khách phát hành + Cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập theo phương thức thanh toán khác như: D/P và TTR. - Bảo lãnh: là việc ngân hàng sử dụng uy tín của mình cho khách hàng với cam kết là khách hàng phải trả phí bảo lãnh cho ngân hàng trong thời gian nhất định. Thực chất của bảo lãnh là một hình thức cho vay trài trợ. Ở EIB Hà Nội, nghiệp vụ bảo lãnh được sử dụng để tài trợ cho cả nhập khẩu lẫn xuất khẩu. Các hình thức bảo lãnh mà EIB Hà Nội sử dụng là: bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài; bão lãnh về dự thầu; bảo lãnh thực hiện hợp đồng; bảo lãnh bảo đảm hoàn trả vốn vay trong nước; bảo lãnh tiền ứng trước, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu có thể yêu cầu EIB bảo lãnh thanh toán, còn các doanh nghiệp xuất khẩu có thể yêu cầu EIB bảo lãnh thực hiện hợp đồng hoặc bảo lãnh tiền ứng trước hoặc bảo lãnh đảm bảo chất lượng hàng hoá. Hạn mức bảo lãnh tại EIB Hà Nội từ 25/08/2003 là 3 tỷ đồng. 2.2.3. Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại EIB Hà Nội 2.2.3.1. Quy trình thực hiện tài trợ xuất nhập khẩu tại EIB Hà Nội Quy trình thực hiện tài trợ tại EIB Hà Nội cũng dựa trên quy trình chung mà ta đã nêu ở phần trên. Cụ thể như sau: Bước 1: - Đối với khách hàng vay lần đầu, khi vay cần phải gửi đến ngân hàng các hồ sơ cần thiết và mở một tài khoản tại EIB Hà Nội Bước 2: - Sau khi nhận được đơn xin vay của doanh nghiệp, cán bộ tín dụng trực tiếp thẩm định hồ sơ và khảo sát thực tế. - Sau khi thẩm định, tìm hiểu đơn xin vay, nếu chấp thuận hồ sơ CBTD lập tờ trình Ban Giám đốc - Nếu chấp thuận tài trợ, CBTD chuẩn bị nội dung hợp đồng và hoàn thiện thủ tục tài trợ, gửi đến ngườu được uỷ quyền quyết định tín dụng ký kết - Khi thực hiện tài trợ, CBTD luôn phải bám sát quy trình nghiệp vụ trong và sau khi tài trợ để theo dõi việc sử dụng vốn vau của khách hàng, hạn chế và tránh những rủi ro có thể xảy ra. 2.2.3.2. Thực trạng XNK chung a. Cơ cấu hoạt động tín dụng chung: Qua phân tích tình hình khái quát hoạt động kinh doanh ở phần trên ta đã biết khá rõ về hoạt động của nghiệp vụ tín dụng của EIB Hà Nội những năm gần đây. Hai năm 2004 và 2005 là hai năm thành công của EIB Hà Nội đặc biệt là hoạt động tín dụng. Đóng góp không nhỏ vào thành tựu này là nghiệp vụ tín dụng tài trợ XNK, bởi vì ngay từ khi thành lập mục tiêu hoạt động của EIB là tài trợ cho các doanh nghiệp XNK, nên tín dụng XNK là hoạt động chủ yếu của NH, nó chiếm gần như 90% trong doanh số cho vay. Cụ thể ta có thể quan sát bảng số liệu sau: BẢNG 6: CƠ CẤU HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG Chỉ tiêu 2003 2004 2005 Tr.Đ % Tr.Đ % Tr.Đ % Doanh số cho vay 1,666,323 100.0 2,036,786 100.0 4,252,760 100.0 - XK 301,604 18.1 397,173 19.5 948,365 22.3 - NK 1,194,754 71.7 1,419,640 69.7 2,874,866 67.6 - Trong nước 169,965 10.2 219,973 10.8 429,529 10.1 Doanh số thu nợ 1,464,415 100.0 1,914,896 100.0 4,055,187 100.0 - XK 260,666 17.8 361,915 18.9 952,969 23.5 - NK 1,052,914 71.9 1,338,512 69.9 2,708,865 66.8 - Trong nước 150,835 10.3 214,468 11.2 393,353 9.7 Dư nợ 663,503 100.0 790,140 100.0 995,851 100.0  - XK 121,421 18.3 150,917 19.1 228,050 22.9 - NK 476,395 71.8 557,049 70.5 659,253 66.2 - Trong nước 65,687 9.9 82,175 10.4 108,548 10.9 (Nguồn phòng Tín dụng - đầu tư) Hiện nay, nước ta vẫn là nước nhập siêu, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu phần lớn là thực hiện nhập khẩu, do đó nhu cầu tài trợ cho nhập khẩu vẫn là chủ yếu. Từ đó, ảnh hưởng tới tình trạng tín dụng xuất nhập tại các NHTM, EIB Hà Nội cũng không ngoài xu thế này. Tuy nhiên, EIB Hà Nội đã và đang cố gắng cơ cấu lại hoạt động tín dụng tài trợ của mình, theo hướng là cải thiện cả về số lượng và chất lượng tài trợ xuất khẩu, củng cố chất lượng tài trợ nhập khẩu. Năm 2003, dư nợ tài trợ nhập khẩu chiếm đến 71.8%, xuất khẩu chiếm 18.3%, còn tín dụng trong nước chỉ chiếm 9.9%. Đến năm 2004 tỷ trọng đó có thay đổi chút ít theo chiều hướng tăng xuất khẩu, giảm nhập khẩu như chiến lược của EIB đề ra. Và năm 2005 đã đánh dấu sự thành công của chiến lược đó, dư nợ tài trợ xuất khẩu 22.9% (tăng 3.8% so với năm 2004), nhập khẩu vẫn chiếm một tỷ trọng cao nhưng đã giảm nhiều so với năm trước, chỉ còn 66.2% (giảm 5.6% so với năm 2004). Để đạt được những thành tựu này, ngoài sự cố gắng của riêng EIB, cần phải kể đến sự giúp đỡ của Chính phủ với những chính sách nhằm khuyến khích xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại của nước ta. Có như vậy, mới tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu ngày càng nhiều, làm tăng nhu cầu tài trợ xuất khẩu. Trong những năm vừa qua hoạt động XNK của nước ta liên tục có những bước tăng trưởng đáng kể. Không nằm ngoài sự tăng trưởng đó, tín dụng tài trợ XNK tại EIB Hà Nội cũng tăng trưởng. Những năm gần đây, đặc biệt là 2 năm 2004 và 2005, EIB Hà Nội đã hỗ trợ đắc lực cho các khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực XNK. Nếu như năm 2003 doanh số cho vay XNK là 1,496,358 triệu Đồng thì năm 2004 con số này là 1,816,813 triệu Đồng và đến năm 2005 lên tới 3,823,231 triệu Đồng (gấp đôi năm 2004). Tuy nhiên nếu so sánh với doanh số cho vay tài trợ XNK tại các ngân hàng thương mại quốc doanh đóng trên cùng địa bàn như NH Ngoại thường Việt Nam(Vietcombank) hay NH Đầu tư và phát triển Việt Nam(BIDV) thì con số này là rất nhỏ bé. b. Cơ cấu hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu theo loại tiền: Trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu thì phần lớn là bằng ngoại tệ, mà chủ yếu là USD. Thực tế ở EIB Hà Nội đã chứng minh điều đó, doanh số cho vay và doanh số thu nợ bằng ngoại tệ luôn chiếm tỷ trọng cao, thường chiếm từ 75-85% trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu. Bởi vì, nước ta là các doanh nghiệp nước ta chủ yếu là nhập khẩu nên thanh toán bằng ngoại tệ là chính, do đó hoạt động tín dụng XNK bằng ngoại tệ là phần lớn. Ngoài ra, còn một lý do khác nữa là các mặt hàng xuất khẩu của nước ta chủ yếu là nông sản, dệt may,...