Quá trình toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành xu thế tất yếu và tạo ra những thời cơ, thuận lợi cũng như những khó khăn và thách thức đối với mỗi quốc gia. Nó đang tác động một cách mạnh mẽ vào thị trường Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực ngân hàng – tài chính. Các ngân hàng Việt Nam cũng như một số ngân hàng nước ngoài bước đầu vào Việt Nam đang cạnh tranh gay gắt với nhau về một thị trường tiềm năng, đó là thị trường ngân hàng bán lẻ, hơn bao giờ hết đây là thời điểm mà các ngân hàng Việt Nam cần chú trọng vào năng lực cạnh tranh tiến tới chuẩn mực quốc tế. Vì vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là cần thiết đối với các ngân hàng. Đặc biệt là việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng tại thì trường bán lẻ, trong đó, cho vay tiêu dùng đang là một trong những dịch vụ mà các ngân hàng nhắm tới.
Việc nghiên cứu khả năng cạnh tranh và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam có thể góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như chất lượng của hoạt động tại ngân hàng nói chung và khả năng cạnh tranh mạnh mẽ về cho vay tiêu dùng của ngân hàng nói riêng, mang lại hiệu quả kinh doanh cao cho Sở giao dịch trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh nói chung và trong cho vay nói riêng.
94 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1660 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dùng tại SGD I
Bảng 2.10: Tỷ trọng sản phẩm cho vay tiêu dùng tạo SGD I
Đơn vị:Tỷ đồng
Sản phẩm
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số dư
Tỉ trọng (%)
Số dư
Tỉ trọng (%)
Số dư
Tỉ trọng (%)
Nhà mới
42.57
60
44.8
60.9
48.19
61
Ô tô xịn
10.47
15
11.02
15
11.92
15.08
Du học
2.01
2.8
2.2
3
2.37
3
Cho vay tiêu dùng khác
14.75
22.2
14.62
20
16.52
20.02
Tổng
69.8
100
73.47
100
79
100
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh SGDI)
Đồ thị 2.2: Cơ cấu cho vay tiêu dùng
Đơn vị: %
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh SGD I)
Từ bảng kết quả trên chúng ta có thể rút ra một số nhận xét cơ bản: sản phẩm Nhà mới vẫn chiếm ưu thế nhất, đạt tỉ trọng 61% trong tổng CVTD. Sản phẩm ô tô xịn mới chỉ chiếm 15% trong tổng dư nợ, cho vay du học chỉ đạt 3% trong cơ cấu cho vay của SGD I.
2.3. Đánh giá hoạt động cho vay tiêu dùng và khả năng cạnh tranh trong cho vay tiêu dùng tại SGD I
2.3.1. Kết quả đạt được
Xét về tổng quan, hoạt động CVTD tại SGD I đang phát triển theo chiều hướng tốt. Tốc độ tăng dư nợ cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ đang có xu hướng tăng lên. Đây là một tín hiệu tốt cho hoạt động cho vay tiêu dùng tại SGD I. Hơn nữa, kết quả thu lãi từ hoạt động cho vay tiêu dùng là rất tốt.
Về cơ cấu cho vay, sản phẩm Nhà mới vẫn chiếm ưu thế nhất, vẫn đang được mở rộng. Sản phẩm cho vay mua ô tô cũng đang tăng qua các năm với những chính sách cho phép nhập khẩu ô tô cũ, chính sách giảm giá mạnh để cạnh tranh của các hãng xe cũng như xu hướng sử dụng ô tô của người dân thành thị, sản phẩm này sẽ tiếp tục phát huy thế mạnh trong thời gian tới.
Về hoạt động thu lãi của SGD I, đang ngày càng tăng. Hoạt động thu lãi của SGD I tăng theo hoạt động dư nợ của SGD I.
Xét về số tuyệt đối cho vay tiêu dùng tại SGD I, năm 2007 đạt có 79 tỷ đồng, khá cao so với các ngân hàng cùng địa bàn như SCB, ACB...
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế:
Thứ nhất, xét về mức độ đa dạng của các hình thức cho vay tiêu dùng, SGD I chưa đưa ra được một sản phẩm đột phá nào so với các ngân hàng cùng thị trường, hay nói cách khác những sản phẩm SGD I cung cấp thì khách hàng cũng có thể tìm thấy sản phẩm tương tự ở các ngân hàng khác. Hơn nữa, các ngân hàng khác như ACB họ có nhiều sản phẩm cho vay tiêu dùng phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng như cho vay thế chấp sổ tiết kiệm, cho vay mua trả góp hàng tiêu dùng,…và nhiều hình thức khác để thu hút khách hàng, trong khi đó SGD I chưa có nhiều sản phẩm để khách hàng lựa chọn ngoài ba sản phẩm chính: cho vay mua ô tô, cho vay mua và sửa chữa nhà cửa và cho vay du học.
Thứ hai, mức cho vay tiêu dùng của ngân hàng còn thấp. Mỗi khoản cho vay chỉ được cho vay tối đa là 70% giá trị tài sản (tài sản hình thành từ vốn vay hoặc tài sản đảm bảo khác). Số tiền này còn nhỏ đặc biệt với đối tượng khách hàng có thu nhập cao, có nhu cầu được vay cả giá trị tài sản đó.
Thứ ba, cơ cấu cho vay tiêu dùng bị mất cân đối tỷ trọng cho vay mua xây sửa nhà ở và cho vay tiêu dùng khác.
Thứ tư, cho vay tiêu dùng của chưa được mở rộng phù hợp với ưu thế của một ngân hàng lớn như BIDV nói chung và tại SGD I nói riêng.
Nguyênnhân Các nguyên nhân từ phía ngân hàng:
Xuất phát từ các chính sách từ phía ngân hàng.
+ Tỷ trọng cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo chưa linh hoạt: theo chính sách cho vay tiêu dùng tại SGD I thì khách hàng được vay tối đa 70% giá trị của tài sản đảm bảo (phần lớn là giá trị nhà đất) giá trị này do phòng thẩm định tài sản đảm bảo định giá (và thường thấp hơn so với giá trị thị trường, tuy cán bộ tín dụng đã được chuyên môn hóa). Song do thẩm định chưa tốt, không nắm chắc được khả năng trả nợ của khách hàng, sợ rủi ro nên ngân hàng thường chỉ cho vay ở mức 30%-50% giá trị tài sản đảm bảo, không thỏa mãn được tối đa nhu cầu của khách hàng.
+ Tài sản đảm bảo là nhà đất được quyền thế chấp thì phải được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (sổ đỏ): tuy nhiên có rất nhiều khách hàng có khả năng tài chính tốt có khả năng trả nợ lại không được vay vốn do không có đủ điều kiện về tài sản đảm bảo ( do chưa được cấp quyền sở hữu . Điều này làm hạn chế số lượng khách vay vốn ngân hàng.
Công nghệ ngân hàng còn yếu kém.