đều là những mặt hàng thường được thanh toán bằng USD. BẢNG 7: CƠ CẤU HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU THEO LOẠI TIỀN ĐVT: Triệu Đồng Chỉ tiêu Tổng VNĐ Ngoại Tệ Tổng USD EUR JPY 2003 Doan số cho vay 1,496,358 297,998 19.9% 1,198,360 80.1% 1,156,781 41,579 Doanh số thu nợ 1,313,580 227,602 17.3% 1,085,978 82.7% 1,053,688 32,290 Dư nợ 597816 196,390 32.9% 401,426 67.1% 380,175 21,251 2004 Doan số cho vay 1,816,813 496,468 27.3% 1,320,345 72.7% 1,289,306 31,039 Doanh số thu nợ 1,700,428 362,235 21.3% 1,338,193 78.7% 1,289,436 48,757 Dư nợ 707,965 319,640 45.1% 388,325 54.9% 383,204 5,121 2005 Doan số cho vay 3,823,231 987,514 25.8% 2,835,717 74.2% 2,781,197 47,220 7,300 Doanh số thu nợ 3,661,834 907,825 24.8% 2,754,009 75.2% 2,701,835 46,682 5,492 Dư nợ 887303 413,359 46.6% 473,944 53.4% 465,967 6,168 1,809 (Nguồn Phòng Tín dụng - Đầu tư) d. Cơ cấu theo kỳ hạn và thành phần kinh tế: BẢNG 8 : CƠ CẤU TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU THEO KỲ HẠN VÀ THÀNH PHẦN KINH TẾ Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Tổng dư nợ 707,965 100.0 887,303 100.0 1.Cho vay ngắn hạn 642,124 90.7 757,757 85.4 Trong đó - Doanh nghiệp nhà nước 278,938 43.4 255,543 33.7 - Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 363,186 56.6 502,213 66.3 2.Cho vay trung và dài hạn 65,841 9.3 129,546 14.6 Trong đó - Doanh nghiệp nhà nước 27,611 41.9 47,027 36.3 - Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 38,230 58.1 82,519 63.7 (Nguồn Phòng Tín dung - Đầu Tư) Qua bảng số liệu trên cho ta thấy rằng, tín dụng tài trợ xuất khẩu chủ yếu là tín dụng ngắn hạn, còn tín dụng trung và dài hạn chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Nguyên nhân của sự chênh lệch này là do các món vay ngắn hạn có thời gian thu hồi vốn nhanh, rủi ro thấp hơn. Cho vay ngắn hạn giúp cho ngân hàng tận dụng vốn huy động ngắn hạn, tăng vòng quay của vốn nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu về vốn lưu động của các khách hàng. Tuy nhiên, cơ cấu tín dụng xuất khẩu ở EIB Hà Nội đang có sự chuyển dịch: tăng dần tỷ trọng tín dụng trung - dài hạn, giảm dần tỷ trọng tín dụng ngắn hạn. Ta có thể thấy sự thay đổi này như sau: năm 2004, tín dụng trung – dài hạn là 9.3% và tín dụng ngắn hạn là 90.7%, đến năm 2005, hai tỷ lệ này lần lượt là 14.6% và 85.4%. Nguyên nhân của sự thay đổi này là vì có sự chuyển biến trong nhu cầu của các doanh nghiệp XNK muốn có nguồn vốn trong thời gian dài để đầu tư vào mua máy móc, nhà xưởng, trang thiết bị sản xuất hàng xuất khẩu hoặc đầu tư vào các mặt hàng có vòng quay vốn chậm. Mặt khác, EIB Hà Nội là một ngân hàng thương mại cổ phần với thị trường mục tiêu là phục vụ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do đó, cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế nghiêng về phía các doanh nghiệp ngoài quốc doanh . Bởi vì, loại doanh nghiệp này thường có vốn và quy mô vừa và nhỏ. Những con số ở bảng số liệu trên đã chứng minh rất rõ điều đó. Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng là 43.4%, 33.7% trong hai năm 2004 và 2005; còn doanh nghiệp ngoài quốc doanh hai tỷ lệ này là 56.6% và 66.7%. 2.2.3.3. Thực trạng xuất khẩu Như ta đã biết, tài trợ xuất khẩu tại EIB Hà Nội trong những năm gần đây có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực, nghĩa là doanh số cho vay xuất khẩu ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng doanh số cho vay XNK. Tuy nhiên, tỷ trọng này vẫn quá nhỏ so với nhập khẩu. BẢNG 9: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT KHẨU ĐVT: Triệu Đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2004/03 2005 2005/04 Doanh số cho vay 301,604 397,173 31.7% 948,365 138.8% Doanh số thu nợ 260,666 361,915 38.8% 952,969 163.3% Dư nợ cho vay 121,421 150,917 24.3% 228,050 51.1% (Nguồn Phòng Tín dụng – Đầu tư) Ta thấy rằng tình hình hoạt động tín dụng xuất khẩu tại EIB Hà Nội ngày càng tăng nhanh. Năm 2003, doanh số cho vay chỉ là 301,604 triệu Đồng nhưng năm 2005 đã là 948,365 triệu đồng, tăng đến 138.8% so với năm 2004. Do đó, dư nợ cũng tăng lên đáng kể, đạt mức 228,050 triệu đồng năm 2005, tăng 51.1% so với năm 2004. Có sự tăng đột biến này là vì các mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của nước ta như: gạo, chè, dầu thô, thuỷ sản... vẫn tăng cao qua các năm. Ngoài ra, trong thời kỳ “mở cửa”, hàng hoá cảu Việt Nam trong những năm gần đây chất lượng đã đạt được tiêu chuẩn quốc tế về cả mẫu mã lẫn kiểu dáng, đáp ứng được thị hiếu của không chỉ người Việt Nam mà cả người nước ngoài. Tuy nhiên, dư nợ để cho vay xuất khẩu vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp cũng như các hộ kinh doanh trong nước. Do đó, trong thời gian tới, Ngân hàng cần tìm ra được các nguồn huy động vốn để đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Tại EIB Hà Nội, tín dụng tài trợ xuất khẩu được thực hiện trên 4 hình thức như đã đề cập ở phần trên, đó là: cho vay trên cơ sở hợp đồng xuất khẩu nhưng chưa có L/C, cho vay khi doanh nghiệp đã có L/C thông báo và thanh toán qua EIB Hà Nội, cho vay L/C do ngân hàng khác thông báo nhưng cam kết xuất trình chứng từ cho EIB Hà Nội thanh toán, chiết khấu bộ chứng từ thanh toán hàng xuất. Trong đó, hình thức cho vay khi doanh nghiệp đã có L/C thông báo và thanh toán qua EIB Hà Nội là được áp dụng nhiều nhất, nó chiếm tới 62.3% năm 2004 và 63.5% năm 2005, bởi vì, đây là phương thức an toàn nhất, ít mang lại rủi ro cho Ngân hàng nhất. Theo thông lệ thường thì Ngân hàng thông báo và ngân hàng thanh toán là một, nên hình thức cho vay khi doanh nghiệp đã có L/C do ngân hàng khác thông báo còn EIB Hà Nội là NH hàng thanh toán chiếm tỷ trọng ít nhất, nó chỉ chiếm lần lượt là 3.7% và 2.5% trong 2 năm 2004 và 2005. BẢNG 10: CƠ CẤU TÍN DỤNG XUẤT KHẨU THEO HÌNH THỨC CHO VAY Các hình thức cho vay Năm 2004 Năm 2005 Giá trị (Tr.Đồng) Tỷ trọng (%) Giá trị (Tr.Đồng) Tỷ trọng (%) Tổng 150,917 100.0 228,050 100.0 1. Cho vay trên cơ sở hợp đồng xuất khẩu nhưng chưa có L/C 29,882 19.8 41,961 18.4 2. Cho vay khi DN đã có L/C và thanh toán qua EIB Hà Nội 94,021 62.3 144,812 63.5 3. Cho vay khi DN đã có L/C do NH khác thông báo nhưng xuất trình bộ chứng từ cho EIB HN thanh toán 5,584 3.7 5,701 2.5 4. Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất 21,430 14.2 35,576 15.6 (Nguồn Phòng Tín dụng - Đầu tư) 2.2.3.4. Thực trạng nhập khẩu BẢNG 11: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NHẬP KHẨU ĐVT: Triệu Đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2004/03 2005 2005/04 Doanh số cho vay 1,194,754 1,419,640 18.8 2,874,866 102.5 Doanh số thu nợ 1,052,914 1,338,512 27.1 2,708,865 102.4 Dư nợ cho vay 476,395 557,049 16.9 659,253 18.3 (Nguồn Phòng Tín dụng - Đầu tư) Tín dụng tài trợ nhập khẩu luôn là hoạt động quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh của EIB Hà Nội. Tình hình hoạt động tín dụng nhập khẩu tại EIB Hà Nội ngày càng tăng nhanh. Năm 2003, doanh số cho vay chỉ là 1,194,754 triệu Đồng nhưng năm 2005 đã là 2,874,866 triệu đồng, tăng đến 102.5% so với năm 2004. Do đó, dư nợ cũng tăng lên đáng kể, đạt mức 659,253 triệu đồng năm 2005, tăng 18.3% so với năm 2004. Có sự tăng này là vì các mặt hàng nước ta hay nhập khẩu như: Xăng dầu, máy móc thiết bị, sắt thép, phân bón... vẫn tăng cao qua các năm. Ngoài ra, so tình hình giá cả của các mặt hàng này trong những năm gần đây luôn biến động mạnh trên toàn thế giới gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động nhập khẩu, từ đó, gián tiếp tác động đến hoạt động tín dụng tài trợ nhập khẩu. Một lý do nữa là nhu cầu những mặt hàng này trong nước tăng để phục vụ cho các dự án sản xuất lớn của đất nước như: xây dựng các nhà máy, cầu vượt... Ở EIB Hà Nội, tài trợ xuất khẩu bằng các hình thức: Mở L/C, cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập và bảo lãnh. a. Mở L/C Khi ngân hàng đồng ý mở L/C cho nhà nhập khẩu, có nghĩa là ngân hàng cam kết thanh toán cho người hưởng lợi L/C nếu bộ chứng từ hợp lý. Ngân hàng sẽ gánh chịu rủi ro nếu như nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán, nhưng để đảm bảo uy tín của mình ngân hàng mở L/C phải thanh toán cho phía nước ngoài, điều này có nghĩa là ngân hàng mở L/C cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu. EIB Hà Nội thường áp dụng tỷ lệ ký quỹ trong khoảng từ 10-100%, tuỳ theo từng loại khách hàng, từng loại L/C và căn cứ trên cơ sở các quy định của Nhà nước. Hình thức tài trợ này tại EIB Hà Nội, được thể hiện qua bảng số liệu sau: BẢNG 12: TÌNH HÌNH MỞ L/C THANH TOÁN Thanh toán L/C nhập 2003 2004 2004/03 2005 2005/04 - Số món 646 721 925 - Giá trị (ngàn USD) 50,263.66 56,099.22 11.6% 76,824.48 36.9% (Nguồn Phòng Thanh toán quốc tế) Năm 2005, số lượng và giá trị L/C được mở tại EIB Hà Nội tăng nhanh, đạt 925 món với giá trị là 76,824.48 ngàn USD, tăng 36.9% so với nămg 2004. Đạt được kết quả này là do EIB đã tổ chức các đợt tiếp thị để tìm kiếm khách hàng mới, áp dụng lãi suất ưu đãi đối với khách hàng có cam kết thanh toán tại EIB Hà Nội, mở rộng và áp dụng các dịch vụ mới để phục vụ khách hàng, nâng cao chất lượng phục vụ. Cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập Tài trợ theo hình thức cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập bao gồm 3 phương thức sau: Cho vay thanh toán bộ chứng từ nhập khẩu theo L/C do EIB Hà Nội phát hành, cho vay thanh toán bộ chứng từ nhập khẩu theo L/C do tổ chức tín dụng khác phát hành, cho vay thanh toán bộ chứng từ nhập theo nhờ thu D/P và chuyển tiền TTR. Trong đó, phương cho vay thanh toán bộ chứng từ nhập khẩu theo L/C do EIB Hà Nội phát hành được EIB Hà Nội áp dụng nhiều nhất, chiếm tỷ trọng 82.6% và 87.3% trong hai năm 2004 và 2005. BẢNG 13: CƠ CẤU TÍN DỤNG NHẬP KHẨU THEO HÌNH THỨC TÀI TRỢ Các hình thức cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập Năm 2004 Năm 2005 Giá trị (Tr.Đồng) Tỷ trọng (%) Giá trị (Tr.Đồng) Tỷ trọng (%) Tổng dư nợ 557,049 100.0 659,253 100.0 1. L/C do EIB Hà Nội phát hành 460,122 82.6 575,528 87.3 2. L/C do TCTD khác phát hành 38,436 6.9 21,755 3.3 3. D/P và TTR 58,490 10.5 61,970 9.4 (Nguồn Phòng Tín dụng - Đầu tư) 2.3. Những kết quả đạt được và một số hạn chế 2.3.1. Những kết quả đạt được: Với chiến lược kinh doanh đúng đắn, cộng với đội ngũ cán bộ ngân hàng có trình độ, năng động và rất nhiệt tình, EIB Hà Nội đã và đang vững chắc đi lên và tự khẳng định được vai trò của mình qua từng nghiệp vụ, hoàn thành mọi nghĩa vụ đối với Nhà nước và Hội sở Trung Ương. Phạm vi hoạt động của EIB Hà Nội ngày càng được mở rộng, ban đầu địa bàn hoạt động chủ yếu là Hà Nội nhưng nay địa bàn hoạt động là từ Nghệ An trở ra Bắc. Các nghiệp vụ kinh doanh cũng được ngân hàng chú ý mở rộng và nâng cao chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Do vậy, uy tín của EIB Hà Nội không ngừng được củng cố và nâng cao trong lòng các khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực XNK trên địa bàn EIB Hà Nội hoạt động. Mỗi khi khách hàng gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh dẫn đến việc trả nợ chậm, ngân hàng đều cố gắng cùng khách hàng tháo gỡ khó khăn cùng nhau tìm ra những giải pháp tốt nhất đối với cả hai phía, nhờ vậy mà số khách hàng có quan hệ lâu đời với chi nhánh không những giảm mà còn tăng qua các năm. Hoạt động tín dụng, cũng như các NHTM khác, là hoạt động đem lại lợi nhuận chính cho EIB Hà Nội, mà trong đó chủ yếu là hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu. Hoạt động cho vay ở ngân hàng trong những năm qua được đặc biệt coi trọng và đạt được kết quả đáng ghi nhận: dư nợ cho vay năm 2005 đạt 995,851 Triệu Đồng, tăng 26.0% so với năm 2004, trong đó dư nợ cho vay XNK là 887,303 Triệu Đồng. Như vậy, cho vay XNK vẫn giữ được vị trí thống soái của mình. Về cơ cấu tín dụng tài trợ XNK cũng thay đổi theo chiều hướng tích cực, nghĩa là tăng tài trợ xuất khẩu và giảm dần tỷ trọng nhập khẩu. Để đáp ứng đủ cho nhu cầu cho vay như trên, EIB Hà Nội đã chú trọng công tác huy động vốn, bao gồm cả nội tệ và ngoại tệ. Năm 2005, EIB Hà Nội đã huy động từ nền kinh tế được 1,177,460 Triệu Đồng, tăng 40,3% so với năm 2004. Cùng với việc nỗ lực tăng dư nợ tín dụng XNK, EIB Hà Nội cũng chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng, thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ đã giảm dần. Tỷ lệ % nợ quá hạn năm 2003 là 13.0%, năm 2004 là 8.9% và năm 2005 là 1.8%. Hai năm gần đây không có nợ quá hạn phát sinh từ các hợp đồng tín dụng mới mà chỉ phát sinh nợ quá hạn đối với các hợp đồng tín dụng đã ký từ các năm trước. Ngân hàng đã trình hội đồng xử lý rủi ro cho phép dự phòng rủi ro để xử lý nợ tồn đọng. Ngân hàng đã tích cực xử lý nợ quá hạn bằng cách phân công cán bộ cho vay trực tiếp bám sát các đơn vị có nợ quá hạn để đôn đốc thu nợ và có biện pháp xử lý theo chế tài tín dụng. Bên cạnh đó, ngân hàng còn thành lập các nhóm để thực hiện thu hồi nợ quá hạn, theo dõi và đôn đốc thu nợ đến hạn. Chính vì vậy mà tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm xuống đáng kể. Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại EIB Hà Nội cũng có những hạn chế cần khắc phục. 2.3.2. Một số hạn chế Thứ nhất, tuy doanh số cho vay của EIB Hà Nội qua các năm có chiều tăng trưởng nhưng theo nhận định của Ban giám đốc ngân hàng đây là mức tăng trưởng không bền vững có nguy cơ giảm sút. Mặt khác, cơ cấu cho vay tại EIB Hà Nội đã cho thấy những bất cập, trong khi cho vay ngắn hạn bằng nội tệ và ngoại tệ chiếm đa số và tăng mạnh thì doanh số cho vay trung và dài hạn lại chiếm tỷ trọng rất nhỏ và tốc độ tăng trưởng cũng chậm hơn. Thứ hai, trong cơ cấu tài trợ XNK thì tài trợ nhập khẩu là chủ yếu, trung bình chiếm từ 65-70% doanh số cho vay. Trong đó, cho vay thanh toán L/C chiếm tỷ trọng lớn khoảng 80-90% trong cho vay nhập khẩu, còn cho vay thông qua chiết khấu còn ít. Điều này cho thấy sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu tidn dụng XNK tại EIB Hà Nội. Thứ ba, đối tượng khách hàng còn hạn hẹp, chủ yếu là các khách hàng có quan hệ làm ăn lâu đời với ngân hàng. EIB Hà Nội chưa thu hút được nhiều đối tượng là khách hàng mới đến đặt quan hệ làm ăn với ngân hàng. Thứ tư, hình thức cho vay tại EIB Hà Nội còn đơn điệu, kém phong phú. Hiện nay, ngân hàng chỉ áp dụng hình thức cho vay từng lần mà chưa áp dụng các hình thức cho vay linh hoạt hơn. Trong tài trợ nhập khẩu thì chủ yếu vẫn là hình thức cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập, còn trong tài trợ xuất khẩu, hình thức cho vay khi doanh nghiệp đã có L/C thông báo và thanh toán qua EIB Hà Nội được áp dụng nhiều nhất. Các hình thức khác như chiết khấu bộ chứng từ, bảo lãnh,... còn ít được sử dụng. Sở dĩ EIB Hà Nội có những hạn chế nêu trên là do nhiều nguyên nhân, những nguyên nhân này cần xem xét cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan. 2.3.3. Nguyên nhân Nguyên nhân khách quan: Hiện nay, EIB đang hoạt động dưới sự điều chỉnh của Luật các TCTD và hệ thống các Luật, văn bản dưới luật của Chính phủ và NHNN. Cho đến nay, môi trường pháp lý tuy đã có nhiều tiến bộ song vẫn chưa thực sự đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của ngân hàng. Hệ thống luật pháp bước đầu tạo cơ sở pháp lý đưa hoạt động ngân hàng đi vào nề nếp, tuy nhiên vẫn còn nhiều điều cần bổ sung sửa đổi. Hoạt động tín dụng XNK có liên quan đến nhiều ban ngành trong nước như Tổng cục Hải quan, Cục sở hữu trí tuệ, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam... nên hoạt động này hiện nay cũng đang chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các tổ chức này theo luật định. Điều này có thể gây trở ngại cho cả doanh nghiệp và ngân hàng khi tham gia tín dụng có quá nhiều bất lợi cho chúng ta nếu có tranh chấp xảy ra vì có nhiều sự khác biệt giữa luật pháp nước ta và luật pháp nước ngoài, rồi sự chồng chéo, thiếu đồng bộ của các điều luật, thời gian các vụ việc bị kéo dài. Kinh tế thế giới diễn biến không thuận lợi và phức tạp, sự biến động bất thường của tỷ giá, lãi suất và giá cả của các mặt hàng XNK cũng là một yếu tố tác động mạnh đến tới khả năng mở rộng cho vay cũng như khả năng tăng hiệu quả của hoạt động tín dụng XNK. Môi trường cạnh tranh gay gắt: Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có rất nhiều ngân hàng thương mại hoạt động, bao gồm NH quốc doanh, NH cổ phần, NH liên doanh, NH nước ngoài. Sự cạnh tranh, đặc biệt là về dịch vụ và lãi suất. Có nhiều ngân hàng cạnh tranh không lành mạnh như: nới lỏng điều kiện ký quỹ, thế chấp, phí... Điều này gây ảnh hướng xấu đến EIB như làm mất nhiều khách hàng... Nguyên nhân chủ quan a. Từ phía ngân hàng: Thứ nhất, vốn huy động chủ yếu của ngân hàng là vốn ngắn hạn, vì vậy, ngân hàng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vốn trung và dài hạn. Thứ hai, khách hàng chủ yếu của EIB Hà Nội là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khối lượng vay vốn từng lần nhiều chủ yếu là thanh toán bộ chứng từ hàng nhập cho từng lô hàng nhập khẩu. Ngoài ra, hiện nay EIB Hà Nội vẫn chưa có quy định cho vay tín chấp. Các doanh nghiệp đến xin vay vốn cần phải có tài sản thế chấp, cầm cố cho số tiền vay. Đó là nguyên nhân chủ yếu giải thích cho việc EIB Hà Nội mới chỉ áp dụng hình thức cho vay từng lần mà chưa áp dụng các hình thức cho vay khác. Thứ ba, ngân hàng chưa thực sự chú trọng thực sự vào công tác thu hút đối tượng là khách hàng mới đến với khách hàng. Khách hàng chủ yếu của EIB Hà Nội là khách hàng có quan hệ làm ăn lâu đời. Tuy ngân hàng có rất nhiều chinh sách hỗ trợ khách hàng về lãi suất, khối lượng vay vốn tại ngân hàng, nhưng hiện nay, những chính sách ưu đãi này vẫn chưa được nhiều người biết tới. Điều này chứng tỏ một điều là công tác Marketing chưa được coi trọng tại EIB Hà Nội. Thứ tư, vốn sở hữu của EIB tuy đã tăng lên nhiều trong 2 năm gần đây, đứng thứ 3 trong hệ thống các ngân hàng thương mại cổ phần(sau ACB và Sacombank), tuy nhiên vẫn còn hạn chế so với các ngân hàng quốc doanh, ngân hàng liên doanh hay ngân hàng nước ngoài nên khả năng canh tranh của EIB còn thấp và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của thị trường. b. Từ phía khách hàng: Thứ nhất, tình trạng yếu kém của các doanh nghiệp XNK trong nước cả về nguồn vốn, lao động, công nghệ và năng lực quản lý, sản phẩm kém sức cạnh tranh, còn thiếu tính sáng tạo; các cơ chế chính sách mới ban hành chưa thể hoàn thiện trong thời gian ngắn. Cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng lĩnh vực chưa chuyển biến kịp thời theo sự biến động nhanh của nhu cầu thị trường trong nước, khu vực và thế giới. Thứ hai, nhiều doanh nghiệp XNK