BIDV là một trong hai ngân hàng quốc doanh lớn nhất ở nước ta hiện nay. Với thương hiệu BIDV lâu năm, hoạt động ngân hàng truyền thống phát triển. Tuy vậy, ngân hàng vẫn còn yếu kém về công nghệ như có nhiều trường hợp khách hàng đến thanh toán tiền lãi vay hoặc thanh lí hợp đồng, hệ thống mạng nội bộ tỏ ra quá tải là tốn rất nhiều thời gian của khách hàng, đồng thời làm lỡ mất cơ hội kinh doanh của ngân hàng. Chính vì thế trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt trên thị trường, với tiềm lực vốn lớn, khả năng huy động cao. BIDV đang có xu hướng phát triển sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại như tập trung phát triển dịch vụ, cho vay tiêu dùng… Nhưng lại là ngân hàng phát triển hệ thống ngân hàng bán lẻ sau một số ngân hàng cổ phần, chính vì vậy ngân hàng cần phải có những chính sách xây dựng hệ thống công nghệ để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng cổ phần đang rất phát triển hiện nay như là ACB, SCB, Sacombank…
Hoạt động Markeing còn yếu:
Hiện tại SGD I, chưa có một bộ phận marketing và phát triển sản phẩm mới, nhân viên các phòng tín dụng cùng với phòng kế hoạch nguồn vốn kiêm thêm nhiệm vụ marketing với khách hàng. Điều này sẽ làm cho việc quảng bá sản phẩm của BIDV kém, dẫn đến người dân không biết nhiều về sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Hiện nay, khách hàng đến với BIDV vẫn chủ yếu là khách hàng truyền thống. Cần phải mở rộng tiếp thị, tạo ra sản phẩm mới để thu hút khách hàng mới.gia thịaconbank...ức thấp vay tiê
Nguyên nhân khách quan
Môi trường pháp luật.
+ Sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà Nước về quản lý tài nguyên môi trường với các TCTD không đồng bộ.
Theo Thông tư liên tịch số 03/2003/TTLT-BTP-BTNMT ngày 04/07/2003 hướng dẫn về trình tự, thủ tục đăng ký và cung cấp thông tin về thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Thông tư 03 có ảnh hưởng quan trọng đến các ngân hàng thương mại bởi theo như hướng dẫn, các ngân hàng và khách hàng phải đến Uỷ ban nhân dân phường hoặc Sở tài nguyên môi trường làm thủ tục đăng ký thế chấp, bảo lãnh. Tuy nhiên trong quá trình trên, thông thường ngân hàng và khách hàng sẽ phải tốn thêm nhiều thời gian và tiền (lệ phí đăng ký) ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của các ngân hàng.
+ Theo quy định mới nhất của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP về việc sửa đổi bổ sung luật đất đai, khách hàng có nhu cầu vay tiền tại các tổ chức tín dụng có tài sản thế chấp là giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và sử dụng đất sau khi làm thủ tục cầm cố, thế chấp tại cơ quan công chứng Nhà nước, thì khách hàng phải tiến hành đăng ký giao dịch đảm bảo tại Sở tài nguyên môi trường hoặc phòng đăng ký giao dịch đảm bảo tại cơ quan cấp quận, huyện. Nhưng thực tế triển khai tại các UBND thời gian để được đăng ký thế chấp thường rất lâu (tối thiểu là 1 tuần) muốn nhanh thì phải có các khoản chi phí chìm. Chính vì thế, tuy quy định này thắt chặt hơn nữa việc quản lý nhà đất của các cơ quan chức năng nhưng sẽ gây tâm lý e ngại cho khách hàng và là một trong những nguyên nhân làm giảm cơ hội vay vốn của khách hàng, giảm thu nhập của ngân hàng.
+ Tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và sử dụng đất ở trên địa bàn phần lớn các tỉnh, thành phố còn rất chậm.
Theo quy định, VPBank chỉ nhận tài sản đảm bảo là nhà, đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Chính vì thế nhiều khách hàng có nhân thân tốt, khả năng trả nợ tốt nhưng không được vay vốn ngân hàng do không đủ điều kiện về tài sản đảm bảo.
+ Hệ thống pháp luật cho hoạt động cho vay tiêu dùng còn thiếu và chưa đồng bộ.
Đến nay nước ta vẫn chưa có một bộ luật riêng và cụ thể về cho vay tiêu dùng như luật tín dụng tiêu dùng ở các nước phát triển, điều này gây không ít khó khăn cho các NHTM. Hiện nay, các ngân hàng chủ yếu dựa vào các quy chế chung như quy định số 1627/2001/ QĐ - NHNN ngày 31/12/2001 của thống đốc NHNN Việt Nam, hay NĐ 85/2002/NĐ -CP sửa đổi, bổ sung NĐ 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. Trong khi những văn bản pháp luật này đều chưa đủ và đáp ứng hết những yêu cầu phát sinh trong thực tế cho vay tiêu dùng. Bên cạnh đó, các luật có liên quan đến hoạt động cho vay tiêu dùng vẫn còn nhiều bất cập như Luật đất đai với những vướng mắc trong việc định giá đất, Luật dân sự…. chưa đồng bộ …cũng là một cản trở đối với không chỉ hoạt động cho vay tiêu dùng mà là toàn bộ hoạt động của ngân hàng.
+ Những khó khăn của ngân hàng trong việc thu hồi nợ thông qua thi hành án.
Theo quy định, khi đến hạn khách hàng không trả được nợ mà không có đơn xin gia hạn nợ và không được tổ chức tín dụng gia hạn thì tổ chức tín dụng được phép phát mại tài sản thế chấp. Tuy nhiên trên thực tế tổ chức tín dụng gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc thu hồi nợ thông qua thi hành án; các thủ tục khởi kiện và việc thu lý hồ sơ kéo dài tối thiểu là vài tháng. Vấn đề nổi cộm ở đây nhất, khiến cán bộ thu hồi nợ trăn trở nhất chính là ở chỗ thi hành các Bản án dân sự. Có rất nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật từ rất lâu, tài sản để thi hành án còn đó nhưng cơ quan thi hành án không thực hiện được mặc dù ngân hàng thường xuyên thúc dục, đôn đốc, bằng văn bản có, bằng lời có, bằng việc có...? Đây chính là khó khăn lớn nhất, tồn tại chủ quan lớn nhất mà công tác thu hồi nợ gặp phải. Có nhiều nguyên nhân không thi hành án được, trong đó hai nguyên nhân bao trùm: Thứ nhất cán bộ chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan cơ quan thi hành án chưa "nhiệt tình"; thứ hai, việc tổ chức cưỡng chế thi hành án quá phức tạp, chi phí quá đắt trong khi số tiền phải thi hành án lại tương đối rải rác nhỏ lẻ.
Môi trường kinh tế
Trước hết phải kể đến ảnh hưởng của những hạn chế trong nền kinh tế nước ta. Mặc dù những năm qua nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao riêng năm 2007 là 8,2%; quy mô nền kinh tế đã tăng lên song còn nhỏ, thấp xa nhiều nước trong khu vực. Nền kinh tế đang có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu nhưng tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm vẫn còn thấp. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của các NHTM nhất là sự cạnh tranh trong lĩnh vực này ngày càng cao. Bên cạnh đó, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu là vốn và lao động, yếu tố tiến bộ về khoa học công nghệ và quản lý vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Đây cũng là nguyên nhân giải thích vì sao công nghệ ngân hàng vẫn chưa được quan tâm phát triển thích đáng khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, nhiều doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế chưa có những bước tiến đáng kể. Những tồn tại của nền kinh tế như trên đã tác động xấu đến việc thu hút đầu tư nước ngoài dẫn đến thị trường trong nước chưa có sự phát triển vượt bậc, mức sống của người dân vẫn còn thấp, so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới và chính điều đó đã hạn chế khả năng tiêu dùng.
Hơn nữa, tuy BIDV là ngân hàng có thương hiệu lâu năm, phát triển tốt các dịch vụ sản phẩm ngân hàng truyền thống nhưng so với phát triển cho vay tiêu dùng thì không cạnh tranh được với các ngân hàng thương mại cổ phần như ngân hàng ACB, Sacombank…
Môi trường văn hoá- xã hội.