mặc dù đã ký được hợp đồng kinh doanh nhưng vẫn chưa tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng. Bởi vì, vốn tự có, tài sản đảm bảo có giá trị nhỏ, phương án kinh doanh và trả nợ chưa khả thi nên đã gây rất nhiều khó khăn cho cán bộ ngân hàng trong khâu thẩm định cũng như gây trở ngại cho các doanh nghiệp XNK. Thứ ba, bên cạnh những khách hàng làm ăn lâu đời có tín nhiệm tại EIB Hà Nội, vẫn còn một bộ phận không nhỏ khách hàng cung cấp những số liệu không trung thực, không đầy đủ và kịp thời cho ngân hàng. Báo cáo tài chính của doanh nghiệp là một căn cứ quan trọng có ảnh hưởng lớn đến quyết định cho khách hàng vay hay không. Tuy nhiên đôi khi, những con số trong đó không phản ánh đúng thực tế đang diễn ra tại các doanh nghiệp. Điều này gây thiệt hại cho cả hai phía ngân hàng và khách hàng. Chương III. Một số giải pháp mở rộng nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại EIB Hà Nội 3.1. Định hướng hoạt động kinh doanh XNK của Việt Nam trong thời gian tới Thực hiện chủ trương mở cửa kinh tế để hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới được Đảng và Chính phủ đề ra từ hội nghị Trung ương Đảng cộng snả Việt Nam khoá VI năm 1986. Chính sách ngoại thương của Việt Nam hiện tại được xây dựng trên cơ sở thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội mà Chính phủ đề ra cho giai đoạn 2001-2010. Mục tiêu hoạt động XNK trong gia đoạn 2001-2010 được nêu trong văn kiện Đại hội của Ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 9 là: Nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh CNH-HĐH, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, thúc đẩy xuất khẩu, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất - nhập khẩu; mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh; hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới. Để thực hiện các mục tiêu hoạt động XNK, các chính sách ngoại thương của Việt Nam sẽ hoàn thiện và đổi mới theo hướng: - Xây dựng hành lang pháp lý hoàn chỉnh đầy đủ và mang tính hội nhập và ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển hoạt động XNK có hiệu quả. - Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia trực tiếp vào hoạt động XNK. - Xây dựng môi trường kinh doanh quốc tế mang tính bình đẳng, các công ty XNK của nhà nước hoạt động bình đẳng. - Nhà nước tác động vào môi trường kinh doanh giúp các doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, nhằm giảm giá thành sản phẩm, nhờ đó tăng sức cạnh tranh về giá cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới. 3.2. Phương hướng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của EIB Hà Nội Về chiến lược, kế hoạch của EIB Việt Nam nói chung và chi nhánh EIB Hà Nội nói riêng là xây dựng EIB trở thành một ngân hàng vừa bán lẻ, vừa bán buôn, đa năng, hiện đại, kết hợp với tài trợ xuất nhập khẩu. Thực hiện phương châm “bán sản phẩm thị trường đang cần, không phải bán sản phẩm mà EIB đang có”. Tập trung đẩy mạnh thị trường bán lẻ, tiếp tục chuyển hướng tín dụng vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quản trị và kiểm soát chặt chẽ sử dụng vốn theo từng danh mục đầu tư. Định lại giá sản phẩm, dịch vụ trên cơ sở giá trị khách hàng chấp nhận được. Từ năm 2006 đến 2010, căn cứ vào tình hình diễn biến của nền kinh tế xã hội Việt Nam có thể tốc độ tăng trưởng ở mức bình quân từ 20-25% so với năm trước. Mục tiêu mà EIB sẽ đạt đến năm 2010: - Là ngân hàng hiện đại ở mức trung bình tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á, có một nền tài chính lành mạnh, vững chắc,áp dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến. - Là ngân hàng có phương thức quản trị điều hành tốt với hệ thống các công cụ phòng chống rủi ro hiệu quả. - Là ngân hàng có chất lượng kinh doanh với sản phẩm dịch vụ tốt. - Là ngân hàng có nguồn nhân lực dồi dào, tay nghề nghiệp vụ cao. 3.3. Một số giải pháp 3.3.1. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu Hình thức tài trợ XNK tại EIB Hà Nội hiện còn chưa phong phú, ngân hàng chỉ mới áp dụng một phương thức là cho vay từng lần. Do đó, ngân hàng cần nghiên cứu áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức, cho vay thấu chi, bao thanh toán hay đồng tài trợ đối với những khách hàng quen thuộc, có uy tín và tình hình tài chính lành mạnh. Khi mà phương thức cho vay hạn mức được áp dụng sẽ giảm bớt được thủ tục hành chính cho khách hàng, nâng cao chất lượng cung ứng tín dụng của ngân hàng. Mọi hạn mức vay vốn sẽ được phòng Tín dụng - Đầu tư xây dựng đệ trình lên ban giám đốc xem xét. Ngoài ra, ngân hàng cũng nên xem xét tới một số phương thức sau như: đồng tài trợ, bao thanh toán,...để làm phong phú thêm sự lựa chọn của khách hàng khi đến với ngân hàng. Đối với tài trợ theo phương đồng tài trợ, một mặt sẽ làm phân tán, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng do có nhiều thành viên cùng tham gia thẩm định tín dụng, vận dụng các kỹ thuật và kinh nghiệm khác nhau trong cho vay, mặt khác cũng giúp cho khách hàng có đủ vốn trong trường hợp dự án cần vốn lớn vượt qua khả năng của ngân hàng. Bao thanh toán là hình thức tài trợ đặc biệt dành cho nhà xuất khẩu, ngân hàng mua lại các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán để trở thành chủ nợ trực tiếp đứng ra đòi nợ nhà nhập khẩu nước ngoài. Đây là hoạt động đã được áp dụng từ rất lâu trên thế giới. Hình thức tín dụng này giúp cho các nhà xuất khẩu có vốn ngày để hoạt động kinh doanh dù là bán chịu hay là bán thu tiền ngay, đồng thời giúp cho các nhà xuất khẩu không phải bận tâm vào việc quản lý thanh toán phức tạp kéo dài thời gian. Vì vây, nhà xuất khẩu phải trả một khoản phí khá cao khi được bao thanh toán. Còn về phía ngân hàng sẽ tận dụng được chuyên môn và công nghệ hiện có của mình mà lại thu được khoản phí cao. 3.3.2. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn Để đảm bảo cung ứng vốn cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong các ngành kinh tế nói chung và trong lĩnh vực XNK nói riêng, ngân hàng cần có chiến lược huy động vốn trong và ngoài nước sao cho có hiệu quả. Ta thấy rằng nguồn vốn mà EIB Hà Nội huy động chủ yếu là vốn ngắn hạn, vốn trung và dài hạn chiếm tỷ trọng rất ít, mặc dù trong những năm gần đây đã tăng lên đáng kể. Do đó, ngân hàng chỉ cho vay trung hạn với thời gian từ 1-3 năm trong khi nhà nước quy định là 1-5 năm, còn cho vay dài hạn khi nào ngân hàng xác định được nguồn vốn thì mới cho vay. Như vậy, việc tăng cường huy động vốn là việc rất quan trọng, tạo cơ sở cho hoạt động cho vay. Ngân hàng cần đưa ra nhiều hình thức huy động vốn, tạo ra nhiều tiện ích cho khách hàng, có những biện pháp tiếp thị, khuyến mãi, quảng cáo như các hình thức tiết kiệm dự thưởng, ưu đãi cho các khách hàng quen thuộc... Đầu tiên phải kể đến là khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp, vì đây là nguồn huy động có ý nghĩa quan trọng vì NH có thể tranh thủ sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong thanh toán. Do vậy, NH phải luôn quan tâm thu hút tiền gửi thanh toán từ các doanh nghiệp, phải làm cho họ gắn bó với NH, tạo điều kiện thuận lợi cho họ có nguồn tiền gửi ổn định, thường xuyên ở NH. NH có thể khuyến khích bằng cách tạo điều kiện thuận lợi nhất các doanh nghiệp đến mở tài khoản tại NH như việc gửi tiền và sủ dụng tiền trên tài khoản linh hoạt, đáp ứng nhu cầu thanh toán cho khách hàng nhanh chóng, không thu phí chuyển tiền, phí mở séc bảo chi, phí mở thư tín dụng... Tiếp theo là khoản tiền gửi tiết kiệm, đây là nguồn vốn được huy động phần lớn từ tầng lớp dân cư, là nguồn vốn nhàn rỗi rất lớn cả ngoại tệ lẫn nội tệ. Để thu hút được nguồn vốn này, EIB Hà Nội cần đa dạng hóa các loại tiền gửi với nhiều kỳ hạn khác nhau mang tính linh hoạt, kèm theo những hình thức hấp dẫn khác. Các loại tiền gửi tiết kiệm có thời hạn dài thì cần có những hình thức trả vốn và lãi thích hợp như: trả lãi hàng tháng, trả lãi trước, hoặc nhập vào vốn các khoản lãi đến hạn mà khách hàng chưa đến nhận... Ngoài ra, ngân hàng có thể đa dạng hoá nguồn huy động bằng cách phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi,...Trái phiếu hay chứng chỉ tiền gửi do NH phát hành có thể được dùng để thế chấp, cầm cố để vay vốn tại NH. Đối với đối với các khách hàng này, EIB Hà Nội sẽ có những chính sách ưu đãi hơn, đặc biệt là về lãi suất tiền vay. Mặt khác, EIB Hà Nội cần tiếp tục mở rộng quan hệ đại lý với các NH, các tổ chức tài chính trên thế giới để giúp cho NH đáp ứng vốn ngoại tệ một cách nhanh chóng, thuận tiện, phục vụ tốt cho nhu cầu của các doanh nghiệp kinh doanh XNK. Cuối cùng, là chi nhánh của một NHTMCP việc tăng vốn tự có làm tăng khả năng phòng ngừa rủi ro, tăng khả năng cạnh tranh là một đòi hỏi khách quan. EIB Hà Nội nên xin chỉ tiêu và mức phát hành cổ phiếu từ Hội sở chính để có thể thu hút thêm cổ đông, làm tăng vốn của NH. Đây là nguồn vốn không phải trả lãi, có thời hạn lâu dài và tương đối ổn định, qua đó có thể đáp ứng được nhu cầu vốn trung và dài hạn. 3.3.3. Thực hiện chính sách Marketing hỗn hợp Để thực hiện phương châm “bán sản phẩm khách hàng cần không bán sản phẩm NH mà có” thì việc xác định được sản phẩm nào mà thị trường cần là việc hết sức quan trọng và khó khăn. Tiếp đó là phải làm như thế nào để thu hút khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ của mình đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường với môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Chỉ có thể làm việc này nếu như NH có một chiến lược Marketing thích hợp. Như đã nói ở phần trước, ở EIB Hà Nội cho đến nay việc ứng dụng các hình thức Marketing còn nhiều hạn chế, chưa được chú trọng lắm. Nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động tài trợ XNK, đòi hỏi NH không chỉ thu thập, xử lý thông tin mà còn phải thi hành chính sách Marketing một cách đồng bộ và có hiệu quả, đặc biệt là chính sách khách hàng và lãi suất. Chính sách khách hàng: Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đều phải tìm ra thị trường đầu ra cho sản phẩm của mình, hay nói cách khác khách hàng quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp, vì vậy, khách hàng là đối tượng mà các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu. Trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ cũng không ngoài quy luật đó. Từ thực tế của EIB Hà Nội, em xin đề xuất một số giải pháp sau nhằm thực thi chính sách khách hàng. Với những khách hàng truyền thống, EIB Hà Nội cần tăng cường các chính sách ưu tiên như: hỗ trợ về lãi suất, khối lượng tiền vay, phí thanh toán cũng như các điều kiện đi kèm với việc vay vốn. Bởi vì những khách hàng này sẽ mang đến thu nhập ổn định cho NH, khả năng thu hồi nợ lại cao, giảm bớt phí thu thập thông tin,... Thứ hai, NH cũng nên tích cực mở rộng quan hệ tìm kiếm khách hàng mới và khách hàng tiềm năng. Trước mắt, cần tập trung tiếp thị thu hút các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu lớn, các doanh nghiệp ở các địa phương, các khu chế xuất, khu công nghiệp. Thứ ba, EIB Hà Nội cần lựa chọn khách hàng để ưu đãi tài trợ XNK. Về nguyên tắc, phải đặt ra các tiêu chuẩn trong từng thời kỳ như khả năng tài chính, ngành hàng sản xuất kinh doanh,...theo hướng như sau: - Doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, có uy tín trong quan hệ tín dụng, đặc biệt có nhiều ưu đãi với doanh nghiệp có kim ngạch xuất nhập khẩu cao. - Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng có lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế như: dầu mỏ, nông thuỷ sản,.. - Chú trọng vào những khách hàng có đầu tư công nghệ hiện đại để sản xuất ra nhũng mặt hàng có chất lượng và có giá trị gia tăng cao. Tiếp theo, EIB Hà Nội phải tiếp tục đổi mới cung cách phục vụ tạo điều kiện thuận lơi nhất cho khách hàng khi đến giao dịch tạo NH. Đội ngũ cán bộ phải luôn thể hiện phong cách làm việc văn minh lịch sự, nhiệt tình trước khách hàng. Chính sách giá cả: Giá cả là một yếu tố hết sức nhạy cảm, bởi giá cả của ngân hàng được quy định tương đối chặt chẽ và không có sự chênh lệch lớn giữa các ngân hàng. Điều quan trọng ở đây là chính sách giá cả của NH phải đáp ứng sao cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng, từng loại dịch vụ, từng địa bàn hoạt động và trong từng thời kỳ phải có những thay đổi thích hợp. EIB Hà Nội nên cho khách