Môi trường văn hoá xã hội Việt nam có tác động không thuận lợi cho hoạt động cho vay tiêu dùng. Trước hết phải kể đến thói quen tâm lý khác nhau giữa người dân miền Bắc và người miền Nam. Trong khi người miền Nam thích tiêu dùng và làm ra để hưởng các nhu cầu tiện ích mới thì người miền Bắc lại rất tiết kiệm và không quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Chẳng hạn người dân ở khu vực Hà Nội, thường không thích đi vay nên phần lớn họ chờ tích luỹ đủ mới tiêu dùng. Hoạt động của BIDV chủ yếu là ở khu vực phía Bắc, do đó tìm cách tác động vào tâm lý này của người dân để họ tìm đến với ngân hàng hưởng lợi ích từ ngân hàng sẽ là một phương pháp hữu hiệu để các sản phẩm cho vay tiêu dùng được nhiều người biết đến và tin dùng hơn.
Ngoài ra, việc phát triển cho vay tiêu dùng qua thẻ ở các nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore đã phát triển từ rất lâu rồi nhưng ở Việt Nam cho vay qua thẻ mới chỉ chủ yếu phục vụ cho đối tượng khách hàng là những người đi công tác và hoạt động tại nước ngoài, còn phần đông dân cư chưa hiểu biết về thẻ, chưa coi đó là phương tiện thanh toán đa tiện ích của mình, cũng như chưa có điều kiện sử dụng nó. Điều này xuất phát từ thói quen sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế Việt Nam và cũng xuất phát từ một thực tế là việc sử dụng thẻ ở Việt Nam còn nhiều bất tiện do số cơ sở chấp nhận thẻ quá thấp…. Các cơ sở cung ứng hàng hoá, dịch vụ cũng có ý muốn thu tiền mặt. Chính vì vậy thanh toán bằng tiền mặt vẫn chiếm trên 30% trong bán buôn và 95% trong bán lẻ ở nước ta. Ngoài ra, hiểu biết của người dân Việt Nam về hoạt động cho vay tiêu dùng còn nhiều hạn chế bởi đây là loại hình dịch vụ còn khá mới mẻ trong lịch sử ngành ngân hàng trong khi việc phổ cập kiến thức về hoạt động cho vay tiêu dùng trên các phương tiện thông tin đại chúng còn ít.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
3.1. Định hướng phát triển cho vay tiêu dùng tại SGD I
3.1.1. Xu hướng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng trong thời gian tới
Thị trường tín dụng tiêu dùng thời gian gần đây đang diễn ra sự cạnh tranh sôi động giữa các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân ngân hàng đang phát triển ở nước ta. Tất cả các NHTM và định chế tài chính không phải là ngân hàng cũng đang nhanh chóng nhảy vào thị trường tiêu dùng đầy tiềm năng này.
Thị trường tín dụng tiêu dùng hình thành đã lâu nhưng kém phát triển ở Việt Nam. Trước đây, với hoạt động ngân hàng truyền thông ở nước ta, khách hàng chỉ có thể vay vốn cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh và làm dịch vụ. Khi vay vốn nhìn chung khách hàng phải có dự án khả thi, thể hiện rõ đối tượng đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh cái gì, sản phẩm và khả năng tiêu thụ ra sao, vòng quay vốn và thời hạn thu hồi vốn như thế nào,… kèm theo tài sản đảm bảo tiền vay hoặc tín chấp, thì mới có thể được vay vốn của ngân hàng thương mại.
Hiện nay, trong xu hướng hội nhập quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần…đang cạnh tranh mạnh mẽ với nhau phát triển các sản phẩm tín dụng tiêu dùng, thu hút khách hàng cá nhân. Đó là cho khách hàng vay tiền với mục đích tiêu dùng chứ không phải đầu tư sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ…Đây là sản phẩm tín dụng xuất hiện lâu trên thế giới và hiện nay đang phát triển rất mạnh, nhất là ở các quốc gia có tiềm lực về kinh tế và cạnh tranh ngân hàng sôi động, nhưng mới phát triển một số năm gần đây tại Việt Nam.
Thực ra thì cho vay tiêu dùng đã phát triển gần 10 năm qua ở Việt Nam, khởi nguồn và sớm triển khai, phát triển rộng chính là hệ thông Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Các chi nhánh NHNN&PTNT triển khai cho vay tiêu dùng để mua sắm phương tiện đi lại, ti vi,…đối với giáo viên, cán bộ… ở địa bàn (nhất là vùng núi), cho vay trên cơ sở bảng lương và có ý kiến của công đoàn cơ quan. Phương thức trả góp hàng tháng trên cơ sở trích một phần tiền lương. Với cách làm này, có nhiều chi nhánh NHNN&PTNT đạt dư nợ cho vay tiêu dùng tới 40 - 50% tổng dư nợ trên địa bàn, phủ kín nhu cầu vay tiêu dùng tới tất cả các trường học, cơ quan, đơn vị trên địa bàn. Đặc biệt là đến nay sản phẩm tín dụng tiêu dùng đã phát triển mạnh trong toàn hệ thống NHNN&PTNT, kể cả các chi nhánh ở những thành phố lớn, các khu công nghiệp có màng lưới chi nhánh và tỷ lệ rủi ro tín dụng tiêu dùng rất thấp nếu không nói rằng hầu như không có.
Đến nay, tất cả các NHTM đều đang triển khai nhiều giải pháp, cạnh tranh phát triển cho vay tiêu dùng. Năng động nhất chính là các NHTM cổ phần, liên tục đưa ra các sản phẩm tiện ích, như: cho vay siêu tốc, đăng ký vay qua mạng Internet, lãi suất cho vay hấp dẫn, kỳ hạn cho vay dài, cho vay tới 80% giá trị ngôi nhà hay xe ô tô,... đồng thời các NHTM cổ phần chủ động tiếp thị qua nhiều kênh khác nhau, thậm chí phối hợp với công đoàn, với doanh nghiệp tổ chức giới thiệu ngay tại nơi công nhân làm việc cùng với đại lý ô tô hay chủ dự án nhà ở đi làm thủ tục thay cho khách hàng,...
NHTM cổ phần An Bình - ABBank, tung ra sản phẩm cho vay tín chấp đối với khách hàng thể nhân tối đa lên tới 200 triệu đồng cho mục đích tiêu dùng, thời hạn tối đa lên tới 5 năm và lãi suất cho vay hết sức cạnh tranh, dưới 1%/tháng. NHTM cổ phần Phương Nam tung ra sản phẩm cho khách hàng vay vốn mua nhà ở và đất ở tới 95% giá trị tài sản thế chấp.
Đặc biệt mới đây, NHTM cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) tung ra sản phẩm cho khách hàng vay tiền mua căn hộ tại dự án Sky Garden III của Phú Mỹ Hưng với thời hạn vay tới 20 năm, trong đó, có tới 3 năm ân hạn bằng với thời gian nhận nhà. Lãi suất Eximbank đưa ra cũng chỉ có 1%/tháng vào loại thấp nhất trong khối NHTM cổ phần và thấp hơn cả Vietcombank. Mức cho vay tối đa tới 80% giá trị bất động sản thế chấp bằng chính căn hộ mua, hoặc tới 100% giá trị bất động sản nếu có thêm tài sản đảm bảo tiền vay khác.
Hàng loạt NHTM cổ phần khác như: Techcombank, Mekong Bank, Sacombank,… cũng cho khách hàng vay tiền mua nhà, mua căn hộ trong các dự án chung cư,… lên tới 70 - 80% giá trị ngôi nhà hay căn hộ, thời hạn vay tối đa tới 15 - 20 năm. Đặc biệt NHTM cổ phần Phát triển nhà Thành phố Hồ Chí Minh cho vay tới 100% giá trị ngôi nhà và thời hạn vay tới 30 năm.
NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội - SHB, từ đầu tháng 11/2007 còn tung ra sản phẩm cho vay tín chấp có tính cạnh tranh lớn hơn. Đó là cho vay tín chấp tiêu dùng, dành cho khách hàng đang làm việc tại các đơn vị hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, công ty liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và văn phòng đại diện các tổ chức nước ngoài. Theo đó, khách hàng chỉ cần có nguồn thu nhập ổn định từ 2,5 triệu đồng/tháng là có thể được vay, mức vay tối đa lên tới 300 triệu đồng.