hàng có nhiều cơ hội để lựa chọn các cách trả lãi khác nhau phù hợp với đặc điểm kinh doanh hoạt động của họ. Bên cạnh hai chính sách vừa nêu trên, EIB Hà Nội cũng cần có những tìm nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, để từ đó đưa ra những sản phẩm, dịhc vụ mới đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Thêm vào đó, NH cần làm mạnh mẽ hơn công tác quảng bá thương hiệu, hình ảnh của mình để ngày càng có nhiều tổ chức, cá nhân biết tới NH, cũng như các dịch vụ mà ngân hàng đang cung ứng. Từ đó, sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng. 3.3.4. Nâng cao chất lượng cán bộ và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng Một ngân hàng chỉ có thể thành công khi có nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, có nghiệp vụ chuyên môn tốt. Để mở rộng hoạt động tài trợ, ngân hàng cần phải có đội ngũ nhân viên nhiệt tình, có trách nhiệm, có kiến thức về thanh toán quốc tế, vận tải, bảo hiểm ngoại thương, thẩm định dự án, luật kinh tế,...Do vậy, việc tuyển chọn, đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng là một việc hết sức quan trọng. Để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, ngay từ khâu tuyển dụng ngân hàng cần tuân thủ đúng quy trình, quy chế thi tuyển công khai, nghiêm túc. Tuyển chọn thêm những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có năng lực, giỏi ngoại ngữ, am hiểu thị trường,... Thường xuyên tổ chức đào tạo lại cho cán bộ nhân viên. Công việc này giúp cho cán bộ ngân hàng luôn được nâng cao kiến thức, cập nhật thông tin thị trường, tự tin hơn trong quá trinh công tác và phấn đấu. Thường xuyên chấn chỉnh tác phong lề lối làm việc, bố trí cán bộ giỏi về nghiệp vụ, khả năng giao dịch tốt để tiếp thị tư vấn và môi giới cho khách hàng cũng như xử lý nghiệp vụ. Có chế độ đãi ngộ đối với những cán bộ công tác tốt, có dóng góp lớn đối vơi ngân hàng thông qua khen thưởng cả về vật chất và tinh thần. Đồng thời kiên quyết loại bỏ khỏi bộ máy những cán bộ không đủ tiêu chuẩn về chuyên môn cũng như đạo đức, tác phong yếu kém. Giải pháp này không có hiệu quả tức thời mà có giá trị tích luỹ trong dài hạn. 3.3.5. Tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu Rủi ro tín dụng luôn là bạn đồng hành với hoạt động tín dụng của các NHTM, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng tài trợ XNK, liên quan đến các giao dịch thương mại quốc tế. Rủi ro trong giao dịch quốc tế thường xảy ra do khoảng cách về địa lý, những khác biệt về văn hoá, luật pháp, đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp...Rủi ro có thể làm giảm hiệu quả kinh doanh, giảm thu nhập, thậm chí đưa ngân hàng đến tình trạng phá sản. Do vậy, vấn đề quản lý rủi ro tín dụng XNK là một tất yếu. Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro xảy ra, ngân hàng có thể thực hiện như sau: - Trong thời gian cụ thể, Ngân hàng cần phải có kế hoạch, phương án hoạt động kinh doanh có tính đến mức độ rủi ro sát với thực tế để có thể dự đoán được thu nhập và chi phí. - Tăng cường thu thập thông tin về khách hàng cũng như đối tác của khách hàng, tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, xuống tận cơ sở khảo sát thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, nghiên cứu và đáp ứng nhu cầu của khách hàng đang cần vốn vay trên cơ sở quản trị rủi ro. - Đa dạng hoá các hình thức bảo đảm rủi ro tín dụng như: xác định mức tín dụng, tăng quỹ bù đắp rủi ro,sử dụng tài sản thế chấp, cầm cố, số dư bù,...để đảm bảo khả năng hoàn trả khoản vay của khách hàng cũng như khả năng thu hồi một phần giá trị của khoản vay khi khách hàng không trả nợ. - Ngân hàng cần cập nhật và am hiểu những quy chế, văn bản mới về hoạt động kinh doanh nhất là hoạt động XNK, không chỉ của nước ta mà của nước ngoài và quốc tế để đảm bảo việc ra quyết định của cán bộ tín dụng được chính xác và đem lại hiệu quả cao cho ngân hàng. 3.3.6. Nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng EIB Hà Nội cần phải thường xuyên tiếp cận với khách hàng, nắm bắt các thông tin và khách hàng từ khâu nghiên cứu thị trường, nghiên cứu khách hàng, đến khâu điều ra, thẩm định dự án xin vay vốn, nắm bắt được các thông tin trong quá trình sử dụng vốn vay, tiêu thụ sản phẩm, nguồn trả nợ... Để thu được các thông tin này, ngoài những thông tin mà khách hàng cung cấp cho NH thì NH có thể phỏng vấn trực tiếp khách hàng, điều tra tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thông qua các khách hàng, đối tác, đối thủ canh tranh của doang nghiệp đó, cơ quan quản lý thuế, phương tiện thông tin đại chúng...Xây dựng tốt hệ thống thông tin tín dụng, ngân hàng mới có đầy đủ thông tin về khách hàng, nhờ vạy việc tài trợ sẽ trở nên thuận tiện, nhanh chóng và giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. 3.4. Một số kiến nghị nhằm phát triển nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu 3.4.1. Kiến nghị đối với Hội sở Trung Ương EIB Việt Nam Bên cạnh sự cố gắng, nổ lực của EIB Hà Nội, chi nhánh vẫn luôn cần sự giúp đỡ của Hội sở Trung Ương. Để hoạt động tài trợ XNK được tăng trưởng và phát triển hơn, em xin đưa ra một số ý kiến đề nghị đối với Hội sở Trung Ương EIB như sau: - Hội sở nên có những giải pháp thích hợp nhằm điều hoà vốn trong hệ thống EIB một cách có hiệu quả nhất, tập trung vốn cho các chi nhánh có triển vọng, làm ăn có hiệu quả. - Từng bước cải thiện thủ tục tín dụng xuất nhập khẩu cũng như hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn các nghiệp vụ ngân hàng đặc biệt là quy chế miễn giảm lãi và quy chế xử lý nợ rủi ro, các văn bản quy định chi tiết trong lĩnh vực tín dụng xuất nhập khẩu. Để từ đó tạo điều kiện cho thuận lợi cho cả khách hàng đến xin tài trợ cũng như các chi nhánh thực hiện hoạt động này. - Hội sở nên cấp nhiều chỉ tiêu học tập, đào tạo năng cao trinh độ chuyên môn cho chi nhánh hơn nữa, việc nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ sẽ giúp cho họ có được những xử lý linh hoạt hơn đối với các tình huống xảy ra, góp phần ngăn ngừa nợ quá hạn phát sinh do năng lực thẩm định của cán bộ được nâng cao. - Đề nghị Hội sở cấp kinh phí nhanh chóng đổi mới mạng lưới thiết bị thông tin đáp ứng kịp thời nhu cầu của công việc hiện tại cũng như lâu dài. 3.4.