Đối với khối ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì tập trung vào phân khúc thị trường, đó là nhắm đến những người có thu nhập khá trở lên. Đối tượng khách hàng này bao gồm: chủ doanh nghiệp, những người làm việc cho các cơ quan nước ngoài và dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các đối tượng khác có thu nhập cao, có mua bảo hiểm nhân thọ tại các công ty bảo hiểm có uy tín. Sản phẩm được khối ngân hàng này tập trung vào chủ yếu là khách hàng mua căn hộ tại các khu chung cư, mua nhà ở của các dự án, mua ô tô mới tại các địa lý chính thức, vay tiền đi du học nước ngoài. Riêng sản phẩm tín dụng cho khách hàng vay mua nhà được khối ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài chú trọng tới các dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Indovina Bank và VID Public Bank cho khách hàng vay với thời hạn tới 20 năm, riêng HSBC cho vay với thời hạn tới 25 năm.
Nhìn thấy tiềm năng lớn của thị trường tín dụng tiêu dùng tại Việt Nam, với số dân là hơn 80 triệu người và phần đông là dân số trẻ, năng động, thu nhập không ngừng được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng đang tăng cao, nên không chỉ các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng trong nước mà nhiều định chế tài chính cung ứng dịch vụ tiêu dùng hàng đầu thế giới.
Ngay từ năm 2006, General Electric Money (GE Money), một chi nhánh của Tập đoàn General Electric của Mỹ đã được cấp giấy phép mở Văn phòng đại diện tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đây là bước hoạt động đầu tiên chuẩn bị cho hoạt động của một chi nhánh tại Việt Nam. GE Money có thế mạnh và sẽ mở rộng các hoạt động dịch vụ tiêu dùng, tín dụng cá nhân,... GE Money được biết hoạt động khá thành công tại thị trường Trung Quốc, đặc biệt trong lĩnh vực tài trợ cho khách hàng cá nhân mua xe ô tô.
Công ty tín dụng tiêu dùng Societé Genérale Viet Finance, thuộc tập đoàn Societé Genérale lớn thứ hai ở Pháp và thứ tư ở châu Âu, được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp giấy phép đã khai trương hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2007, với số vốn điều lệ 20 triệu USD.
Trước đó, Công ty tín dụng tiêu dùng Prudential cũng đã đi vào hoạt động, cung cấp các dịch vụ tín dụng: mua nhà ở, mua xe ô tô và các nhu cầu vay tiêu dùng khác của khách hàng.
Nhiều tập đoàn cung ứng dịch vụ tín dụng tiêu dùng của Mỹ, Pháp, Nhật,… cũng đang có kế hoạch mở rộng hoạt động tại Việt Nam.
Dự báo, năm 2008 và thời gian tới, thị trường tín dụng tiêu dùng ở Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ và cạnh tranh sôi động, với sự tham gia đông đảo của hầu hết các NHTM và định chế tài chính phi ngân hàng được phép hoạt động nghiệp vụ này.
3.1.2. Định hướng phát triển chung tại SGD I
Trong bối cảnh đất nước chuyển mình hoà nhập với thế giới, năng lực tài chính được coi là yếu tố quyết định đảm bảo sức mạnh, sức cạnh tranh của một ngân hàng. Nhận thức rõ điều này, trong năm 2006, năm mà Việt Nam chính thức gia nhập WTO, SGD I cùng với toàn hệ thống Ngân hàng BIDV đã đặt mục tiêu nâng cao năng lực tài chính như là một mục tiêu quan trọng bậc nhất trong hoạt động Ngân hàng. Tăng cường năng lực tài chính là một cách toàn diện, đồng bộ, đảm bảo sức chống đỡ rủi ro cao, phát triển bền vững.
Định hướng hoạt động của SGD I là phát huy tốt vai trò của đơn vị chủ lực, phấn đấu xứng đáng đi đầu của BIDV trong hội nhập, phát huy tốt vai trò đầu mối trong tổ chức triển khai thoả thuận hợp tác toàn diện với khách hàng Tập đoàn, Tổng công ty lớn, các định chế tài chính của toàn ngành, đào tạo chuyên sâu đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, giáo dục phẩm chất đạo đức cán bộ đáp ứng tốt yêu cầu hoạt động của Ngân hàng trong thời kì mới và đặc biệt kiểm soát chặt chẽ hoạt động, nâng cao sức cạnh tranh, đảm bảo thực hiện tốt phương trâm phát triển an toàn - hiệu quả - bền vững và phấn đấu hoàn thành xuất xắc các mục tiêu chính : Tăng trưởng bình quân huy động vốn 22-25%/năm, tăng cường dư nợ cho vay bình quân 18-20%/năm, tăng trưởng thu dịch vụ bình quân 25-27%/năm, trích đủ dự phòng rủi ro, thực hiện tốt nghĩ vụ với ngân sách và đảm bảo doanh lợi của Ngân hàng.
3.1.3. Định hướng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại SGD I
Nhận thức được xu hướng phát triển một thị trường cạnh tranh mạnh mẽ giữa các ngân hàng trong nước với nhau và với các ngân hàng nước ngoài, một định hướng quan trọng của BIDV đến năm 2010 là từng bước xây dựng BIDV trở thành ngân hàng bán lẻ và đến năm 2010, 40-50% nguồn thu dịch vụ của BIDV sẽ đến từ khu vực kinh doanh bán lẻ. Ý tưởng cơ bản và quan trọng nhất trong việc triển khai hoạt động kinh doanh ngân hàng bán lẻ là BIDV sẽ trở thành nhà cung cấp dịch vụ tài chính tích hợp trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ. Tiêu chí tích hợp ở đây được thể hiện cả trong thị trường mục tiêu, danh mục sản phẩm cung cấp và các kênh phân phối. Về mặt chiến lược tổng quát, BIDV xác định mục tiêu xây dựng và phát triển chiến lược kinh doanh ngân hàng bán lẻ. BIDV sẽ cung cấp dịch vụ tài chính cho mọi đối tượng khách hàng có nhu cầu, ưu tiên phục vu nhóm đối tượng trung và cao cấp hoặc giới trẻ (vì đây là nhóm đối tượng có triển vọng mang lại thu nhập cho ngân hàng trong tương lai).
Trong danh mục sản phẩm bán lẻ của mình, BIDV sẽ hướng trọng tâm vào hai lĩnh vực đầy tiềm năng là những sản phẩm mang tính chất đầu tư cá nhân và các sản phẩm bảo hiểm. Các sản phẩm mang tính chất đầu tư cá nhân bao gồm: tiết kiệm cá nhân, tín dụng cá nhân (cho vay mua nhà, sửa nhà, mua ô tô, du học,…), tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư,…
Đây là hai gói dịch vụ còn tương đối mới mẻ và còn rất nhiều tiềm năng ở Việt Nam. Có thể nói với số đan trên 80 triệu người cùng với việc đời sống người dân không ngừng cải thiện thì đây chính là hai mảnh đất còn vô cùng mầu mỡ cho các ngân hàng nói chung và cho BIDV nói riêng.
Hơn thế nữa, các dịch vụ ngân hàng tích hợp đó sẽ được cung cấp thông qua kênh phân phối. BIDV sẽ thúc đẩy mạnh phát triển các kênh phân phối mới, hiện đại, tăng thêm tiện ích cho khách hàng. Các kênh phân phối trong thời gian tới có thể được chia thành 4 nhóm: Nhóm E – banking, Nhóm Call – center, Mobi – banking; Nhóm gặp gỡ và tiếp xúc trực tiếp: hệ thống chi nhánh, ATM, POS...; Kênh phân phối cảu bên thứ 3 như kênh phân phối của các hãng hàng không, công ty bảo hiểm, công ty sản xuất ô tô, công ty xây dựng….
Phát triển dịch vụ đi liền với phát triển ngân hàng bán lẻ là trọng tâm chiến lược của BIDV, đây là một trong những định hướng phát triển đúng đắn của BIDV.
3.2. Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại SGD I
3.2.1. Hoàn thiện chính sách tín dụng
Để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động cho vay, trước hết SGD I cần nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, cụ thể là:
Linh hoạt trong chấp nhận hồ sơ tài sản thế chấp:
Hiện nay thủ tục hành chính, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở các đô thị còn rất chậm, rườm rà, phức tạp, rất khó khăn đối với người dân. Thực tế giá trị của các khu nhà cũng như đất là khá cao, hoàn toàn có thể làm tài sản thế chấp cho ngân hàng, vì vậy ngân hàng cần phải xem xét nhân thân, nếu nhân thân tốt cùng với việc chính quyền địa phương xác định cư trú tại khu vực đó lâu dài, có căn cứ pháp lý chứng thực quyền sở hữu thì có thể linh hoạt cho vay và chấp nhập tài sản đảm bảo đó.
Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng: Với việc linh hoạt trong quá trình xem xét tài sảm bảo đảm thì ngân hàng cần phải quan tâm đến vấn đề nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng để có thể phát hiện và phòng ngừa một phần những rủi ro tiềm ẩn. Từ đó cùng với phương án vay vốn của khách hàng, tài sản đảm bảo, uy tín của khách hàng và mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng mà cân nhắc ra quyết định. Có thể khách hàng có tài sản đảm bảo chưa đáp ứng đủ yêu cầu của ngân hàng nhưng có phương án vay vốn tốt, khả năng trả nợ cao, đã có mối quan hệ giao dịch lâu dài và có uy tín với ngân hàng thì ngân hàng vẫn nên ưu tiên cho vay để giữ khách hàng.
Thu thập và lưu giữ thông tin khách hàng chính xác, đầy đủ: Ngân hàng nên có một chiến lược khách hàng hiệu quả để có thể thu thập được những thông tin khách hàng cần thiết và lưu trữ những thông tin đó theo một hệ thống tập trung và khoa học để xây dựng một bức tranh đầy đủ về nhu cầu hiện tại cũng như tương lai của khách hàng. Trên cơ sở đó xây dựng và triển khai những chiến dịch marketing hiệu quả tăng cường mối quan hệ lâu dài với những khách hàng mục tiêu.
Phân công hạn mức tín dụng rõ ràng với từng cán bộ tín dụng để họ hoạt động có hiệu quả hơn, tự tìm kiếm khách hàng, mở rộng hoạt động cho vay của chi nhánh.
3.2.2. Đa dạng hóa sản phẩm cho vay tiêu dùng
Đa dạng hoá sản phẩm, tìm tòi phát triển các sản phẩm mới độc đáo và thuận tiện cho khách hàng, góp phần thu hút khách hàng mới. Áp dụng những sản phẩm dịch vụ hiện đại, có thể là giao dịch qua mạng, qua điện thoại nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả khách hàng và ngân hàng.
Do mức độ cạnh tranh trên thị trường các dịch vụ ngân hàng tài chính ngày càng gay gắt, người tiêu dùng ngày càng có nhiều cơ hội chọn lựa các dịch vụ phù hợp cho mình hơn và vì thế mức độ trung thành của người tiêu dùng đối với mỗi ngân hàng cũng có thay đổi theo chiều hướng giảm dần. Vì vậy vấn đề giữ chân khách hàng cũng là một yếu tố hết sức quan trọng để đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững của ngân hàng.
Ngân hàng cần đa dạng hoá các dịch vụ mới, đưa ra chính sách chiến lược kết hợp giữa đầu tư nghiên cứu và phát triển dịch vụ ngân hàng mới có hàm lượng ứng dụng cao như: thẻ thanh toán, thẻ thông minh, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, internet banking, home banking, e_banking, nhưng phải chú trọng tập trung vào khai thác một số dịch vụ hiện đại là thế mạnh của mình. Một mặt để thoã mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng, mặt khác tạo dựng mối quan hệ với khách hàng tăng khả năng cạnh tranh từ các sản phẩm có thế mạnh, giúp ngân hàng kinh doanh hiệu quả, phát triển bền vững.
Cần có chính sách phân loại khách hàng, nghiên cứu nhu cầu thị trường để nắm bắt được nhu cầu từng nhóm khách hàng. Tập trung vào các khu vực thị trường mục tiêu: Khu vực đô thị, khu công nghiệp, các trung tâm kinh tế - thương mại. Các khách hàng mục tiêu là cá nhân và gia đình có thu nhập trên mức trung bình.
3.2.3. Nâng cao hiệu quả marketing ngân hàng
Về hoạt động marketing, ngoài những chương trình chung của toàn hệ thống BIDV thì SGD I cũng có các hoạt động marketing riêng. Các chiến lược marketing chung của hệ thống ngân hàng sẽ giúp khách hàng biết đến ngân hàng, nâng cao uy tín và vị thế của ngân hàng trên thị trường.
Tuy nhiên trong hệ thống mạng lưới của một ngân hàng cũng có chi nhánh hoạt động tốt và những chi nhánh hoạt động kém hiệu quả hơn, do vậy khách hàng có thể lựa chọn giữa các chi nhánh của các ngân hàng khác nhau và họ sẽ tìm đến giao dịch với chi nhánh nào mà họ cảm thấy tin tưởng hơn hay nói cách khác là chi nhánh nào gây ấn tượng tốt hơn. Do vậy ngoài việc thực hiện những chương trình chung do ngân hàng đặt ra chi nhánh nên có những chiến lược marketing riêng cho mình trên địa bàn hoạt động. Nhất là đẩy mạnh phương thức tiếp thị trực tiếp qua các nhân viên thực hiện giao dịch với khách hàng, đây là phương thức xác thực nhất để khách hàng có cái nhìn toàn diện về chi nhánh và hình thành ấn tượng của khách hàng về chi nhánh, từ đó mới có thể giữ chân khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới.
Thường xuyên tìm hiểu và ghi nhận những ý kiến của các khách hàng đã từng giao dịch với chi nhánh để biết được những nhận xét khách quan của họ đối với chi nhánh, từ đó có biện pháp điều chỉnh phù hợp thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
SGD I cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo rộng rãi về các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là các dịch vụ hiện đại. SGD I cần kết hợp các phương thức tuyên truyền như phát tờ rơi, thông qua phương tiện thông tin đại chúng... để công chúng có thông tin đầy đủ về tính tiện ích của dịch vụ hiện đại. Trước mắt, SGD I nên tận dụng các khách hàng là Doanh nghiệp, các tổ chức đang có quan hệ giao dịch với ngân hàng. Thuyết phục, khuyến khích họ thực hiện chi trả lương thông qua thẻ ATM và sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng. Đây là một lượng khách hàng lớn, có thu nhập ổn định, thông qua họ SGD I vừa mở rộng đối tượng khách hàng của SGD I, vừa góp phần tuyên truyền rộng rãi về dịch vụ của BIDV.
Tuy thương hiệu BIDV, có từ lâu đời với những hoạt động truyền thống nhưng hiện nay có rất nhiều ngân hàng ra đời, và cũng nhiều ngân hàng phát triển lâu năm, như các ngân hàng thương mại cổ phần, ví dụ: ACB, SCB, Sacombank… các ngân hàng này tuy ra đời sau ngân hàng BIDV nhưng lại rất phát triển, về dịch vụ, ngân hàng bán lẻ,…marketing của những ngân hàng này rất tốt. Chính vì vậy, BIDV vần phải tạo ra bộ phận marketing và phát triển sản phẩm riêng biệt để nâng cao khả năng cạnh tranh trong cho vay tiêu dung nói riêng và trong các hoạt động động của ngân hàng nói chúng.