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước Để tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện hiệu quả hoạt động tín dụng XNK, em xin kiến nghị với Ngân hàng nhà nước (NHNN) một số điều sau: - Trước hết, NHNN cần phải có cơ chế quản lý ngoại hối phù hợp, nhằm tạo ra sự ổn định vể tỷ giá. Thời gian vừa qua, diễn biến tỷ giá giữa VNĐ và USD diễn biến tương đối phức tạp, NHNN cần thông qua các công cụ vĩ mô để có biện pháp làm bình ổn tỷ giá để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh XNK, từ đó, tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng XNK. - NHNN phải phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ kịp thời cho mỗi ngân hàng, hạn chế rủi ro về tỷ giá nhằm đáp ứng tôt nhất nhu cầu của khách hàng. - NHNN cần củng cố hệ thống thông tin và cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về các khách hàng cho hệ thống NHTM nói chung bằng cách tăng cường hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro. Cụ thể là chỉ đạo, đôn đốc các ngân hàng thực hiện chế độ thông tin khách hàng theo quy chế và tổ chức hoạt động thông tin tín dụng do Thống đốc NHNN ban hành, đồng thời giúp các ngân hàng cập nhập thông tin khi có biến động của khách hàng. - NHNN cần kiện toàn cơ chế thanh tra, kiểm tra và giám sát đối với hoạt động ngân hàng, đặc biệt là tín dụng XNK theo hướng giảm can thiệp hành chính, tăng quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm của các NHTM. Những sai lầm, thiếu sót cần được xử lý nghiêm minh, đúng mức và kịp thời. - Ngoài ra, NHNN cần tìm ra những chính sách vĩ mô phù hợp với từng thời kỳ để tạo ra sự bình ổn và tăng trưởng kinh tế. Đây là nhân tố khách quan tác động đến quy mô và chất lượng hoạt động tín dụng của các NHTM. 3.4.3. Kiến nghị đối với Chính phủ - Chính phủ cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện môi trường pháp lý. Vì kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, nhất là liên quan đến hoạt động XNK nên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do đó, đòi hỏi phải có một môi trường pháp lý đồng bộ. Trên thực tế, nước ta gặp rất nhiều bất cập về luật pháp và các chế tài kinh tế cần phải sửa đổi nhanh chóng cho phù hợp với sự phát triển của đất nước. - Chính phủ nên dành nguồn vốn thích đáng cho những ngành xuất khẩu mũi nhọn thông qua các kênh tín dụng và đầu tư. Để từ đó giúp ngân hàng khai thông được mối quan hệ tín dụng với doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cũng từ đó, đảm bảo dư nợ tín dụng lành mạnh cho ngân hàng. - Chính phủ cần có những chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động XNK, nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng nguồn lực sẵn có trong nước, phát triển mạnh những sản phẩm, dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. - Đơn giản hoá các thủ tục hành chính đối với hoạt động XNK, thành lập các trung tâm thương mại để cung cấp các thông tin về thị trường XNK, các đối tác thương mại...tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia và hoạt động XNK được thuận lợi hơn. KẾT LUẬN Việc mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một tất yếu khách quan, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay. Nó không chỉ đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XNK mà nó còn đem lại thu nhập đáng kể cho NHTM. Không chỉ vậy, nó còn giúp cho các NHTM khẳng định được vị thế của mình trong hệ thống ngân hàng quốc gia, cũng như hệ thống ngân hàng quốc tế. Việc nguyên cứu giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại EIB Hà Nội là một vấn đề phức tạp. Tuy nhiên, sau một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu, chuyên đề đã hoàn thành một số công việc như sau: - Giới thiệu một cách khái quát về hoạt động của chi nhánh EIB Hà Nội, cũng như về hoạt động tín dụng tài trợ XNK, để từ đó nêu lên tầm quan trọng của hoạt động này hiện nay. - Phân biệt một số hình thức tín dụng tài trợ XNK, phân tích thực trạng và chỉ ra các ưu nhược điểm của các hình thức đó tại EIB Hà Nội hiện nay. - Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại EIB Hà Nội. Thông qua chuyên đề này, em hy vọng rằng một số giải pháp và kiến nghị đã nêu sẽ góp một phần nào vào quá tình định hướng và việc đề ra các giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại EIB Hà Nội nói riêng cũng như các ngân hàng thương mại nói chung. Trong điều kiện hạn chế về mặt thời gian, trình độ và kinh nghiệm nên chuyên đề có thể sẽ mắc một số sai lầm và thiếu sót, mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để chuyên đề ngày càng được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô Cao Ý Nhi và các anh chị trong Phòng Tín dụng - Đầu tư EIB Hà Nội đã hướng dẫn tận tình tình cho em hoàn thành chuyên đề này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cẩm nang về nghiệp vụ xuất nhập khẩu – Dương Hữu Hà NXB Thống kê 2005 2. Giáo trình Ngân hàng thương mại – TS Phan Thị Thu Hà NXB Thống kê 2004 3. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp – PGS.TS Lưu Thị Hương NXB Thống kê 2003 4. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế - PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo NXB Lao động xã hội 2004 5. Quan hệ kinh tế quốc tế - GS.TS Võ Thanh Thu – NXB Thống kê 2003 6. Quản trị ngân hàng thương mại – Peter S.Rose – NXB Tài chính 2004 7. Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương – PGS.TS Nguyễn Văn Tiến NXB Thống kê 2005 8. Thanh toán quốc tế - Lê Văn Tề - NXB Tư pháp 2004 9. Tín dụng tào trợ xuất, nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ GS.TS Lê Văn Tư – NXB Thống Kê 2000 10. Luật ngân hàng và các TCTD 11. Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2003,2004,2005 của EIB Hà Nội 12. Các hướng dẫn nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ thanh toán XNK của EIB Hà Nội 13. Các tạp chí: Ngân hàng, Tài chính, Thị trường TC-TT, Ngoại thương; Thương mại, Nghiên cứu kinh tế, Thời báo kinh tế Việt Nam. MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36521.doc
Tài liệu liên quan