3.2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Khác với các loại hình kinh doanh khác, kinh doanh ngân hàng yếu tố con người luôn đóng vai trò quyết định. Bởi vì, ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh trên cơ sở các mối quan hệ trong đó chữ "tín" luôn được đặt lên hàng đầu. Khách hàng chỉ tìm đến ngân hàng khi họ tin tưởng. Vì vậy để thu hút khách hàng, nhân viên ngân hàng phải chuyên sâu về nghiệp vụ, có thái độ cư xử nhã nhặn, lịch sự với khách hàng. Đặc biệt trong điều kiện sử dụng công nghệ hiện đại, cần có sự đồng bộ giữa yếu tố trình độ công nghệ và kỹ năng của con người, công nghệ chỉ đạt được kết quả thông qua con người. Vì vậy ngân hàng cần chú trọng vấn đề đào tạo đội ngũ nhân viên nghiệp vụ có trình độ, có khả năng làm việc với công nghệ hiện đại. Bên cạnh đó, đội ngũ quản lý, lãnh đạo ngân hàng cũng cần phải được thường xuyên nâng cao trình độ để đảm bảo quản lý, điều hành hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Trong dài hạn, nguồn nhân lực được đánh giá là yếu tố quan trọng nhất của mỗi ngân hàng. Một đội ngũ lao động được tuyển dụng, đào tạo và trả lương hợp lý là cơ sở để ngân hàng khai thác tối ưu những nguồn lực về vốn và công nghệ, tạo ra những lợi thế cạnh tranh cao cấp. Hơn nữa nếu ngân hàng có cơ sở hạ tầng hiện đại, có năng lực tài chính hùng mạnh nhưng đội ngũ nhân viên lại không biết phát huy những thế mạnh đó của ngân hàng thì ngân hàng sẽ không thể phát huy hết tiềm lực của mình. Do vậy việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một nhiệm vụ mang tính chiến lược và cấp bách không chỉ để giải quyết vấn đề cạnh tranh trong hiện tại mà còn đáp ứng chiến lược phát triển lâu dài.
Để có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trước hết ngân hàng cần tập trung vào những vấn đề chi tiết, cụ thể, ví dụ như xây dựng nên những chuẩn mực trong giao tiếp với khách hàng (cách nói năng, chào hỏi, tiếp chuyện điện thoại, …) và thực hiện đào tạo, tập huấn cho các nhân viên, đồng thời tiến hành đánh giá định kỳ đảm bảo thực hiện nghiêm túc các chuẩn mực này. Về mặt lâu dài cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn trình độ chuyên môn, các buổi hội thảo về nghiệp vụ và thị trường nhằm trao đổi kinh nghiệm và thông tin.
Trong điều kiện cụ thể của SGD I, các biện pháp trên có thể cụ thể hoá như sau:
Thứ nhất, phải thường xuyên tổ chức các khoá học đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ cho các nhân viên trẻ để nâng cao trình độ cho các cán bộ nhân viên trẻ, tạo cho chi nhánh các chuyên gia chuyên sâu về mặt nghiệp vụ để tạo ra những sản phẩm chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Hơn nữa cũng có thể thông qua các khoá học này để cập nhật những thông tin thị trường, luật pháp và các thông tin liên quan đến chuyên ngành đến các cán bộ nhân viên.
Thứ hai, SGD I cần có những chính sách ưu đãi để khuyến khích động viên nhân viên làm việc cho SGD I một cách nhiệt tình. Nhằm tránh tình trạng nhân viên của SGD I chuyển công tác sang các ngân hàng là đối thủ cạnh tranh của SGD I. Như vậy, SGD I sẽ bị mất chi phí cho việc tuyển dụng và thời gian đào tạo cán bộ mới. Bên cạnh đó, SGD I cũng cần đưa ra những chế độ tiền lương hợp lý và chính sách khen thưởng, để lôi kéo những người có trình độ kinh nghiệm về với mình.
Thứ ba, khuyến khích sự sáng tạo của đội ngũ cán bộ tín dụng, những ý kiến của cán bộ tín dụng đề xuất phải được ghi nhận, đưa ra thảo luận và ứng dụng nếu ý kiến đó mang lại hiệu quả cao hơn đồng thời cũng có hình thức khen thưởng, khuyến khích phù hợp để kích thích sự sáng tạo của cán bộ nhân viên đưa ra các sản phẩm mới đem lại lợi ích cao hơn cho chi nhánh.
3.2.5. Đổi mới công nghệ ngân hàng
Hiện tại hệ thống công nghệ của SGD I còn rất hạn chế, điều này ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng. Để hoạt động cho vay tiêu dùng có hiệu quả, một trong những nhiệm vụ của CBTD là phải thường xuyên theo dõi giám sát mục đích sử dụng tiền vay của khách hàng, theo dõi tình hình trả gốc, lãi của khách hàng. Mỗi cán bộ tín dụng phụ trách không ít khách hàng nên đôi khi không thể kiểm soát hết được hoạt động sau khi vay của khách hàng. Chính vì vậy cần có một hệ thống công nghệ hiện đại để đảm bảo cho những hoạt động cơ bản của các cán bộ ngân hàng.
Không chỉ có vậy, khi khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ của một ngân hàng thì họ muốn sử dụng thêm tiện ích của những sản phẩm dịch vụ khác.Vì vậy, SGD I cần hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Để tạo ra các dịch vụ hiện đại, tất yếu phải đầu tư vào công nghệ hiện đại. Đặc biệt để phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử và dịch vụ thẻ ngân hàng, công nghệ được coi là yếu tố quyết định. Đối với SGD I hiện nay, cần xác định chiến lược đầu tư công nghệ ngân hàng hợp lý, phù hợp với trình độ và khả năng của hệ thống BIDV. Trước mắt cần đầu tư công nghệ để ưu tiên tạo ra các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao, tránh đầu tư tràn lan, không có trọng điểm hoặc đầu tư vào các công nghệ không có khả năng khai thác hoặc khả năng khai thác hiệu quả thấp trên thị trường Việt Nam. Kết hợp các sản phẩm dịch vụ hiện đại với các dịch vụ truyền thống để tạo ra các sản phẩm dịch vụ kết hợp, các dịch vụ đa tiện ích để thoả mãn nhu cầu tốt hơn cho các khách hàng. Các sản phẩm này vừa có khả năng thu hút khách hàng mới về với các dịch vụ truyền thống của ngân hàng, vừa có khả năng giữ chân các khách hàng đã có quan hệ với ngân hàng từ trước. Từ đó tạo khả năng cho ngân hàng tăng lợi nhuận.
3.2.6. Mở rộng quan hệ với các đơn vị hỗ trợ hoạt động ngân hàng.
Với cho vay mua nhà:
+ Quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà đất: Trong quá trình phát triển hoạt động cho vay mua nhà và hoạt động tín dụng chung SGD I lên đẩy mạnh quan hệ với các cơ quan trên. Việc quan hệ mật thiết với các cơ quan trên sẽ giúp ngân hàng có được những hiểu biết về các định hướng quy hoạch trong tương lai, thị trường bất động sản, cung cầu của nó và những biến động trên thị trường.
+ Quan hệ với ủy ban nhân dân các thành phố: đặc biệt trong thời gian tới trong chính sách giải quyết vấn đề nhà ở cho người có thu nhập thấp tại các đô thị của nước ta thì có giải pháp là các căn hộ sau khi xây dựng được giao cho Uỷ ban nhân dân các thành phố cho thuê và cho vay tiền để mua. Như vậy với chính sách như trên thì các ngân hàng thương mại đương nhiên có thêm một đối thủ cạnh tranh. SGD I nên liên kết với ủy ban nhân dân các thành phố để họ cho phép hoặc giới thiệu với khách hàng đến SGD I vay vốn mua nhà. Như vậy thì SGD I có thêm đối tác chiến lược và giảm một đối thủ cạnh tranh.
+ Liên kết với các Công ty xây dựng: ký kết hợp đồng liên kết giữa 3 bên: Công ty xây dựng, ngân hàng và khách hàng, nhờ đó nếu khách hàng có nhu cầu mua nhà nhưng chưa thể đáp ứng ngay về tài chính thì họ có thể nghĩ tới ngân hàng thông qua sự giới thiệu hay sự đồng ý của các Công ty xây dựng và phân phối nhà.
Cho vay mua ô tô:
Triển khai cho vay gián tiếp: Cần thiết lập mối quan hệ hợp tác với các hãng bán xe lớn như Toyota, Ford Thăng Long, Mercedes Benz, Isuzu…. để các hãng này giới thiệu khách hàng đến ngân hàng vay tiền mua xe trả góp. Thời gian tới ngân hàng và các hãng bán lẻ này nên ký hợp đồng mua bán nợ, ở đó ngân hàng sẽ đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền được bán chịu tối đa, loại tài sản được bán chịu… Bên cạnh đó cũng phải đưa ra các văn bản quy định cụ thể phương thức tài trợ giữa hai bên ngân hàng và hàng bán lẻ là tài trợ truy đòi toàn bộ, truy đòi hạn chế, miễn truy đòi hay có mua lại. Nên có các văn bản ký kết hợp tác giữa SGD I và các hãng bán lẻ (không chỉ là bán ô tô mà còn bán các mặt hàng tiêu dùng cao cấp khác như máy tính, xe máy và các đồ điện tử cao cấp ) cùng với các quy định ràng buộc trách nhiệm chặt chẽ của mỗi bên. Như vậy sẽ hạn chế rủi ro cho ngân hàng và khắc phục được nhược điểm của hình thức cho vay gián tiếp này.
3.4. Kiến nghị
3.4.1. Kiến nghị đối với Chính phủ, cơ quan Nhà nước và Bộ ngành
Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng là một xu thế tất yếu đối với các NHTM Việt Nam hiện nay bởi những lợi ích to lớn mà nó đem lại không chỉ đối với người tiêu dùng, với bản thân ngân hàng, với người sản xuất mà còn đối với cả nền kinh tế xã hội. Do đó, Nhà nước cũng như các cơ quan quản lý cần tạo điều kiện hỗ trợ mọi mặt để loại hình cho vay này ngày càng phát triển.
Thứ nhất, Nhà nước cần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.
Nhà nước cần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Trước hết Nhà nước cần xác định rõ và thúc đẩy chiến lược phát triển kinh tế theo hướng phát triển các ngành mũi nhọn, ưu tiên phát triển ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành dịch vụ. Như vậy sẽ góp phần đáng kể vào việc gia tăng mức cung về hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng đáp ứng được mức cầu ngày càng tăng của dân cư. Ngoài ra, việc củng cố cơ cấu ngành một cách hợp lý sẽ giảm bớt tình trạng thất nghiệp, tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng đời sống người dân. Không chỉ vậy, Nhà nước cũng cần đưa ra các chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đúng định hướng, ổn định môi trường kinh tế-chính trị-xã hội tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, nâng cao thu nhập và mức sống dân cư thúc đẩy cầu về hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng.
Thứ hai, hoàn thiện môi trường pháp lý.
Luật pháp Việt Nam đã tạo ra một cơ sở pháp lý cần thiết ban đầu cho các hoạt động tín dụng tiêu dùng nhưng sự cụ thể của luật mới là căn cứ pháp lý vững chắc nhất để các tổ chức tín dụng yên tâm hoạt động kinh doanh. Do đó, việc trước mắt là Nhà nước cần sớm ban hành luật tín dụng tiêu dùng tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM đẩy mạnh và và phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng. Môi trường pháp lý có ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động của ngân hàng nhất là hiện nay các văn bản pháp luật về tín dụng ngân hàng vẫn còn rất chung chung, chưa sát với thực tế và còn nhiều bất cập. Để giúp cho hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển hơn nữa, Nhà nước cần chỉ thị cho các cơ quan có trách nhiệm nhanh chóng soạn thảo và ban hành luật tín dụng tiêu dùng làm hành lang pháp lý vững chắc để các NHTM yên tâm hơn trong quá trình mở rộng hoạt động này. Thêm vào đó, Nhà nước cũng như các cơ quan pháp luật cần thống nhất sửa đổi những hạn chế của một số luật liên quan đến hoạt động cho vay tiêu dùng như luật đấi đai, luật dân sự…Có như vậy mới tránh được các khúc mắc và tranh chấp trong quá trình thẩm định giải quyết cho vay của ngân hàng, góp phần hoàn thiện môi trường pháp lý ở nước ta. Cụ thể như sau:
+Tạo cơ chế khuyến khích các ngân hàng cho vay bán lẻ như đưa ra các tỉ lệ dự trữ hấp dẫn hơn.
+ Sớm ban hành luật tín dụng các nước phát triển trên thế giới đều đã xây dựng hệ thống Luật tín dụng tiêu dùng chặt chẽ và khoa học và đây là điều kiện thuận lợi để hoạt động tín dụng tiêu dùng ở các nước này phát triển nhanh chóng.
+ Hoàn thiện giấy phát hành giấy chứng nhận sử dụng đất thành thị.
+ Đơn giản hóa các thủ tục cầm cố, công chứng và tạo khung khổ pháp lí để thu hồi nợ cầm cố.
+ Hiện này vấn đề giá bất động sản vẫn diễn biến rất bất thường, giá cả khó kiểm soát vì 80% các giao dịch bất động sản là giao dịch ngầm, để tránh nạn đầu cơ bất động sản chính phủ nên đánh thuế cao đối với các giao dịch bất động sản.
Thứ ba, đẩy nhanh tốc độ cấp “Sổ đỏ”
Hiện nay thì việc cấp giấy chứng nhận quyến sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà đã được các cơ quan quản lý Nhà nước chú ý giải quyết. Tuy nhiên tại các đô thị vẫn còn tình trạng tồn đọng việc cấp các giấy tờ trên cho người dân. Lý do thì nhiều nhưng hậu quả của nó là làm cho việc quản lý đất đai nhà cửa thêm phần khó khăn và nhiều khó khăn khác cho người dân. Xét trong hoạt động cho vay mua nhà thì những ảnh hưởng về thời gian cấp giấy chứng nhận gây khó khăn không ít cho các ngân hàng và ngân hàng thương mại nào cũng mong muốn việc cấp giấy tờ liên quan đến bất động sản diễn ra nhanh chóng hơn.
Hiện nay thì dự thảo về “Nghị định về thi hành luật đất đai” đã nêu ra không quá 2,5 tháng, người có đủ điều kiện hợp lệ phải được cấp sổ đỏ. Ngoài ra thì ngày 13/04/2004 thì vấn đề cấp sổ đỏ cho nhà Chung cư cũng được nêu ra tại hội thảo do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội tổ chức… Như vậy vấn đề đem lại quyền sở hữu cho người dân đã và đang được các cơ quan chức năng hết sức quan tâm và là những điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong việc đẩy mạnh cho vay mua nhà. Từ đây các ngân hàng có thể cho vay dựa vào tài sản đảm bảo hình thành vốn vay hay đã có nhiều tài sản đủ điều kiện thế chấp hơn. Vấn đề đặt ra chỉ còn là thời gian làm sao cho nhanh nhất mà thôi.
Thứ tư, thành lập quỹ bảo hiểm trong cho vay trả góp mua nhà:
Cho vay mua nhà thông thường là những món vay lớn và cũng có nhiều rủi ro nên rất cần bảo hiểm trong hoạt động này. Hiện nay, ở Việt Nam những căn nhà có giá trị thường rất cao và vượt quá xa giá trị thực của nó. Và nếu xảy ra tình trạng “vỡ bong bóng xà phòng” thì rất nguy hiểm cho các ngân hàng bởi những căn nhà chung cư chính là vật thế chấp cho các món vay. Trong hoạt động cho vay tiêu dùng như mua ô tô thì các ngân hàng luôn yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm 100% giá trị chiếc xe đó thì mới cho vay để hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Do vậy đối với hoạt động cho vay như mua nhà thì rất cần bảo hiểm cho các căn nhà trong các trường hợp như cháy, hỏng, sập… và sụp đổ của thị trường bất động sản. Để làm được điều này thì không chỉ có ngành ngân hàng mà phải cần chính phủ và các cơ quan như bảo hiểm tham gia. Bảo hiểm cho các căn nhà vẫn hoàn toàn đem lại lợi nhuận cho công ty bảo hiểm và đối với nhà nước thì là một việc nên làm bởi nó có ý nghĩa cho người có thu nhập thấp và góp phần ổn định thị trường nhà đất.
3.4.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Thứ nhất, NHNN cần sớm hoàn thiện và ban hành các văn bản pháp quy về hoạt động cho vay tiêu dùng.
Các NHTM hiện nay vẫn phải dựa vào các văn bản pháp luật tín dụng chung chung của Nhà nước và tự xây dựng cho mình những quy định riêng về hoạt động này nhưng vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Trong thời gian tới, NHNN cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về hoạt động cho vay tiêu dùng cũng như quy định về các loại hình sản phẩm-dịch vụ của nó để tạo cơ sở pháp lý thống nhất và bảo vệ quyền lợi cho các NHTM.
Thứ hai, NHNN cần thành lập và phát triển hệ thống thông tin liên ngân hàng.
Ở nước ta hiện nay, hệ thống thông tin liên ngân hàng vẫn chưa thực sự được quan tâm phát triển trong khi đây là yêu cầu tất yếu để tiến đến một hệ thống ngân hàng hiện đại, đủ sức cạnh tranh với ngân hàng của các nước trong khu vực và trên thế giới. Hệ thống thông tin liên ngân hàng sẽ giúp các ngân hàng truy cập các thông tin liên quan đến lĩnh vực ngân hàng cũng như các thông tin về khách hàng một cách nhanh chóng, qua đó thúc đẩy mối liên hệ hợp tác giữa các ngân hàng với nhau.
Thứ ba, NHNN cần có biện pháp tích cực hơn nữa đến việc nâng cao trình độ cho cán bộ ngân hàng.
NHNN với vai trò lãnh đạo các NHTM nên đứng ra tổ chức thêm nhiều các đợt tập huấn nghiệp vụ và trao đổi kinh nghiệm giữa các ngân hàng, nhất là đối với những hoạt động mới phát triển gần đây như hoạt động cho vay tín dụng. Đặc biệt các nhóm CBTD cho vay tiêu dùng cần phải được trang bị một số kĩ năng và kiến thức về thị trường nhà đất, thị trường động sản và bất động sản, kĩ năng phỏng vấn thông tin để đánh giá về khách hàng và thu nhập của khách hàng.
3.4.3. Kiến nghị với BIDV
Thứ nhất, BIDV cần mở thêm bộ phận marketing và phát triển sản phẩm tại SGD I. Để có thể cạnh tranh về sản phẩm ngân hàng bán lẻ cũng như dịch vụ, sản phẩm ngân hàng truyền thống khi ngân hàng đang muốn phát triển thị trường ngân hàng bán lẻ này .
Thứ hai, thường xuyên cập nhật những thông tin thị trường, nhất là nhưng thông tin liên quan đến nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, hành vi tiêu dùng của khách hàng để có thể đưa ra những sản phẩm phù hợp, kịp thời.
Thứ ba, thường xuyên tập huấn nâng cao trình độ cho nhân viên. Luôn có những chính sách khen thưởng để khuyến khích động viên nhân viên làm việc cho SGD I một cách nhiệt tình và thu hút nhiều cán bộ có trình độ.
KẾT LUẬN
Quá trình toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành xu thế tất yếu và tạo ra những thời cơ, thuận lợi cũng như những khó khăn và thách thức đối với mỗi quốc gia. Nó đang tác động một cách mạnh mẽ vào thị trường Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực ngân hàng – tài chính. Các ngân hàng Việt Nam cũng như một số ngân hàng nước ngoài bước đầu vào Việt Nam đang cạnh tranh gay gắt với nhau về một thị trường tiềm năng, đó là thị trường ngân hàng bán lẻ, hơn bao giờ hết đây là thời điểm mà các ngân hàng Việt Nam cần chú trọng vào năng lực cạnh tranh tiến tới chuẩn mực quốc tế. Vì vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là cần thiết đối với các ngân hàng. Đặc biệt là việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng tại thì trường bán lẻ, trong đó, cho vay tiêu dùng đang là một trong những dịch vụ mà các ngân hàng nhắm tới.
Việc nghiên cứu khả năng cạnh tranh và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam có thể góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như chất lượng của hoạt động tại ngân hàng nói chung và khả năng cạnh tranh mạnh mẽ về cho vay tiêu dùng của ngân hàng nói riêng, mang lại hiệu quả kinh doanh cao cho Sở giao dịch trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh nói chung và trong cho vay nói riêng.
Với mong muốn góp phần cùng SGD I nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, em đã mạnh dạn phân tích tình hình hoạt động của chi nhánh để chỉ ra những điểm chưa hoàn thiện trong hoạt động cho vay tiêu dùng của Sở nhằm mục đích hoàn thiện quy trình nghiệp vụ và chất lượng hoạt động này. Để hoàn thiện được chuyên đề em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ nhân viên làm việc tại chi nhánh và đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của ThS. Lê Hương Lan.
Đây là những nghiên cứu tìm tòi của em về đề tài, do kiến thức có hạn và thiếu kinh nghiệm thực tế nên có thể có nhiều hạn chế và thiếu sót trong chuyên đề, em rất mong nhận được các ý kiến phê bình và hướng dẫn của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đại học kinh tế quốc dân, Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, 2004
Đại học kinh tế quốc dân, Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê, 2003
Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính, năm 2004
Học viện Ngân hàng, Giáo trình tín dụng ngân hàng, NXB Thống kê, năm 2003
Báo cáo thường niên BIDV các năm 2005 – 2006
Báo cáo thường niên của Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển việt Nam 2005 – 2007
Quyết định 1627 – Quy chế cho vay các TCTD đối với khách hàng
Tạp chí Ngân hàng
Tạp chí Thị trường tài chính – tiền tệ
Báo cáo thường niên SCB 2005 – 2007
Báo cáo thường niên ACB 2005 – 2007
Các văn bản pháp luật
Webside:
DANH MỤC VIẾT TẮT
NHNN
NHTƯ
NHTM
NHNN&PTNT VN
CBCNV
CBTD
TPTD
SDG NH ĐT&PT VN (SGD I)
NH ĐT&PTVN
SGD
CVTD
: Ngân hàng nhà nước
: Ngân hàng trung ương
: Ngân hàng thương mại
: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
: Cán bộ công nhân viên
: Cán bộ tín dụng
: Trưởng phong tín dụng
: Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
: Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
: Sở giao dịch
: Cho vay tiêu dùng
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10083.doc